Sửa luật để phát triển thị trường khoa học công nghệ

“Cần phải sửa Luật Chuyển giao công nghệ 2006 để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ, góp phần phát triển thị trường khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo của quốc gia”.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân đã khẳng định như vậy tại buổi làm việc với tổ soạn thảo sửa đổi, bổ sung Luật Chuyển giao công nghệ 2006 vào ngày 29/2.
 
 
 
 
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân nhấn mạnh việc cần thiết phải sửa Luật Chuyển giao công nghệ 2006.
Ảnh: Phú Sỹ
 
Cần thêm nhiều chính sách cụ thể
 
Báo cáo về thực trạng hoạt động và thi hành Luật Chuyển giao công nghệ 2006 trong những năm qua, ông Đỗ Hoài Nam – Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ – cho biết, luật chỉ mới chú trọng hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam, còn việc chuyển giao công nghệ trong nước – đặc biệt là chuyển giao công nghệ, chuyển giao kết quả nghiên cứu giữa các viện, trường với doanh nghiệp – chưa được giải quyết triệt để. Trong khi đó, vấn đề này đang rất cần có cơ chế, chính sách cụ thể để thúc đẩy.
 
Luật Chuyển giao công nghệ 2006 cũng chưa có quy định cụ thể để thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tạo nguồn cung cho thị trường công nghệ. Đây là một thiếu sót lớn khi nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài ngày càng tăng mạnh.
 
Theo ông Đỗ Hoài Nam, hoạt động của các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ góp phần không nhỏ vào thành công của hoạt động chuyển giao nói riêng và sự phát triển của thị trường công nghệ nói chung. Chính vì vậy, dự thảo Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi đã quy định điều kiện thành lập các tổ chức này.
 
Báo cáo của Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ cũng cho biết, trong 8 năm thực hiện Luật Chuyển giao công nghệ 2006, Bộ KH&CN chỉ mới cấp giấy chứng nhận đăng ký cho 390 hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong đó có tới 252 hợp đồng thực hiện các dự án FDI. Trong khoảng 40 hợp đồng chuyển giao công nghệ mang tính độc lập, chỉ có 11 hợp đồng là của cơ quan, tổng công ty nhà nước.
 
Thực trạng này cho thấy các viện nghiên cứu, các tổ chức, cá nhân chuyển giao công nghệ vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc đăng ký hợp đồng. Theo ông Đỗ Hoài Nam, thường các doanh nghiệp chỉ đăng ký khi thấy được hưởng lợi từ việc này, nhưng hiện nay chưa có ưu đãi gì cụ thể. Ngay cả việc đăng ký trực tuyến cũng chưa được triển khai nên chưa tạo điều kiện tối ưu cho tổ chức, cá nhân khi đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ.
 
Ngoài ra, ông Đỗ Hoài Nam cũng cho rằng, với các quy định hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước không thể kiểm soát công nghệ nhập vào Việt Nam. Thống kế số hợp đồng kể trên không phản ánh được con số thực tế công nghệ nhập về từ năm 2007 đến nay.
 
Chưa tận dụng được nguồn lực FDI
 
Nói về chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI thời gian qua, mặc dù coi đây là kênh thu hút công nghệ kỹ thuật nước ngoài quan trọng nhất, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân cũng phải thừa nhận là hiệu quả đạt được chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế, giá trị gia tăng không cao, lợi nhuận thu về ít.
 
Đại đa số công nghệ chuyển giao chưa thuộc loại tiên tiến, hiện đại mà chỉ ở mức trung bình, thậm chí một số công nghệ ở mức thấp, lạc hậu. Cá biệt có trường hợp chuyển giao công nghệ đã thanh lý, có nguy cơ biến Việt Nam thành bãi thải công nghệ.
 
Ngoài ra, kết quả tiếp thu, học hỏi công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý của các cán bộ Việt Nam trong quá trình hợp tác với nước ngoài còn chưa đáng kể. Đặc biệt, việc tiếp thu, khai thác ứng dụng công nghệ cho đến nay hầu như chỉ nằm trong phạm vi của các dự án FDI, không tạo được hiệu ứng lan tỏa sang các doanh nghiệp trong nước.
 
Lấy ví dụ, hoạt động của Tập đoàn Intel tại Việt Nam thời gian qua gần như vẫn chỉ là gia công thay vì đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, Bộ trưởng cho biết, Chính phủ đã rút kinh nghiệm sâu sắc trong việc mời gọi đầu tư. Chẳng hạn, với Tập đoàn Samsung gần đây, bên cạnh việc nhận các ưu đãi lớn, tập đoàn này được yêu cầu phải mở trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam để từng bước chuyển giao công nghệ.
 
Với tư cách là cơ quan chủ trì soạn thảo Luật Chuyển giao công nghệ mới, Bộ KH&CN sẽ tổng hợp ý kiến của các đơn vị, tổ chức, cá nhân để sớm hoàn thiện dự thảo và trình Quốc hội cuối năm nay. Nếu được thông qua, luật sẽ có hiệu lực từ năm 2017.
Cao Nhật
 

Việt Nam – Hàn Quốc hợp tác về tiêu chuẩn hóa, quy chuẩn kỹ thuật

Nhằm tăng cường hợp tác giữa Việt Nam – Hàn Quốc, sáng ngày 2/3/2016 đã diễn ra lễ kết kết giữa Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng và KOTRA.
 
Năm 2015 đánh dấu sự kiện quan trọng khi Chính phủ Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức ký kết Hiệp Định Thương mại Tự do (FTA). Trong thời gian qua, Cơ quan Xúc tiến Đầu tư – Thương mại Hàn Quốc (KOTRA), Viện Tiêu chuẩn Kỹ thuật Hàn Quốc (KATS) và Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (STAMEQ) đã phối hợp trao đổi về việc ba bên cùng hợp tác chặt chẽ nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện thuật lợi cho các doanh nghiệp Hàn Quốc trong việc đăng ký hợp quy CR trong quá trình xuất khẩu hàng hóa sang Việt Nam.
 
Trên tinh thần đó, nhằm tăng cường sự hợp tác cụ thể giữa hai bên trong thời gian tới, vào ngày 02/03 tại Hà Nội, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (STAMEQ) và Cơ quan Xúc tiến Đầu tư – Thương mại Hàn Quốc (KOTRA) đã ký Biên bản ghi nhớ về việc hợp tác trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, đánh giá sự phù hợp và mã số, mã vạch.
 
Tham gia lễ kí kết có ông Trần Văn Vinh – Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL, ông Jaehong Kim -Chủ tịch KOTRA, lãnh đạo Bộ KH&CN, Bộ Công thương, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Đại sứ Hàn Quốc tại Việt Nam cùng đại diện các cơ quan liên quan giữa hai nước.
 
Được thành lập vào năm 1962, KOTRA được Chính phủ nước Cộng hòa Hàn Quốc điều hành như một cơ quan của Chính phủ với chức năng là thúc đẩy thương mại, kinh doanh và đầu tư ở nước ngoài, cung cấp các hoạt động nghiên cứu,triển khai và hỗ trợ các đối tác trên toàn cầu.
 
Theo biên bản ghi nhớ, hai bên thống nhất hợp tác và triển khai các hoạt động chung trong lĩnh vực tiêu chuẩn hóa, đo lường, quy chuẩn kỹ thuật, đánh giá sự phù hợp và mã số, mã vạch vì mục đích tăng cường cải tiến kỹ thuật, hiểu biết chung về pháp quy để thúc đẩy việc kinh doanh và thương mại giữa hai bên.
 
Trong khuôn khổ buổi sáng cùng ngày là lễ cắt băng khánh thành khai trương trung tâm Hỗ trợ FTA Hàn Việt. Trung tâm được thành lập nhằm quảng bá nội dung hiệp định FTA Hàn Việt (chính thức có hiệu lực từ 20/12/2015) và giúp đỡ doanh nghiệp hai nước vận dụng hiệu quả FTA vừa kí kết, thức đẩy giao dịch thương mại và đầu tư giữa Hàn Quốc và Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu chứng kiến sự sụt giảm về tốc độ tăng trưởng trong những năm vừa qua, kéo theo tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp trên thế giới bị chững lại, ông Kim Jae Hong – Chủ tịch KOTRA nhận định “Trung tâm Hỗ trợ FTA Hàn -Việt được kì vọng sẽ là nơi hỗ trợ doanh nghiệp vận dụng linh hoạt FTA Hàn-Việt để tạo đà tăng trưởng cho các hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp đi đến các thị trường Trung Quốc,Mỹ, Châu Âu vốn đã bị suy thoái trong thời gian qua.”
 
Trả lời phỏng vấn bên lề buổi lễ, ông Trần Văn Vinh – Tổng cục trưởng STAMEQ cho biết: “Trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam muốn xuất khẩu sang Hàn Quốc có thể liên hệ, cung cấp thông tin cho STAMEQ. Sau đó STAMEQ sẽ có những sự hỗ trợ , tạo điều kiện, làm rõ những yêu cầu quy định ở Hàn Quốc, trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ tiếp cận được những thông tin cần thiết giúp tiết kiệm thời gian, chi phí và không bị bỡ ngỡ khi tiến hành xuất khẩu sang Hàn Quốc.”
 
Dưới đây là một số hình ảnh tại sự kiện:
 
 
 
 
 
 
 
Tổng cục trưởng Trần Văn Vinh trả lời phỏng vấn của các báo đài.
 
 
Theo Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

GS-TSKH Đào Trọng Thi: Sách khoa học cần “bà đỡ”

GS-TSKH Đào Trọng Thi – Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đề xuất nên ưu đãi thuế, cơ sở hạ tầng cho phát triển sách khoa học.
 
 
GS-TSKH Đào Trọng Thi – Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội.
Trao đổi với phóng viên sau khi Báo Khoa học và Phát triển đăng tải loạt bài về “Sách khoa học Việt Nam: Ốm yếu và bị ghẻ lạnh”., GS-TSKH Đào Trọng Thi chia sẻ: 
 
– Theo quan điểm của tôi, sách khoa học không có nhiều bạn đọc cũng dễ hiểu. Thứ nhất, nhìn ở góc độ người đọc thì sách càng chuyên sâu càng ít người đọc vì chỉ những người quan tâm, làm việc trong ngành đó mới cần tìm hiểu, thành thử những loại sách này khi xuất bản sẽ chỉ được số lượng nhỏ và bán không chạy. Ở góc độ người bán cũng không mặn mà vì sẽ bán được ít. Ở góc độ người viết những cuốn sách này cũng không thể đặt mục tiêu có được nhuận bút thỏa đáng, thậm chí khi viết những quyển sách đó người viết sách còn phải đầu tư nhiều hơn kinh phí thu về sau khi xuất bản, phát hành sách.
 
Nhưng vấn đề ở đây – với những đầu sách này lại có ý nghĩa rất quan trọng, đó là nơi sẽ công bố kiến thức, kết quả nghiên cứu. Chính vì vậy, đối với những loại sách này Nhà nước phải có chính sách ưu tiên và có thể hỗ trợ cho các tác giả trong khi chuẩn bị bản thảo.
 
Trên thực tế, đã có những bản thảo nhận được dự án hỗ trợ xuất bản. Cũng có những dự án tài trợ chỉ để xuất bản sách nếu cuốn sách đó thực sự có nội dung tốt và không có điều kiện thực hiện theo cơ chế thị trường. Nói như vậy để thấy, việc hỗ trợ sách khoa học có thể có từ các nguồn khác nhau cả trong nước và quốc tế, Nhà nước và tư nhân: Hỗ trợ trong quá trình nghiên cứu hình thành nội dung, xuất bản và quá trình in ấn, phát hành. Nhưng tôi cho rằng, việc hỗ trợ từ phía Nhà nước cần phải được tăng cường thêm. Ví dụ, có các chính sách ưu đãi về thuế đối với nhà xuất bản loại sách này; hoặc một số ưu tiên tài trợ trang thiết bị khi xây dựng trụ sở được ưu đãi giống như các cơ sở khoa học – công nghệ hay giáo dục – đào tạo. Nhà nước có thể tăng thêm các hình thức hỗ trợ mạnh mẽ, thiết thực hơn.
 
Để việc hỗ trợ này đi vào cuộc sống, có thể đưa vào Luật Khoa học và công nghệ, những sách nào liên quan đến giáo dục có thể đưa vào Luật Giáo dục đại học hoặc Luật Xuất bản để hỗ trợ đặc biệt.
 
Đối với các thư viện hay nhà sách cũng nên có những khuyến cáo, khuyến khích, thậm chí có cơ chế để họ thấy được tầm quan trọng cũng như vai trò của họ trong việc thúc đẩy việc phát hành các đầu sách này.
Thanh Bình (ghi)
 

Tương lai nào cho năng lượng tái tạo của Việt Nam

Mặc dù đã được sự quan tâm rất lớn từ phía Chính phủ, nhưng đến nay, năng lượng tái tạo của Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn do những rào cản về thể chế, kỹ thuật công nghệ hay kinh phí đầu tư.
 
Sáng 2/3, Trung tâm tiết kiệm năng lượng TP.HCM (ECC-HCMC) phối hợp với Hiệp hội KHCN về sử dụng năng lượng Tiết kiệm và hiệu quả Việt Nam (VECEA) đã tổ chức buổi hội thảo “Năng lượng chuyển hóa – Tương lai cho Đông Nam Á”.
 
Theo ông Nguyễn Đình Hiệp, Phó chủ tịch VECEA, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về nguồn năng lượng tái tạo và phân bố rộng khắp trên cả nước. Trong đó, sinh khối từ các sản phẩm hay chất thải nông nghiệp có sản lượng tương đương 10 triệu tấn/năm. Tiềm năng sinh khí học đạt xấp xỉ 10 tỉ m3/năm. Chúng ta cũng có nguồn năng lượng mặt trời phong phú với bức xạ năng trung bình là 5 kWh/m2/ngày phân bổ trên khắp cả nước…
 
 
Năng lượng tái tạo đang là xu hướng phát triển của các quốc gia trong tương lai
Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đặc biệt khuyến khích phát triển và sử dụng năng lượng mới và năng lượng tái tạo. Đặc biệt, trong chiến lược phát triển năng lượng Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn 2050, Chính phủ Việt Nam đã đề ra tăng thị phần của năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng thương mại sơ cấp từ 3% năm 2010 lên 5% năm 2020 và 11% năm 2050.
 
Để làm được điều này, Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp ưu đãi đối với các nhà đầu tư. Các dự án đầu tư trong lĩnh vực này sẽ được ưu đãi theo luật đầu tư, ưu đãi về biểu giá điện, miễn thuế thu nhậpthiết bị, miễn thuế sử dụng đất…
 
Năng lượng tái tạo đang là xu hướng phát triển của các quốc gia trong tương lai
 
Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc Trung tâm Tiết kiệm Năng lượng TP.HCM, hiện Việt Nam còn đang tồn tại nhiều rào cản thách thức sự phát triển của năng lượng tái tạo.
 
Đầu tiên đó là cơ chế chính sách. Trong khi khung thể chế, pháp lý mới chỉ hình thành Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả thì các chính sách về năng lượng tái tạo lại chưa đầy đủ. Điều này dẫn đến việc thiếu đồng bộ trong điều chỉnh các hoạt động năng lượng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế – chính trị – xã hội của nước ta.
 
Bên cạnh đó là sự hạn chế về công nghệ khi phần lớn thiết bị, sản phẩm đều phải nhập từ nước ngoài. Năng lực quản lý cũng chưa cao khi vì thiếu trầm trọng hệ thống nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành này. Các tiêu chuẩn/quy chuẩn về khai thác và sử dụng năng lượng tái tạo cũng chưa được quan tâm đúng mức.
 
Một khó khăn lớn nữa là vấn đề tài chính khi chi phí đầu tư cho dự án năng lượng tái tạo tương đối cao. Trong khi đó, việc tiếp cận các nguồn vốn vay cũng gặp nhiều khó khăn nếu không có sự can thiệp của Chính phủ. Sau khi sản xuất ra, giá bán điện thấp cũng góp phần làm các nhà đầu tư không mấy mặn mà.
 
Theo ông Tước, ngoài việc thực hiện chính sách tiết kiệm, tận dụng được nguồn năng lượng tái tạo chính là cách tốt nhất để giải quyết bài toán thiếu hụt năng lượng hiện nay. Thế nhưng, để thực hiện được điều này, Nhà nước cần phải có những cơ chế, chính sách mạnh hơn nữa để thu hút các nhà đầu tư. Bên cạnh đó là đẩy mạnh tuyên truyền để nhiều doanh nghiệp có thêm thông tin, dữ liệu phục vụ cho quá trình hoạt động.
 
Theo Khám phá
 

Tiến sĩ trẻ xuất sắc thế giới: ‘Tôi sẵn sàng về Việt Nam’

TS Nguyễn Đức Khương vừa được dự án nghiên cứu kinh tế học RePEc (Research Papers in Economics) xếp thứ 7 trong số 200 nhà kinh tế trẻ xuất sắc của thế giới.
 
 
Danh sách 200 nhà kinh tế trẻ này được chọn ra từ 18.625 nhà nghiên cứu kinh thế giới có ấn phẩm khoa học, mọi thể loại, xuất bản từ 10 năm trở lại đây.TS Nguyễn Đức Khương, hiện là GS tài chính, Phó Giám đốc hợp tác khoa học quốc tế và nghiên cứu, Trưởng khoa Kinh tế – Tài chính tại Học viện quản lý và quản trị kinh doanh Paris (IPAG Business School), Pháp.
 
TS Nguyễn Đức Khương, hiện là GS tài chính, Phó Giám đốc hợp tác khoa học quốc tế và nghiên cứu, Trưởng khoa Kinh tế – Tài chính tại Học viện quản lý và quản trị kinh doanh Paris (IPAG Business School), Pháp.
TS Nguyễn Đức Khương, GS tài chính, Phó Giám đốc hợp tác khoa học quốc tế và nghiên cứu, Trưởng khoa Kinh tế – Tài chính tại Học viện quản lý và quản trị kinh doanh Paris (IPAG Business School), Pháp.
 
 
Trao đổi với phóng viên, TS Khương nói: “So với thành tựu của các chuyên gia kinh tế nổi tiếng trong và ngoài nước, việc được xếp hạng này chỉ là một thành tích khiêm tốn. Tôi nghĩ đây chưa phải là điều lớn lao. Có rất nhiều “cây đại thụ” trong ngành mà tôi rất ngưỡng mộ và luôn tự hỏi “Bao giờ mình mới được như thế”.
 
Người Việt ở đâu cũng là người Việt
 
Thử tưởng tượng, anh tốt nghiệp thủ khoa ĐH Thương Mại năm 2000, ở lại Việt Nam sinh sống, làm việc và nghiên cứu thì liệu kết quả anh đạt được trong nghiên cứu kinh tế sẽ đi theo hướng nào? Nó có được quy định bởi môi trường nghiên cứu không?
 
+ TS Nguyễn Đức Khương: Việc giảng dạy và nghiên cứu với tôi cũng không hẳn được định hướng từ trước. Nếu không đi du học mà ở lại Việt Nam công tác, có thể tôi sẽ làm một công việc khác. Hoặc có thể là nghiên cứu nhưng ít tính hàn lâm hơn mà thiên về các chính sách cụ thể chẳng hạn.
 
Sang Pháp học thạc sĩ, rồi làm nghiên cứu sinh, tiến sĩ, tôi làm nghiên cứu khoa học như một sự tự nhiên. Môi trường nghiên cứu khá quan trọng. Môi trường phát triển, mở ra thế giới bên ngoài làm tăng động lực và cả áp lực phải đi lên và tăng khả năng hợp tác với những người giỏi. Trong lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu như một chỉ tiêu để phát triển sự nghiệp.
 
Người Việt ở đâu cũng là người Việt, cần cống hiến hết mình cho cộng đồng, đất nước. Hình như anh đã nói thế?
 
+ Đúng là người Việt ở đâu cũng là người Việt và sẵn sàng cống hiển hết mình cho đất nước. Hiện tại tôi tham gia đóng góp sức mình vào việc kết nối trí thức trong và ngoài nước, đồng nghiệp quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau để thúc đẩy những cống hiến cá nhân và tập thể cho đất nước.
 
Tôi đặc biệt quan tâm đến kinh tế, xã hội và chính trị của đất nước, đồng thời muốn biến sự quan tâm ấy thành những việc làm cụ thể, kiên trì, bền bỉ để song hành cũng đất nước. Xung quanh tôi có rất nhiều người Việt như thế.
 
Chẳng hạn, tôi hiện là chủ tịch Hội Khoa học và Chuyên gia người Việt tại Pháp (AVSE). Tôi cũng từng là chủ tịch và hiện là tổng thư ký Hội Tài chính người Việt trên thế giới (VFAI); là những nơi đoàn kết để sự đóng góp về Việt nam được tốt hơn.
 
Tôi cũng tham gia sáng lập và là một trong các thành viên chủ chốt của nhóm biển Đông tại Pháp – nhóm suy nghĩ và nghiên cứu về địa chính trị, kinh tế và quốc phòng xung quanh các vấn đề chủ quyền và an toàn hàng hải trong khu vực biển Đông.
 
Ví dụ, khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào thềm lục địa của nước ta, chúng tôi đã có những trao đổi và vận động trong chính giới của Pháp để họ hiểu rõ hành động không tôn trọng chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc; đồng thời nhấn mạnh cho họ hiểu Pháp và các nước khác có vai trò và trách nhiệm trong việc thúc đẩy đàm phán hòa bình và tôn trọng luật và công ước quốc tế.
 
Đã có nhiều người Việt thành công ở nước ngoài. Có thể kể đến GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Vũ Quang Việt; xa hơn nữa là Trịnh Xuân Thuận, Trần Thanh Vân…
 
+ Trên đây toàn những tên tuổi người Việt xuất chúng. Tôi thật sự còn xa mức đó lắm. Tôi không dám nói đến các yếu tố thành công của các giáo sư được kể tên ở trên.
 
Tôi quan niệm phải làm việc mới mang lại thành công, cũng có thể nói là “cần cù bù khả năng”. Đồng thời rèn luyện sức khỏe và trí tuệ, tầm nhìn và nhanh nhạy với những đề tài mới mẻ.
 
Ngoài ra, tạo sức mạnh tập thể, liên kết với những người tâm huyết để cùng làm việc chung. Tôi cũng thường xuyên liên lạc, trao đổi với những người giỏi giang trong nhiều lĩnh vực khác nhau để học hỏi và tiếp tục phấn đấu.
 
Việt Nam có nhiều người xuất sắc
 
Có độc giả khi đọc thông tin anh về anh nói rằng: Sao những người Việt Nam nổi tiếng đều sống ở nước ngoài vậy? Anh nghĩ sao về “lời cảm thán” này?
 
+ Với tôi, Việt Nam có nhiều người xuất sắc. Người Việt ở nước ngoài chỉ là một bộ phận trong tổng hòa đó. Có rất nhiều người Việt nổi tiếng sống ở Việt Nam đấy chứ! Phải chung tay để người Việt ở bất cứ đâu ngày càng giỏi hơn và được sử dụng để chung tay xây dựng đất nước.
 
Tôi mong muốn nước mình sẽ có môi trường tốt cho trí thức phát triển vượt bậc. Tôi nhớ trong một dịp gặp gỡ, GS Trần Thanh Vân có kể là nhiều lĩnh vực khoa học của Trung Quốc trong những năm 1960 còn kém hơn Việt Nam khá nhiều.
 
Thế mà chỉ bằng đầu tư đúng mức cho giáo dục và khoa học, trong thời gian ngắn họ đã vươn lên tầm quốc tế bậc cao. Họ bắt đầu bằng việc biết làm và làm tốt những việc người khác đã hoặc đang làm.
 
Anh đang chuẩn bị gì cho tương lai của chính mình để phụng sự quê hương tốt hơn?
 
+ “Ở đâu không quan trọng miễn là có thể đóng góp tốt cho sự phát triển của nước nhà”. Hiện nhiều chuyên gia, trí thức người Việt vẫn đóng góp rất lớn vào công cuộc xây dựng nước ta. Tôi được biết học hỏi và làm việc nhiều với GS Lê Văn Cường, vợ chồng GS Trần Thanh Vân, GS Dương Nguyên Vũ,…
 
Không có thời gian để mất, tôi cố gắng tích lũy kiến thức, kinh nghiệm quản lý và khoa học để chuẩn bị cho mình các hành trang cần thiết. Và trong mọi lúc, mọi nơi tôi luôn làm những việc cụ thể trong phạm vi khả năng của mình như hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Pháp, tham gia giảng dạy ở Việt Nam, làm cầu nối cho các chuyên gia trong và ngoài nước hợp tác và đặc biệt tập hợp mạng lưới trí thức người Việt để sự đóng góp được mạnh mẽ hơn.
 
Tôi cũng sẵn sàng về Việt Nam nếu sự cống hiến thiết thực và sâu hơn.
 
Mỗi lần làm việc tôi tập trung cao độ
 
Có một phóng viên của tờ báo Pháp theo sát quá trình nghiên cứu của tôi từ bốn năm nay và mỗi năm đều hỏi tôi “Làm thế nào có thể xuất bản được nhiều công trình khoa học như thế ?”.
 
Tôi là người làm nhiều việc cùng một lúc. Cách giải quyết công việc là làm việc tuần tự. Động lực của tôi là nhìn thấy một công việc hoàn thành để chuyển sang làm việc khác và dành thời gian cho gia đình, bạn bè và các hoạt động thư giãn. Mỗi lần làm việc tôi tập trung cao độ.
 
Chia sẻ, quảng bá kiến thức
 
Dự án nghiên cứu kinh tế học RePEc (Research Papers in Economics) là nỗ lực hợp tác của hàng trăm tình nguyện viên tới từ hơn 80 quốc gia trên thế giới nhằm tăng cường phổ biến nghiên cứu về kinh tế học và các ngành khoa học liên quan.
 
RePEc xếp hạng các tổ chức nghiên cứu, trường đại học và các nhà nghiên cứu về kinh tế trên thế giới, có đăng ký vào cơ sở dữ liệu của RePEC. Việc xếp hạng được căn cứ vào rất nhiều chỉ tiêu khác nhau. Đối với các nhà nghiên cứu thì theo tôi biết có khoảng 30 chỉ tiêu, ví dụ số lượng bài, số lần được các bài báo và tạp trí khoa học khác trích dẫn, mức độ ảnh hưởng.
 
Tôi nghĩ RePEC giúp việc quảng bá và chia sẻ các kiến thức, liên kết các nhà khoa học với nhau được dễ dàng hơn rất nhiều. Tôi và một số đồng nghiệp cũng chưa bao giờ gặp mặt nhau nhưng biết nhau qua RePEC.
 
TS Nguyễn Đức Khương
 
 
 
Theo Pháp luật TPHCM
 

V-KIST sẽ hút nhà khoa học Việt trở về

Kỳ vọng vào trí tuệ trẻ và xác định các công dân toàn cầu có thể nghiên cứu, sáng tạo ở bất kỳ đâu, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đang dồn tâm huyết cho mô hình V-KIST – viện nghiên cứu cao cấp đủ điều kiện thu hút các tài năng Việt ở nước ngoài
Nhân dịp đầu xuân Bính Thân, Bộ trưởng Nguyễn Quân đã có cuộc trò chuyện với Báo Khoa học và Phát triển về những kỳ vọng và phương hướng phát triển KH&CN trong năm 2016 cũng như giai đoạn 2016-2020.
 
 
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân. Ảnh: Lê Loan
Không ai đứng lại để chờ mình vượt lên
 
2015 là năm bản lề với nhiều kết quả ấn tượng của ngành KH&CN, trong đó có thể kể tới đóng góp của KH&CN vào việc tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP). Từ giá trị âm năm 2010, đến năm 2015, TFP ước tính đóng góp tới 39,92% vào tăng trưởng GDP. Đây cũng là năm chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng 19 bậc trên bảng xếp hạng GII, đứng thứ 52/141 nền kinh tế, top 3 ASEAN. Bộ trưởng có hài lòng với con số này và có kỳ vọng gì trong 5 năm tới?
 
Tôi cho rằng con số này rất đáng hài lòng, bởi nếu không có kết quả đó (tăng tỷ lệ đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP) thì chúng ta không được cộng đồng quốc tế xếp hạng cao về chỉ số đổi mới sáng tạo. Chính TFP là biểu tượng của đổi mới sáng tạo, là ghi nhận đóng góp của KH&CN trong tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
 
Kỳ vọng của tôi trong 5 năm tới là các chỉ số trên sẽ tăng cao hơn nữa, bởi chúng ta mới đang xếp thứ 52/141 nền kinh tế, còn cách Malaysia hơn 20 bậc và Singapore tới 45 bậc.
 
Vượt qua khoảng cách này là điều rất khó. Cứ hình dung khi ta từ dưới đáy, muốn vượt lên khoảng giữa thì cố gắng là có thể đạt được, còn muốn từ giữa vượt lên đỉnh cao sẽ không đơn giản.
 
Song tôi tin rằng việc chính sách mới của Luật KH&CN 2013 và các nghị định, thông tư… được áp dụng vào thực tiễn sẽ tăng hiệu quả hoạt động KH&CN và phần đóng góp của KH&CN vào kinh tế.
 
Tuy nhiên, khó khăn trước mắt còn rất lớn, nhất là khi chúng ta hội nhập. Nếu các bộ, ngành không quán triệt được tinh thần của Luật KH&CN, không quyết liệt đưa luật vào cuộc sống thì chúng ta sẽ chỉ loanh quanh ở thứ hạng hiện nay. Sở dĩ tôi nói vậy là vì trong hệ thống hành chính của chúng ta, ý tưởng tốt nhưng hiện thực hóa nó không dễ. Trong 5 năm tới, nếu như chính sách của Đảng, Chính phủ không đi vào cuộc sống thì rất khó hy vọng KH&CN có được thứ hạng cao hơn. Giữ được hạng thứ ba trong ASEAN cũng đã là một nỗ lực rất lớn bởi người ta không dừng lại để chờ chúng ta tiến lên. Chúng ta tiến một bước, họ cũng phải tiến hai bước.
 
Thu hút nhà khoa học trẻ với mô hình V-KIST
 
Để tiếp tục tăng thứ hạng, Bộ trưởng kỳ vọng gì ở các trí thức trẻ, trong khi câu chuyện nhiều nhà khoa học trẻ tài năng không về nước sau khi du học ở nước ngoài lâu nay được nói đến rất nhiều?
 
Tôi rất kỳ vọng vào giới trẻ Việt Nam bởi trong thời gian qua và đặc biệt là năm vừa rồi, họ đã chứng tỏ bản lĩnh và năng lực sáng tạo. Về lý do họ không muốn quay về, không phải ngành KH&CN trong nước không có cơ hội cho họ. Vấn đề ở đây vẫn là môi trường làm việc và chính sách đãi ngộ. Nếu họ về nước mà cơ sở vật chất quá nghèo nàn, đồng nghiệp lại thiếu những người cùng chí hướng, cùng tư duy, thu nhập quá thấp khiến họ không thể dành tối đa tâm huyết cho nghiên cứu… thì rất khó thu hút họ trở về. Chính vì thế, chúng tôi đặt ra mục tiêu trong năm 2016 sẽ đưa vào thí điểm Viện Nghiên cứu cao cấp V-KIST để thu hút các nhà khoa học người Việt ở nước ngoài về. V-KIST sẽ áp dụng cơ chế quản lý của Viện KIST Hàn Quốc.
 
Xin Bộ trưởng chia sẻ thêm về quá trình đưa V-KIST vào hoạt động trong thời gian tới?
 
Chúng tôi dự định mời cựu chủ tịch Viện KIST Hàn Quốc sang làm Viện trưởng V-KIST. Các chế độ làm việc ở V-KIST sẽ tương đương Hàn Quốc, mức độ yên tâm làm khoa học mà viện tạo ra ít nhất cũng gần bằng. Có thể mức lương ở V-KIST sẽ thấp hơn một chút. Tuy nhiên, chi phí tiêu dùng ở Việt Nam lại rẻ hơn Hàn Quốc rất nhiều. V-KIST cũng sẽ tạo cho các nhà khoa học môi trường học thuật, nghĩa là là các nhà khoa học làm việc ở đây phải tương đương về trình độ, cùng quan điểm khoa học, tư duy khoa học.
 
Điều kiện làm việc tối thiểu cũng phải được bảo đảm. Các nhà khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng không thể không có phòng thí nghiệm. Trang thiết bị trong đó cũng phải tương đương các nước. Không thể để những người đang quen làm việc với thiết bị trình độ cao khi về Việt Nam dùng chiếc máy lạc hậu đến 5-7 thế hệ, không có người hỗ trợ chu đáo, máy hỏng không biết sửa ở đâu… Tất cả những điều này sẽ được khắc phục để tạo cho cơ quan khoa học một không khí, môi trường hoàn toàn khác biệt.
 
Tuy nhiên, không phải ai cũng thấy điều này, nên hiện cơ chế tài chính của V-KIST chưa ban hành được. Có những thắc mắc tại sao ở V-KIST chế độ lương bổng lại cao như vậy, phải theo đúng quy định của Nhà nước.; nhưng nếu chỉ theo quy định hiện hành thì không cần có V-KIST. Đang có hàng trăm viện theo quy định hiện hành và hiệu quả thế nào thì ai cũng biết. Chúng ta muốn thu hút các nhà khoa học về thì không thể tạo ra một viện giống các viện đang có, vì nếu được thì họ đã về các viện kia làm rồi. Thực tế, nhiều nhà khoa học đã ra đi từ chính các viện theo đúng quy định hiện hành đó bởi không được đáp ứng các điều kiện cần thiết.
 
Chúng tôi đang kiên trì thuyết phục Bộ Tài chính và báo cáo với Thủ tướng để quy chế tài chính của V-KIST được ban hành, vì đây là điều kiện tiên quyết, từ đó mới có thể làm các bước tiếp theo. Nếu đổ cả nghìn tỷ đồng vào xây dựng viện mà người giỏi không về làm thì sẽ không có ý nghĩa gì. Tôi tin rằng mô hình viện V-KIST sẽ thu hút được nhiều nhà khoa học trẻ và giỏi.
 
Đừng “trói” nhà khoa học bằng quy định hành chính
 
Thưa Bộ trưởng, hình ảnh CEO Google uống trà đá với Nguyễn Hà Đông, sau đó gặp gỡ các startups và giới công nghệ trong nước cho thấy giới trẻ Việt rất được chú ý. Từ câu chuyện này, Bộ trưởng có thể chia sẻ quan điểm của mình về khái niệm “công dân toàn cầu”? Và trước thềm xuân mới, Bộ trưởng có nhắn nhủ gì với trí thức, nhất là các nhà khoa học trẻ?
 
Tôi rất kỳ vọng vào giới trẻ Việt Nam. Những người như Nguyễn Hà Đông là ví dụ điển hình cho việc họ chẳng cần có đề tài dự án cấp nhà nước nhưng vẫn khởi nghiệp thành công. Nhiều người nói rằng phải là những nhà khoa học có bằng cấp cao rồi làm chủ nhiệm nhiều đề tài, dự án mới có thể thành công. Đối với giới trẻ, tôi tin họ có thể thành công trong những điều kiện mà chúng ta không thể ngờ được. Trong lịch sử cũng có nhiều ví dụ tương tự. Tôi nghĩ đối với giới trẻ và những người làm khoa học, cái họ cần nhất là tự do sáng tạo. Chúng ta đừng ràng buộc họ bởi những quy định hành chính.
 
Ngày nay trong thế giới phẳng, công dân toàn cầu đương nhiên có quyền làm khoa học ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nguyễn Hà Đông thành công dù bạn ấy chưa hề bước chân ra làm việc cho một tập đoàn đa quốc gia nào. Từ câu chuyện này, tôi nghĩ làm khoa học không cứ là phải trong giờ hành chính. Tôi tin Nguyễn Hà Đông cũng phải mất nhiều đêm để làm Flappy Bird không phải do viện nào giao nhiệm vụ. Làm khoa học tương đối tự do, ngẫu hứng, chủ yếu là đam mê, có ý tưởng và dành toàn bộ thời gian, sức lực, tiền bạc để theo đuổi đến cùng. Cũng có thể họ thất bại, nhưng cũng nên động viên giới trẻ biết chấp nhận thất bại.
 
Tôi đã gặp rất nhiều nhà khoa học trẻ và họ nói rằng nếu chúng ta không có văn hóa thất bại thì chắc chắn không thể thành công. Làm khoa học luôn luôn rủi ro. Sẽ là giáo điều nếu nói cứ làm khoa học là phải thành công, giao 100 đề tài là phải được cả trăm. Làm khoa học mà thành công được vài chục phần trăm đã là tốt rồi. Ngay cả ở Mỹ cũng chỉ có 20% số đề tài nghiên cứu thành công và được ứng dụng; còn một số đề tài thành công nhưng chưa ứng dụng được và cũng nhiều đề tài thất bại.
 
Thất bại trong khoa học cũng chính là thành công vì sẽ giúp những người đi sau tránh vết xe đổ của mình, tránh nghiên cứu những vấn đề không áp dụng được trong thực tiễn. Thậm chí ngay cả thất bại cũng có thể là tiền đề của thành công vì họ biết được rằng đi theo hướng này không đúng thì phải đi theo hướng khác, đầu tư đến mức này thất bại thì phải đầu tư ở mức khác, sản phẩm này không được chấp nhận nhưng nếu thay đổi một chút, biết đâu thị trường sẽ đón nhận… Vì vậy, với giới trẻ, tôi chỉ mong họ hãy hết sức tự chủ, biết chấp nhận thất bại và tận dụng tối đa mọi cơ hội để có thể sáng tạo một cách tự do.
 
Nhân dịp năm mới, tôi muốn gửi tới các nhà khoa học nói chung, nhà khoa học trẻ nói riêng lời chúc sức khỏe, thành công và bày tỏ sự kỳ vọng, tin tưởng vào những đóng góp của họ cho nền KH&CN nước nhà.
 
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
 
Bích Ngọc (Thực hiện)
 

Bổ nhiệm và xếp lương đối với viên chức ngành KH&CN

 
PGS, TS Vũ Thị Thu Hà đang hướng dẫn 
nghiên cứu sinh tại Phòng thí nghiệm trọng điểm 
quốc gia công nghệ lọc, hóa dầu. Ảnh: Nguyễn Á.
Bộ KH&CN, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-BKHCN-BNV hướng dẫn thực hiện việc bổ nhiệm và xếp lương theo chức danh nghề nghiệp đối với viên chức chuyên ngành KH&CN.
Việc bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành KH&CN quy định tại Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV phải căn cứ vào vị trí việc làm, chức trách, chuyên môn nghiệp vụ đang đảm nhận của viên chức và theo quy định Thông tư này
 
Khi bổ nhiệm từ ngạch viên chức hiện giữ sang chức danh nghề nghiệp chuyên ngành KH&CN tương ứng không được kết hợp nâng bậc lương hoặc thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức.
 
Các trường hợp bổ nhiệm
 
Viên chức đã được bổ nhiệm vào các ngạch viên chức chuyên ngành  KH&CN quy định tại Quyết định số 11/2006/QĐ-BNV nay được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành  KH&CN quy định tại Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV như sau:
 
Đối với nhóm chức danh nghiên cứu khoa học bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp nghiên cứu viên cao cấp (hạng I), mã số V.05.01.01 đối với viên chức hiện giữ ngạch nghiên cứu viên cao cấp, mã số 13.090; bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp nghiên cứu viên chính (hạng II), mã số V.05.01.02 đối với viên chức hiện đang giữ ngạch nghiên cứu viên chính, mã số 13.091; bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp nghiên cứu viên (hạng III), mã số V.05.01.03 đối với viên chức hiện đang giữ ngạch nghiên cứu viên, mã số 13.092.
 
Đối với nhóm chức danh công nghệ bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp kỹ sư cao cấp (hạng I), mã số V.05.02.05 đối với viên chức hiện đang giữ ngạch kỹ sư cao cấp, mã số 13.093; bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp kỹ sư chính (hạng II), mã số V.05.02.06 đối với viên chức đang giữ ngạch kỹ sự chính, mã số 13.094; bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp kỹ sư (hạng III), mã số V.05.02.07 đối với viên chức hiện đang giữ ngạch kỹ sư, mã số 13.095; bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp kỹ thuật viên (hạng IV), mã số V.05.02.08 đối với viên chức hiện đang giữ ngạch kỹ thuật viên, mã số 13.096.
 
Viên chức đã được bổ nhiệm vào các ngạch viên chức chuyên ngành KH&CN quy định tại Quyết định số 11/2006/QĐ-BNV nay được bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành khoa học và công nghệ quy định tại Thông tư liên tịch số 24/2014/TTLT-BKHCN-BNV thì cơ quan có thẩm quyền quản lý, sử dụng viên chức có trách nhiệm tạo điều kiện để viên chức bổ sung những tiêu chuẩn còn thiếu của chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành  KH&CN được bổ nhiệm.
 
Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/3/2016.
 
Nguồn: http://baodientu.chinhphu.vn/Khoa-hoc-Cong-nghe/Bo-nhiem-va-xep-luong-doi-voi-vien-chuc-nganh-khoa-hoc-va-cong-nghe/248708.vgp

Họp Ban Soạn thảo Sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Chuyển giao công nghệ

Ngày 29/02/2016, tại Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Ban Soạn thảo sửa đổi bổ sung một số điều Luật Chuyển giao công nghệ đã tổ chức phiên họp lần thứ ba. Đồng chí Nguyễn Quân, Bộ trưởng Bộ KH&CN – Trưởng Ban Soạn thảo chủ trì cuộc họp. 
 
 
Tham dự cuộc họp có các thành viên Ban soạn thảo là lãnh đạo và đại diện các Bộ ngành và các cơ quan trung ương như: Văn phòng Chính phủ; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Ngoại Giao; Bộ Tư pháp; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Công Thương; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Bộ Xây dựng; Bộ Giao thông – Vận tải; Bộ Quốc phòng; Bộ Công an; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam… Ngoài ra, tham dự Hội nghị còn có toàn bộ các thành viên của Tổ Biên tập và Lãnh đạo đại diện các đơn vị chuyên môn, nghiệp vụ có liên quan của Bộ KH&CN.
 
Tại cuộc họp, Ban Soạn thảo đã nghe báo cáo của Tổ Biên tập và trao đổi, thảo luận các về nội dung sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo Luật, việc hoàn thiện Dự thảo Luật theo kết luận tại phiên họp lần thứ hai của Ban Soạn thảo.
 
Dự thảo Luật Sửa đổi bổ sung một số điều Luật Chuyển giao công nghệ được hoàn thiện theo hướng bổ sung một số quy định: Thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nước, tập trung vào đẩy mạnh chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; Quy định về nhập khẩu công nghệ bảo đảm hiệu quả và tránh lãnh phí; Thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các tổ chức trung gian, tạo điều kiện để phát triển thị trường công nghệ; Bảo đảm tính thống nhất với Luật KH&CN và các Luật liên quan; Bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết tham gia.
 
Các ý kiến thảo luận tập trung vào những vấn đề tạo dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu, phương thức quản lý hoạt động chuyển giao công nghệ, chính sách nhập khẩu công nghệ.
 
Kết luận phiên họp, Bộ trưởng Nguyễn Quân đề nghị Tổ Biên tập nghiên cứu, tiếp thu tối đa các ý kiến của các thành viên Ban Soạn thảo và góp ý của các Bộ, ngành, trong đó lưu ý về việc đáp ứng các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, đặc biệt là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) để khẩn trương hoàn thành Dự thảo Luật và trình Chính phủ đúng tiến độ.
 
Theo kế hoạch, Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ sẽ được hoàn thiện trình Chính phủ xem xét vào tháng 6/2016 trước khi báo cáo Quốc hội vào cuối năm 2016.
 
Nguồn:  Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định Công nghệ

Câu chuyện về những “cái Nhất” của năm 2015

Năm 2015 đã đi qua với nhiều thành công và thách thức của cả nền kinh tế nói chung, khoa học và công nghệ (KH&CN) nói riêng. Với người đứng đầu ngành KH&CN, năm 2015 có một ý nghĩa đặc biệt vì đây là năm tổng kết của cả một giai đoạn (2011-20105). Nhân dịp đầu năm mới Bính Thân, Bộ trưởng Nguyễn Quân đã chia sẻ với phóng viên Tạp chí KH&CN Việt Nam về một số “cái nhất” trong những năm qua. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
 
 
Thưa Bộ trưởng, năm 2015 đã đi qua với cả cơ hội và thách thức, xin Bộ trưởng cho độc giả của Tạp chí KH&CN Việt Nam biết, trăn trở lớn nhất của Bộ trưởng trong năm 2015 là gì?
Năm 2015, đất nước đứng trước những cơ hội và thách thức lớn lao khi tham gia Hiệp định TPP và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Châu Âu (EVFTA). Điều khiến tôi trăn trở nhất là việc chúng ta chuẩn bị điều kiện tham gia các hiệp định này như thế nào. Để mở đường gia nhập những hiệp định này thì vai trò của KH&CN là rất lớn. Chắc hẳn mọi người đều đã có thông tin về những khúc mắc lớn nhất của quá trình đàm phán hầu như đều nằm ở KH&CN, như các vấn đề về sở hữu trí tuệ và chất lượng sản phẩm hàng hóa: dược phẩm, nông hóa phẩm, xử lý hình sự đối với những vi phạm về sở hữu trí tuệ (bản quyền, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp…). Đây là những vấn đề mà nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm khi Việt Nam tham gia TPP hay FTA.
 
Sở dĩ nó là một thách thức mang tính rất cấp bách vì nước ta đang ở trình độ phát triển rất thấp. Trong số 12 nước thành viên TPP thì GDP của Việt Nam là thấp nhất (khoảng trên 2.000 USD/đầu người), trong khi nước thấp gần chúng ta hiện nay cũng hơn 5.000 USD. Các nước dẫn đầu như Hoa Kỳ, Nhật Bản… có GDP cao gấp khoảng 30 lần so với Việt Nam (khoảng 60.000 USD). Việt Nam phải chơi một sân chơi chung với họ, chấp nhận tất cả các điều kiện chung mà TPP đặt ra. Đây là một thách thức rất lớn.
 
Tôi có thể nói thêm thách thức về KH&CN khi chúng ta tham gia các hiệp định này, đó là khi gia nhập TPP và FTA thì vấn đề phải cạnh tranh quyết liệt sẽ là chất lượng hàng hóa và giá thành của sản phẩm. Cả hai vấn đề chất lượng và giá hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ. Nếu chúng ta vẫn dùng công nghệ cũ, lạc hậu thì năng suất lao động sẽ vẫn tiếp tục thấp như hiện nay và chất lượng sản phẩm không được cải thiện. Tuy nhiên, để đổi mới công nghệ thì không chỉ đơn giản là thay máy cũ bằng máy mới mà còn phải đổi mới cả một hệ thống quản lý tiên tiến cũng như nguồn nhân lực chất lượng cao đi kèm. Cho dù khoảng 2 năm nữa chúng ta mới phải thực thi TPP, nhưng với KH&CN thì thời gian này là rất ngắn. Chiến lược phát triển KH&CN Việt Nam đến 2020 đã đặt ra yêu cầu tốc độ đổi mới công nghệ phải đạt 15-20% mỗi năm, nghĩa là sau khoảng 5 năm các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới được một thế hệ công nghệ. Đây là con số quá cao nhưng mặt khác cũng lại được coi là quá thấp đối với doanh nghiệp Việt Nam. Sở dĩ có sự trái ngược này là vì hầu hết các doanh nghiệp của chúng ta có quy mô vừa và nhỏ, không dễ gì cứ sau 5 năm lại thay đổi được một thế hệ công nghệ, nhưng tốc độ đổi mới công nghệ 15-20%/năm cũng lại quá thấp vì bản thân trình độ công nghệ của chúng ta đang lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ (đa phần các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng công nghệ của thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, chưa đến 5% doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới hiện đại), vì vậy nhu cầu đổi mới công nghệ là rất lớn, lớn hơn khả năng của doanh nghiệp hiện có, đòi hỏi phải có tốc độ đổi mới công nghệ nhanh hơn nữa, nếu không tăng tốc tôi sợ là chúng ta sẽ không tận dụng được lợi thế cạnh tranh mà sẽ bị thua ngay trên chính sân nhà.
 
Trong phạm vi quản lý của mình, Bộ KH&CN đã và đang nỗ lực hết sức để giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Từ đầu năm 2015, Bộ đã chính thức ra mắt Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia. Đây là một kênh để các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước nhằm đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng, mọi sự hỗ trợ của Nhà nước đều nằm trong khuôn khổ nhất định, sự nỗ lực phải đến từ bản thân các doanh nghiệp, họ phải nhận thức được cơ hội, thách thức và có nguồn lực của chính mình đầu tư cho đổi mới công nghệ để phát triển. Nếu doanh nghiệp không đổi mới công nghệ, không có sản phẩm mới, các sản phẩm không có sức cạnh tranh thì bị đổ vỡ sẽ là điều tất yếu.
 
Được biết, 2015 cũng là năm Bộ KH&CN đã rất nỗ lực để hoàn thiện hành lang pháp lý cho KH&CN. Theo Bộ trưởng, chính sách nào mang tính đột phá nhất trong năm?
Trong nhiều năm qua, cơ chế tài chính cho KH&CN luôn là vấn đề được quan tâm nhất, là vấn đề nóng trên nhiều diễn đàn. Tuy nhiên, tôi cũng rất vui mừng thông báo rằng, với sự nỗ lực không mệt mỏi của các cơ quan liên quan, đến ngày gần cuối cùng của năm 2015 (30/12/2015), một trong những điểm nghẽn về cơ chế tài chính đã được khai thông, đó là sự ra đời của Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước (Thông tư 27) được liên Bộ KH&CN và Tài chính ký ban hành. Thông tư 27 được ban hành trong tiến trình đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 của Hội nghị Trung ương 6, khóa XI về phát triển KH&CN; Luật KH&CN năm 2013 và Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN. Tất nhiên, đổi mới về cơ chế tài chính cho KH&CN còn rất nhiều nội dung, nhưng đây là một trong những nội dung được các nhà khoa học rất quan tâm và mong đợi.
 
 
 
Thông tư mới trao quyền chủ động cho chủ nhiệm nhiệm vụ và tổ chức chủ trì trong việc sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ; đơn giản, thuận lợi hơn cho các chủ nhiệm nhiệm vụ và tổ chức chủ trì trong việc lựa chọn phương thức khoán và thực hiện các thủ tục thanh quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Theo tôi, đây là một văn bản pháp quy có ý nghĩa lớn, đột phá, thúc đẩy hoạt động KH&CN, đặc biệt tiếp cận kinh tế thị trường và hướng đến thông lệ quốc tế. Đồng thời, là động lực để các nhà khoa học nghiên cứu tạo ra những sản phẩm có giá trị theo đặt hàng của Nhà nước nhưng vẫn đảm bảo các nguyên tắc quản lý tài chính và hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước.
 
Cùng với các Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 22/4/2015 hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước, Thông tư số 121/2014/TTLT-BTC-BKHCN về giao kinh phí cho nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của tổ chức KH&CN công lập, Thông tư 27 sẽ đảm bảo đồng bộ quy trình quản lý kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ KH&CN bao gồm: lập dự toán, quản lý sử dụng (giao khoán, kiểm soát chi, tạm ứng và thanh toán tạm ứng, kiểm tra, thanh quyết toán), hỗ trợ việc chuyển các tổ chức KH&CN công lập sang cơ chế tự chủ thuận lợi hơn.
 
Xin Bộ trưởng chia sẻ sự kiện KH&CN nào trong năm qua mà Bộ trưởng tâm đắc nhất?
Năm nào Bộ KH&CN cũng phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam lựa chọn ra những sự kiện KH&CN tiêu biểu của năm. Năm 2015 chúng ta cũng lựa chọn được 9 sự kiện tiêu biểu. Nhưng với cá nhân tôi, thành công nhất không nằm ở một sự kiện cụ thể mà ở sự đổi mới về tư duy, đổi mới về phương thức đầu tư cho KH&CN. Năm 2015, lần đầu tiên chúng ta tiếp cận đến một khái niệm mới và bắt đầu tạo dựng cơ chế để hình thành “hệ sinh thái khởi nghiệp”, kỳ vọng sẽ tạo ra một làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ thông qua đầu tư mạo hiểm. Như mọi người đều biết, ở Việt Nam khái niệm đầu tư mạo hiểm được biết đến từ hơn một thập niên qua, nhưng đến nay nó vẫn còn khá mới. Thời gian trước đây, gần như chúng ta chưa có khái niệm về việc này và hệ thống luật pháp của chúng ta chưa chấp nhận việc đầu tư mạo hiểm, hay nói cách khác là chúng ta vẫn chưa có môi trường thuận lợi cho đầu tư mạo hiểm. Khi đầu tư mạo hiểm không được quan tâm, nghĩa là chúng ta đã thiếu đi một kênh đầu tư có thể tạo ra những thành công đột phá trong lĩnh vực KH&CN, thiếu một khâu quan trọng làm nên hệ sinh thái khởi nghiệp, và khả năng chúng ta bị sa lầy trong bẫy thu nhập trung bình là khó tránh khỏi.
 
 
 
Năm 2015 đặc biệt ghi nhận nhiều mô hình, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đã được ươm tạo và nhận được sự hỗ trợ của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Qua đó, nhiều ý tưởng khởi nghiệp đã thành công, tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động. Chúng ta đang rất cần nhiều các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhằm tạo ra những cú hích trong phát triển kinh tế. Có một số hoạt động bước đầu về khởi nghiệp sáng tạo được tổ chức trong năm qua. Từ góc độ quản lý nhà nước, Đề án Thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon do Bộ KH&CN triển khai từ năm 2013 đã được trình Thủ tướng Chính phủ cho phép nâng cấp thành Đề án cấp quốc gia. Nếu được phê duyệt, đây là một tín hiệu rất đáng mừng, nó cho thấy Nhà nước sẵn sàng thử nghiệm những mô hình mới để phát triển KH&CN nói riêng và kinh tế – xã hội của đất nước nói chung, tất cả vì mục tiêu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với sự đổi mới về tư duy như vậy, tôi tin tưởng rằng trong thời gian tới chúng ta sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn nữa. Và chính vì thế, tôi mong muốn năm 2016 phải thực sự là “năm khởi nghiệp”.
 
Còn về sự kiện ấn tượng nhất trong năm 2015, theo tôi đó chính là việc Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO công bố xếp hạng về chỉ số đổi mới sáng tạo đối với 141 quốc gia năm 2015, Việt Nam có bước tiến vượt bậc trong bảng xếp hạng quốc tế. Chúng ta được xếp hạng 52/141 quốc gia toàn cầu, xếp hạng 2/31 quốc gia có thu nhập trung bình thấp, và xếp thứ 3 trong ASEAN (năm 2014 Việt Nam xếp hạng 71/142 quốc gia toàn cầu, xếp thứ 5/32 quốc gia thu nhập trung bình thấp và xếp thứ 4 trong ASEAN). Kết quả đáng tự hào này thể hiện sự nỗ lực “vượt qua chính mình” của cộng đồng KH&CN Việt Nam và tác động tốt của hệ thống cơ chế chính sách về KH&CN thực sự đổi mới trong mấy năm qua.
 
Xin Bộ trưởng cho biết, kỳ vọng lớn nhất của mình trong năm mới là gì?
Năm 2016 cũng là năm đầu tiên của giai đoạn 5 năm tiếp theo. Công việc của các cơ quan quản lý hoạt động KH&CN bên cạnh những kết quả cũng còn rất nhiều khó khăn, thách thức. Kỳ vọng lớn nhất của tôi chính là tập hợp và phát huy được sự sáng tạo của thế hệ các nhà khoa học trẻ. Ở bất cứ nơi đâu, thời đại nào, thế hệ trẻ cũng luôn là lực lượng xung kích trên mọi mặt trận. Với sự sáng tạo và sức trẻ, tôi luôn tin tưởng và kỳ vọng các nhà khoa học trẻ sẽ cống hiến được nhiều hơn cho đất nước. Thực thế cho thấy, trong những năm qua, những thành tựu KH&CN mà Việt Nam đạt được có sự đóng góp rất quan trọng của các nhà khoa học trẻ. Họ đã được giao chủ trì những công trình khoa học lớn, tạo ra sản phẩm có giá trị với hàm lượng công nghệ cao, mang lại hiệu quả thiết thực về kinh tế – xã hội. Trong 5 năm vừa qua, khoảng 70% công bố quốc tế của Quỹ NAFOSTED là của các nhà khoa học trẻ. Chúng ta cũng đã có nhiều nhà khoa học trẻ có tên tuổi ở khu vực và thế giới, như các nhà khoa học Đàm Thanh Sơn, Vũ Hà Văn đã rất thành công ở Hoa Kỳ, nhóm các bạn trẻ có sản phẩm Misfit được đánh giá là 1 trong 10 sản phẩm công nghệ hàng đầu của nước Mỹ năm 2013. Các nhà khoa học trẻ trong nước như ở Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, các tập đoàn, tổng công ty… đã và đang ngày đêm miệt mài nghiên cứu, sáng tạo ra những sản phẩm rất tốt, đóng góp thiết thực cho phát triển của đất nước.
 
Bước sang năm mới, một năm đầy thách thức khi hội nhập quốc tế và tình hình thế giới, khu vực phức tạp, tôi kỳ vọng các nhà khoa học trẻ hãy sáng tạo hơn, chủ động tiếp cận các nguồn lực của Nhà nước, đồng thời phải tự tin hơn trong việc tiến hành các hoạt động nghiên cứu. Nhà nước đã và sẽ tạo điều kiện thuận lợi tối đa, tạo ra những môi trường làm việc tốt nhất cho các nhà khoa học trẻ. Các bạn nên tận dụng cơ hội này để có thể cống hiến tài năng và trí tuệ của mình nhiều hơn cho đất nước.
 
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng.
Nguồn: Tạp chí KH

ĐB Quốc hội Dương Trung Quốc: Có thể miễn thuế đối với sách khoa học kỹ thuật

Đây là đề xuất của đại biểu Quốc hội sau khi đọc loạt bài "Sách khoa học Việt Nam: Ốm yếu và bị ghẻ lạnh".
Trao đổi với Báo Khoa học và Phát triển, nhà sử học Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội đoàn Quốc hội Đồng Nai chia sẻ: 
 
 
Nhà sử học Dương Trung Quốc, đại biểu Quốc hội đoàn Quốc hội Đồng Nai.
 
– Sách là một sản phẩm văn hóa mang tính truyền thống, nhưng trong thời điểm hiện nay có một khủng hoảng về văn hóa đọc. Nhất là hiện nay, chúng ta lại mở ra một chân trời mới rất rộng – đó là công nghệ thông tin, vì thế nhiều người tìm trên mạng nhiều hơn là họ tiếp cận sách.
 
Đây là một hiên tượng có thể nói rất phổ biến của thời đại ngày nay. Bên cạnh những mặt tích cực của nó về việc tiếp cận khoa học bằng công nghệ thì nó bộc lộ những điều xa rời giá trị cốt lõi của cuốn sách.
 
Không phải chỉ riêng nước ta mà thế giới cũng vậy, họ cũng đang cố gắng trở lại tập quán đọc sách. Bên cạnh việc chúng ta tiếp tục phát huy tiếp cận công nghệ mới – nhất là đối với các bạn trẻ – thì công nghệ mới thể hiện rõ tính chất hai mặt của nó.
 
Việc xuất bản sách hiện nay bị chi phối bởi thị trường, mà thị trường thì ngày càng dễ bị lệch lạc. Vì vậy đòi hỏi bản lĩnh của nhà xuất bản dám chấp nhận chuyện đó. Ví dụ, Nhà xuất bản Tri thức đã có những cuốn sách rất hay, bán không chạy nhưng họ vẫn cố gắng vận dụng sự ủng hộ xã hội. Tôi nghĩ rằng Nhà nước phải quan tâm, xã hội phải quan tâm, có sự hỗ trợ, đầu tư thì chính nó lại làmột loại hình sách thu hút mọi người và mang lại hiệu quả kinh tế.
 
Cho nên tôi cho rằng, Nhà nước cần có giải pháp hỗ trợ. Chính sách rất quan trọng, ví dụ: Sách khoa học kỹ thuật không phải đóng thuế. Thậm chí, Nhà nước cũng có những quỹ hỗ trợ. Bộ Khoa học và Công nghệ có thể dành một mục nào đó quan tâm đến sách khoa học để cho nó phát triển. Nếu đầu tư đúng hướng, đến một lúc nào đó chính sự đầu tư này sẽ mang lại hiệu quả quay trở lại. Đây là việc nên làm.
 
Thực tế, nhu cầu sách khoa học của các viện nghiên cứu, trường đại học là có và tôi tin nếu nhận được những ưu đãi, hỗ trợ từ phía Nhà nước, chắc chắn sẽ thúc đẩy được dòng sách này vào cuộc sống. Đây cũng là cách dần tạo nếp cho văn hoá đọc. Khi có những cuốn sách hay, bổ ích, hấp dẫn, tôi tin là lượng độc giả sẽ ngày càng nhiều hơn và không có lý gì sách khoa học lại được cho là “ghẻ lạnh” nữa.
Thanh Bình (ghi)