Đơn vị chỉ được tự chủ phần tiết kiệm từ nguồn ngân sách cấp

(Taichinh) – Chi cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản là đơn vị quản lý nhà nước thực hiện tự chủ theo Nghị định 130/2005/NĐ-CP, đơn vị có thu phí, lệ phí và sử dụng theo quyết định 31/2007/QĐ-BTC ngày 15/5/2007 của Bộ Tài chính. Cuối năm chênh lệch thu – chi phí, lệ phí đơn vị đưa vào nguồn kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được để thực hiện chế độ tự chủ theo Thông tư 71/2014/TTLT-BTC-BNV.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Năm 2015, Thanh tra tài chính thanh tra và không chấp nhận cho phần phí, lệ phí để lại thực hiện chế độ tự chủ với lý do là dự toán giao thu phí, lệ phí năm 2014 không giao phần phí, lệ phí vào mã tự chủ (0113) như là kinh phí QLNN do ngân sách cấp; đơn vị chỉ được tự chủ phần tiết kiệm từ nguồn ngân sách cấp, còn phí, lệ phí phải thực hiện theo các quy định về phí lệ phí (NĐ 24/2006/NĐ-CP). Nếu đơn vị muốn tự chủ phần phí lệ phí để lại thì dự toán phí, lệ phí đầu năm phải cấp mã nguồn 0113 và đơn vị phải lập phương án khoán thu phí, lệ phí giống như khoán kinh phí quản lý NN. Xin hỏi, theo hướng dẫn của Thanh tra tài chính về phần thu phí, lệ phí để lại như trên có đúng không? Rất mong Bộ Tài chính hướng dẫn giúp. Xin cám ơn.
 
Bộ Tài chính có hướng dẫn như sau:
 
Theo Thông tư liên tịch số 71/2014/TTLT-BTC-BNV ngày 30/5/2014 của Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng kinh phí quản lý hành chính thì kinh phí quản lý hành chính của các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được xác định và giao hàng năm bao gồm phần thu phí, lệ phí được để lại để trang trải chi phí thu và các khoản thu khác.
 
Kết thúc năm ngân sách, sau khi hoàn thành các nhiệm vụ được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực tế thấp hơn số dự toán được giao về kinh phí thực hiện chế độ tự chủ thì phần chênh lệch này được xác định là kinh phí tiết kiệm.
 
Theo đó, trường hợp đơn vị được cấp có thẩm quyền phân bổ dự toán phần phí lệ phí được để lại vào phần kinh phí thực hiện chế độ tự chủ thì kết thúc năm ngân sách, sau khi hoàn thành các nhiệm vụ được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực tế thấp hơn số dự toán được giao thì phần chênh lệch này được xác định là kinh phí tiết kiệm.
 
Trường hợp cấp có thẩm quyền phân bổ dự toán phần phí lệ phí được để lại đơn vị vào phần kinh phí giao không thực hiện chế độ tự chủ, nếu trong năm chi thực tế thấp hơn số dự toán được giao thì không được xác định là kinh phí tiết kiệm.
 
Theo mof.gov.vn
 

Chi phí kiểm toán của dự án thực hiện theo quy định nào?

(Taichinh) – Công ty tôi có thực hiện thuê kiểm toán báo cáo quyết toán của dự án đầu tư, bên tôi đầu tư mua sắm có cả thiết bị phần cứng, trang bị bản quyền phần mềm (để cài đặt cho phần cứng) và dịch vụ đào tạo, chuyển giao công nghệ.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
 
Việc tính phí kiểm toán thực hiện theo thông tư số 19/2011/TT-BTC. Khi tính cơ cấu vốn thiết bị (để đánh giá có chiếm từ 51% tổng mức đầu tư hay không) thì giá trị phần vốn này được xác định như nào? (chỉ gồm phần cứng hay tất cả các hạng mục) Rất mong nhận được sự phản hồi sớm của Bộ. Tôi xin cảm ơn!
Trả lời:
 
Chi phí kiểm toán của dự án trên được xác định theo quy định tại Thông tư số 19/2011/TT-BTC ngày 14/02/2011 của Bộ Tài chính quy định về quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn vốn Nhà nước; do vậy, cơ cấu vốn thiết bị của dự án được quy định cụ thể như sau:
 
Tại điểm b khoản 3 Điều 4 Nghị định số 112/2009/NĐ-CP ngày 14/12/2009 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây dựng quy định: “Chi phí thiết bị bao gồm: chi phí mua sắm thiết bị công nghệ; chi phí đào tạo và chuyển giao công nghệ (nếu có); chi phí lắp đặt, thí nghiệm, hiệu chỉnh; chi phí vận chuyển, bảo hiểm; thuế và các loại phí liên quan khác”.
 
Tại khoản 3 Điều 3 Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 quy định: “Thiết bị lắp đặt vào công trình bao gồm thiết bị công trình và thiết bị công nghệ. Thiết bị công trình là các thiết bị được lắp đặt vào công trình xây dựng theo thiết kế xây dựng. Thiết bị công nghệ là các thiết bị nằm trong dây chuyền công nghệ được lắp đặt vào công trình xây dựng theo thiết kế công nghệ”.
 
Do đó, cơ cấu vốn thiết bị của dự án trên bao gồm chi phí thiết bị phần cứng, trang bị bản quyền phần mềm (để cài đặt cho phần cứng) và dịch vụ đào tạo, chuyển giao công nghệ.
 
Theo mof.gov.vn

Hướng dẫn thanh toán tiền lương làm thêm giờ cho cán bộ viên chức

(Taichinh) – Tôi công tác tại một Ban quản lý dự án chuyên nghành. Thực hiện theo Thông tư 05/2014/TT-BTC ngày 06/01/2014 quy định về quản lý, sử dụng các khoản thu từ hoạt động quản lý dự án của các chủ đầu tư, Ban quản lý dự án; Thông tư 23/2015/TT- BLĐTBXH ngày 23/06/2015 hướng dẫn thực hiện một số điều về tiền lương của Nghị Định số 05, hiện nay đơn vị tôi khi thanh toán làm thêm giờ có vấn đề vướng mắc xin ý kiến giải đáp của Bộ Tài Chính.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Cụ thể như sau: +Khi thanh toán tiền lương làm thêm giờ cho cán bộ viên chức như sau đơn giá được tính theo hướng dẫn của TT23 như sau: Tiền lương làm thêm giờ = Tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường x Mức ít nhất 150% hoặc 200% hoặc 300% x Số giờ làm thêm Trong đó theo TT23 thì :Tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả theo công việc đang làm của tháng mà người lao động làm thêm giờ (trừ tiền lương làm thêm giờ, tiền lương trả thêm khi làm việc vào ban đêm) chia cho số giờ thực tế làm việc trong tháng (không kể số giờ làm thêm).
 
Tiền lương thực trả hàng tháng của Ban quản lý dự án theo thông tư 05/TT-BTC ngày 06/01/2014 bao gồm : Tiền lương nghạch bậc+ Phụ cấp chức vụ, trách nhiệm…+ Thu nhập tăng thêm theo hệ số điều chỉnh ( từ 1,1 đến 1,7 lần quỹ lương). Vậy tôi xin hỏi khi tính tiền lương làm thêm giờ của cán bộ viên chức của Ban quản lý có được tính thu nhập tăng thêm vào để tính đơn giá tiền lương giờ làm thêm không hay đơn giá tiền làm thêm là chỉ bao gồm tiền lương theo nghạch bậc + các khoản phụ cấp thôi. Xin trân trọng cám ơn Quý Bộ.
 
Bộ Tài chính hướng dẫn như sau:
 
Theo quy định tại Điều 10 Thông tư số 05/2014/TT-BTC ngày 6/01/2014 của Bộ Tài chính quy định về quản lý, sử dụng các khoản thu từ hoạt động quản lý dự án của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án sử dụng vốn NSNN và vốn TPCP nêu rõ:
 
Chi tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức của Ban QLDA gồm: Tiền lương ngạch, bậc + các khoản phụ cấp + Thu nhập tăng thêm.
 
Tuy nhiên, thu nhập tăng thêm là trường hợp tiết kiệm các khoản chi khác (ngoài chi lương); căn cứ tổng mức kinh phí quản lý dự án được sử dụng trong năm để lập dự toán và cân đối các khoản chi theo quy định, sau khi bố trí đủ 18 khoản chi trong dự toán theo quy định tại Điều này đảm bảo đúng đối tượng và chế độ theo quy định; chủ đầu tư và ban quản lý dự án được chi thu nhập tăng thêm cho những người hưởng lương từ chi phí quản lý dự án.
 
Do vậy, tiền lương thực trả hàng tháng đối với cán bộ, viên chức của Ban quản lý dự án không bao gồm tiền thu nhập tăng thêm và khi tính tiền lương làm thêm giờ cho cán bộ, viên chức của Ban quản lý dự án không tính thu nhập tăng thêm vào để tính đơn giá tiền lương giờ làm thêm.
 
Theo mof.gov.vn

Hướng dẫn trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi

(Taichinh) – Tổng cục Thuế nhận được Công văn số 77384/CT-TTr1 ngày 8/12/2015 của Cục Thuế Hà Nội trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi. Về vấn đề này, ngày 9/3/2016 Tổng cục Thuế có Công văn 920/TCT-CS trả lời như sau:
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
 
Theo quy định tại khoản 3 Điều 2 và Điều 6 Thông tư số 228/2009/TT-BTC ngày 7/12/2009 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc trích lập và sử dụng khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi thì doanh nghiệp được trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi nếu doanh nghiệp có khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán, được ghi trên hợp đồng kinh tế, các khế ước vay nợ hoặc các cam kết nợ khác; khoản nợ phải có chứng từ gốc, có đối chiếu xác nhận của khách nợ về số tiền còn nợ, bao gồm: hợp đồng kinh tế, khế ước vay nợ, bản thanh lý hợp đồng, cam kết nợ, đối chiếu công nợ và các chứng từ khác.
 
Theo công văn của Cục Thuế trình bày thì Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Thành Nam chỉ ký hợp đồng hoặc thỏa thuận hợp đồng với cá nhân để được quyền sử dụng đất gắn với tài sản trên đất, căn hộ, biệt thự và Công ty đã chuyển tiền cho các cá nhân, trong khi hồ sơ trích lập dự phòng liên quan đến các cá nhân nên khó khăn cho việc đối chiếu xác định tính pháp lý của hồ sơ.
 
Căn cứ quy định nêu trên, về nguyên tắc doanh nghiệp được trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi nếu doanh nghiệp có khoản nợ phải thu quá hạn thanh toán, có đầy đủ hồ sơ, chứng từ theo quy định. Theo đó, đối với trường hợp Công ty cổ phần đầu tư và phát triển đô thị Thành Nam có khoản nợ phải thu của các cá nhân, nếu hồ sơ liên quan đến việc trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi của các cá nhân này chưa đầy đủ và chưa đủ tính pháp lý thì chưa có đủ cơ sở để trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi theo quy định.
 
 
Theo gdt.gov.vn
 

Gỡ vướng về quyết toán khoản chi công tác phí

(Taichinh) – Tôi đang làm công tác kế toán tại Trung tâm Dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội. Hiện nay đơn vị chúng tôi được cấp kinh phí chi hoạt động quản lý bảo hiểm thất nghiệp; hình thức cấp phát là qua tài khoản tiền gửi tại Kho bạc.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
 
Chúng tôi có một vấn đề khi quyết toán kinh phí mong quý Bộ giải đáp: Chúng tôi nhận được công văn của cơ quan cấp trên đi công tác từ ngày 27-31/12/2013 và thanh toán công tác phí vào ngày 2/1/2014. Chúng tôi đã quyết toán khoản chi này vào niên độ 2014 nhưng cơ quan tài chính nhận định khoản chi này phải được quyết toán vào niên độ 2013 và kiến nghị xuất toán khoản chi này vì sai niên độ. Xin hỏi quý Bộ kiến nghị của cơ quan tài chính như vậy có đúng hay không?
Về nội dung này, Bộ Tài chính có hướng dẫn như sau:
 
Căn cứ Thông tư 108/2008/TT-BTC ngày 18/11/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý ngân sách cuối năm và lập, báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước hàng năm, tại dòng thứ 3, Điểm 1, Mục I có quy định:
 
“Trường hợp đã có khối lượng, công việc thực hiện đến hết ngày 31 tháng 12, thì thời hạn chi ngân sách được thực hiện đến hết ngày 31 tháng 01 năm sau; thời hạn đơn vị sử dụng ngân sách (gồm cả chủ đầu tư) gửi hồ sơ, chứng từ chi ngân sách (kể cả thanh toán các khoản tạm ứng) theo chế độ qui định đến Kho bạc Nhà nước nơi giao dịch chậm nhất đến hết ngày 25 tháng 01 năm sau.”
 
Theo thông tin được cung cấp trong nội dung hỏi, khoản chi công tác phí từ nguồn kinh phí chi hoạt động quản lý bảo hiểm thất nghiệp được thanh toán qua tài khoản 3713 – Tiền gửi khác tại KBNN Bình Thuận. Khoản công tác phí này được căn cứ trên công văn của cơ quan cấp trên đi công tác từ ngày 27-31/12/2013, tức là được bố trí từ nhiệm vụ của Ngân sách năm 2013, được thanh toán từ dự toán NSNN năm 2013 giao cho đơn vị. Đơn vị làm thủ tục thanh toán công tác phí vào ngày 2/1/2014 trong thời gian chỉnh lý quyết toán, và được quyết toán vào năm 2013 theo quy định của Thông tư 108/2008/TT-BTC.
 
Như vậy, khoản chi này đã hoàn thành vào ngày 31/12/2013 và phải được quyết toán vào năm 2013 theo đúng yêu cầu của Cơ quan Tài chính đồng cấp.
 
 
Theo mof.gov.vn

Giải đáp nghiệp vụ cấp vốn của công ty mẹ cho chi nhánh độc lập

(Taichinh) – Tại Khoản 1a,b điều 20 Tài khoản 136 và khoản 1a,b điều 55 Tài khoản 336 của Thông tư 200 có nêu:" a) Tài khoản này dùng để phản ánh các khoản nợ phải thu và tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu của doanh nghiệp với đơn vị cấp dưới hoặc giữa các đơn vị cấp dưới trực thuộc doanh nghiệp độc lập.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Các đơn vị cấp dưới trực thuộc trong trường hợp này là các đơn vị không có tư cách pháp nhân, hạch toán phụ thuộc nhưng có tổ chức công tác kế toán, như các chi nhánh, xí nghiệp, Ban quản lý dự án… hạch toán phụ thuộc doanh nghiệp. b) Quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với các công ty thành viên, xí nghiệp… là đơn vị có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập không phản ánh trong tài khoản này mà phản ánh như đối với các công ty con." và "a) Tài khoản này dùng để phản ánh tình hình thanh toán các khoản phải trả giữa doanh nghiệp với các đơn vị trực thuộc không có tư cách pháp nhân hạch toán phụ thuộc có tổ chức công tác kế toán (sau đây gọi là đơn vị hạch toán phụ thuộc); Giữa các đơn vị hạch toán phụ thuộc của cùng một doanh nghiệp với nhau.
 
Trong doanh nghiệp, việc phân loại các đơn vị cấp dưới trực thuộc cho mục đích kế toán được căn cứ vào bản chất của đơn vị (hạch toán độc lập hay hạch toán phụ thuộc, có tư cách pháp nhân hay không, có người đại diện trước pháp luật hay không) mà không phụ thuộc vào tên gọi của đơn vị đó (đơn vị thành viên, chi nhánh, xí nghiệp, tổ, đội…). b) Không phản ánh vào tài khoản 336 các giao dịch thanh toán giữa công ty mẹ với các công ty con và giữa các công ty con với nhau (giữa các đơn vị có tư cách pháp nhân hạch toán độc lập).".
 
Vậy đối với chi nhánh hạch toán phụ thuộc mới được sử dụng tài khoản 136, 336, còn đối với chi nhánh hạch toán độc lập không được hạch toán tài khoàn 136,336 này. Trường hợp, TK 136,336 không sử dụng cho CN hạch toán độc lập, vậy sẽ phản ánh vào TK nào, nghiệp vụ cấp vốn của Cty mẹ cho CN độc lập sẽ phản ánh vào đâu?
 
Phần trả lời:
 
 
Theo mof.gov.vn
 

Chính sách liên quan đến khoán chi tiền điện thoại đối với đơn vị sự nghiệp

(Taichinh) – Cơ quan tôi là đơn vị sự nghiệp thực hiện theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006. Tôi đang xây dựng lại Quy chế chi tiêu nội bộ, CBVC cơ quan thống nhất đưa các khoản chi sau vào khoán chi: khoán tiền điện thoại cho Giám đốc Ban,Trưởng, phó phòng, Trạm Trưởng trực thuộc Ban mức 100.000/tháng hạch toán vào mục 6618.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Xin hỏi việc chi khoán như vây là có đúng quy định không? Tôi đã tìm hiểu các văn bản liên quan nhưng không có quy định về các khoản khoán chi trên nhưng trong nghị định 43 và các thông tư hướng dẫn thì đơn vị có quyền quyết định các khoản chi nhưng phải được quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ có đúng không?
 
Với nội dung này, Bộ Tài chính có hướng dẫn như sau:
 
Điểm e, khoản 2, mục VII Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 09/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đã quy định:
 
“ Đối với một số tiêu chuẩn, định mức và mức chiđơn vị sự nghiệp phải thực hiện đúng các quy định của nhà nước:
 
– Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô;
 
– Tiêu chuẩn, định mức về nhà làm việc;
 
– Tiêu chuẩn, định mức trang bị điện thoại công vụ tại nhà riêng và điện thoại di động;
 
– Chế độ công tác phí nước ngoài;
 
– Chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam;
 
– Chế độ quản lý, sử dụng kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia;
 
– Chế độ sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
 
– Chế độ chính sách thực hiện tinh giản biên chế (nếu có);
 
– Chế độ quản lý, sử dụng vốn đối ứng dự án, vốn viện trợ thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước;
 
– Chế độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
 
Riêng kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nước, cấp bộ, ngành theo hướng dẫn của Bộ Tài chính-Bộ Khoa học và công nghệ.”.
 
Do vậy, việc khoán tiền điện thoại của quý cơ quan đề nghị thực hiện theo quy định trên.
 
 
Theo mof.gov.vn
 

Tăng tính khả thi và góp phần bảo hộ doanh nghiệp Việt một cách hợp lý

(Taichinh) – Ngày 06/4/2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội Khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế. Với hiệu lực thi hành sớm kể từ ngày 01/07/2016, Luật thể hiện các thông điệp chính sách nhằm đơn giản công tác quản lý thuế, tăng tính khả thi trong tuân thủ, đồng thời bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam một cách hợp pháp trong bối cảnh hội nhập sâu hơn từ năm 2018.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
 
1- Sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) số 13/2008/QH12
 
Một là, Tiếp theo những nội dung đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 31/2013/QH13, thuế GTGT kiên trì thực hiện nguyên tắc đối xử công bằng giữa hàng nông sản nhập khẩu và hàng nông sản được sản xuất trong nước, bảo đảm sự bình đẳng giữa DN trong nước và DN nước ngoài. Từ thực tiễn thi hành Nghị định số 209/2013/NĐ-CP, Thông tư số 219/2013/TT-BTC, số 26/2015/TT-BTC, quy định về thuế đối với hàng nông sản được kế thừa và bổ sung thêm nội dung nhằm vừa tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hoá, vừa ngăn chặn việc lợi dụng để hoàn thuế đối với nông sản xuất khẩu.
 
Theo đó, Khoản 1, điều 5 Luật thuế GTGT nay được sửa đổi theo hướng: “Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và các mặt hàng này ở khâu nhập khẩu thì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Tại khâu kinh doanh tiếp theo, các DN, hợp tác xã (là người nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) có mua sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường để bán cho DN, hợp tác xã khác thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
 
Với quy định này, các DN, hợp tác xã kinh doanh hàng nông sản trong thị trường nội địa sẽ vừa tiết kiệm được chi phí tài chính do không phải bỏ tiền nộp thuế trước đối với hàng nông sản khi mua vào hoặc nhập khẩu; đồng thời bảo đảm được quyền khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí trong khâu lưu thông có đóng góp làm tăng giá trị của hàng hoá nông sản (như chi phí đóng gói, xử lý, bảo quản, vận tải, quản lý,…).
 
Hai là, Mở rộng diện đối tượng không chịu thuế GTGT (nội dung tại khoản 9, điều 5 Luật thuế GTGT) đối với các hoạt động dịch vụ mang tính bảo trợ, an sinh xã hội, như: Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh cho người và vật nuôi; nay bổ sung thêm dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật cũng thuộc diện không chịu thuế GTGT để người cao tuổi, người khuyết tật có cơ hội thụ hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dưỡng lão với mức giá hợp lý.
 
Ba là, Luật quy định cụ thể, rõ ràng tiêu chí trong phân loại tài nguyên làm cơ sở thiết kế các chính sách khuyến khích chế biến sâu, hạn chế và không khuyến khích xuất khẩu tài nguyên dạng thô, khoáng sản chưa qua chế biến, hoặc có giá trị chế biến thấp.
 
Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ không áp dụng thuế suất 0% và cũng không thực hiện việc khấu trừ thuế đầu vào đối với: “Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác; sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản có tổng trị gía tài nguyên, khoáng sản công với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên.”. Nội dung về tiêu chí 51% được thể hiện trong sửa đổi khoản 23 của điều 5 và quy định không áp dụng thuế suất 0% được thể hiện sửa đổi tại cuối khoản 1 của điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng.
 
Bên cạnh đó, tiếp tục kế thừa và quy định rõ hơn đối với các trường hợp xuất khẩu ra nước ngoài nhưng không được áp dụng thuế suất 0% (gồm các hoạt động: Chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn ra nước ngoài, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính, viễn thông chiều đi ra nước ngoài; sản phẩm xuất khẩu tài nguyên khoáng sản nêu trên.)
 
Bốn là, Không thực hiện hoàn thuế GTGT đối với sản xuất kinh doanh khâu nội địa nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường biện pháp quản lý, giảm bớt tồn kho, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá. Đồng thời xoá bỏ tình trạng khó khăn lâu nay là: trong một doanh nghiệp có tháng thì được hoàn thuế, nhưng có tháng phải nộp thuế; nhiều khi số thuế đề nghị hoàn đang bị khoanh lại nhưng doanh nghiệp phải bỏ tiền nộp thuế ngay. Quy định về hoàn thuế GTGT tại điều 13 Luật thuế GTGT sẽ có 03 nội dung mới được sửa đổi, bổ sung như sau:
 
(i). Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc trong quý thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo (thay cho quy định hiện nay là được hoàn thuế nếu doanh nghiệp có số thuế GTGT đầu vào luỹ kế 12 tháng chưa được khấu trừ hết).
 
(ii). Trường hợp cơ sở kinh doanh có dự án đầu tư mới, có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào đang sử dụng cho đầu tư mà doanh nghiệp chưa được khấu trừ và có số thuế còn lại từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, sẽ không được hoàn số thuế GTGT chưa được khấu trừ của dự án đầu tư, mà chuyển sang kỳ tiếp theo để khấu trừ đối với các trường hợp:
 
+ Dự án đầu tư của doanh nghiệp không góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký; kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư hoặc không bảo đảm duy trì đủ điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động;
 
+ Dự án đầu tư khai thác tài nguyên, khoáng sản được cấp phép từ ngày 017/2016 hoặc dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hàng hóa mà tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên.
 
(iii). Cơ sở kinh doanh trong tháng, quý có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế theo tháng, quý.
 
Tuy nhiên, việc hoàn thuế sẽ không áp dụng trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu mà không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật hải quan. Bên cạnh đó, Luật có quy định mới tạo thuận lợi và nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về thuế và hải quan, đó là áp dụng chế độ ưu tiên là:Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với người nộp thuế là doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu mà trong 2 năm liên tục không vi phạm pháp luật về thuế, hải quan và người nộp thuế không thuộc đối tượng rủi ro cao theo quy định của Luật quản lý thuế.
 
Sửa đổi quy định về hoàn thuế cũng sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng trốn thuế, lợi dụng hoàn thuế đối với những doanh nghiệp lâu nay làm ăn bất chính do tận dụng quy định được khấu trừ toàn bộ thuế đầu vào trong khi họ bán hàng không xuất hoá đơn đầu ra. Với quy định mới mà DN vẫn làm như trước thì tự chịu lấy toàn bộ số thuế đầu vào không được khấu trừ, NSNN cũng sẽ giảm được rủi ro khâu hoàn thuế.
 
2- Sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) số 27/2008/QH12
 
Tiếp theo nội dung sửa đổi về thuế suất và lộ trình áp dụng thuế suất đối với một số mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 70/2014/QH13), việc sửa đổi lần này có mục tiêu lớn hơn. Theo đó, sẽ xây dựng môi trường khi doanh bình đẳng, bảo vệ hợp pháp hàng hoá chịu thuế TTĐB được sản xuất trong nước, khắc phục các “lỗ hổng chính sách” từ thực tiễn quản lý hàng nhập khẩu, đồng thời định hướng tiêu dùng mặt hàng ôtô du lịch cá nhân dưới 24 chỗ ngồi:
 
Một là, sửa quy định về giá tính thuế (quy định tại điều 6 Luật thuế TTĐB): Đây là nội dung quan trọng nhất và được rất nhiều ý kiến trao đổi tại diễn đàn Quốc hội cũng như có sự tranh luận gay gắt giữa các hiệp hội doanh nghiệp. Quy định mới sẽ bảo đảm sự bình đẳng về giá tính thuế, cách tính thuế và mức thuế giữa hàng hoá (thuộc diện chịu thuế TTĐB) được sản xuất tại Việt Nam với hàng hoá cùng loại được nhập khẩu.
 
Với mục tiêu xây dựng môi trường khi doanh bình đẳng, bảo vệ hợp pháp hàng hoá chịu thuế TTĐB được sản xuất trong nước, khắc phục các bất cập trong chính sách, hạn chế tối đa sự lợi dụng tại khâu nhập khẩu, Luật quy định giá tính thuế TTĐB đối với hàng hóa nhập khẩu là giá do cơ sở nhập khẩu bán ra như đang áp dụng đối với hàng hóa sản xuất trong nước.
 
Thay cho quy định lâu nay đang thực hiện là tính thuế TTĐB trên giá CIF (giá nhập khẩu) cộng với (+) thuế nhập khẩu, các doanh nghiệp sản xuất trong nước sẽ được bảo đảm bình đẳng với doanh nghiệp nước ngoài vì sẽ khắc phục được tình trạng lâu nay là khai giá thấp trên hợp đồng ngoại, khai thấp trị giá hải quan để trốn tránh các loại thuế tại khâu nhập khẩu, bao gồm cả thuế NK, thuế TTĐB và thuế GTGT.
 
Hai là, Luật sửa đổi lần này có quy định mới nhằm ngăn ngừa việc né tránh thuế TTĐB của các doanh nghiệp sử dụng mô hình tổ chức công ty mẹ, công ty con, mô hình liên kết, công ty sở hữu chéo,… vừa thực hiện hành vi chuyển giá để né thuế TTĐB tại khâu đầu, vừa dịch chuyển lãi sang các khâu sau thông qua việc quy định mức giá bán giữa các công ty trong nhóm liên kết.
 
Quy định mới là: “Trường hợp hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được bán cho cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở có quan hệ công ty mẹ, công ty con; hoặc mua/bán giữa các công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất; hoặc mua/bán giữa cơ sở kinh doanh thương mại mà có mối quan hệ liên kết với cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt không được thấp hơn tỷ lệ % so với giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại mua trực tiếp của cơ sở sản xuất, nhập khẩu bán ra theo quy định của Chính phủ”.
 
Căn cứ vào quy định này, khi Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sẽ có quy định cụ thể về tỷ lệ % áp dụng phù hợp với đặc điểm của từng loại mặt hàng (ví dụ tỷ lệ % chiết khấu trong khâu thương mại của mặt hàng rượu bia sẽ phải cao hơn tỷ lệ % áp dụng đối với mặt hàng ô tô, khác với tỷ lệ % quy định đối với mặt hàng thuốc lá.
 
Ba là, sửa đổi quy định về biểu thuế, mức thuế TTĐB áp dụng đối với mặt hàng ô tô du lịch dưới 24 chỗ ngồi (sửa quy định tại Khoản 4, Mục I Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt quy định tại Điều 7 của Luật thuế TTĐB số 70/2014/QH13) nhằm mục tiêu định hướng tiêu dùng, góp phần bảo vệ môi trường. Cụ thể như sau:
 
(i)- Luật số 70/2014/QH13 quy định mức thuế suất TTĐB (45%, 50% và 60%) áp dụng đối với mặt hàng ô tô du lịch chở người dưới 24 chỗ ngồi theo các tiêu chí: mức tiêu hao nhiên liệu qua dung tích xi lanh (cm3); số chỗ ngồi gắn với mục đích sử dụng xe và theo loại nhiêu liệu sử dụng có tác động ảnh hưởng đến môi trường. Theo đó, loại xe chở người dưới 10 chỗ ngồi thì áp dụng mức thuế suất 45% đối với loại xe có dung tích xi lanh từ 2,000 cm3 trở xuống; áp thuế suất 50% đối với xe có dung tích xi lanh từ 2,000 cm3 đến dưới 3,000 cm3; đối với loại xe có dung tích xi lanh từ 3,000 cm3 trở lên thì áp dụng thuế suất cao nhất là 60%.
 
Đối với loại xe chở người từ 10 đến dưới 16 chỗ ngồi áp dụng thuế suất 30%; và mức thuế 15% áp dụng đối với xe từ 16 đến dưới 24 chỗ ngồi và xe được thiết kế vừa chở người kết hợp vừa chở hàng.
 
Đối với các loại xe chở người mà sử dụng năng lượng chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện, năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng thì áp dụng mức thuế suất thấp hơn, chỉ bằng 0,7 mức thuế suất của loại xe chạy bằng xăng mà có cùng dung tích xi lanh tương ứng (ví dụ 35% đối với xe có dung tích xi lanh từ 2,000 cm3 đến dưới 3,000 cm3 ; nếu cùng dung tích xi lanh này mà là xe chạy xăng thì áp thuế 50%).
 
(ii)- Luật sửa đổi ngày 06/4/2016 tuy vẫn giữ nguyên tắc quy định mức thuế suất phân biệt theo loại xe với các tiêu chí nêu trên nhưng thực hiện phân loại chi tiết hơn mức tiêu hao nhiên liệu qua chỉ số dung tích xi lanh và có quy định cụ thể lộ trình áp dụng cho 2 giai đoạn trước và sau 2018 (là năm hết lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo cam kết tự do hoá thương mại đã ký kết).
 
Về số lượng mức thuế suất đối với xe ô tô chở người dưới 24 chỗ ngồi sẽ bao gồm 14 mức thuế suất cơ bản, trong đó thuế suất thấp nhất là 5% và cao nhất là 150%. Loại xe có dung tích nhỏ hơn, tiêu hao năng lượng ít hơn sẽ được áp mức thuế thấp hơn và được giảm tiếp so với Luật hiện hành, do vậy mà những người có mức thu nhập trung bình khá trở xuống có thêm cơ hội sở hữu ô tô.
 
Đối với loại xe có du.ng tích xi lanh từ 2,000 cm3 trở lên, Luật quy định nhiều mức thuế cao hơn, chi tiết hơn và tăng dần đến mức thuế suất cao nhất là 150%. Ví dụ loại xe có dung tích xi lanh từ trên 2,500 cm3 đến 3,000 cm3 sẽ áp mức thuế suất 55% trong thời gian từ 01/7/2016 đến hết 31/12/2017 và kể từ 01/01/2018 sẽ áp mức thuế 60%. Đối với xe có dung tích xi lanh từ trên 3,000 cm3 đến 4,000 cm3 thì áp dụng ngay mức thuế suất 90% từ 01/7/2016. Tiếp theo, với mỗi 1,000 cm3 tăng thêm của dung tích xi lanh thì thuế suất được tăng thêm 20% tương ứng; loại xe có dung tích xi lanh trên 6,000 cm3 thì bị áp đặt mức thuế suất cao nhất (150%).
 
Bên cạnh đó, với mục tiêu định hướng khuyến khích sử dụng năng lượng sinh học nhằm bảo đảm thân thiện với môi trường, giảm thiểu ô nhiễm, Luật có quy định áp mức thuế suất đặc biệt thấp đối với loại xe sử dụng năng lượng sinh học (chỉ bằng ½ mức thuế suất cơ bản đối với xe chạy bằng xăng có cùng mức dung tích xi lanh).
 
Cùng với quy định bổ sung cụ thể các mức thuế suất chi tiết, ứng với lộ trình hội nhập trong Biểu thuế, Luật sửa đổi lần này có bổ sung thêm vào diện áp thuế đối với các mặt hàng mới là: ôtô chạy bằng hoàn toàn năng lượng sinh học được quy định tại các dòng thuế 4(e): Dòng thuế 4(g) quy định mức thuế ôtô chạy bằng điện; và dòng thuế 4(h) áp thuế đối với xe Mô-tô-hôm.
 
Biểu thuế TTĐB áp dụng đối với ôtô và mô-tô-hôm từ ngày 01/7/2016
 
Nội dung mới (chữ in nghiêng) theo quy định tại Khoản 2, Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế ngày 06/4/2016
 
3- Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế
 
Nhằm nâng cao tính khả thi của Luật, chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp trong thực hiện nghĩa vụ thuế, tăng niềm tin với người nộp thuế theo tinh thần đẩy mạnh cải cách hành chính, vừa thể hiện giảm mức động viên đối với người nộp thuế nhỏ đồng thời với việc giảm bớt chi phí xã hội trong quản lý thuế,… Việc sửa đổi Luật quản lý thuế tập trung vào các điểm sau đây:
 
Một là, Sửa đổi nội dung về miễn, giảm thuế tại điều 61 của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 21/2012/QH13 và Luật số 71/2014/QH3) áp dụng với người nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
 
Theo đó, cơ quan quản lý thuế sẽ thực hiện miễn thuế, giảm thuế đối với các trường hợp thuộc diện miễn thuế, giảm thuế được quy định tại các văn bản pháp luật về thuế và thực hiện miễn thuế đối với hộ gia đình, cá nhân có số thuế sử dụng đất phi nông nghiệp phải nộp hằng năm từ 50 nghìn đồng trở xuống. Tổng số thuế miễn, giảm theo quy định này hàng năm tuy không đáng kể trong tổng số thu ngân sách nhà nước, nhưng lại có ý nghĩa rất lớn vì đại bộ phận người dân nông thôn, người lao động nghèo ở đô thị sẽ được miễn thuế sử dụng đất phi nông nghiệp và cơ quan thuế cũng giảm được chi phí về nhân lực quản lý để tập trung vào quảtn lý các nguồn thu khác có hiệu quả hơn.
 
Hai là, Nhằm mục đích chia sẻ khó khăn với những người nộp thuế có ý thức, thái độ tuân thủ pháp luật thuế nhưng hiện tại đang gặp khó khăn về tài chính, cần có thời gian để thu xếp nguồn tiền để nộp dần số thuế nợ, Luật có quy định: “Chưa thực hiện biện pháp cưỡng chế thuế đối với trường hợp người nộp thuế mà đã được cơ quan quản lý thuế cho phép nộp dần tiền nợ thuế (dãn nộp thuế) trong thời hạn không quá 12 tháng, kể từ ngày bắt đầu của thời hạn cưỡng chế thuế.” Việc nộp dần tiền nợ thuế sẽ được xem xét trên cơ sở đề nghị của người nộp thuế gắn với điều kiện là họ phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng.
 
Để bảo đảm công bằng với người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật và không nợ thuế, Luật vẫn có quy định tính lãi suất trả chậm theo mức 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đang được cơ quan thuế cho giãn thời hạn nộp.
 
Ba là, Quy định giảm mức tiền chậm nộp thuế 0,05%/ngày (lãi suất tính trên số tiền thuế chậm nộp) xuống mức thấp hơn là 0,03% để phù hợp với mặt bằng lãi suất ngân hàng đã giảm nhiều so với trước đây, bảo đảm tính khả thi của quy định xử phạt, đồng thời chia sẻ khó khăn với người nộp thuế. Theo đó, Luật quy định rằng: Nếu người nộp thuế chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định và thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn ghi trong thông báo của cơ quan quản lý thuế, thời hạn trong quyết định xử lý của cơ quan quản lý thuế thì ngoài việc phải nộp đủ tiền thuế, còn phải trả tiền chậm nộp theo mức bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp.
 
Đối với các khoản nợ tiền thuế phát sinh trước ngày 01/7/2016 mà người nộp thuế chưa nộp vào ngân sách nhà nước (NSNN), kể cả khoản tiền nợ thuế được truy thu qua kết quả thanh tra, kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền thì cũng được chuyển sang áp dụng mức tính tiền chậm nộp theo tỷ lệ quy định tại khoản này từ ngày 01/7/2016. Trường hợp người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán bằng nguồn vốn NSNN nhưng chưa được thanh toán nên không nộp kịp thời các khoản thuế dẫn đến nợ thuế thì không phải nộp tiền chậm nộp tính trên số tiền thuế còn nợ. Tuy nhiên, số tiền chậm nộp thuế mà doanh nghiệp được miễn trừ chỉ giới hạn trong phạm vi không vượt quá số tiền NSNN chưa thanh toán và phát sinh trong thời gian NSNN chưa thanh toán.
 
Ngoài ra, việc xoá nợ thuế cho các doanh nghiệp bị nợ thuế lâu ngày, có khó khăn, trong đó có cả doanh nghiệp được cổ phần hoá từ doanh nghiệp nhà nước trước đây, bị lỗ do hệ luỵ của cơ chế trước đây để lại tuy được đưa ra thảo luận tại kỳ họp nhưng không được Quốc hội chấp thuận./.
 
Theo tapchithue.com.vn
 

Hiện trạng và giải pháp đẩy mạnh quyền tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập

(Taichinh) – Những đổi mới về chính sách quản lý, cơ chế tài chính đối với khoa học và công nghệ thời gian qua đã được phát huy, đem lại những thành công mới, với những đóng góp thực chất trong đời sống kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, để khoa học và công nghệ thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, trở thành đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế tri thức, đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực và trách nhiệm của các tổ chức khoa học công nghệ, các nhà khoa học, các tổ chức kinh tế.
 
 
Những đổi mới về chính sách quản lý, cơ chế tài chính đối với khoa học và công nghệ thời gian qua đã được phát huy, đem lại những thành công mới. Nguồn: internet
 
Về nguồn lực tài chính đầu tư cho khoa học và công nghệ
 
Trong giai đoạn 2011-2015, mặc dù điều kiện kinh tế còn khó khăn nhưng đầu tư của ngân sách nhà nước (NSNN) cho khoa học và công nghệ (KHCN) đã đảm bảo 2% tổng chi NSNN, đạt tốc độ tăng trung bình 17%/năm và là một trong các lĩnh vực có tốc độ tăng chi cao nhất trong chi NSNN. Xét trong cả giai đoạn, tổng chi NSNN cho KHCN cao gấp 5,6 lần so với giai đoạn 2001-2005 và gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, xét về giá trị tuyệt đối, đầu tư cho KHCN còn chưa cao. Năm 2015, đầu tư từ NSNN cho KHCN đạt hơn 23 nghìn tỷ đồng (tương đương trên 1 tỷ USD). Tổng đầu tư của toàn xã hội cho KHCN của Việt Nam hiện nay ước đạt dưới 1% GDP, trong khi Hàn Quốc là 3,1% và mức trung bình thế giới là 2,1%. NSNN vẫn là nguồn đầu tư chính (70%), đầu tư từ doanh nghiệp (DN) cho KHCN còn thấp.
 
Thực tế, Việt Nam chưa có nhiều công trình, sản phẩm KHCN mang tính đột phá ở tầm khu vực và thế giới. Các bài báo, công trình khoa học được công bố quốc tế có tốc độ tăng trung bình 22%/năm, nhưng giá trị tuyệt đối và chỉ số trích dẫn còn thấp, nhất là khi so sánh với các nước trong khu vực và thế giới. Số lượng đơn sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2001-2010 của người Việt Nam là 1.665 đơn, trong khi có 20.057 đơn của người nước ngoài; số bằng độc quyền sáng chế được cấp của người Việt Nam còn thấp hơn nhiều, chỉ đạt 257 văn bằng, kém 27 lần so với số văn bằng được cấp của người nước ngoài. Các sáng chế, giải pháp hữu ích của Việt Nam chủ yếu tập trung ở 2 lĩnh vực: Các nhu cầu đời sống con người và các quy trình công nghệ, giao thông
 
Tình hình thực hiện cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập
 
Cùng với sự chuyển biến nhận thức về vai trò then chốt của KHCN trong phát triển kinh tế – xã hội, trong những năm qua môi trường pháp lý cho lĩnh vực này cũng được điều chỉnh theo hướng tạo nhiều thuận lợi và ưu đãi hơn cho hoạt động KHCN. Năm 2005, với mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KHCN công lập, ngày 5/9/2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 115/2005/NĐ-CP quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp KHCN công lập (sau đây gọi là Nghị định 115). Bên cạnh đó, các tổ chức KHCN còn được quyền sản xuất, kinh doanh như DN; được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; sử dụng con dấu của đơn vị sự nghiệp công lập cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và hưởng mọi ưu đãi như DN. Việc ban hành cơ chế tự chủ quy định tại Nghị định 115 đã giải phóng được tiềm năng về nhân lực, tiềm lực của các tổ chức KHCN, được ví như “cơ chế khoán 10” trong KHCN. Các quy định này luôn được bổ sung, hoàn thiện nhằm giải phóng tối đa sức sáng tạo thúc đẩy, tạo điều kiện gắn kết quả KHCN với thực tiễn. Cụ thể:
 
Tự chủ về tổ chức thực hiện nhiệm vụ KHCN: Tổ chức KHCN được quyền chủ động xác định nhiệm vụ KHCN; tham gia thực hiện nhiệm vụ KHCN các cấp theo cơ chế tuyển chọn, giao trực tiếp; liên kết hợp tác thực hiện nhiệm vụ KHCN và cung cấp dịch vụ cho các DN, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo thỏa thuận, hợp đồng. Nghị định 115 yêu cầu các tổ chức KHCN công lập được sắp xếp lại, phân loại và chuyển đổi mô hình hoạt động thành 2 nhóm chính, đó là:
 
– Tổ chức KHCN hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách, nghiên cứu xây dựng định mức kinh tế – kỹ thuật chuyên ngành, phục vụ quản lý nhà nước. Các tổ chức này phải xây dựng đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để được Nhà nước tiếp tục cấp kinh phí hoạt động thường xuyên.
 
– Tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tổ chức dịch vụ KHCN đã tự bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên, được tổ chức và hoạt động theo 1 trong 2 hình thức: (a) Tổ chức KHCN tự trang trải kinh phí hoạt động thường xuyên (gọi tắt là tổ chức tự trang trải kinh phí); (b) DN KHCN.
 
Quy định này đã góp phần thay đổi cơ bản phương thức hoạt động của các tổ chức KHCN công lập, khuyến khích các tổ chức KHCN tập trung vào các kết quả mang tính ứng dụng, gắn với tổ chức sử dụng kết quả KHCN, gắn với thị trường…
 
Theo thống kê của Bộ KHCN, đến năm 2015, trong tổng số 642 tổ chức KHCN công lập, có 193 tổ chức KHCN hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, chiến lược, chính sách thực hiện chuyển đổi (chiếm tỷ lệ 30%); 295 tổ chức chuyển sang loại hình tự trang trải kinh phí (chiếm tỷ lệ 46%); 154 tổ chức đang xây dựng hoặc đang trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đề án thực hiện cơ chế tự chủ (chiếm tỷ lệ 24%).
 
Số liệu trên cho thấy, việc thực hiện Nghị định 115 đã có kết quả tích cực là 76% tổ chức KHCN hoàn thành chuyển đổi và hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Tuy vậy, so với mục tiêu Chính phủ đặt ra khi ban hành Nghị định số 115 là kể từ sau ngày 31/12/2009 sẽ hoàn thành việc chuyển đổi tất cả các tổ chức KHCN công lập sang phương thức tự chủ thì vẫn chưa đạt được, đến nay vẫn còn 154 tổ chức KHCN (chiếm tỷ lệ 24%) chưa hoàn thành việc chuyển đổi.
 
Một trong những nguyên nhân dẫn đến các tổ chức KHCN chậm thực hiện chuyển đổi là lo ngại sau khi chuyển đổi sẽ không được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên. Khắc phục tình trạng trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 96/2010/NĐ-CP ngày 20/9/2010 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 115 và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về DN KHCN; tiếp đó Liên bộ Tài chính và KHCN đã ban hành Thông tư liên tịch số 121/2014/TTLT-BTC-BKHCN ngày 25/8/2014 hướng dẫn Nghị định số 96/2010/NĐ-CP. Theo đó, đối với các tổ chức KHCN chuyển đổi sang thực hiện phương thức tự chủ, tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên sẽ tiếp tục được NSNN cấp kinh phí thực hiện một số nhiệm vụ thuộc chức năng được quy định trong quyết định thành lập tổ chức KHCN.
 
Tuy vậy, khác với trước khi chuyển đổi là việc cấp kinh phí này được gắn với từng nhiệm vụ thường xuyên chức năng do tổ chức KHCN thực hiện hàng năm, hàng năm được xem xét, đánh giá, điều chỉnh theo kết quả hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức KHCN. Quy định này nâng cao trách nhiệm tổ chức KHCN trong sử dụng NSNN, đồng thời tháo gỡ khó khăn, tạo động lực cho các tổ chức KHCN chuyển đổi sang phương thức tự chủ, tự đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên.
 
Tự chủ về quản lý tài chính: Tổ chức KHCN được quyền tự chủ trong chi lương, chi hoạt động bộ máy và sử dụng các nguồn thu khác từ hợp đồng; được áp dụng phương thức khoán chi trong thực hiện nhiệm vụ KHCN có sử dụng NSNN; được Nhà nước xem xét, cấp kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản, vốn đối ứng của các dự án, kinh phí mua sắm trang thiết bị và sửa chữa lớn tài sản cố định. Riêng đối với tổ chức nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách, xây dựng định mức kinh tế – kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước và các tổ chức ở địa phương, Nhà nước vẫn đảm bảo cấp toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên.
 
Tuy nhiên, quyền tự chủ về tài chính bị hạn chế hoặc phải tuân thủ theo các ràng buộc khác của pháp luật như hạn chế trong khuôn khổ các định mức chi, nội dung chi và thủ tục thanh, quyết toán nhiệm vụ KHCN theo quy định của pháp luật hiện hành. Định mức chi quá thấp và lạc hậu (đặc biệt là chi cho nhân công thực hiện nhiệm vụ chuyên môn), nhiều nội dung chi phát sinh hợp lý trong hoạt động KHCN chưa được kịp thời bổ sung, đặc biệt là thủ tục thanh quyết toán chặt chẽ chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động nghiên cứu sáng tạo.
 
Các vướng mắc trên đã được Luật KHCN năm 2013 tháo gỡ và hướng dẫn tại Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với KHCN. Nghị định 95/2014/NĐ-CP đã tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng hơn đối với việc thực hiện các nhiệm vụ KHCN và phương thức hoạt động của các tổ chức KHCN. Cùng với đó, liên Bộ Tài chính và Bộ KHCN đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn như Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 27/4/2015 hướng dẫn định mức xây dựng định mức phân bổ dự toán và quyết toán đối với kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN có sử dụng NSNN (thay thế Thông tư liên tịchsố 44/2007/TTLT-BTC-BKHCN ngày 07/5/2007) và số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ KHCN có sử dụng NSNN (thay thế Thông tư liên tịch số 93/2006/TTLT-BTC-BKHCN ngày 04/10/2006. Như vậy, đến thời điểm này hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn cơ chế tài chính và tự chủ tài chính đối với các tổ chức KHCN đã tương đối đầy đủ, đồng bộ và bám sát theo tinh thần đổi mới của Luật KHCN sửa đổi.
 
Tự chủ về quản lý tài sản: Tổ chức KHCN được góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành hoạt động KHCN và hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật. Quy định này đã tạo hành lang pháp lý, khuyến khích các tổ chức KHCN huy động các tài sản hữu hình, tài sản trí tuệ để đưa các giá trị KHCN vào thực tiễn. Tuy nhiên, quyền tự chủ này còn bị hạn chế trong việc dùng quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng và liên doanh, liên kết trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại hóa các kết quả KHCN vẫn chưa được pháp luật cho phép.
 
Tự chủ về tổ chức bộ máy: Tổ chức KHCN được quyền sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy; quy định chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trực thuộc; thành lập, sáp nhập, giải thể tổ chức trực thuộc trên cơ sở tự cân đối nguồn lực để đảm bảo cho hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên, quyền thành lập, sáp nhập, giải thể chỉ áp dụng đối với các đơn vị trực thuộc không có tư cách pháp nhân. Đối với đơn vị có tư cách pháp nhân, thẩm quyền này vẫn thuộc về cơ quan chủ quản cấp trên (bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ).
 
Tự chủ về quản lý nhân sự: Về nhân sự quản lý và nghiên cứu, thủ trưởng tổ chức KHCN được quyền tuyển dụng cán bộ theo hình thức thi tuyển, xét tuyển và ký hợp đồng tuyển dụng theo quy định của pháp luật về viên chức, phù hợp với nhu cầu chuyên môn và điều kiện cụ thể của tổ chức. Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế tự chủ này có hạn chế là mặc dù về nguyên tắc, tổng số biên chế hàng năm của tổ chức KHCN căn cứ trên cơ sở nhu cầu cán bộ và khả năng tài chính của đơn vị, nhưng tổ chức KHCN phải xây dựng kế hoạch biên chế hàng năm và được thủ trưởng cơ quan chủ quản quyết định số lượng và chỉ tiêu theo quy định tại Nghị định số 71/2003/NĐ-CP của Chính phủ về phân cấp quản lý biên chế hành chính, sự nghiệp nhà nước. Quy định này cản trở tính linh hoạt và quyền tự quyết của người đứng đầu tổ chức KHCN trong việc xác định quy mô nhân sự và chất lượng cán bộ đáp ứng với phạm vi nghiên cứu và yêu cầu của nhiệm vụ chuyên môn, từ đó ảnh hưởng tới kế hoạch đầu tư trang thiết bị và tài chính cho hoạt động nghiên cứu, vì các vấn đề này phụ thuộc ngay từ ban đầu vào số lượng nhân lực tham gia nhiệm vụ nghiên cứu.
 
Như vậy, việc chậm chuyển đổi này chủ yếu rơi vào các nguyên nhân chủ quan sau:
 
Thứ nhất, nhận thức chưa đúng và đầy đủ về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm: Một số bộ, ngành, địa phương chưa nhận thức đúng đắn và đầy đủ quy định của Nghị định 115 và các văn bản hướng dẫn thực hiện, thậm chí chưa nắm rõ đối tượng phải thực hiện nên đã áp dụng không đúng đối tượng thực hiện cơ chế này.
 
Thứ hai, thiếu sự quyết liệt và nghiêm túc trong chỉ đạo thực hiện Nghị định 115: Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa thật sự nghiêm túc và quyết liệt trong chỉ đạo các tổ chức KHCN trực thuộc thực hiện Nghị định 115.
 
Thứ ba, việc ban hành các văn bản hướng dẫn, tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị định 115 còn chậm, chưa kịp thời.
 
Thứ tư, một số tổ chức KHCN năng lực hạn chế về chuyên môn, trình độ, trang thiết bị, không có khả năng chuyển đổi sang thực hiện cơ chế tự chủ quy định tại Nghị định 115. Theo quy định tại Nghị định 115 thì những tổ chức này cần phải được tổ chức lại, sáp nhập, hoặc giải thể. Tuy vậy, việc này có liên quan đến chính sách, chế độ đối với con người, nên các cơ quan cấp trên cũng còn có tình trạng nể nang, chưa quyết liệt trong việc tổ chức, sắp xếp lại các tổ chức này.
 
Giải pháp thúc đẩy cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập
 
Để Nghị định số 115 cũng như những quy định mới của Luật KHCN sửa đổi phát huy đầy đủ giá trị trong thực tiễn, đòi hỏi các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức KHCN cần kiên quyết hơn nữa trong khâu tổ chức thực hiện, tập trung vào một số giải pháp sau:
 
Về sắp xếp lại, chuyển đổi mô hình hoạt động của các tổ chức KHCN
 
Đối với các tổ chức KHCN chưa thực hiện chuyển đổi cần kiên quyết thực hiện việc sắp xếp, chuyển đổi mô hình hoạt động đối với các tổ chức này theo quy định tại Nghị định số 115. Nếu tổ chức nào không đủ điều kiện chuyển đổi sang tự chủ thì kiên quyết sáp nhập hoặc giải thể, NSNN không tiếp tục cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các tổ chức này.
 
Đối với các tổ chức KHCN đã thực hiện chuyển đổi theo Nghị định số 115 như:
 
– Các tổ chức KHCN được xếp vào nhóm hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược, chính sách, nghiên cứu xây dựng định mức kinh tế – kỹ thuật chuyên ngành, phục vụ quản lý nhà nước (các tổ chức vẫn được NSNN đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên): Cần rà soát, kiên quyết đưa ra khỏi nhóm này, chuyển sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự đảm bảo kinh phí đối với những tổ chức KHCN không đúng đối tượng; Có lộ trình giảm số lượng các tổ chức KHCN được nhận kinh phí hoạt động thường xuyên từ NSNN; Từng bước chuyển việc NSNN bố trí kinh phí hoạt động thường xuyên sang việc thực hiện phương thức Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ nghiên cứu và kinh phí thực hiện nhiệm vụ đối với hoạt động KHCN.
 
– Các tổ chức KHCN đã tự bảo đảm kinh phí hoạt động thường xuyên: Rà soát, đánh giá kết quả hoạt động đối với các tổ chức KHCN đã chuyển đổi theo quy định tại Nghị định số 115, kịp thời điều chỉnh, bổ sung các quy định cho phù hợp với thực tế tạo điều kiện cho đơn vị thực hiện đầy đủ quyền tự chủ gắn với tự chịu trách nhiệm; Xây dựng và áp dụng phương thức giao kinh phí đề tài KHCN theo kết quả đầu ra, giao quyền tự chủ cao cho tổ chức KHCN, nhà khoa học trong sử dụng dự toán kinh phí đề tài KHCN gắn với kết quả cuối cùng. Trước mắt lựa chọn một số cơ sở KHCN có đủ điều kiện để triển khai thí điểm.
 
Về hoàn thiện chính sách
 
– Ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản liên quan đến việc triển khai cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN công lập theo quy định tại Nghị định số 115 và Luật KHCN sửa đổi; rà soát, kịp thời bổ sung sửa đổi các quy định đã ban hành nhưng chưa phù hợp với thực tiễn.
 
– Khẩn trương xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KHCN công lập trong lĩnh vực KHCN (thay thế Nghị định 115).
 
– Khẩn trương ban hành các Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định về Đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KHCN, hướng dẫn việc chuyển kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN vào quỹ phát triển KHCN.
 
– Khẩn trương xây dựng và ban hành các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ kinh phí từ NSNN cho hoạt động KHCN; các định mức kinh tế – kỹ thuật, nhân công và tài chính làm căn cứ cho phân bổ NSNN cho các đơn vị sự nghiệp KHCN, đề tài KHCN, làm cơ sở thực hiện phương thức lập dự toán ngân sách và phân bổ dự toán ngân sách cho các cơ quan, đơn vị theo kết quả đầu ra.
 
– Nghiên cứu, ban hành quy định cho các tổ chức KHCN có khả năng tự chủ tài chính cao được sử dụng tài sản cố định, quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh, liên kết hình thành các DN KHCN.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Chiến lược phát triển hoạt động KHCN 2011-2020;
 
2. Luật KHCN năm 2013; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006; Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007; Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008; Luật Công nghệ cao năm 2008; Luật Đo lường năm 2011;
 
3. Nghị định 115/2005/NĐ-CP; Nghị định 80/2007/NĐ-CP; Nghị định 96/2010/NĐ-CP ; Nghị định số 41/2012/NĐ-CP; Nghị định 71/2003/NĐ-CP;
 
4. Các Thông tư số: TTLT số 121/2014/TTLT-BTC-BKHCN; TTLT số TTLT số 55 2015/TTLT-BKHCN-BTC; TTLT số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 3/2016
 
TS. NGUYỄN TRƯỜNG GIANG – VỤ TÀI CHÍNH HÀNH CHÍNH SỰ NGHIỆP – BỘ TÀI CHÍNH
 
 

Tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công: Đột phá mới và các yêu cầu thực hiện

(Taichinh) – Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập được đánh giá là bước đột phá mới trên lộ trình đổi mới toàn diện, cơ cấu lại các đơn vị sự nghiệp công, tăng cường giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp. Cơ chế, chính sách này nhận được sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành khi “cởi trói” cho các đơn vị sự nghiệp công phát triển, giảm áp lực tài chính cho ngân sách nhà nước…
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Đột phá trong tự chủ tài chính
 
Thời gian quan, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập được thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập; Thông tư số 71/2006/TT-BTC ngày 9/8/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định trên. Sau gần 10 năm thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP trên cơ sở tổng kết đánh giá kết quả đạt được cũng như những bất cập phát sinh, ngày 14/2/2015 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/2015/NĐ-CP thay thế Nghị định số 43/2006/NĐ-CP theo hướng quy định các vấn đề chung, làm căn cứ cho các bộ, cơ quan liên quan xây dựng các Nghị định riêng quy định đối với từng lĩnh vực cụ thể.Nghị định 16/2015/NĐ-CP đã thể hiện rõ mục tiêu đổi mới toàn diện các đơn vị sự nghiệp công lập; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính.
 
Theo đó, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp theo 4 mức độ: (i) Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; (ii) Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; (iii) Tự chủ tài chính đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (do giá, phí dịch vụ sự nghiệp công chưa kết cấu đủ chi phí, được Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công theo giá, phí chưa tính đủ chi phí); (iv) Tự chủ tài chính đối với đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao, không có nguồn thu hoặc nguồn thu thấp).
 
Tự chủ trong chi đầu tư và chi thường xuyên
 
Các đơn vị được chủ động sử dụng các nguồn tài chính được giao tự chủ, bao gồm nguồn thu từ hoạt động dịch vụ sự nghiệp công, nguồn thu phí theo quy định được để lại chi và nguồn thu hợp pháp khác, để chi thường xuyên. Cụ thể:
 
Đối với đơn vị tự chủ tài chính cao: Đối với các nội dung chi đã có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, căn cứ vào khả năng tài chính, đơn vị được quyết định mức chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và quy định trong quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. Các nội dung chi chưa có định mức chi theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, căn cứ tình hình thực tế, đơn vị xây dựng mức chi cho phù hợp theo mức độ được tự chủ tài chính của từng loại đơn vị sự nghiệp công lập và theo quy chế chi tiêu nội bộ.
 
Các đơn vị tự chủ tài chính thấp: Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, đơn vị được quyết định mức chi hoạt động chuyên môn, chi quản lý, nhưng tối đa không vượt quá mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
 
Để tạo điều kiện khuyến khích các đơn vị tự chủ toàn diện về chi thường xuyên và chi đầu tư, Nghị định cho phép các đơn vị chủ động xây dựng danh mục các dự án đầu tư, báo cáo cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
 
Cùng với đó, đơn vị sự nghiệp công được vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước hoặc được hỗ trợ lãi suất cho các dự án đầu tư sử dụng vốn vay của các tổ chức tín dụng theo quy định. Căn cứ yêu cầu phát triển của đơn vị, Nhà nước xem xét bố trí vốn cho các dự án đầu tư đang triển khai, các dự án đầu tư khác theo quyết định của cấp có thẩm quyền.
 
Chi tiền lương và thu nhập tăng thêm
 
Khi Nhà nước điều chỉnh tiền lương cơ sở, đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư. Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên phải tự bảo đảm tiền lương tăng thêm từ nguồn thu của đơn vị; NSNN không cấp bổ sung; đối với đơn vị chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên, chi tiền lương tăng thêm từ các nguồn theo quy định, bao gồm cả nguồn NSNN cấp bổ sung (nếu thiếu).
 
Đối với phần thu nhập tăng thêm, các đơn vị được chủ động sử dụng Quỹ bổ sung thu nhập để thực hiện hiện phân chia cho người lao động trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị, theo nguyên tắc gắn với số lượng, chất lượng và hiệu quả công tác của người lao động. Tuy nhiên, để đảm bảo mức chi trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ quản lý không quá chênh lệch so với người lao động, nghị định mới quy định, khi phân bổ thu nhập tăng thêm thì hệ số thu nhập tăng thêm của chức danh lãnh đạo đơn vị sự nghiệp công tối đa không quá 2 lần hệ số thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện của người lao động trong đơn vị.
 
Trích lập các quỹ
 
Hàng năm, sau khi hạch toán đầy đủ các khoản chi phí, nộp thuế và các khoản nộp NSNN khác theo quy định; phần chênh lệch thu lớn hơn chi, đơn vị được sử dụng để trích lập các quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp; quỹ bổ sung thu nhập; quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Ngoài ra, Chính phủ cho phép các đơn vị được trích lập các quỹ khác theo quy định của pháp luật sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Về mức trích, căn cứ vào mức độ tự chủ tài chính như sau:
 
– Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp: Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư: Trích tối thiểu 25% chênh lệch thu lớn hơn chi; đơn vị chưa tự bảo đảm một phần chi thường xuyên trích tối thiểu 15%; đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên, nếu có kinh phí tiết kiệm chi và số tiết kiệm chi lớn hơn một lần quỹ tiền lương thực hiện thì trích tối thiểu 5%.
 
– Quỹ bổ sung thu nhập: Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được quyết định mức trích Quỹ bổ sung thu nhập (không khống chế mức trích); đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên trích tối đa không quá 3 lần quỹ tiền lương; đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên trích tối đa không quá 2 lần quỹ tiền lương; đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên trích tối đa không quá 01 lần quỹ tiền lương.
 
– Quỹ khen thưởng và Quỹ phúc lợi: Đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên trích tối đa không quá 3 tháng tiền lương, tiền công trong năm của đơn vị; đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên trích tối đa không quá 2 tháng tiền lương, tiền công; đơn vị được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên trích tối đa không quá 01 tháng tiền lương, tiền công.
 
Tự chủ trong giao dịch tài chính
 
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sự nghiệp trong giao dịch với bên ngoài, đặc biệt là trong các hoạt động liên doanh, liên kết, đồng thời tạo thêm nguồn thu cho đơn vị, Chính phủ quy định: Đơn vị sự nghiệp công được mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản thu, chi hoạt động dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng NSNN. Lãi tiền gửi đơn vị được bổ sung vào Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp hoặc bổ sung vào Quỹ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành (nếu có), không được bổ sung vào Quỹ bổ sung thu nhập.
 
Nghị định cũng quy định, đơn vị sự nghiệp công lập được huy động vốn, vay vốn để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất theo quy định của pháp luật và phải có phương án tài chính khả thi để hoàn trả vốn vay, chịu trách nhiệm về hiệu quả của việc huy động vốn, vay vốn.
 
Vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp
 
Nghị định 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 nêu rõ, đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được vận dụng cơ chế tài chính như DN (công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ), khi đáp ứng đủ các điều kiện sau: Hoạt động dịch vụ sự nghiệp công có điều kiện xã hội hóa cao, Nhà nước không cần bao cấp; giá dịch vụ sự nghiệp công tính đủ chi phí (bao gồm cả trích khấu hao tài sản cố định); được Nhà nước xác định giá trị tài sản và giao vốn cho đơn vị quản lý theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; hạch toán kế toán để phản ánh các hoạt động theo quy định của các chuẩn mực kế toán có liên quan áp dụng cho DN.
 
Khi được phép vận dụng cơ chế tài chính như DN, các đơn vị sự nghiệp được xác định vốn điều lệ và bảo toàn vốn; được huy động vốn, đầu tư vốn ra ngoài đơn vị; quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định theo DN; quản lý doanh thu, chi phí và phân phối lợi nhuận; thực hiện chế độ kế toán, thống kê như DN.
 
Khẩn trương đưa chính sách vào cuộc sống
 
Để triển khai thực hiện kịp thời, thống nhất, đồng bộ và toàn diện các quy định của Nghị định này, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/5/2015 về Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ, trong đó quy định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành và trách nhiệm của các bộ, địa phương. Theo đó, giao 7 bộ xây dựng, trình Chính phủ ban hành các nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực chuyên ngành: Y tế; giáo dục đào tạo; dạy nghề; văn hoá thể thao và du lịch; thông tin truyền thông và báo chí; khoa học và công nghệ, lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.
 
Hiện nay, các bộ đã và đang xây dựng để trình Chính phủ ban hành các nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong các lĩnh vực chuyên ngành. Cùng với đó, Chính phủ cũng giao các bộ, cơ quan Trung ương và các địa phương khẩn trương: Xây dựng danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN thuộc lĩnh vực quản lý; Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ sự nghiệp công; Xây dựng hệ thống định mức kinh tế – kỹ thuật chuyên ngành các dịch vụ sự nghiệp công do Nhà nước quản lý; Xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn dịch vụ sự nghiệp công; Xây dựng cơ chế đặt hàng, đấu thầu dịch vụ sự nghiệp công…
 
Thực hiện các yêu cầu tại Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/5/2015, vừa qua, Bộ Tài chính đã có văn bản gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện nhiệm vụ được giao theo Nghị định 16/2015/NĐ-CP. Theo đó, Bộ Tài chính đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Trong khi chưa ban hành hoặc sửa đổi Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công trong từng lĩnh vực cụ thể theo quy định tại Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp công theo từng lĩnh vực được tiếp tục thực hiện cơ chế tự chủ theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Hiện nay, các Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực đang được triển khai xây dựng. Vì vậy, Bộ Tài chính đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý theo phương án tự chủ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt cho đến khi Chính phủ ban hành các Nghị định quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực và có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo quy định của các Nghị định mới.
 
Đối với đơn vị sự nghiệp công lập đã được giao quyền tự chủ tài chính theo một trong ba mức độ tự chủ quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, nếu năm 2016 thay đổi phương án tự chủ, do nhiệm vụ thay đổi, chế độ chính sách mới ban hành (như giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, học phí, phí và lệ phí…) làm cho nguồn thu, chi hoạt động thường xuyên của đơn vị có sự thay đổi so với năm trước liền kề; đồng thời, làm thay đổi mức kinh phí NSNN hỗ trợ chi thường xuyên của đơn vị, do đó phải thay đổi phương án phân loại đơn vị (như đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên chuyển sang đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên…); hoặc đơn vị sự nghiệp công lập mới được thành lập năm 2016 theo quyết định của cấp có thẩm quyền: Các đơn vị sự nghiệp công lập xây dựng phương án tự chủ tài chính, trình cơ quan chủ quản ở Trung ương và địa phương theo phân cấp xem xét, thẩm tra và gửi cơ quan tài chính cùng cấp xem xét, có ý kiến bằng văn bản, trước khi giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính cho đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại Thông tư số 71/2006/TT-BTC hướng dẫn Nghị định số 43/2006/NĐ-CP và được thực hiện cho đến khi Chính phủ ban hành các nghị định quy định cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập trong từng lĩnh vực thì thực hiện theo các nghị định mới này.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Bộ Tài chính – 2015: Hội thảo “Cơ chế tự chủ tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập”;
 
2. Phan Quý Phương: Thực tiễn hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và những đề xuất đổi mới;
 
3. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP; Nghị định 16/2015/NĐ-CP; Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 21/5/2015.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 3/2016
 
TS. ĐOÀN HƯƠNG QUỲNH