Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm việc với Bộ KH&CN về hiệu quả thực hiện chính sách pháp luật phát triển KH&CN

 
Ngày 19/01, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã làm việc với Bộ Khoa học và Công nghệ về “Hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển khoa học công nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2005 – 2015 và định hướng phát triển giai đoạn tới, trong đó chú trọng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo”.
Tham dự buổi làm việc có Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng làm  Trưởng Đoàn giám sát; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ môi trường của Quốc hội Lê Bộ Lĩnh làm Phó Trưởng đoàn thường trực đoàn giám sát. Về phía Bộ Khoa học và Công nghệ có Bộ trưởng Nguyễn Quân và đại diện lãnh đạo các đơn vị có liên quan.
 
Giai đoạn 2011-2015 môi trường thể chế và hệ thống pháp luật về KH&CN tiếp tục được đổi mới hoàn thiện, Nghị quyết TW 6, khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng định vai trò quốc sách hàng đầu và động lực then chốt của KH&CN trong sự nghiệp phát triển đất nước; Luật KH&CN năm 2013 cùng với hệ thống các văn bản dưới Luật được ban hành khá đồng bộ kịp thời cụ thể hóa và đưa tinh thần đổi mới của Luật đi vào cuộc sống, các đổi mới tích cực tập trung vào 3 nhóm chế định: đầu tư tài chính; chính sách cán bộ; quản lý hoạt động nghiên cứu và ứng dụng KH&CN.
 
Báo cáo với Đoàn giám sát, Bộ trưởng Nguyễn Quân khẳng định Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đã được Bộ Khoa học và Công nghệ, các Bộ, ngành, địa phương triển khai tích cực, đúng định hướng và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Một số mục tiêu đề ra của Chiến lược đã đạt được và có khả năng đạt được cao hơn vào năm 2020; Tiềm lực và trình độ KH&CN của Việt Nam được từng bước nâng cao, số lượng bài báo, công bố khoa học được công bố quốc tế và sáng chế của người Việt Nam tuy còn khiêm tốn nhưng cũng được gia tăng hàng năm; tốc độ đổi mới công nghệ, năng lực công nghệ của quốc gia và doanh nghiệp được tăng cường; khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực được rút ngắn đáng kể trong xếp hạng năng lực cạnh tranh, năng lực đổi mới sáng tạo toàn cầu ở một số lĩnh vực khoa học công nghệ có thế mạnh.
 
KH&CN đã có đóng góp quan trọng, thiết thực trong phát triển kinh tế, xã hội, Việt Nam đã có bước phát triển trong nghiên cứu cơ bản, tạo tiền đề hình thành một số lĩnh vực KH&CN đa ngành mới như vũ trụ, y sinh, nano, hạt nhân; một số lĩnh vực có thế mạnh như toán học, vật lý lý thuyết đạt thứ hạng cao trong ASEAN; có khả năng thiết kế và chế tạo thành công nhiều công nghệ, thiết bị nội địa đạt tiêu chuẩn quốc tế; có năng lực hấp thụ và làm chủ công nghệ mới trong một số ngành thiết yếu như điện, điện tử, dầu khí, đóng tầu, xây dựng, ý tế…
 
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được cho thấy qua 5 năm triển khai Chiến lược, đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy có phát triển về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu. Trình độ khoa học và công nghệ quốc gia nhìn chung còn tụt hậu xa so với thế giới, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế.
 
Trong quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, còn thiếu các hướng ưu tiên phù hợp, các chính sách, giải pháp mạnh mẽ để tạo đột phá trong những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế. Chính vì vậy chưa hình thành được các lĩnh vực khoa học, công nghệ mũi nhọn, đạt trình độ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh bình đẳng với khu vực và thế giới.
 
Tại buổi làm việc, Đoàn giám sát cũng đã nghe báo cáo về trách nhiệm quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ của Bộ Khoa học và Công nghệ trong lĩnh vực được giao: Quản lý nhà nước về nghiên cứu và phát triển; tiêu chuẩn, đo lường, chất lược; sở hữu trí tuệ; năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ hạt nhân; phát triển thị trường khoa học và công nghệ; thông tin, thống kê khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ. 
 
Các thành viên Đoàn giám sát đã tập trung trao đổi, đặt các vấn đề cụ thể như Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam đã gắn với việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như thế nào; đâu là nguyên nhân một số mục tiêu cụ thể của Chiến lược không đạt được như mục tiêu về số lượng viện nghiên cứu đạt trình độ khu vực và thế giới, số lượng các doanh nghiệp khoa học, công nghệ, đặc biệt là cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm còn chậm..
 
Do đó Đoàn giám sát cho rằng trong giai đoạn tới, cùng với việc tổ chức thực hiện tốt hơn các chiến lược khoa học công nghệ hiện nay thì cần phải đưa mục tiêu nhiệm vụ của khoa học công nghệ vào mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội. Đồng thời, cần triển khai có hiệu quả các chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm quốc gia để nhanh chóng nâng cao tiền năng công nghệ của doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.
 
Tin, ảnh: Hạnh Nguyên
 
 
 
 

Phát hiện gây chấn động ngành công nghiệp năng lượng của nhân loại

Giới chuyên gia hi vọng, phát hiện mới này của mình sẽ mở ra hướng đi mới cho việc tái tạo và tăng năng lượng hấp thu từ Mặt trời.
 
Công nghiệp khai thác tế bào năng lượng Mặt trời đang ở đỉnh cao của một cuộc cách mạng, và mới đây, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một phương pháp mới để thúc đẩy hiệu quả và giúp tái tạo lại ánh sáng.
 
Pin Mặt trời sử dụng vật liệu perovskites heli chì lai.
 
Cụ thể, giới chuyên gia đã xem xét những đặc tính của vật liệu perovskites heli chì lai – nhóm những vật liệu được sử dụng để tạo sóng trong công nghệ năng lượng Mặt trời. Qua đó, họ còn chỉ ra khả năng của vật liệu này trong việc hấp thụ năng lượng Mặt trời, tạo ra dòng điện trở và sau đó tự sản xuất ra năng lượng ánh sáng.
 
Chưa dừng lại ở đó, các nhà khoa học còn chứng minh rằng, những tấm pin Mặt trời này có thể sản xuất với giá thành rẻ bằng các chất liệu tổng hợp, từ đó tăng tính khả thi trong việc sản xuất kinh doanh thương mại sản phẩm này.
 
 
Pin Mặt trời theo công nghệ mới có khả năng tái tạo lại ánh sáng.
 
"Chúng ta đã biết về khả năng của những vật liệu này trong việc hấp thụ ánh sáng và tạo ra những pin điện. Nhưng giờ đây, chúng ta đã biết thêm về khả năng tổ hợp lại để tái sản xuất các photon một lần nữa".
 
Được biết, pin Mặt trời hoạt động nhờ hấp thụ năng lượng ánh sáng – photon – từ Mặt trời, chuyển đổi năng lượng này thành điện tích và sau đó truyền điện tích tới điện cực để giúp sản sinh năng lượng điện cho nhiều mục đích sử dụng khác nhau.
 
Vật chất perovskites heli chì lai được biết đến nhờ khả năng thực hiện công việc một cách hiệu quả. Tuy nhiên, theo Deschler vật chất này còn có khả năng "tuyệt" hơn thế – chúng có thể phát ra ánh sáng sau khi tạo ra điện tích và hấp thụ lại năng lượng ánh sáng ngay sau đó.
 
 
Pin Mặt trời có khả năng sản xuất nhiều năng lượng hơn để tăng lượng điện áp hấp thụ được từ một lượng ánh sáng nhất định.
 
Kết quả là, pin Mặt trời hoạt động như một bộ tập trung, có khả năng sản xuất nhiều năng lượng hơn để tăng lượng điện áp hấp thụ được từ một lượng ánh sáng nhất định. Loại pin mới này hiệu quả hơn những tấm pin được chế tạo từ vật liệu không có khả năng tái chế.
 
Deschler nhận định: "Tầm quan trọng của vấn đề này nằm ở chỗ những ghi nhận hiện tại về hiệu quả của pin photon chỉ vào khoảng 20-21%, trong khi giới hạn tối đa có thể lên tới 33%. Và phát hiện mới này sẽ mở đường cho việc đạt tới giới hạn tối đa đó".
 
Được biết, William Shockley và Hans Queisser đã đưa ra lý thuyết về nhiệt động lực học đã chỉ ra hiệu suất năng lượng mặt trời có thể lên tới 33% vào năm 1961. Họ nhận định rằng, con số này rất khó có thể vượt qua.
 
 
Phát hiện mới này mở đường cho việc đạt tới giới hạn tối đa của pin photon.
 
Nếu những tạp chất tồn tại trong cấu trúc tinh thể, vật liệu sẽ trở nên hỗn tạp và rất khó hấp thụ ánh sáng. Tuy nhiên, việc loại bỏ những tạp chất sẽ giúp hiệu quả hấp thụ ánh sáng cao và trở nên dễ dàng hơn.
 
Các chuyên gia hi vọng rằng, nghiên cứu mới này sẽ không chỉ là bước tiến mới giúp chúng ta có thể chạm tới số trần của hiệu suất năng lượng Mặt trời mà còn mở ra hướng đi mới về nghiên cứu vật liệu và tận dụng năng lượng Mặt trời hiệu quả hơn.
 
Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Science.
 
Theo Trí Thức Trẻ

Công nghệ chữa chấn thương gan – thận ít đau, giá rẻ

Nếu như trước đây, bệnh nhân cần điều trị bảo tồn chấn thương thận bằng can thiệp mạch phải sang Singapore hoặc Thái Lan, tốn 200-300 triệu đồng (chưa kể tiền nằm viện) thì nay đã có thể điều trị trong nước với chi phí chỉ 10-30 triệu đồng.
 
Đây là thành quả của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật can thiệp mạch và phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan và thận” do PGS-TS Nguyễn Tiến Quyết – nguyên Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức – làm chủ nhiệm.
 
Đề tài thuộc chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước lĩnh vực y – dược (mã số KC.10/11-15: Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng).
 
 
Nhiều kỹ thuật phức tạp đã được các bác sỹ, nhà khoa học Việt Nam làm chủ.Ảnh: HV
Bệnh nhân bớt đau, mất ít máu
 
Đề tài này đã được các nhà khoa học nghiên cứu, thực hiện trong gần 3 năm, với mục tiêu xây dựng được quy trình can thiệp nội mạch và phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan, thận. Can thiệp nội mạch và phẫu thuật nội soi ổ bụng là hai phương pháp điều trị can thiệp ít xâm lấn mới, là lựa chọn hàng đầu của các bác sỹ.
 
Hai phương pháp này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong điều trị chấn thương tạng đặc để làm tăng khả năng bảo tồn gan và thận, đồng thời làm giảm các biến chứng trong và sau điều trị bảo tồn chấn thương hai cơ quan nội tạng này.
 
Phẫu thuật nội soi là phương pháp an toàn, giúp chẩn đoán và xử trí hiệu quả các tổn thương ở gan và thận, đồng thời cho phép các bác sỹ điều trị các tổn thương phối hợp khác trong ổ bụng bệnh nhân.
 
Ngoài khả năng bảo tồn gan và thận bị chấn thương, phẫu thuật nội soi còn giúp giảm đau cho bệnh nhân sau mổ. Những người được điều trị tổn thương gan, thận bằng phương pháp này phục hồi lưu thông tiêu hóa sớm hơn, thời gian nằm viện được rút ngắn, lượng máu cần truyền thấp hơn nhiều so với mổ mở. Đó là chưa kể với phẫu thuật nội soi, nguy cơ nhiễm trùng, biến chứng của bệnh nhân thấp hơn rất nhiều so với mổ mở.
 
PGS Nguyễn Tiến Quyết cho biết, do nhận thức được lợi thế tối ưu của kỹ thuật này, nhóm nghiên cứu đã sang Cộng hòa Pháp học tập, cập nhật kiến thức tiên tiến về phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan và thận: “Đoàn công tác đã cập nhật những kiến thức mới nhất về phẫu thuật nội soi ổ bụng từ các chuyên gia hàng đầu của Pháp, sau đó nghiên cứu triển khai các kỹ thuật này tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Hà Nội trong phạm vi đề tài”.
 
PGS-TS Nguyễn Tiến Quyết cũng cho biết, đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng được những chỉ định, quy trình kỹ thuật can thiệp mạch và phẫu thuật nội soi chuẩn trong điều trị chấn thương gan, thận, đạt được tính khoa học, hiện đại, cập nhật và có tính thực tiễn cao. Hiện nay, các quy trình kể trên đã được áp dụng rộng rãi trong điều trị cấp cứu chấn thương gan, thận tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, làm tăng khả năng bảo tồn tạng chấn thương và giảm được tỷ lệ mổ mở trong cấp cứu.
 
Trong đề tài này, quy trình phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan, thận có tỷ lệ thành công đạt 75%, giúp bảo tồn chức năng gan, thận, tỷ lệ tai biến và biến chứng dưới 10%.
Việc ứng dụng quy trình can thiệp mạch để điều trị bệnh nhân chấn thương gan và thận cho các bệnh nhân đều đạt kết quả tốt. Tỷ lệ nút mạch cầm máu thành công đạt 98% đối với chấn thương gan và 96,7% sau lần nút đầu đối với chấn thương thận. Không có bệnh nhân nào phải chỉ định mổ mở để cầm máu.
 
Chi phí có thể giảm đến 10 lần
 
Theo giới chuyên môn, thông thường một bệnh nhân điều trị bảo tồn chấn thương thận bằng can thiệp mạch trước đây phải sang Singapore hoặc Thái Lan. Họ sẽ phải trả tiền điều trị khoảng 200-300 triệu đồng, ngoài ra còn phải tốn một khoản lớn khác cho chi phí nằm viện, tiền vé máy bay, đi lại… Từ khi Việt Nam làm chủ được kỹ thuật này, người bệnh chỉ phải trả từ 10-30 triệu đồng tùy chủng loại trang thiết bị, vật liệu. Mức phí này giúp cho những bệnh nhân thu nhập trung bình có cơ hội được điều trị bằng kỹ thuật cao.
 
Còn với phương pháp phẫu thuật nội soi, các bệnh nhân chấn thương gan và thận tiết kiệm được tổng chi phí đáng kể so với phẫu thuật mở do giảm được thời gian mổ, giảm lượng thuốc gây mê, lượng máu và dịch truyền trong ca mổ, rút ngắn từ một nửa đến 2/3 thời gian nằm viện cũng như giảm chi phí chăm sóc.
 
TS Nguyễn Tiến Quyết cho biết, hiện Trung tâm Đào tạo và Chỉ đạo tuyến của Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức đã tổ chức triển khai và chuyển giao kỹ thuật “điều trị bảo tồn chấn thương tạng đặc” – bao gồm cả 4 nội dung của đề tài nghiên cứu “Ứng dụng kỹ thuật can thiệp mạch và phẫu thuật nội soi trong điều trị chấn thương gan và thận” – cho 7 bệnh viện vệ tinh tuyến tỉnh khu vực phía bắc.
 
Hà Vy
 

Cần quy hoạch lại diện tích trồng lúa và diện tích canh tác, nuôi trồng giống cây, vật nuôi phù hợp

 
 
Cánh đồng lúa đến kỳ thu hoạch bị chết khô, nứt nẻ vì khô hạn, nhiễm mặn kéo dài ở Đồng bằng sông Cửu Long.
(Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)
 
Trước thực trạng đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với đợt hạn và mặn lịch sử trong vòng 100 năm qua, nhiều câu hỏi đặt ra về việc ngành khoa học sẽ vào cuộc như thế nào để giúp người dân “sống chung với mặn.”
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã có cuộc trao đổi với báo chí về vấn đề này.
– Thưa Bộ trưởng, trước tình trạng biến đổi khí hậu, xâm ngập mặn diễn ra ngày càng nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Theo Bộ trưởng, để chống ngập mặn, chúng ta phải làm gì?
Một là chúng ta phải nghiên cứu những giống cây chịu mặn cho năng suất và chất lượng tốt và thực tế, tại Đại học Cần Thơ đã nghiên cứu được giống lúa chịu mặn, năng suất cao nhưng chất lượng của loại gạo này lại có vấn đề. Tuy nhiên, đây cũng là giải pháp sau này chúng ta có thể phát triển để đảm bảo an ninh lương thực.
 
Hướng thứ hai là cần quy hoạch lại diện tích để những đất trồng lúa tốt thì giữ cho mặn không xâm nhập. Còn những vùng đất đã bị nhập mặn và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu sẽ đưa giống cây, vật nuôi phù hợp.
 
Về thủy lợi, ngoài biện pháp làm đê ngăn mặn, tạm thời chúng ta có thể ứng dụng kết quả nghiên cứu của ngành thủy lợi về đập sà lan. Khi mực nước xuống thấp thì dùng đập chắn để dâng cao mực nước ngọt. Như vậy có thể giảm bớt việc xâm ngập mặn và giữ được nước ngọt cho cây lúa.
 
Tuy nhiên, đây là giải pháp tạm thời và phải nghiên cứu để đảm bảo nước ngọt cho cả vùng đồng bằng rộng lớn, chống xói lở khi phù sa không về.
 
– Với tình hình biến đổi khí hậu, có ý kiến cho rằng nên sử dụng cây trồng biến đổi gene. Quan điểm của Bộ trưởng về vấn đề này thế nào?
 
Ở Việt Nam, nghiên cứu cây trồng biến đổi gene không phải là ít và cũng không mới.
 
Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học có 2 quan điểm trái ngược. Một là mong muốn phát triển loại cây trồng này để thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh… Ở chiều ngược lại, người ta cho rằng cây trồng biến đổi gene vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Ngay cả nghiên cứu khoa học của thế giới cũng chưa có ai khẳng định tác hại về lâu dài của công nghệ này thế nào.
 
Hiện, có nhiều quốc gia trên thế giới cấm, nhưng cũng có những nước khác lại ủng hộ, phát triển mạnh loại cây trồng này. Hiện, có nhiều công trình nghiên cứu, giống cây biến đổi gene tại Việt Nam, có giống cây do Việt Nam tạo ra nhưng đưa nó trở thành cây trồng chính trên diện tích rộng thì phải rất cẩn trọng.
 
Thưa Bộ trưởng, về việc giúp nông dân chống hạn, mặn, Bộ Khoa học và Công nghệ có chỉ đạo gì cho các đơn vị trực thuộc tập trung vào nghiên cứu, giải quyết vấn đề này?
 
Thực ra các đơn vị nghiên cứu không trực thuộc Bộ KH&CN nên chúng tôi không chỉ đạo trực tiếp. Tuy nhiên, qua làm việc với các đơn vị như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Tài Nguyên và Môi trường…, chúng tôi đưa ra khuyến cáo. Từ đó, các cơ quan này sẽ đưa ra định hướng để các đơn vị, tập đoàn tập trung nghiên cứu định hướng mà chúng tôi khuyến cáo.
 
Về phía mình, chúng tôi lo bố trí kinh phí và tìm cách phối hợp các đơn vị nghiên cứu của các bộ ngành với nhau để các kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng một cách hiệu quả hơn.
 
– Xin cảm ơn Bộ trưởng!
 
Nguồn: http://www.vietnamplus.vn/phai-nghien-cuu-giong-cay-chiu-man-cho-dong-bang-song-cuu-long/378472.vnp
 

Công nghệ đột phá này sẽ cho bạn biết chính xác dinh dưỡng trong thực phẩm bạn ăn có gì

Bạn sẽ biết chính xác lượng đường trong trái cây, hàm lượng protein trong miếng thịt bò và thậm chứ cả lượng tồn dư thuốc trừ sâu có trong rau xanh.
 
Thử tưởng tượng một máy quét với kích cỡ chỉ nhỏ như hạt gạo được tích hợp vào máy điện thoại của bạn. Bạn đi tới cửa hàng tạp hóa và hướng nó về thứ mà bạn muốn mua. Nếu đó là quả táo, máy quét sẽ cho bạn biết những thành phần trong đó, lượng vitamin C có trong mỗi trái táo và cả thời gian lưu trữ trong kho lạnh. Nếu đó là một con cá, bạn sẽ biết được liệu đó là một chú cá Orange Roughy thật hay chỉ là một miếng cá diêu hồng được biến thành món cá đắt tiền. Nếu đó là một miếng bánh muffin, bạn có thể biết chính xác lượng đường trong bánh.
 
Bạn có thể biết chính xác lượng vitamin có trong quả táo của bạn.
 
Dù đây không phải là sản phẩm mà bạn có thể tìm mua ngay ngày mai, công nghệ này sẽ sớm có mặt trong tương lai. Được xem như một ứng dụng mang tính vượt trội, công nghệ này đã được khởi xướng từ những năm 1600 bởi Isaac Newton, người đầu tiên phân tách ánh sáng ra thành các bước sóng khác nhau qua một lăng kính. Chắc hẳn bạn còn nhớ về những bài giảng thời trung học về việc xác định chất hóa học dựa trên ánh sáng phản chiếu qua chúng.
 
Mỗi chất phản chiếu ánh sáng qua một cách khác nhau và hình dạng của ánh sáng được phản chiếu là một "dấu tay quang học" của riêng mỗi chất. Mặc dù các vân tay trên đầu ngón tay chúng ta không phản ánh điều gì về con người, các đỉnh và vùng lõm của dấu tay quang học mang ý nghĩa rất quan trọng.
 
Xác định một loại thực phẩm và những đặc tính của chúng dựa trên máy quét là một công việc nhiều hơn gấp đôi bình thường. Trước hết, máy quét sẽ xác nhận hình ảnh quang học và truy vấn vào thư viện hình ảnh được cài đặt sẵn để tìm ra vật thể được quét. Sau đó, bạn sẽ theo dõi cấu trúc của biểu đồ với những đặc điểm cụ thể. Kết hợp hai bước trên sẽ giúp bạn biết được nhiều điều về loại thực phẩm bạn đang kiểm tra.
 
Nếu băn khoăn về thời hạn của miếng pho mát, máy quét sẽ giúp bạn kiểm chứng thời gian sử dụng của miếng pho mát.
 
 
Tamar Haspel, biên tập viên tờ Washington Post đã kiểm tra đánh giá ba công ty sản xuất các thiết bị công nghệ quét quang học trên thực phẩm. Hai trên ba công ty, TellSpec và SCiO, đang triển khai những máy quét cầm tay được thiết kế cho người tiêu dùng. Công ty thứ ba, Target, đã bắt đầu thử nghiệm các máy quét quang học với dây chuyền cung ứng sản phẩm của chính họ.
Target, một trong những nhà bán lẻ lớn nhất Hoa Kỳ đang cộng tác với MIT và công ty thiết kế Ideo trong một thương vụ có tên Food+Future coLab tại Cambridge. Mục tiêu của dự án là giúp người tiêu dùng có những hiểu biết tốt hơn về thực phẩm hàng ngày của họ.
 
Khu phát triển dự án được chia làm nhiều các phòng ban. Khu vực A với nhiệm vụ chính là nghiên cứu những công nghệ thú vị có khả năng đem lại ứng dụng cho ngành thực phẩm. Một trong những điểm nhấn tại đây là công nghệ quét quang học mà Target đang triển khai. Trên thực tế, việc quét vật thể không phải là vấn đề khó và có thể thực hiện dễ dàng như quét vân tay. Điều gây trở ngại là xác định được những vật thể đó là gì. Nguồn thông tin mà các nhà nghiên cứu cần là rất lớn. Nó không đơn giản là lấy một quả táo, quét qua máy và thông tin sẽ được hiển thị. Họ sẽ phải thử nghiệm trên nhiều loại táo như Fujs, Honeyscrisps và Jonagold.
 
Các nhà nghiên cứu hy vọng sản phẩm này sẽ sớm được tung ra thị trường với giá thành phải chăng cho người tiêu dùng.
 
 
Ngoài ra các nhà nghiên cứu cũng phải biết những quả táo sẽ ra sao khi vừa mới hái so với khi để lâu trong nhà kho. Họ phải nắm rõ được phần mặt táo không bị rám nắng sẽ chứa ít vitamin C hơn phần còn lại. Các nhà khoa học cũng nên tham khảo chất lượng táo từ người trồng A sẽ khác người trồng B, dù là cùng một loại táo. Và cách duy nhất để biết cách đọc máy quét và xác định được những thành phần khác nhau như lượng đường, vitamin và calo là kiểm chứng tất cả những thông số trên quả táo trong phòng thí nghiệm. Công việc đòi hỏi các thiết bị đắt tiền với các nhà khoa học có nhiều kinh nghiệm.
 
Đây không hẳn là một phi vụ kinh doanh nhưng Target đang có những bước tiến lớn. Công ty này đang đặt những máy quét công nghiệp tại các trung tâm phân phối sản phẩm của họ để xây dựng cơ sở dữ liệu. Những bước đi mạnh mẽ này nhằm giúp mang lại lợi ích cạnh tranh cho công ty. Theo Casey Carl, quản lý chiến lược và sáng tạo của Target, "Chúng tôi sẽ mang đến sự tươi mới, chất lượng và thời gian sử dụng lâu hơn", bởi vì việc sản xuất những sản phẩm kém chất lượng hoặc không đảm bảo thông số trên bao bì sẽ khiến người dùng quay lưng lại.
 
Nhiều câu hỏi được đặt ra khi quét những sản phẩm về thành phần, nguyên liệu hay quy trình sản xuất thực phẩm. Một vài câu hỏi – như những câu hỏi về trực khuẩn E.coli hoặc dư lượng thuốc trừ sâu- sẽ khó có câu trả lời chính xác cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, với công nghệ mới đang được nhiều công ty phát triển, tất cả những câu hỏi trên sẽ sớm có câu trả lời. Công nghệ mới còn có thể phát hiện liệu một vài loại thực phẩm có bị biến đổi gen hay không, tùy thuộc vào việc những nhân tố đột biến có thay đổi vân tay quang học khi đi qua máy quét hay không.
 
Ngày nay, chỉ với một chiếc máy quét SCiO có giá 249$, bạn sẽ biết được phần trăm chất béo, ga, protein và lượng nước trong phô mai, sữa chua, sữa, thịt, trái cây và rau xanh.
 
Thử tưởng tượng những gì có thể mang lại từ công nghệ trên. Khi người tiêu dùng có thể biết chính xác thành phần có trong thực phẩm, họ sẽ không phải yêu cầu chính phủ đóng cửa những nhà cung cấp vi phạm quy định về an toàn vệ sinh. Khi người tiêu dùng có thể kiểm tra dư lượng thuốc sâu, họ sẽ không cần đến cơ quan cấp cao giúp họ làm điều đó.
 
"Đây rõ ràng là một chiếc máy phát hiện nói dối", Overcash phát biểu. "Chỉ cần lướt qua thương hiệu, nhãn mạc và thông điệp: đây là cái gì?"
 
Thông tin đồng nghĩa với sự đảm bảo. Chúng ta sẽ không phải lo lắng về tính hợp pháp khi những sản phẩm như cá được đóng mác hợp lý bởi vì mỗi khu chợ cá tại Mỹ sẽ có máy quét để kiểm tra sản phẩm.
 
Công nghệ trên sẽ thay đổi mối quan hệ của người tiêu dùng với thực phẩm, cũng như những công ty cung ứng sản phẩm. Tuy nó không phải vấn đề một sớm một chiều nhưng chắc chắn, nó sẽ trở thành công nghệ của tương lai. Trước khi các sản phẩm đến tay người tiêu dùng, những máy quét này sẽ được kiểm định chặt chẽ ở các công ty thực phẩm nhằm giúp loại bỏ những sản phẩm kém chất lượng, sai nhãn mác. Và khi giá thành giảm xuống, người tiêu dùng có thể thoải mái sắm cho mình những chiếc máy quét thông minh để đảm bảo cho chất lượng thực phẩm của họ.
 
Cập nhật: 30/03/2016Theo genK.vn

Học cách học: Một bài học quan trọng bậc nhất đang bị bỏ quên

 
 
Khi giải một bài toán, não sẽ tập trung với số ít các tế bào thần kinh.
 
Nếu bạn gặp một bài toán khó, dù cố gắng nhiều mà giải mãi không xong, thì làm thế nào? Câu trả lời phổ biến nhất là cố gắng tìm ra chỗ sai trong lập luận rồi đi tiếp hoặc “làm lại từ đầu”. Cả hai phương án theo kinh nghiệm này không phù hợp với những lời khuyên của các chuyên gia về não bộ.
Theo họ, não bộ của chúng ta hoạt động theo hai cơ chế khác nhau: tập trung (focused mode) và thư giãn (diffused mode). Khi ta tập trung cao độ vào giải quyết một bài toán, não sẽ vào cuộc sử dụng cơ chế tập trung với số ít các tế bào thần kinh tại một vùng tập trung của não bộ được huy động. Khi ta rơi vào thế bí như tình huống đã dẫn, thì dù có cố gắng đến mấy, cũng chỉ có vùng não tập trung được hoạt động. Có nghĩa là chúng ta có xu hướng lặp đi lặp lại các cách giải quyết vấn đề, và khó lòng thoát ra khỏi bế tắc. Khi đó hành động rà soát lại lời giải hay đi lại từng bước từ đầu không có ích gì mấy. Như thiên tài Albert Einstein từng nhận xét đại ý “bạn không thể giải bài toán theo 1000 cách giống nhau rồi hy vọng có lời giải khác!”. Trong những lúc bí bách như thế này, cách tốt nhất là tạm rời xa bài toán đấy, đi chơi, thư giãn rồi hẵng quay lại với bài toán. Đây không phải là lời xúi bậy vô trách nhiệm. Việc bạn tạm rời bài toán đó để đi bộ, hóng gió, hoặc ngồi thiền ít phút sẽ giúp não bộ chuyển sang chế độ thư giãn, lúc này các vùng khác của não bộ được kích hoạt. Nếu quay trở lại giải toán, bạn sẽ có khả năng tìm ra một con đường khác, không bế tắc như lúc đầu.
 
Trên đây chỉ là một trong hàng tá ví dụ cho thấy những nghiên cứu về não bộ có thể giúp cải thiện đáng kể cách thức chúng ta học tập và làm việc. Tuy nhiên, bấy lâu nay chúng ta vẫn không mấy khi nghĩ về việc tìm hiểu các kiến thức loại này để cải thiện cách học tập, vì chúng ta thường phó mặc cho thói quen sai khiến trong các hoạt động của mình.
 
Có thể dẫn ra đây một thói quen tai hại khác vẫn chiếm chỗ trong trường học của chúng ta: các bài giảng dài. Bạn có thể gặp ở bất kì trường học nào các tiết học kéo dài từ 45 phút tới vài tiếng. Bạn cũng dễ dàng bắt gặp cảnh tượng hàng tá học sinh lơ đãng, ngủ gật, hoặc ngồi làm việc riêng trong lớp vì không thể chú tâm vào bài giảng. Trong khi hầu hết các giáo viên đổ lỗi cho các cô cậu học trò, thì các chuyên gia não bộ có một lời giải thích đơn giản cho hiện tượng này: não chúng ta chỉ có khả năng chú tâm suy nghĩ trong một thời gian rất ngắn, chừng 10 phút1, sau đó là sẽ đến giai đoạn mất tập trung. Đây là cơ chế phòng vệ hết sức tự nhiên của não người, vì vậy hãy phân chia các bài giảng thành từng phân đoạn ngắn hơn. Sau mỗi mười phút tập trung, hãy thiết kế một hoạt động để thư giãn và chuyển đổi sang phân đoạn tiếp theo. Thực ra đã từ lâu người ta đã biết dùng kĩ thuật phân giờ Pomodoro với các quy tắc đơn giản kể trên để gia tăng đáng kể năng suất làm việc và học tập.
 
Một nghiên cứu đăng trên Psychological Science in the Public Interest năm 20132 cho thấy, những phương pháp học tập được sử dụng phổ biến trong nhà trường như “tóm tắt nội dung bài giảng”, “dùng bút đánh dấu đoạn văn bản quan trọng khi đọc sách”, “đọc đi đọc lại một chương sách” hoá ra lại là những cách không mang lại mấy hiệu quả về ghi nhớ. Có những cách khác hữu hiệu hơn nhiều để giúp gia tăng hiệu quả học tập như: tích cực làm các bài luyện tập, hay học tập các kiến thức theo hình thức luyện tập phân tán với các khối kiến thức được chia nhỏ và học tập qua thời gian đủ dài.
 
Nhìn từ những tình huống kể trên, trường học hiện nay có vẻ đang phí phạm rất nhiều thời gian của học trò chỉ vì ưa thích kinh nghiệm mà ít quan tâm tới việc tìm hiểu và vận dụng các kiến thức khoa học về việc con người học tập như thế nào để từ đó xây dựng các hoạt động giáo dục cho tối ưu.
 
Chúng ta có thể liên hệ việc học tập như câu chuyện cái cần câu và con cá. Cách dạy truyền thống phổ biến hiện nay là dạng cho đi con cá, trong khi nếu ta trang bị năng lực tự học cho học sinh thì tức là cho họ một cái cần câu để tự lập suốt đời.
 
Sự thiếu vắng những bài học liên quan đến việc rèn luyện kĩ năng học tập sẽ mang lại hậu quả mà chúng ta đã được chứng kiến là những thế hệ học trò thụ động chỉ biết trông chờ kiến thức và chân lý từ giáo viên và những người đi trước mà không để chủ động tự mình xây dựng tri thức cho mình. Điều này càng trở nên tai hại trong bối cảnh thời đại tri thức và số hóa hiện nay khi mà lượng thông tin mỗi năm tăng trưởng theo cấp số mũ. Kiến thức ngày hôm nay còn đúng, ngày mai có thể đã sai đi nhiều. Chỉ có cách làm chủ việc học như thế nào mới giúp học sinh đứng vững trong thế giới ngày nay. Thế cho nên, nhiều nhà giáo hiện nay đã thừa nhận rằng tiêu chuẩn xóa mù hiện nay không chỉ là biết đọc biết viết mà còn phải thạo cách tự học. Nhìn theo hướng này, chúng ta có thể dễ dàng đồng tình với nhận định của cha đẻ phương pháp Bản đồ Tư duy Tony Buzan: “Kĩ năng tự học là kĩ năng quan trọng nhất mà một người có thể sở hữu”.
 
Thật may mắn là chúng ta có thể tìm thấy những sáng kiến mới trong một số chương trình giáo dục có để ý tới việc rèn luyện năng lực tự học trong chương trình giáo dục. Như sáng kiến Khung Kỹ năng thế kỷ 21 (P21.org) đã xếp kĩ năng học tập và sáng tạo thành một trong bốn hạng mục chính trong các năng lực cốt lõi mà học sinh thế kỉ 21 này phải thành thục.
 
Hay như nhóm Cánh Buồm chủ trương xây dựng chương trình giáo dục tiểu học hiện đại xoay quanh tư tưởng chủ đạo với một từ duy nhất: tự học. Theo đó học sinh được rèn luyện phương pháp học tập từ tiểu học. Kết thúc bậc tiểu học, trẻ em có được năng lực tự học vững vàng để sang bậc học cao hơn các em sẽ sử dụng năng lực ấy để tự mình đến với tri thức thay vì phụ thuộc vào sự truyền tải thông tin một chiều từ nhà trường. Nhóm Cánh Buồm xác quyết: “Giáo dục tức là tự giáo dục, tự làm ra chính mình!”. Nhóm đã đi xa hơn việc tuyên ngôn vài bước với sự quy trình hóa kĩ thuật để trẻ em thực sự xây dựng được phương pháp học cho mình.
 
Người xưa có câu, phàm phải trong tình huống khó lường thì “lấy bất biến ứng vạn biến”. Đối với việc học tập, cái bất biến là phương pháp tự học, cái vận động không ngừng là tri thức của thời đại. Không gì bằng trang bị cho được cái bất biến đó để người học của thế kỉ 21 có thể tự mình đi trên đôi chân tự do khám phá cánh đồng tri thức của nhân loại trong suốt cuộc đời. Thiếu kĩ năng thiết yếu này thì những khẩu hiệu rổn rảng về xã hội học tập, hay học tập suốt đời chỉ cùng lắm là những lời nói cho sang miệng. Bài học về cách học cần phải là bài học căn cơ nhất mà mỗi học sinh cần phải được luyện rèn. 
—————
[1]Medina, J. (2011). Brain Rules: 12 Principles for Surviving and Thriving at Work, Home, and School (Large Print 16pt). ReadHowYouWant. com.
[2]Dunlosky, J., Rawson, K. A., Marsh, E. J., Nathan, M. J., & Willingham, D. T. (2013). Improving students’ learning with effective learning techniques promising directions from cognitive and educational psychology.Psychological Science in the Public Interest, 14(1), 4-58.
 
Dương Trọng Tấn

Hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý chu trình nhiên liệu nhà máy điện hạt nhân

 
Uranium 235 là nhiên liệu được sử dụng trong các nhà máy điện hạt nhân
 
Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu các cơ quan chức năng liên quan hoàn thiện các cơ chế, chính sách đối với chu trình nhiên liệu hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng.
Việc hoạch định chính sách quốc gia về chu trình nhiên liệu hạt nhân, nhất là đối với các nước mới phát triển điện hạt nhân được cộng đồng quốc tế, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) hết sức quan tâm, chú ý.
 
Đặc biệt, việc công khai, minh bạch các chính sách về nội địa hóa, làm giàu hay tái chế nhiên liệu, xử lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu đã qua sử dụng có ý nghĩa quan trọng, tác động tới sự ủng hộ, hợp tác của các nước đối với dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
 
 
Mặt khác, việc xác định chính sách về chu trình nhiên liệu hạt nhân có ý nghĩa quan trọng, làm cơ sở trong quá trình lập dự án đầu tư xây dựng nhà máy điện hạt nhân ở ​Việt Nam cũng như lập kế hoạch xây dựng, phát triển năng lực quản lý, xử lý chất thải phóng xạ, nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng.
 
 
Thời gian qua, Bộ KH&CN đã chủ động, tích cực triển khai thực hiện nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 2241/QĐ-TTg ngày 11/12/2014 về Kế hoạch tổng thể phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân giai đoạn đến 2020.
 
 
Để tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách đối với chu trình nhiên liệu hạt nhân, quản lý chất thải phóng xạ và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải giao Bộ KH&CN chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan rà soát hệ thống văn bản pháp luật hiện hành trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, đưa những nội dung cần thiết vào dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật năng lượng nguyên tử.
 
 
Một số vấn đề dài hạn, cần được tiếp tục nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các nước để báo cáo, đề xuất Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo cụ thể sau.
 
Nguồn: http://www.vietnamplus.vn/hoan-thien-chinh-sach-quan-ly-chat-thai-phong-xa-da-qua-su-dung/368798.vnp
 
 

Vì sao “trai mùng một, gái hôm rằm” khó nuôi?

Từ xưa tới nay, dân gian vẫn có câu "Trai mùng một, gái hôm rằm. Nuôi thì nuôi vậy nhưng căm dạ này", tức là những đứa trẻ sinh ngày vào ngày này sẽ khó nuôi, tính khí khác thường. Liệu điều này có đúng không? Phải chăng tất cả những bé gái sinh ngày rằm và bé trai sinh ngày mùng 1 (âm lịch) đều như vậy.
 
Lý giải của các chuyên gia, nhà văn hóa sẽ phần nào hé mở cùng bạn đọc về quan niệm dân gian này.
 
Chỉ áp dụng cho người sinh đêm
 
TS Nguyễn Ánh Hồng, giảng viên Khoa Văn hóa phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền mở đầu câu chuyện bằng một dẫn chứng về chính người em gái của mình. Bà kể, em gái bà nhằm đúng một đêm rằm trong năm 1974 thì chào đời. "Các cụ vẫn bảo: "Trai mùng một, gái hôm rằm". Cứ nghiệm từ em tôi mà ra thì thấy đúng là tính khí em ấy rất bướng bỉnh, mạnh mẽ, quyết liệt. Nói chung, so với tiêu chuẩn của con gái thì em tôi… thừa nam tính", bà cười bảo.
 
Có nhiều năm làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân gian, bà Hồng xác nhận: Lâu nay, người ta vẫn nhầm tưởng việc sinh con trai vào ngày mùng 1 (âm lịch), con gái sinh vào ngày rằm (ngày 15 âm lịch) đều "khó nuôi", tính khí khác người. Thế nhưng, hoàn toàn không phải vậy. "Nó chỉ áp dụng cho việc sinh vào ban đêm chứ không mấy tác dụng đối với việc sinh vào ban ngày. Việc người ta cứ đánh đồng để tăng thêm sự hồ nghi, ly kỳ cho những người sinh ra vào hai ngày này", bà nhấn mạnh.
 
Lý giải điều này, bà Hồng cho hay: "Văn hóa phương Đông vẫn tồn tại những câu chuyện bí ẩn về việc ma cà rồng xuất hiện cùng chu kỳ của mặt trăng. Ngày mùng 1 là bắt đầu cho một chu kỳ mới, ngày 15 trăng sáng nhất lại đánh dấu chu kỳ tiếp theo là trăng mờ dần. Vì thế mà người ta gắn câu chuyện này vào những người được sinh ra trong hai đêm đó để tăng thêm tính huyền bí".
 
 
Đứa trẻ sinh ra trong ngày rằm, mùng một được coi là có “lộc”.
 
Chịu ảnh hưởng từ sức hút của mặt trăng
 
TS Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học ứng dụng (UIA) thì lý giải mối quan hệ giữa việc con trai sinh đêm mùng một, con gái sinh đêm hôm rằm trên cơ sở sức hút của mặt trăng với thủy triều.
 
Theo đó, "sức hút của mặt trăng theo âm lịch, của mặt trời theo dương lịch. Thủy triều thay đổi theo sức hút của mặt trăng. Đồng thời, chính sức hút của mặt trăng cũng đã gây ra trạng thái "thủy triều sinh học" trong cơ thể con người, làm cho chất lỏng trong cơ thể con người cũng có những thay đổi. Nó chính là nguyên nhân gây nên những kích thích thần kinh đến khủng hoảng, bị rối loạn và mất thăng bằng, làm trầm trọng thêm các chứng bệnh thần kinh… Đồng thời, những ai sinh vào hai đêm đó sẽ có những biến đổi sinh học đặc biệt hơn so với người sinh vào các đêm khác", ông Khanh nói.
 
Cũng theo ông Khanh, trong quan niệm văn hóa dân gian thì mặt trăng đại diện cho âm khí, đồng nghĩa với con gái, còn mặt trời đại diện cho dương khí (con trai). Ngày rằm trăng sáng nhất, đẹp nhất thì âm khí cũng lớn nhất. Con gái sinh vào đêm đó được hội tụ ánh sáng đó, một phần được chuyển hóa vào trong tính cách.
 
Ngược lại, ngày mùng một trăng mờ nhất, dương khí sẽ thịnh. Con trai sinh vào đêm đó sẽ hội tụ những dương khí lớn này vào tính cách. "Gắn với việc thủy triều lên xuống vào hai ngày đó, cộng với sự thống kê bằng kinh nghiệm dân gian nên người ta thực sự tin rằng, "trai mùng một, gái hôm rằm" có những tính khí đặc biệt, khác người, đương nhiên có hoặc tích cực hoặc tiêu cực chứ không hoàn toàn thiên về một bên nào", ông Khanh cho hay.
 
 
TS Nguyễn Ánh Hồng: Lâu nay, người ta vẫn nhầm tưởng việc sinh con trai vào ngày mùng 1 (âm lịch), con gái sinh vào ngày rằm (ngày 15 âm lịch) đều "khó nuôi", tính khí khác người.
 
Không nên can thiệp bằng y học
 
Mặc dù thừa nhận quan niệm dân gian cũng có một phần cơ sở khoa học (xét trong mối quan hệ giữa ánh trăng với thủy triều) song ông Doãn Phú, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người lưu ý đó mới chỉ là yếu tố ban đầu ảnh hưởng đến tính cách trẻ sinh ra trong hai đêm đó. "Còn cơ bản, tính cách ấy chịu sự chi phối bởi những quan niệm vốn đã tồn tại hàng trăm năm nay", ông Phú nói.
 
Theo ông Phú, người Việt có phong tục thờ cúng tổ tiên, đi lễ chùa vào mùng một, ngày rằm (ngày sóc và ngày vọng). "Những ngày ấy dân gian vẫn coi là ngày của thánh thần. Đứa trẻ sinh ra trong ngày đó được coi như là "lộc". Họ cũng sợ nếu như không đón tiếp, chăm sóc chu đáo thì phạm vào thánh thần, đứa trẻ sẽ bỏ cha mẹ mà đi (khó nuôi). Do đó, họ đón tiếp với một thái độ khác hẳn so với những đứa trẻ sinh vào các ngày khác, đêm khác. Họ chiều chuộng, nâng niu hơn. Từ đó tạo cho trẻ thế ỷ lại, coi mình là nhất, là "trung tâm vũ trụ" và ai cũng phải phục tùng, săn đón. Tính cách ấy có thể là tốt, cũng có thể theo hướng trở thành người xấu", ông Phú cho hay.
 
Trên thực tế, có nhiều gia đình đã chọn ngày giờ sinh cho trẻ, tránh "trai mùng một, gái hôm rằm" để dễ bề chăm sóc, không "trái tính trái nết" theo quan niệm truyền thống. Thế nhưng, TS Vũ Thế Khanh phản bác: "Theo lý số, mỗi người sinh ra đều có số mệnh riêng, hoàn toàn do tự nhiên sắp đặt chứ không thể can thiệp bằng y học theo kiểu sinh con theo ý muốn giờ giấc của cha mẹ như thế. Bởi nếu vậy thì ai cũng sẽ chọn ngày giờ tốt cho con, làm gì còn người phải chịu cảnh khổ sở, nghèo túng nữa.
 
Việc can thiệp bằng y học để tránh sinh con vào đêm mùng một và đêm rằm cũng là tâm lý dễ hiểu. Nhưng nếu chỉ can thiệp bằng y học không thôi thì không đủ và cũng không cần thiết. Cái quan trọng nhất là việc phụ huynh quan tâm giáo dục con em mình ra sao, không nên nuông chiều con cái thái quá để chúng coi mình là nhất, dễ sinh hư hỏng. Những đứa trẻ sinh ra vào hai đêm đặc biệt đó, nếu có những tính tốt thì gia đình cần giúp trẻ phát huy, ngược lại phải biết rèn giũa, uốn nắn trẻ".
 
Cùng chung quan điểm, TS Nguyễn Ánh Hồng cũng cho rằng "đức năng thắng số". "Dù sinh ra vào ngày, giờ nào nhưng được sự giáo dục, quan tâm chăm sóc của gia đình sẽ giúp cho đứa trẻ phát triển cả về thể chất lẫn tâm hồn một cách hài hòa. Không thể cứ đổ tội cho sinh vào mùng một, ngày rằm để thoái thác vai trò giáo dục của gia đình được", bà nêu quan điểm.
 
Theo Kien Thuc

5 bước đột phá đưa Viện NLNTVN lên tầm Đông Nam Á

 
Lãnh đạo Viện NLNTVN tại buổi lễ. Ảnh: P. Lan
 
Tại buổi lễ công bố Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam là tổ chức KH&CN đặc biệt, giáo sư Phạm Duy Hiển cho rằng, để đưa Viện lên tầm khu vực và thế giới trong tương lai, cần phải tạo ra đột phá từ nhân tố con người vì “cần có thế hệ kế thừa trong vòng 5, 10 năm nữa với khoảng 20 chuyên gia khẳng định được vị trí trên mặt tiền thế giới bằng các công bố quốc tế có nhiều trích dẫn”.
Buổi lễ công bố diễn ra chiều ngày 1/2 tại Hà Nội với sự tham dự của Bộ trưởng Nguyễn Quân và Thứ trưởng Chu Ngọc Anh.
 
Với vị trí là tổ chức sự nghiệp KH&CN hạng đặc biệt, Viện NLNTVN đặt mục tiêu trở thành cơ quan nghiên cứu và triển khai về năng lượng nguyên tử đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á và quốc tế, Viện trưởng Viện NLNTVN Trần Chí Thành phát biểu tại buổi lễ.
 
Để đạt được mục tiêu này, theo nhận định của giáo sư Phạm Duy Hiển, chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cần phải có những đột phá vì nếu cứ đi theo con đường cũ và tư duy cũ thì không thể tạo ra đột phá. Theo giáo sư Phạm Duy Hiển, có 5 bước tạo ra đột phá.
 
Thứ nhất, phải xây dựng được Trung tâm KH&CN hạt nhân với lò phản ứng hạt nhân mới 15 MW, có đội ngũ cán bộ có thể vận hành được lò phản ứng này. Tuy nhiên “phải đến 5, 7 năm nữa kế hoạch này mới có thể trở thành hiện thực. Chúng ta đã mất 6 năm từ ngày đoàn Nga sang Việt Nam thuyết trình về Trung tâm nhưng từ đó đến nay vẫn loay hoay về việc chọn địa điểm”. 
 
Thứ hai, cần đẩy mạnh việc nghiên cứu thực nghiệm về điện hạt nhân. “Trong 1, 2 năm gần đây, chúng ta đã có công trình mô phỏng về nhà máy điện hạt nhân Simulator trên máy tính nhưng đây chỉ là công trình trong không gian ảo. Chúng ta cần tiếp cận điện hạt nhân trong không gian thực, tuy không phải là nhà máy điện hạt nhân nhưng vẫn là những mô hình nhiệt độ, áp suất, dòng chảy… gần thực tế. Vì vậy để có thành tựu cần phải có máy móc làm thực nghiệm về điện hạt nhân”, giáo sư Phạm Duy Hiển chia sẻ. 
 
Thứ ba, cần phải nghiên cứu nhiều về phóng xạ bằng phương pháp mới, “không tiếp tục dùng phương pháp cũ dù nó đã đem lại cho chúng ta nhiều thành tựu trong quá khứ. Bây giờ cần phải có thiết bị quan trắc đặc biệt để quan sát được khí trơ phóng xạ, yếu tố đầu tiên thoát ra ngoài khi lò phản ứng bị hở và gây ra những chiếu xạ trực tiếp lên con người ở vùng xung quanh nhà máy điện hạt nhân. Vì vậy cần phải có thiết bị quan sát khí trơ phóng xạ”. Giá thành một chiếc máy như vậy, theo giáo sư Phạm Duy Hiển, khoảng một triệu đô la, tuy cao nhưng cần thiết được Bộ KH&CN đầu tư. 
 
Thứ tư, xác định những hướng nghiên cứu cần thiết với Việt Nam về vật liệu hạt nhân. Hiện Việt Nam chưa tổ chức nghiên cứu về vấn đề này.
 
Thứ năm, chú trọng việc đẩy mạnh nghiên cứu về hạt nhân với việc sản xuất ra thiết bị ứng dụng trên quy mô công nghiệp để có thể sử dụng rộng rãi trong nước ở nhiều lĩnh vực y tế, công nghiệp, nông nghiệp…
 
Muốn thực hiện được năm bước đột phá này, giáo sư Phạm Duy Hiển cho rằng, vấn đề quan trọng nhất là con người. “Bằng mọi cách cần tuyển người về Viện, đó là những người có trình độ cao để trong vòng 10 năm nữa có được 20 chuyên gia về năng lượng nguyên tử có chỗ đứng trên mặt tiền khoa học thế giới thông qua các công bố quốc tế được trích dẫn”.
 
Nhân vấn đề tạo nguồn nhân lực, giáo sư Phạm Duy Hiển đề cập đến việc tham gia thẩm định chương trình đào tạo về điện hạt nhân của Bộ GD&ĐT. “Ngoài các môn chung, nhiều môn về lò phản ứng và chuyên ngành, đội ngũ giáo viên tại các trường đại học được giao đào tạo không đủ trình độ”. Vì vậy, giáo sư đề nghị lãnh đạo Bộ KH&CN làm việc với Bộ GD&ĐT để Viện NLNTVN có thể hợp tác với các trường này trong quá trình đào tạo. Qua việc hợp tác này, mỗi năm Viện có thể chọn được 10 sinh viên xuất sắc, sau 10 năm có thể là  100 người. Đây là cơ sở để Viện tìm ra được những cán bộ bổ sung vào đội ngũ nghiên cứu của mình.
 
Vào ngày 6/1/2016 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 30/QĐ-TTg về việc nâng cấp Viện NLNTVN trở thành tổ chức sự nghiệp KH&CN hạng đặc biệt (tương đương Tổng cục) trực thuộc Bộ KH&CN với mục tiêu tăng cường triển khai ứng dụng năng lượng nguyên tử trong phát triển kinh tế – xã hội, và thúc đẩy nghiên cứu triển khai hỗ trợ phát triển điện hạt nhân.
 
Với quyết định này, Thủ tướng giao cho Viện NLNTVN trọng trách trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử là nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và triển khai các hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu; hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân; tổ chức hoạt động đào tạo, dịch vụ…
 
Viện NLNTVN xác định 2 định hướng phát triển: Ứng dụng kỹ thuật hạt nhân, công nghệ bức xạ, đồng vị phóng xạ và Hỗ trợ phát triển điện hạt nhân. Đối với nhiệm vụ ứng dụng kỹ thuật hạt nhân, công nghệ bức xạ và đồng vị phóng xạ, Viện sẽ tập trung thúc đẩy ứng dụng bằng xã hội hóa các kỹ thuật công nghệ đã có, nguồn ngân sách Nhà nước chỉ đầu tư vào nghiên cứu tiên tiến. Đối với nhiệm vụ nghiên cứu triển khai hỗ trợ chương trình phát triển điện hạt nhân, Viện sẽ tập trung đào tạo nhân lực, đội ngũ chuyên gia, thúc đẩy nghiên cứu công nghệ và an toàn điện hạt nhân, và xây dựng tiềm lực KHCN trên cơ sở xác định rõ các hướng nghiên cứu ưu tiên mang tính chiến lược và cần thiết.
 
Hiện nay, Việt Nam có 4 viện nghiên cứu được xếp hạng đặc biệt, bao gồm Viện KH Nông nghiệp Việt Nam, Viện KH Thủy lợi Việt Nam, Viện KH Lâm nghiệp Việt Nam (Bộ NN&PTNT) và Viện NLNTVN (Bộ KH&CN).

Năm 2020 có 15 tổ chức KH&CN công lập đạt trình độ khu vực và thế giới

 
Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
 
Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực KH&CN ưu tiên, trọng điểm mà Việt Nam có thế mạnh sẽ được tập trung đầu tư phát triển để đến năm 2020 có khoảng 15 tổ chức KH&CN công lập, đến năm 2030 có khoảng 30 tổ chức đạt trình độ khu vực và thế giới.
Quy hoạch mạng lưới tổ chức KH&CN công lập đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 27/1/2016 trong quyết định số 171/QĐ-TTg với mục tiêu sắp xếp, kiện toàn và đẩy mạnh tái cấu trúc để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của tổ chức KH&CN công lập, đến năm 2030 giảm khoảng 30% số lượng tổ chức.
 
Đến năm 2020, khoảng 55% cán bộ nghiên cứu của tổ chức KH&CN công lập có trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó ít nhất 20% là tiến sỹ. Đến năm 2030, khoảng 70% cán bộ nghiên cứu của tổ chức KH&CN công lập có trình độ thạc sĩ trở lên, trong đó ít nhất 30% là tiến sỹ.
 
Theo nội dung Quy hoạch, giai đoạn 2016 – 2020, các tổ chức nghiên cứu chiến lược, chính sách, định mức kinh tế – kỹ thuật do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ, cơ quan ngang Bộ được quy hoạch mỗi cơ quan có 1 tổ chức, riêng Bộ Công Thương và Bộ Kế hoạch và Đầu tư có 2 tổ chức.
 
Các tổ chức nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, dịch vụ KH&CN trực thuộc các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 2 Đại học Quốc gia đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập gồm: 8 tổ chức trực thuộc Bộ Công Thương; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nội vụ, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam,  Đài Truyền hình Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, ĐH Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đều có 1 tổ chức trực thuộc; 5 tổ chức trực thuộc Bộ Xây dựng; 3 tổ chức trực thuộc Bộ GD&ĐT; 10 tổ chức trực thuộc Bộ NN&PTNT; 2 tổ chức trực thuộc Bộ KH&ĐT; 14 tổ chức trực thuộc Bộ Y tế; 11 tổ chức trực thuộc Bộ KH&CN; 3 tổ chức trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; 6 tổ chức trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường; 27 tổ chức trực thuộc Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam; 32 tổ chức trực thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam; 3 tổ chức trực thuộc ĐH Quốc gia Hà Nội.
 
Trong giai đoạn 2016 – 2020, các Bộ, cơ quan tập trung rà soát chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp cơ cấu bên trong của từng tổ chức KH&CN công lập nêu trên theo hướng thu gọn các đầu mối trực thuộc; đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, từng bước chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng, dịch vụ KH&CN có đủ điều kiện sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp hoặc cổ phần hóa.
 
Các tổ chức KH&CN công lập do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập được rà soát, sắp xếp hợp lý, khắc phục tình trạng trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Không thành lập mới tổ chức KH&CN công lập; chỉ thành lập tổ chức mới trong trường hợp đặc biệt, thật sự cần thiết do yêu cầu thực tiễn. Tiếp tục kiện toàn các tổ chức khoa học và công nghệ công lập đang hoạt động có hiệu quả. Khuyến khích các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và dịch vụ KH&CNệ chuyển sang tự chủ hoàn toàn, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Từng bước cổ phần hóa tổ chức khoa học và công nghệ công lập đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
 
Giai đoạn 2021 – 2030, đẩy mạnh tái cấu trúc mạng lưới tổ chức KH&CN công lập theo hướng giảm số lượng tổ chức, tăng quy mô, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ công lập trên cơ sở sáp nhập, hợp nhất các tổ chức trùng lặp chức năng, nhiệm vụ; giải thể tổ chức hoạt động không hiệu quả hoặc không cần thiết phải duy trì hoạt động; cổ phần hóa các tổ chức đủ điều kiện hoặc không cần thiết phải duy trì dưới hình thức công lập.
 
Bên cạnh đó, điều chỉnh, phân bố tổ chức KH&CN công lập theo lĩnh vực nghiên cứu, phù hợp với đặc thù và với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội của từng vùng, địa phương; tiếp tục tập trung đầu tư phát triển một số tổ chức KH&CN công lập trong các lĩnh vực ưu tiên để đạt trình độ khu vực và thế giới.
 
Nguồn: http://baodientu.chinhphu.vn/Khoa-hoc-Cong-nghe/Quy-hoach-mang-luoi-to-chuc-khoa-hoc-va-cong-nghe-cong-lap/247021.vgp