Chuyên mục : Chân dung những Nhà Khoa học Vĩ đai nhất trong lịch sử đã làm thay đổi cả thế giới (Phần 3)

Isaac Newton (1643-1727)

 

Sinh năm 1643 trong một gia đình khó khăn ở Woolsthrope, nước Anh, Issac Newton nổi tiếng với định luật “vạn vật hấp dẫn” mà sau này vẫn được sử dụng rộng rãi. Khi còn nhỏ, ông có sở thích tự làm đồ chơi cơ khí và mô hình của các cối xay gió.

Newton giải thích lý thuyết về lực hấp dẫn bằng một công thức ông tự tìm ra thời đó mà không có nguyên tắc vật lý nào có thể giải thích được. Cuộc cách mạng mới trong toán học cũng được bắt nguồn từ định lý nhị thức mà về sau được lấy theo tên ông. Newton cũng giải thích được nguyên nhân xuất hiện của thủy triều là do lực hấp dẫn tương hỗ giữa mặt trời, mặt trăng và mặt đất.

Isaac Newton là ai, tiểu sử: 6 bí ẩn thú vị của nhà khoa học vĩ

Ông cũng là người đầu tiên phát minh ra kính viễn vọng phản xạ. Ba định luật Newton ngày nay vẫn được dùng rộng rãi trong tính toán cơ học và vật lý. Ông được Nữ hoàng Anh phong tặng danh hiệu Hiệp sĩ năm 1705. Năm 1727, Newton qua đời ở tuổi 84.

                                                                                                         Nguồn : Sưu tầm Internet.

Mới ra mắt : Sổ tayThương mại hóa +

LÀM THẾ NÀO ĐỂ THƯƠNG MẠI HOÁ+ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ?

Để hỗ trợ Việt Nam tiến đến gần hơn các mục tiêu và cam kết phát triển bền vững, cuốn sách "Sổ tay Thương mại hoá+" Nâng cao tác động tích cực của nghiên cứu khoa học và công nghệ thông qua con đường thương mại hoá được xây dựng với sự phối hợp của Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Natec) chịu trách nhiệm chủ trì Chương trình Thương mại hoá Quốc Gia và Tổ chức nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung (CSIRO) là cơ quan nghiên cứu ứng dụng quốc gia Úc; và Tập đoàn IIG chuyên về thương mại hoá và đổi mới sáng tạo của Úc.

z3307618506866_9bb5da9e3d2b4083a7a82b0b4ee6583c   Ảnh chụp tại Viện Hàn Lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam ( nguồn : FB Australian Embassy, Vietnam)

Cuốn Sổ tay Thương mại hoá+ được chương trình Aus4Innovation cho ra mắt trực tuyến năm 2021 nay đã được gửi bản in đến các trường đại học và viện nghiên cứu trên cả nước, giúp các đơn vị này đẩy mạnh tính thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.

 “Sổ tay Thương mại hóa+” là một tài liệu hướng dẫn, hỗ trợ các nhà khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học và những bên liên quan nhằm nhanh chóng đưa các kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ vào sản xuất, kinh doanh, góp phần tạo động lực mới để phát triển kinh tế dựa vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. "Sổ tay thương mại hóa +"được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản với trọng tâm phát triển bền vững, cuốn sổ tay không chỉ hướng đến kết quả kinh tế (lợi nhuận) mà còn tính đến cả yếu tố xã hội (con người) và môi trường. Các nguyên tắc này được mô tả rõ ngay từ bước đầu tiên của tiến trình Thương mại hóa+ và được lồng ghép trong các bước của Sổ tay, nhằm nâng cao nhận thức cho người sử dụng.

Mời bạn đọc và tải về Sổ Tay Thương Mại Hóa tại đây

Link tìm hiểu : https://thuongmaihoaplus.org/

Link đọc sách ;

Sổ tay Thương mại hóa + bản tiếng Việt

Sổ tay Thương mại hóa + bản tiếng Anh

 

YÊU CẦU KỸ THUẬT BẢN THẢO ĐÁNH MÁY CHO SÁCH VÀ TẠP CHÍ CỦA NHÀ XUẤT BẢN

Xem nội dung chi tiết văn bản Yêu cầu kỹ thuật bản thảo đánh máy cho sách và tạp chí của Nhà xuất bản kèm file tải về (download)

Quy định bản thảo ( File Word) 

1. HƯỚNG DẪN VIỆC CHUẨN BỊ BẢN THẢO ĐÁNH MÁY CỦA NHÀ XUẤT BẢN

1.1. Yêu cầu đối với bản thảo đánh máy của nhà xuất bản

1.1.1. Bản thảo của nhà xuất bản dùng để đưa nhà in là bản thảo mà tác giả đã đọc và sửa lỗi, không có sai phạm về kỹ thuật và những người có trách nhiệm của nhà xuất bản đã ký.

1.1.2. Phần chính văn của bản thảo phải đánh máy rõ ràng trên giấy một mặt. Được phép viết bằng tay những công thức toán, hóa, dấu đặc biệt không có trên máy chữ.

Chỉ cần gửi đến nhà in bản thảo đầu tiên. Trường hợp tái bản các loại sách được phép dùng bản in hay chụp rõ ràng, thân chữ chính văn không nhỏ hơn 10 phân in, đầu biểu không nhỏ hơn 6 phân in.

Những bài cần bố trí làm nhiều cột thì trong bản thảo phải đánh máy một cột.

1.1.3. Bản thảo đánh máy của nhà xuất bản bố trí trên giấy khổ 210 x 270 mm. Đối với bản thảo những biểu lớn cho phép khổ lớn hơn nhưng phải gấp thành khổ 210 x 270 mm. Bản thảo là tờ in có khuôn khổ nhỏ hơn 210 x 270 mm thì phải dán lên chính giữa tờ giấy một mặt nhỏ 210 x 270 mm, nếu cần sửa cũng phải theo các quy định cho bản thảo.

1.1.4. Bản thảo đánh máy của nhà xuất bản thực hiện trên giấy trắng mà cho phép sửa lỗi trong bài bằng bút mực.

z3296120666383_7d6015a850295c932f39b4e2efa5d03a

1.1.5. Số thứ tự các trang của bản thảo phải viết bằng bút chì cùng màu ở góc phải phía trên của trang, số thứ tự này phải tính từ trang đầu đến trang cuối cùng, không lặp lại không bỏ sót. Nếu bản thảo có nhiều tập, ở góc trái phía trên tờ đầu của mỗi tập ngoài số ghi tổng số trang của cả cuốn sách phải ghi thêm giới hạn số trang đầu và cuối của tập bản thảo đó, giữa hai số có gạch nối.

1.2. Yêu cầu đối với bản thảo đánh máy của nhà xuất bản

1.2.1. Một trang bản thảo đánh máy không quá 33 dòng, lề của bản thảo được quy định như sau:

Đầu: 20 mm;

Chân: 25 mm;

Gáy: 25 mm;

Bụng: 10 mm;

1.2.2. Các dòng của bản thảo cách nhau 3 khoảng cách (tương đương 4,5 mm). Đề mục và tiểu đề mục của bản thảo được cách trên và dưới bài chính văn 5 khoảng cách (tương đương 7,5 mm). Trừ trường hợp tiểu đề mục trong bản thảo đi liền bài chính văn

1.2.3. Đầu dòng các đoạn văn của bản thảo đánh dịch vào 3 nốt đánh trên máy chữ. Kể cả những bản thảo mà yêu cầu sắp chữ không thụt đầu dòng.

1.3. Yêu cầu đối với việc trình bày biểu trong bản thảo đánh máy của nhà xuất bản.

1.3.1. Hình dáng bên ngoài biểu trong bản thảo phải giống với biểu trong tài liệu khi in.

1.3.2. Nội dung trong biểu cần bố trí đều gọn không lọt ra ngoài đường kẻ chia cột.

1.3.3. Số ở trong biểu có 4 chữ số trở lên phải chia nhóm 3 chữ số, trừ trường hợp số chỉ số hiệu và ngày tháng. Nếu là số thập phân thì phải đánh thẳng hàng dọc theo dấu phẩy.

1.3.4. Chú thích trong bản thảo phải đánh máy ở ngay cuối trang bản thảo và cách dòng cuối của bài chính văn 6 khoảng cách (9 mm) giữa khoảng cách này là một gạch ngang dài 30 mm, và gạch từ đầu dòng. Trong bài chính văn dấu của chú thích là chữ số A-rập, ngôi sao, hoa thị phải đề treo trên và dùng nhất quán từ đầu đến cuối cuốn sách. Nếu đánh số thứ tự của chú thích phải đánh từ 1 đến hết, tính từ đầu đến cuối mỗi trang bản thảo hoặc đánh số thứ tự chú thích từ đầu đến hết cuốn sách nếu phần chú thích đặt ở cuối cuốn sách đó.

Trường hợp chú thích quá dài phải đánh tiếp trang sau thì sau từ cuối cùng của chú thích trang trước phải đánh thêm 5 chấm (….) và trước khi đánh tiếp chú thích ở trang sau cũng phải đánh 5 chấm trước từ đầu. Nếu trang sau cũng có chú thích thì phần tiếp chú thích của trang trước phải đánh lên trên chú thích của trang sau.

1.4. Yêu cầu đối với việc viết công thức toán

1.4.1. Công thức toán học trong bản thảo của nhà xuất bản phải viết rõ ràng chữ, ký hiệu, số phải nằm đúng vị trí của nó. Phải giữ nguyên cách viết công thức toán mà kỹ thuật sắp chữ quy định.

Ví dụ :Viết sai

Viết đúng

1.4.2. Ký hiệu và chỉ số mũ trong bản thảo của nhà xuất bản phải đánh máy rõ ràng hoặc viết bằng mực đúng vị trí của nó.

Ví dụ:

Viết đúng

Viết sai

 

Ko =

Ko =

1.4.3. Chỉ số của dấu tích phân phải viết theo tiêu chuẩn quy định về công thức toán:

Ví dụ:

Viết đúng

Viết sai

 

1.4.4. Dấu ngoặc trong bản thảo của nhà xuất bản phải viết cao hơn biểu thức ở trong nó, dấu mở và dấu đóng của một kiểu phải giống nhau về chiều cao. Trường hợp cần sản xuất một kiểu dấu giống nhau thì dấu ở ngoài có kích thước lớn hơn dấu ở trong .

Ví dụ:

hoặc

 

1.4.5. Dấu căn trong bản thảo cần phải bao trùm lên, biểu thức trong căn

Ví dụ:

Viết đúng

Viết sai

 

1.4.6. Dấu trên các chữ và số trong bản thảo phải viết chính xác.

Ví dụ : ; ;

1.4.7. Khi viết phân số nhiều tầng thì đường kẻ phân số chính phải dài hơn các đường kẻ khác trong công thức toán đó.

Ví dụ:

1.5. Yêu cầu đối với việc viết công thức hóa.

1.5.1. Công thức và chỉ số công thức hóa trong bản thảo của nhà xuất bản không được viết cách quãng.

Ví dụ:

Viết đúng

Viết sai

 

Na2SO4; NaHCO3

Na2 SO4; NaH CO3

1.5.2. Những dấu trong phương trình phản ứng hóa học như : cộng (+); trừ (-); bằng (=); hai chiều (); chiều phản ứng ();kết tủa (↓); trong bản thảo phải viết cách quãng.

1.5.3. Trong bản thảo các dấu hóa trị và diện tích của nguyên tố nào phải viết liền với nguyên tố đó ở góc phải phía trên.

1.5.4. Những dấu liên kết của công thức hóa trong bản thảo phải viết sao cho chúng nối tiếp nhau liên tục. Những dấu liên kết chéo phải nối tiếp nhau ở giữa với những dòng hoặc chữ cần nối liền.

Ví dụ:

1.6. Yêu cầu đối với bản thảo hoàn chỉnh

1.6.1. Bản thảo hoàn chỉnh của nhà sản xuất đưa vào nhà in gồm :

Bản thảo sắp chữ:

Bản mẫu cho ảnh kẽm (hoặc bản kẽm, bản khắc gỗ đã có sẵn);

Mẫu bìa, phụ bản;

Bản ma kết;

Những yêu cầu kỹ thuật (nếu có).

Mọi thông tin cần giải đáp liên hệ email: info.nhaxuatbankhkt@gmail.com

Chuyên mục : Chân dung những Nhà Khoa học Vĩ đai nhất trong lịch sử đã làm thay đổi cả thế giới ( Phần 2)

 Albert Einstein (1879-1955)

Sinh ra vào năm 1879 tại Ulm, nước Đức, Einstein được coi là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất trên thế giới. Ông còn được mệnh danh là “người đàn ông của thế kỉ”.

Albert Einstein có một phát kiến ngoạn mục trong vật lý, đó là thuyết tương đối. Học thuyết tạo ra một cuộc cách mạng trong vật lý hiện đại, phá vỡ mọi định nghĩa từ trước đến nay và trở thành kim chỉ nam trong lĩnh vực khám phá vũ trụ. Với đóng góp như vậy, ông trở thành cha đẻ của vật lý hiện đại. Chính phương trình nổi tiếng nhất thế giới E = mc2 của ông đã góp phần tạo ra hai quả bom nguyên tử tàn phá thành phố Hiroshima và Nagasaki ở Nhật Bản.

Tạp chí Time nổi tiếng của Mỹ bình chọn Albert Einstein là nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Cùng với thuyết tương đối, ông cũng là người đặt nền móng cho vật lý lượng tử. Dù vậy, vĩ nhân này lại được trao giải Nobel năm 1921 với công trình về “hiệu ứng quang điện" do thời đó thuyết tương đối còn đang nằm trong vòng tranh cãi. Ông qua đời năm 1955 tại Princeton.

                                                                                              Nguồn : Youtube, Sưu tầm Internet

Chuyên mục : Chân dung những Nhà Khoa học Vĩ đai nhất trong lịch sử đã làm thay đổi cả thế giới ( Phần 1)

Ngay từ khi xuất hiện trên Trái đất, con người luôn có tham vọng chinh phục thiên nhiên. Nhiều ý tưởng, thiết kế cũng như các thí nghiệm khoa học được liên tục đưa ra nhằm biến những điều tưởng như không thể thành có thể. Những thành tựu này ngày càng được ứng dụng vào mọi lĩnh vực cuộc sống và đem lại văn minh tiến bộ cho nhân loại.

Nikola Tesla (1856-1943)

Nhà khoa học sinh năm 1856 ở Serbia này được đứng đầu danh sách vì kiến thức uyên thâm của ông trong nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ khác nhau.

Ông có thể nói 8 thứ tiếng, đọc và hiểu toàn bộ một quyển sách chỉ với một lần đọc, chế tạo lại một chiếc máy sau một lần nhìn. Và điều đặc biệt là ông sống độc thân trong suốt cuộc đời mình.

Tesla đã tự phát triển hầu hết mọi công trình khoa học và không để lộ bất cứ thứ gì ra bên ngoài. Tesla thậm chí phát minh ra dòng điện xoay chiều trước khi Edison biết về nó. Markoni nhận được giải Nobel về việc phát minh ra đài phát thanh thực ra là dựa trên ý tưởng của Tesla. Tia X của Rơn-gen, Radar của Watson-watt đều do Nikola Tesla sáng tạo ra trước đó.

Hầu như không có gì Tesla không làm được: nhà máy thủy điện đầu tiên ở thác Niagara, các thí nghiệm về kỹ thuật đông lạnh, bóng bán dẫn, máy thu sóng vô tuyến điện từ không gian, điều khiển từ xa, đèn neon, động cơ điện hiện đại, máy dự báo động đất,… Ông là một thiên tài thực sự, tuy nhiên, hầu hết ý tưởng và phát minh của ông đều bị sao chép hoặc đánh cắp.

Trí tuệ đáng kinh ngạc này tạo ra những chấn động trong giới khoa học với những phát minh không tưởng. Ông được ví như một nhà phát minh đến từ tương lai. Tuy nhiên, vào năm 1943, người ta tìm thấy ông chết một cách thảm khốc trong một căn phòng khách sạn.                                                                                                  Nguồn : Youtube , Sưu tầm Internet

Ngành xuất bản thu gần 3.000 tỷ đồng năm 2021

Vượt lên những thách thức bởi đại dịch trong năm 2021, các nhà xuất bản và đơn vị ngành sách đã tìm những hướng đi riêng, đạt kết quả sản xuất, kinh doanh khả quan.

Doanh thu tăng

Dù đối mặt nhiều khó khăn, doanh thu ngành xuất bản năm 2021 vẫn đạt tăng trưởng, thậm chí cao hơn năm 2019 – năm trước đại dịch.

Tổng doanh thu toàn ngành đạt 2.996 tỷ đồng (tăng 12,4% so với năm 2020); nộp ngân sách 260 tỷ đồng (tăng 71,7%). Lợi nhuận toàn ngành (sau thuế) đạt 384 tỷ đồng (tăng 80,7%).

Trong năm 2021, ngành xuất bản đối mặt nhiều khó khăn khi chi phí nguyên vật liệu tăng, hoạt động xuất bản bị gián đoạn do giãn cách kéo dài, sức mua giảm, thiếu nhân lực hoạt động… Trong bối cảnh đó, số đầu sách và bản sách giảm nhẹ.

z3280798586840_6754a1cf61e097b6c95fab8bfcd13d12

 Số liệu tổng hợp từ Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông), Hội Xuất bản Việt Nam. Ảnh: Đỗ Thu

Theo tổng kết của Cục Xuất bản, In và Phát hành, Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến hết ngày 31/12/2021, tổng số xuất bản phẩm nộp lưu chiểu là 32.948 (giảm 9%); số bản sách làm ra là 400 triệu (giảm 0,7%).

Trong đó, sách giáo khoa, giáo trình, sách tham khảo chiếm ưu thế (34% cơ cấu sách). Tỷ lệ xuất bản phẩm bình quân đầu người đạt 4,08 bản/người/năm (giảm 1,2% so với năm 2020).

Trong bối cảnh chưa thể tăng trưởng về số lượng sách, các đơn vị xuất bản đã tập trung cho chất lượng. Nhiều xuất bản phẩm có giá trị tuyên truyền bảo vệ chủ quyền, biển đảo; quảng bá hình ảnh, văn hóa con người Việt Nam; phục vụ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ, hướng dẫn kỹ năng khởi nghiệp…

Bên cạnh đó, những cuốn sách có nội dung liên quan phòng, chống dịch bệnh Covid-19, ca ngợi tình cảm, nhiệt huyết của đội ngũ làm công tác phòng, chống dịch và việc phục hồi kinh tế thời dịch bệnh cũng được các nhà xuất bản chủ động khai thác.

z3280800543802_839016ea18bbcf626f3b7769ee6d1bc1

Cơ cấu sách theo thống kê của Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông). Ảnh: Đỗ Thu.

Đặc biệt, một số cuốn sách thu hút nhiều bạn đọc, phát hành số lượng lớn như: Muôn kiếp nhân sinh in 340.000 bản, Nhà giả kim in 310.000 bản; Hành trình về phương Đông in 87.000 bản, Sapiens – Lược sử loài người in 44.000 bản, Từ tốt đến vĩ đại in 33.000 bản…

Các chỉ số trên cho thấy nỗ lực của các nhà xuất bản trong việc nắm bắt thị trường, nhu cầu của độc giả. Đơn vị ngành sách cũng thích ứng nhanh nhạy để chuyển đổi các hình thức kinh doanh, quảng bá sách.

Trước những biến động của thị trường lao động sau đại dịch, tổng số lao động của các nhà xuất bản vẫn cơ bản được giữ vững, không bị xáo trộn, góp phần làm cho hoạt động của nhà xuất bản ổn định.

z3280803119638_df6befd1757a933c80ae11c5e07f2a18

Tác giả Liêu Hà Trinh trong phòng thu sách nói. Ảnh: Fonos

Thúc đẩy xuất bản điện tử, phát triển văn hóa đọc

Nắm bắt xu thế chuyển đổi số, tìm hướng đi mới trong khó khăn, một số đơn vị phát triển hoạt động xuất bản điện tử, phát hành trực tuyến, thúc đẩy ứng dụng công nghệ.

Đến nay, 12 nhà xuất bản được thực hiện xuất bản phẩm điện tử (tăng 33% so với 2020). Lượng xuất bản phẩm điện tử là 2.300 (tăng 12%).

Một số doanh nghiệp phát hành sách nói có tăng trưởng tốt. Các sàn thương mại điện tử chuyên biệt về phát hành sách có mức tăng trưởng cao.

Hội sách trực tuyến quốc gia lần thứ hai tại địa chỉ Book365.vn đưa 40.000 bản sách đến bạn đọc, hơn 6 triệu lượt truy cập, doanh thu đạt trên 4,5 tỷ đồng (tăng gấp 3,5 lần so với năm 2020).

 
Không chỉ duy trì được các hoạt động sản xuất kinh doanh, một số nhà xuất bản còn có những bước đột phá, vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị, vừa có bước tăng trưởng nhất định - Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Anh Tuấn

Song song thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, năm 2021 đánh dấu bước tiến quan trọng trong phát triển văn hóa đọc.

Ngày 4/11/2021, Chính phủ ra Quyết định về việc tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam. Đây là tiền đề mở ra nhiều hoạt động, dự án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng.

Nhiều đơn vị ngành sách đã hưởng ứng, chung tay tổ chức các dự án ý nghĩa như: Bảo tàng Sách và Văn hóa đọc, giải thưởng “Khuyến đọc Việt Nam”, dự án xây dựng không gian đọc trong nhà văn hóa để đưa sách đến vùng nông thôn…

Nhiều chương trình, dự án tặng sách, khuyến đọc ý nghĩa được thực hiện như “Sách hay cho học sinh tiểu học”, “Chuyến tàu mùa thu”…

Giải thưởng sách Quốc gia lần thứ tư đã trở thành một trong những giải thưởng uy tín của lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hóa văn nghệ. 24 tác phẩm xuất sắc được tôn vinh, trong đó, nổi bật là chủ đề dành cho thiếu nhi với một giải A, 4 giải B, 2 giải C.

Giải thưởng trở thành nguồn động viên, cổ vũ cho các tác giả, dịch giả và đông đảo người làm sách, lan tỏa những tác phẩm giá trị tới công chúng, đồng thời đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy văn hóa đọc phát triển.

Tại một hội nghị về xuất bản diễn ra hồi tháng một ở Hà Nội, ông Phạm Anh Tuấn – Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông – nói trong điều kiện rất khó khăn, những người làm xuất bản đã không chùn bước, đoàn kết, sáng tạo và chủ động tìm ra các giải pháp, thực hiện nhiều bước đi chuyển đổi số nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh.

Nhờ đó, không chỉ duy trì được các hoạt động sản xuất kinh doanh, một số nhà xuất bản còn có những bước đột phá, vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị, vừa có bước tăng trưởng nhất định.

                                                                                                         Nguồn : Zingnews

Mới ra mắt : Giáo Trình Thực Hành Vi Sinh

Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật trân trọng giới thiệu đến Quý độc giả cuốn sách: " Giáo trình thực hành vi sinh "

Cuốn " Giáo trình thực hành vi sinh" được chọn lọc đặc thù riêng cho chuyên ngành Dược. Kỹ thuật thao tác dựa trên các kiến thức tiêu chuẩn, cơ bản nhưng có cập nhật những nội dung mới trong định danh vi khuẩn vi khuẩn và ứng dụng kiểm nghiệm vi sinh trong dược, mỹ phẩm và thực phẩm chức năng do đó mang được nét đặc thù riêng của giáo trình.

                                      0001-1

Thực tế có rất nhiều sách về lý thuyết vi sinh cơ bản đến chuyên sâu, nhưng rất ít sách viết về thực tập sinh chuyên ngành Dược. Hy vọng giáo trình này sẽ hữu ích, áp dụng được vào thực tiễn công việc và mang nét riêng cho sinh viên chuyên ngành Dược.

Trong cuốn giáo trình phần thực hành này sẽ giúp sinh viên thực hiện những kỹ thuật cơ bản : Sử dụng kính hiển vi để quan sát và nhận dạng cấu trúc tế bào vi khuẩn. Các kỹ thuật nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn trong mẫu bệnh phẩm và dược phẩm. Các kỹ thuật xác định khả năng để kháng sinh của vi khuẩn. Phương pháp định tính và định lượng vi khuẩn trong các mẫu dược phẩm. Các kỹ thuật xác định vô trùng và độ nhiễm khuẩn của mẫu thuốc dược phẩm theo Dược Điển Việt Nam V.

Các bạn có thể tham khảo đọc sách tại đây : Thuc hanh vi sinh (17.03)

Cuộc chiến tranh công nghệ bán dẫn và máy tính (Phần 1: Công nghệ máy tính)

Tôi đã có những trải nghiệm cá nhân thực sự về cuộc chiến tranh này thời đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh.

Ba chiến trường chính của chiến tranh công nghệ trong thế kỷ 21

Lịch sử loài người hình thành bởi các cuộc xung đột, xa xưa là giữa các bộ lạc, sau rồi giữa các dân tộc, đến chiến tranh giữa các quốc gia, và ngày nay là đến liên minh các quốc gia , giữa các phe. Từ hai phe trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đến hai phe trong Chiến tranh Lạnh 1945-1991 và bây giờ còn chưa phân định rõ các phe. Và kết quả của các cuộc chiến tranh xưa nay phụ thuộc vào phương tiện vận chuyển (chạy, ngựa, tàu thuyền, máy bay…), sức mạnh (cơ bắp, cung tên, giáo mác, súng ống, bom đạn…). Nhưng trong thế kỷ 21 này, khi các nhà vật lý đã chỉ ra sức mạnh sau tiếng nổ của bom hạt nhân có thể tiêu diệt loài người trong chớp mắt, sẽ không thể sử dụng tiếng nổ của bom đạn để định hình thế giới được nữa. Sự phân định thắng thua là ở cuộc chiến không tiếng súng, cuộc chiến công nghệ. Công nghệ được hiểu bao gồm Nghiên cứu – Research, Phát triển- Development, Sản xuất- Production, gọi tắt là Chiến tranh RDP. Dự đoán, có ba chiến trường chính của chiến tranh RDP trong thế kỷ 21 là:

I-Công nghệ bán dẫn và máy tính – Semi-conductor & Computing Technology.

II- Lưu trữ năng lượng – Energy Storage.

III- Phản ứng tổng hợp hạt nhân có điều khiển – Controlable Nuclear Fusion.

Loạt bài viết của GS.TS Trần Xuân Hoài sẽ lần lượt điểm qua ba cuộc chiến tranh này.

Cuộc chiến tranh công nghệ bán dẫn và máy tính

PHẦN I: CÔNG NGHỆ MÁY TÍNH

Cuối năm 1969, sau khi đạt được một số kết quả thực nghiệm khá tốt về vật liệu bán dẫn dành cho việc chế tạo linh kiện bán dẫn siêu cao tần (Semiconductor Microwave Devices), tôi cần phải giải bài toán tổng thể để lý giải kết quả và định hướng tìm tòi cho linh kiện và vật liệu cho lĩnh vực mới mẻ này. Để giải bài toán, tôi đã viết một chương trình Fortran khá lớn mà các loại máy tính của phe xã hội chủ nghĩa (XHCN) khó giải nổi. May sao lúc đó ở thành phố Rotstock, Đức có Trung tâm máy tính chuyên thiết kế tàu thủy, mạnh nhất phe XHCN, mua lậu được một máy mainfram CDC6600 của Control Data Co (Mỹ). Từ Berlin tôi chạy ngay lên đó nhờ vào quota của cậu bạn nghiên cứu sinh đóng tàu, chui được vào trung tâm, chạy máy từ 12 giờ đêm đến sáng, mất cả tuần liền, kết quả tuyệt vời. Máy tính CDC6600 đã có sự nhảy vọt nhờ sử dụng Silicon Transistors (Transitor dùng vật liệu Silic) thay cho vật liệu Germanium, do Seymour Cray lãnh đạo một nhóm chỉ gồm 34 kỹ sư và tiến sĩ thiết kế, được đưa ra thị trường vào năm 1965, thực hiện 3 triệu lệnh (Instructions) trong một giây, giữ kỷ lục mạnh nhất thế giới 5 năm liền.

     

                                                                CDC6600 1964

Trong khi đó phe XHCN có máy tính mạnh nhất cũng trên nền tảng Silicon Transistors là BESM-6 (БЭСМ-Большая Электронно-Счётная Машина) do Viện Cơ khí chính xác và Công nghệ tính toán (Institute of Precision Mechanics and Computer Engineering) thiết kế khởi sự năm 1964 và ra lò 1968-1969, có tốc độ xử lý bằng 1⁄2 CDC6600. Thế cũng là khá lắm rồi, và hệ máy tính này của Liên Xô sống được 19 năm, nó đảm đương mọi tính toán điều khiển cho toàn bộ nền khoa học công nghệ Liên Xô, kể cả chuyến bay Phạm Tuân lẫn chuyến bay liên hợp Mỹ Nga Apollo-Soyus. Năm 1970, máy tính BESM6 được lắp ở Trung tâm máy tính Viện Hàn lâm Khoa học Đức, và tôi là khách hàng thường trực suốt các kíp đêm. Thực ra tôi khó cảm nhận sự khác biệt giữa hai máy tính CDC6600 và BESM6, phải thú thật là như vậy. Cho nên tính cho đến 1970 phe XHCN chỉ lạc hậu so với phe Mỹ 5-6 năm thôi.

Nếu nhìn lại lịch sử từ thời dùng đèn điện tử cộng với bộ nhớ xuyến từ tính, công nghệ của Liên Xô không lạc hậu chút nào, nếu không nói là vượt trội. Máy tính kỹ thuật số (Digital Computer) của Liên Xô được phát triển từ sau thế chiến II. Máy tính đầu tiên được hoàn thành năm 1950 bởi Sergey Lebedev tại Kiev Institute of Electrotechnology in Feofaniya (Viện Công nghệ Điện tử Kiev ở Feofaniya, Ukraine) có tên là MESM (МЭСМ; Малая Электронно-Счетная Машина, Small Electronic Calculating Machine), một số tác giả cho rằng máy này hiện đại nhất tại châu Âu lục địa vào thời đó. Nên nhớ rằng đó là thời cai trị của Stalin, quan điểm của chính quyền là chống lại điều khiển học (Cybergnetic), coi đó là âm mưu của tư bản để chống lại quyền lợi của của công nhân (!).

 

            

                                                                BESM 6 -1969

Tương đương với trình độ Liên Xô lúc đó là Manchester Mark 1 của Victoria University of Manchester, England (1950) và sau đó là IBM650 (1953) của Mỹ. Như vậy tạm coi xuất phát điểm bằng nhau. Sau 20 năm phe Liên Xô lạc hậu 5 năm. Bây giờ thử nhìn lại sau 50 năm xem cuộc chiến này đã đi đến đâu?

Liên Xô sụp đổ 1991, cuộc đua Xô-Mỹ về Computing Technology tạm dừng 10 năm về phía Nga (thừa kế Liên Xô). Thêm nữa, cuộc chiến bán dẫn vào thập niên 90 đem lại cho Mỹ sự phát triển và thống trị tuyệt đối trong nhiều năm. Các vũ khí hiện đại cũng trở nên thông minh và cần các bộ xử lý để điều khiển, đây mới chính là lý do sâu xa cho việc cần phải làm chủ công nghệ cao.

Nga đã mất rất nhiều chất xám cho Mỹ và phương Tây vào giai đoạn này. Thừa kế BESM6 là công ty Elbrus (1). Vào cuối những năm 1980 đầu 1990 SUN Microsystems, một công ty dẫn đầu công nghệ máy tính của Mỹ gặp bế tắc khi chip của SUN bị kẹt vì hiệu suất đã đến ngưỡng và đã phải nhờ đến người Nga. Nhóm làm Elbrus ở Leningrad và nhóm tính toán song song ở Moscow đã hợp lại để thiết kế SPARC cho SUN, thiết kế đó thừa kế nhiều ý tưởng từ chip Elbrus do Gluskov và nhóm Leningrad làm trước đó.

Năm 1990 Vladimir Pentkovski tham gia thiết kế chip Elbrus-1 và Elbrus-2 di cư sang Mỹ và ông chính là người đứng đầu nhóm thiết kế Pentium III của Intel (2), thiết kế lõi Tualatin của nó chính là cơ sở để tạo nền tảng cho kiến trúc vi mô Core mà Intel vẫn sử dụng đến bây giờ (hơn hẳn lõi của Pentium IV thế hệ sau). Mỹ cũng đã chiếm hữu được công nghệ máy tính ngay trên đất Nga. Ví dụ Boris Artashesovich Babayan (3) – người đứng đầu nhóm thiết kế Elbrus-3 và Elbrus 2000 sau đó là Giám đốc thiết kế của Intel và đứng đầu nhóm phát triển của Intel tại Moscow. Còn hàng ngàn tên tuổi sáng giá của Nga đã đầu quân cho Anh, Mỹ, Đức … khó mà kể hết được.

Bộ nhớ dùng công nghệ lõi ferite năm 1960 (trái) và chip DRAM đầu tiên của Intel năm 1970 (phải)

Bộ nhớ dùng công nghệ lõi ferite năm 1960 (trái) và chip DRAM đầu tiên của Intel năm 1970 (phải)

Như vậy ngay từ đầu người Nga đã nắm vững trong tay công nghệ thiết kế chip và về mặt nào đó chính họ góp phần vào sự phát triển công nghệ bán dẫn của người Mỹ. Tuy thua xa Mỹ và Nhật về thương mại sản phẩm dân dụng nhưng về sức mạnh trí tuệ thì họ đang âm thầm đuổi theo sát Mỹ. Dòng chip Elbrus trước đây cũng được gia công tại Đài Loan. Sau khi bị cấm vận vì sự kiện Crimea, Nga buộc phải tìm cách xây dựng lại cơ sở sản xuất của riêng mình, và họ đã tương đối thành công. Hiện nay toàn bộ chip Elbrus đều đã được sản xuất tại Nga.

Như vậy Nga không lệ thuộc vào nước nào trong chuỗi cung ứng của công nghệ bán dẫn này. Ngoài Elbrus với dòng chip cho máy tính bàn và máy chủ thì Nga còn có Công ty Baikal sản xuất chip trên kiến trúc ARM (được sử dụng trên tất cả thiết bị smartphone hiện nay) lẫn MIPS32. Như vậy Nga đang sở hữu công nghệ sản xuất chip rất đa dạng và khá chủ động.

Cho đến đầu thế kỷ này, Trung Quốc không có tên trên bản đồ sáng tạo công nghệ tính toán thế giới, nhưng họ đã nổi lên nhanh chóng trong khoảng 15 năm gần đây. Tuy nhiên cho đến nay thì các thiết kế các bộ vi xử lý chủ yếu vẫn là mua hay sao chép của nước ngoài. Ngay những tên tuổi lớn như Huawei (chip Kirin 9000 hiện đại nhất) cũng là thuê, mua hoặc chép lại phần lớn công nghệ của Anh, Mỹ (IBM, ARM…). Mới nhất thì Trung Quốc nổi lên với các thiết kế chuyên cho AI như Alibaba với chip Hanguang 800; Cambricon-1H và Cambricon-1M Siyuan 290, Siyuan 220 của một công ty mới nổi Cambrian Technologies (ra đời năm 2016) do Liang Jun (梁军-Lương Quân) nguyên là người của Huawei HiSilicon cùng đội ngũ 10 nhà khoa học của Viện Công nghệ Tính toán của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (Chinese Academy of Sciences’ Institute of Computing Technology) lập ra (4). Lĩnh vực mới mẻ này là hi vọng vượt Mỹ của Trung Quốc. Hiện nay thì các chip này của Trung Quốc phải thuê nước ngoài chế tạo.

Cuộc chiến này bây giờ tạm gọi là giữa phe UJEKT (Us-Japan-Euro-Ko- rea-Taiwan) với phe RUSCHI (Russia- China) Phải chăng là Nga và phe Nga và Trung quốc (RUSCHI) không lạc hậu so với phe UJEKT nữa? Vẫn lạc hậu, kể cả liên kết với tiềm lực kinh tế Trung quốc cũng vẫn lạc hậu, ít nhất là 10 năm.

Vì sao như vậy… xin xem tiếp kỳ sau: Cuộc chiến bán dẫn-Semiconductor War sẽ rõ…

Chú thích:

(1) http://www.mcst.ru/

(2) https://en.wikipedia.org/wiki/Vladimir_Pentkovski

(3) https://en.wikipedia.org/wiki/Boris_Babayan

 

(4) https://syncedreview.com/2020/07/20/chinese-ai-chip-maker-cambricon-share-

price-surges-350-on-ipo-debut-raising-us-369-million/

CAS Center for Excellence in Brain Science and Intelligence Technology. Cambricon Ltd

https://seal.ece.ucsb.edu/sites/default/files/publications/07551409.pdf

Tóm tắt khoa học của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): Đại dịch COVID-19 làm gia tăng 25% tỉ lệ lo âu và trầm cảm trên toàn cầu

Lời cảnh tỉnh đến tất cả các quốc gia về việc chú trọng các dịch vụ và hỗ trợ về sức khỏe tâm thần

Theo một bản tóm tắt khoa học do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố hôm 2/3/2022, trong năm đầu tiên của đại dịch COVID-19, tỷ lệ lo âu và trầm cảm trên toàn cầu đã tăng lên 25%. Bản tóm tắt cũng nêu rõ ai là người bị ảnh hưởng nhiều nhất và tóm tắt tác động của đại dịch đối với tình trạng hiện hành của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tâm thần và điều này đã thay đổi như thế nào trong đại dịch.

Lo ngại về khả năng gia tăng các tình trạng sức khỏe tâm thần đã khiến 90% các quốc gia được khảo sát đưa hỗ trợ sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội vào kế hoạch ứng phó với COVID-19 của họ, nhưng vẫn còn những khoảng trống và lo ngại lớn.

Tiến sĩ Tedros Adhanom Ghebreyesus, Tổng Giám đốc WHO, cho biết: “Thông tin chúng tôi có được về tác động của COVID-19 đối với sức khỏe tinh thần trên toàn cầu chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. “Đây là một lời cảnh tỉnh cho tất cả các quốc gia hãy quan tâm hơn đến sức khỏe tâm thần và làm tốt hơn nữa việc hỗ trợ sức khỏe tâm thần của người dân”.

Có nhiều yếu tố dẫn đến sự căng thẳng

Một lý do chính cho việc gia tăng sự căng thẳng chưa từng có này là do sự cô lập xã hội gây ra bởi đại dịch. Điều này dẫn đến những hạn chế đối với khả năng làm việc của mọi người, tìm kiếm sự hỗ trợ từ những người thân và cả việc tham gia vào hoạt động cộng đồng.

Sự cô đơn, sợ lây nhiễm, việc sợ phải trải qua cái chết của bản thân và những người thân yêu, sự buồn bã hậu đám tang và những lo lắng về tài chính cũng được coi là những yếu tố gây căng thẳng dẫn đến lo lắng và trầm cảm. Đối với các nhân viên y tế, tình trạng kiệt sức là nguyên nhân chính dẫn đến suy nghĩ tự tử.

Thanh niên và phụ nữ bị ảnh hưởng nặng nề nhất

Bản tóm tắt xem xét toàn diện bằng chứng hiện có về tác động của COVID-19 đối với sức khỏe tâm thần và các dịch vụ sức khỏe tâm thần và bao gồm các ước tính từ nghiên cứu mới nhất của “Gánh nặng bệnh tật toàn cầu”, cho thấy rằng đại dịch đã ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của thanh thiếu niên và họ có nguy cơ tự sát và tự làm hại bản thân một cách bất cân đối. Nó cũng chỉ ra rằng phụ nữ bị ảnh hưởng nặng nề hơn nam giới và những người có vấn đề về sức khỏe từ trước, chẳng hạn như hen suyễn, ung thư và bệnh tim, có nhiều khả năng phát triển các triệu chứng rối loạn tâm thần hơn.

Dữ liệu cho thấy rằng những người có rối loạn tâm thần từ trước dường như không dễ bị nhiễm COVID-19 một cách tương đương. Tuy nhiên, khi những người này bị nhiễm bệnh, họ có nhiều khả năng phải nhập viện, ốm nặng và tử vong hơn so với những người không bị rối loạn tâm thần. Những người bị bệnh tâm thần nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như rối loạn tâm thần, và những người trẻ bị bệnh tâm thần, đặc biệt ở trong tình trạng nguy hiểm hơn.

z3244878313580_934be3bd0aa0b97c8fd76669f5bedf68

Những khoảng trống trong việc chăm sóc

Sự gia tăng tỷ lệ các vấn đề sức khỏe tinh thần, song song với sự gián đoạn nghiêm trọng đối với các dịch vụ sức khỏe tâm thần, để lại những khoảng trống lớn trong việc chăm sóc cho những người cần nó nhất. Trong phần lớn đại dịch, các quốc gia Thành viên của WHO báo cáo rằng các dịch vụ điều trị tâm thần, thần kinh và tình trạng sử dụng chất gây nghiện bị gián đoạn nhiều nhất trong số tất cả các dịch vụ y tế thiết yếu. Nhiều quốc gia cũng báo cáo sự gián đoạn to lớn trong các dịch vụ cứu sống sức khỏe tinh thần, bao gồm việc ngăn chặn tự tử.

Vào cuối năm 2021, tình hình đã phần nào được cải thiện nhưng tới nay vẫn còn quá nhiều người không thể nhận được sự chăm sóc và hỗ trợ cần thiết đối với các tình trạng sức khỏe tâm thần, cả đã có từ trước và mới phát triển.

Không thể tiếp cận dịch vụ trực tiếp, nhiều người đã tìm kiếm sự hỗ trợ trực tuyến, báo hiệu nhu cầu cấp thiết về việc cung cấp các công cụ kỹ thuật số đáng tin cậy, hiệu quả và dễ dàng tiếp cận. Tuy nhiên, việc phát triển và triển khai các can thiệp kỹ thuật số vẫn là một thách thức lớn ở các quốc gia với cơ sở hạn chế về nguồn lực.

Hành động của WHO và quốc gia

Kể từ những ngày đầu của đại dịch, WHO và các đối tác đã làm việc để phát triển và phổ biến các nguồn tài nguyên bằng nhiều ngôn ngữ và định dạng để giúp các nhóm đối tượng khác nhau đối phó với các tác động khỏe tâm thần của COVID-19. Ví dụ: WHO đã sản xuất một cuốn truyện dành cho trẻ 6-11 tuổi, “Anh hùng của tôi là Bạn”, hiện có bản dịch bằng 142 ngôn ngữ và 61 bản chuyển đổi đa phương tiện, cũng như một bộ công cụ hỗ trợ người lớn tuổi trong 16 ngôn ngữ.

Đồng thời, Tổ chức đã làm việc với các đối tác, bao gồm các cơ quan khác của Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ quốc tế và các Hiệp hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ, để dẫn dắt một chương trình sức khỏe tâm thần liên ngành và hồi đáp tâm lý xã hội đối với COVID-19. Xuyên suốt đại dịch, WHO cũng đã làm việc để thúc đẩy sự kết hợp giữa hỗ trợ sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội trong tất cả các khía cạnh của ứng phó toàn cầu.

Các Quốc gia Thành viên của WHO đã nhận ra tác động của COVID-19 đối với sức khỏe tâm thần và đang hành động. Cuộc khảo sát nhanh gần đây nhất của WHO về tính liên tục của các dịch vụ y tế thiết yếu chỉ ra rằng 90% quốc gia đang nỗ lực cung cấp hỗ trợ sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội cho bệnh nhân COVID-19 và những người có phản ứng tương tự. Hơn nữa, tại Đại hội đồng Y tế Thế giới năm ngoái, các quốc gia đã nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển và tăng cường các dịch vụ hỗ trợ sức khỏe tâm thần và tâm lý xã hội như một phần của việc tăng cường khả năng sẵn sàng, ứng phó và khả năng chống chịu với COVID-19 và các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng trong tương lai. Họ đã thông qua bản cập nhật Kế hoạch Hành động Toàn diện về Sức khỏe Tâm thần 2013-2030, bao gồm một chỉ số về sự chuẩn bị sẵn sàng cho sức khỏe tâm thần và hỗ trợ tâm lý xã hội trong các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng.

Tăng cường đầu tư

Tuy nhiên, cam kết về sức khỏe tinh thần này cần đi kèm với sự tăng cường đầu tư trên toàn cầu. Thật không may, tình hình nhấn mạnh sự thiếu hụt kinh niên trên toàn cầu về các nguồn lực cho chăm sóc sức khỏe tâm thần vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Bản đồ sức khỏe tâm thần gần đây nhất của WHO cho thấy rằng vào năm 2020, các chính phủ trên toàn thế giới chi trung bình chỉ hơn 2% ngân sách y tế của họ cho sức khỏe tâm thần và nhiều quốc gia thu nhập thấp cho biết có ít hơn 1 nhân viên sức khỏe tâm thần trên 100.000 người.

Dévora Kestel, Giám đốc Bộ phận Sức khỏe Tâm thần và Sử dụng Chất gây nghiện  WHO, tóm tắt tình hình: “Trong khi đại dịch đã tạo ra sự quan tâm và lo lắng về sức khỏe tinh thần, nó cũng cho thấy sự đầu tư dưới mức lịch sử vào các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tinh thần. Các quốc gia phải hành động khẩn cấp để đảm bảo rằng hỗ trợ sức khỏe tinh thần luôn sẵn sàng cho tất cả mọi người”.

Nguồn: Trung tâm NC&PT hội nhập KH&CN quốc tế liên kết nguồn và dịch tin từ Cổng thông tin tổ chức y tế thế giới

https://www.who.int/news/item/02-03-2022-covid-19-pandemic-triggers-25-increase-in-prevalence-of-anxiety-and-depression-worldwide

AI và Machine Learning: Đâu là sự khác biệt?

Machine Learning (học máy) và AI – Artificial Intelligence (trí tuệ nhân tạo) đang thay đổi cách tiếp cận đối với an ninh mạng của các tổ chức. Hai công nghệ liên quan tới việc đơn giản hóa các hoạt động an ninh mạng, tăng hiệu quả và giảm rủi ro bằng cách giúp các security team phát hiện các cuộc tấn công đã biết và chưa biết.

Với những lợi ích này, không có gì lạ khi thị trường AI trong an ninh mạng dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ hàng năm hơn 31% cho đến năm 2025, đạt hơn 34,8 tỷ USD. Nhưng trước khi tổ chức của bạn thực sự có thể tối đa hóa lợi ích của các công nghệ này, điều quan trọng là phải hiểu một số điều:

  • Học máy và trí tuệ nhân tạo thường được sử dụng như các thuật ngữ có thể hoán đổi cho nhau, nhưng chúng không giống nhau. Chúng có liên quan trong đó học máy là một tập hợp con của AI, nhưng mỗi loại mang lại những khả năng khác nhau. Đối với những người ra quyết định trong kinh doanh, CNTT và an ninh mạng, bạn có thể đặt kỳ vọng đúng đắn cho những gì mỗi công nghệ có thể và không thể thực hiện được.
  • Học máy và trí tuệ nhân tạo đều có thể mang lại lợi ích to lớn cho tổ chức của bạn, nhưng chỉ khi chúng được cung cấp đúng dữ liệu, điều đó có nghĩa là dữ liệu phải có bối cảnh hoàn chỉnh, phù hợp và phong phú được cấu trúc theo ngôn ngữ chung.

Khi đánh giá cách học máy và trí tuệ nhân tạo có thể đơn giản hóa các hoạt động và làm cho tổ chức của bạn an toàn hơn trước các mối đe dọa an ninh mạng, điều quan trọng là phải hiểu các khả năng, điểm tương đồng và khác biệt của hai thuật ngữ.

Vậy học máy hay Machine Learning là gì?

Có nhiều định nghĩa khác nhau được sử dụng để mô tả học máy, nhưng về cơ bản chúng nói cùng một điều. Đây là một định nghĩa đơn giản của Đại học Stanford: “Học máy là khoa học để khiến máy tính hành động mà không được lập trình rõ ràng.”

Học máy đòi hỏi một bộ dữ liệu lớn và phong phú và sử dụng các thuật toán để học từ dữ liệu. Nó cho phép một máy tính đưa ra dự đoán về dữ liệu mới mà nó chưa từng thấy trước đây, dựa trên các mẫu mà nó đã thấy trong quá khứ. Sức mạnh có bất kỳ thuật toán học máy nào cũng nằm ở mô hình dữ liệu đằng sau nó, theo Giora Engel, phó chủ tịch quản lý sản phẩm tại Palo Alto Networks.

“Thuật toán thực tế sử dụng chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nếu các tham số dữ liệu được chọn không chứa tham số có thể dự đoán kết quả, bạn có thể sử dụng thuật toán tuyệt vời, nhưng độ chính xác của kết quả sẽ rất thấp.”

Để đảm bảo rằng các tham số dữ liệu được chọn cung cấp dữ liệu bạn cần, bạn nên hỏi ba câu hỏi cơ bản cho các nhóm của mình:

  • Bạn có thể thấy tất cả mọi thứ? Bạn cần có khả năng xem dữ liệu từ khắp mọi nơi trên khắp khu vực đám mây, mạng và điểm cuối.
  • Bạn có thể phân tích nó một cách nhanh chóng? Khi bạn đã thiết lập rằng bạn có thể thấy một cái gì đó, bạn cần có khả năng phân tích nhanh chóng, điều này vượt xa việc chỉ lưu trữ dữ liệu và áp dụng các hành động thủ công hoặc các công cụ bổ sung để phân tích. Phân tích phải được đưa vào quy trình của bạn để chúng có thể được thực hiện trong thời gian thực.
  • Bạn đang tận dụng khả năng phản hồi tự động? Hỏi các đội của bạn cần bao nhiêu người và công cụ để trả lời và mất bao lâu để ngay lập tức ngăn chặn một cuộc tấn công. Nếu bạn không có phản hồi tự động với học máy, bạn sẽ phải đối mặt với rủi ro không cần thiết và gia tăng.

Nếu nó yêu cầu nhiều người và công cụ hiểu dữ liệu theo cách thủ công và hành động để phản hồi và bảo vệ trong tương lai, bạn không tận dụng dữ liệu của mình, bạn không tối đa hóa việc học máy và bạn không đơn giản hóa bất cứ điều gì.

Trí tuệ nhân tạo hay AI là gì?

Cũng như học máy, có nhiều định nghĩa cho AI. Dưới đây là một số ít được kết quả từ một tìm kiếm internet đơn giản:

  • Trí tuệ nhân tạo giúp máy móc có thể học hỏi kinh nghiệm, điều chỉnh các đầu vào mới và thực hiện các nhiệm vụ giống như con người.
  • Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực của khoa học máy tính nhấn mạnh việc tạo ra các máy móc thông minh hoạt động và phản ứng như con người.
  • Các vấn đề cốt lõi của trí tuệ nhân tạo bao gồm các máy tính lập trình cho một số đặc điểm nhất định, chẳng hạn như: Lý luận, nhận thức và khả năng thao tác và di chuyển các đối tượng.

Trí tuệ nhân tạo đòi hỏi sự quan tâm và chú ý tương tự đối với việc thu thập và quản lý dữ liệu như học máy, vì vậy các câu hỏi tương tự được áp dụng để tối đa hóa AI để đơn giản hóa các hoạt động và giảm rủi ro.

Nhưng, như đã lưu ý, trí tuệ nhân tạo là một khái niệm rộng hơn so với học máy và do đó có khả năng mang lại những lợi ích khác nhau cho tổ chức của bạn.

z3238893505576_9c58dafd2c90c8706d9c454aab16135f

Những điểm khác nhau giữa trí tuệ nhân tạo và học máy

Để làm nổi bật sự khác biệt giữa học máy và AI, chúng ta đã chuyển sang Navneet Singh, giám đốc tiếp thị sản phẩm tại Palo Alto Networks, người đã cung cấp hướng dẫn cũng như hướng đến một số điểm tham chiếu chung được đánh giá cao trong ngành.

  • Trí thông minh nhân tạo là khái niệm rộng hơn về các máy móc có thể thực hiện các nhiệm vụ theo cách mà chúng ta sẽ xem xét là “thông minh”. Học máy là một ứng dụng hiện tại của AI dựa trên ý tưởng rằng chúng ta thực sự có thể cung cấp cho máy móc quyền truy cập dữ liệu và để chúng tự học.
  • Học máy là một trong những cách chúng ta mong đợi để đạt được AI. Học máy dựa vào việc làm việc với các tập dữ liệu lớn, bằng cách kiểm tra và so sánh dữ liệu để tìm các mẫu chung và khám phá các sắc thái.
  • Bạn có thể nghĩ về deep learning, machine learning và artificial intelligence như một bộ búp bê Nga lồng vào nhau, bắt đầu từ những cái nhỏ nhất và hoạt động ra bên ngoài.
  • Deep learning là một tập hợp con của machine learning và machine learning là một tập hợp con của AI, thuật ngữ cho bất kỳ chương trình máy tính nào làm điều gì đó thông minh.

Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể nghĩ về học máy và AI là những công nghệ trong tương lai có thể được triển khai vào lúc nào đó. Khi nói đến an ninh mạng, điều này hoàn toàn khác, đặc biệt là với học máy. Nếu các nhóm an ninh mạng của bạn không tận dụng lợi thế của máy học ngày hôm nay, thì bạn đang khiến tổ chức của mình có nguy cơ bị tấn công thành công cao hơn.

Bạn cũng có thể dành nhiều thời gian và tiền bạc hơn cho nguồn nhân lực làm các công việc có thể được thực hiện tốt hơn với sự trợ giúp của máy móc. Điều này không có nghĩa là giảm nhân viên; điều đó có nghĩa là làm cho nhóm của bạn hiệu quả hơn bằng cách họ sử dụng các công cụ hiện đại, hiệu quả và thông minh để đơn giản hóa các hoạt động, giảm thời gian cần thiết để đáp ứng và tận dụng tự động hóa.

An ninh mạng đang nổi lên như một trong những lĩnh vực phải đặc biệt tận dụng lợi thế của máy học và AI. Nếu không áp dụng các công nghệ này, tổ chức của bạn sẽ bị bỏ lại phía sau.

Nguồn : Sưu tầm internet,Lươc dịch theo bài viết AI and Machine Learning: Do You Know the Difference? của Al Perlman, đồng sáng lập của New Reality Media, một nhà báo đã nhận được nhiều giải thưởng cho các bài viết về công nghệ.