Thương mại hoá kết quả nghiên cứu và “món quà” tặng cho nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân

 
Làm sao để thương mại hoá kết quả nghiên cứu, chấm dứt tình trạng các nghiên cứu nằm yên trong ngăn kéo, hiệu quả các nghiên cứu khoa học như thế nào… là những vấn đề được đại biểu quan tâm chất vấn người đứng đầu Bộ KH&CN trong phiên họp chiều 19-3.
 
Trong khuôn khổ phiên họp thứ 22 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chiều 19-3, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Chu Ngọc Anh đã đăng đàn trả lời chất vấn về một số nội dung chính như hiệu quả ứng dụng kết quả các đề tài nghiên cứu khoa học trong thực tế đời sống xã hội; công tác kiểm soát nhập khẩu công nghệ trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ; ứng dụng KH&CN thúc đẩy tăng năng suất lao động; ứng dụng công nghệ cao phục vụ phát triển kinh tế – xã hội…
 
Dự phiên chất vấn có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cùng nhiều Bộ trưởng, trưởng ngành. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng điều hành phiên họp.
 
"Làm sao để thương mại hoá kết quả nghiên cứu, chấm dứt tình trạng các nghiên cứu nằm yên trong ngăn kéo" là câu hỏi được đại biểu (ĐB) Phùng Đức Tiến, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường nêu ra cho người đứng đầu Bộ KH&CN.
 
Thừa nhận đây là “một hạn chế xuyên suốt”, là nỗi trăn trở của nhiều thế hệ lãnh đạo ngành KH&CN, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết Bộ KH&CN đã nỗ lực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương hoàn thiện hành lang pháp lý; quyết liệt triển khai nhiều nhiệm vụ, giải pháp để đưa KH&CN gắn kết và phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường kết nối giữa viện, trường với doanh nghiệp để chuyển giao, thúc đẩy việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị; đưa doanh nghiệp dần trở thành trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia; thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo.
 
Có cùng mối quan tâm, ĐB Nguyễn Sỹ Cương, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại thẳng thắn: “Không phải đến bây giờ mới có chuyện đề tài đút ngăn kéo. Tôi không phủ nhận cố gắng của các Bộ, nhưng thực sự vẫn còn sự lãng phí rất lớn trong lĩnh vực này, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội, rất nhiều đề tài không có tính ứng dụng”.
 
ĐB Hoàng Đức Thắng (Quảng Trị) cũng chất vấn: “Hàng năm, Bộ đã bỏ ra bao nhiêu tiền cho nghiên cứu khoa học? Hiệu quả như thế nào”?
 
Tiếp thu ý kiến của các ĐB, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cam kết sẽ quan tâm đến việc xây dựng các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, thiết thực hơn. Một giải pháp quan trọng khác là đẩy mạnh xã hội hoá đầu tư cho KH&CN, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Năm 2016, trong tổng kinh phí dành cho hoạt động KH&CN, nguồn chi từ doanh nghiệp đã tăng lên tới 48%. Một số doanh nghiệp đã đầu tư rất lớn cho KH&CN như Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel, Tập đoàn Dầu khí quốc gia…    
 
Được mời giải trình làm rõ thêm vấn đề, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, giai đoạn 2016-2018, chi ngân sách nhà nước cho KH&CN được đảm bảo ở mức trên 2% tổng chi ngân sách nhà nước.
 
“Không chỉ được đầu tư nhiều hơn, mà cơ chế thanh quyết toán cũng đơn giản hơn, không còn bị kêu ca phàn nàn như trước nữa. Chúng tôi nói vui "món quà" tặng đồng chí nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân ngay trước khi nghỉ hưu là một thông tư liên tịch về vấn đề này theo hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính, đặt niềm tin nhưng đồng thời trao trách nhiệm lớn hơn cho các đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học”, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng chia sẻ.
 
Liên kết nguồn tin: http://www.sggp.org.vn/thuong-mai-hoa-ket-qua-nghien-cuu-va-mon-qua-tang-cho-nguyen-bo-truong-nguyen-quan-505597.html
 
Nguồn: Báo Sài gòn giải phóng

Nâng cao năng lực nghiên cứu cơ bản phục vụ phát triển kinh tế – xã hội

 
Ngày 23/3/2018, tại Hà Nội đã diễn ra Phiên họp thứ nhất triển khai thực hiện Quyết định số 562/QĐ-TTg ngày 25/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chương trình phát triển khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học Biển giai đoạn 2017 – 2025” (Chương trình 562).
 
Toàn cảnh Phiên họp.
 
Tham dự có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Phạm Công Tạc, đại diện lãnh đạo Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên (Bộ KH&CN – đơn vị được giao làm đầu mối); đại diện lãnh đạo các Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Công thương; Bộ Y tế; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Quốc phòng; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đai học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;… và đại diện lãnh đạo các đơn vị có liên quan thuộc Bộ KH&CN.
 
Tại Phiên họp, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên Nguyễn Thị Thanh Hà công bố nội dung Quyết định số 168/QĐ-BKHCN ngày 29/01/2018 của Bộ trưởng Bộ KH&CN về việc thành lập Tổ công tác triển khai Chương trình 562. Theo đó thành viên của Tổ công tác gồm: Thứ trưởng Bộ KH&CN, Tổ trưởng Phạm Công Tạc; Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên, thường trực Tổ công tác Nguyễn Thị Thanh Hà; đại diện lãnh đạo cấp Vụ của các Bộ, ban ngành và các đơn vị liên quan Bộ KH&CN.
 
Ngoài ra, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Xã hội, Nhân văn và Tự nhiên Nguyễn Thị Thanh Hà giới thiệu nội dung Chương trình 562, gồm 03 mục tiêu, 10 nhiệm vụ và giải pháp được phân công cho 11 Bộ, ngành có liên quan thực hiện, trong đó 03 mục tiêu chung gồm: nâng cao tiềm lực khoa học cơ bản; đến năm 2025 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; nghiên cứu có định hướng để tiếp thu, làm chủ các công nghệ tiên tiến. Công bố nội dung Quyết định số 3585/QĐ-BKHCN ngày 15/12/2017 của Bộ trưởng Bộ KH&CN phê duyệt định hướng nghiên cứu ưu tiên các khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học Biển giai đoạn 2017 – 2025; và một số đề xuất định hướng ưu tiên nghiên cứu cơ bản định hướng giai đoạn 2017 – 2025.
 
Thứ trưởng  Phạm Công Tạc phát biểu tại Phiên họp.
 
Phát biểu tại Phiên họp, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cùng chia sẻ với các đại biểu những đóng góp của khoa học cơ bản trong phát triển kinh tế – xã hội thời gian qua. Thứ trưởng đặc biệt lưu ý đến việc tập trung, phát triển nghiên cứu khoa học cơ bản phù hợp hơn nữa nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội trước xu thế hội nhập hiện nay. Đồng thời bày tỏ mong muốn các thành viên trong Tổ công tác Chương trình 562 đưa ra những đề xuất cụ thể theo từng lĩnh vực, cùng thống nhất, quyết tâm triển khai hiệu quả khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học Biển giai đoạn 2017 – 2025.
 
Trong khuôn khổ Phiên họp, các đại biểu đã cùng nhau thảo luận, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc cũng như đề ra các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, định hướng kế hoạch năm 2019 và các năm tiếp theo trong việc thực hiện, triển khai Chương trình 562.
 
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Sắp diễn ra Kỳ họp lần thứ 8 Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc Moon Che In, vào ngày 22/3/2018 tới, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam phối hợp với Bộ Khoa học và ICT Hàn Quốc (MSIT) tổ chức Kỳ họp lần thứ 8 Ủy ban Hợp tác KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (JCM 8) cấp Bộ trưởng.
Tham dự JCM 8, về phía Việt Nam có: ông Chu Ngọc Anh, Bộ trưởng Bộ KH&CN, đại diện Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, cùng đại diện các đơn vị quản lý, đơn vị chức năng của Bộ KH&CN. Về phía Hàn Quốc có: ông You Young Min, Bộ trưởng Bộ Khoa học và ICT Hàn Quốc, đại diện Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam, đại diện Văn phòng KOICA tại Việt Nam cùng đại diện các đơn vị quản lý, đơn vị chức năng của Bộ Khoa học và ICT Hàn Quốc.
 
Năm 2014, hai Bên đã tổ chức JCM 7, đến nay các hoạt động hợp tác KH&CN giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã và đang triển khai và đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận trên một số lĩnh vực: Công nghệ cao, ứng dụng và phát triển công nghệ; Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất lượng; Sở hữu trí tuệ; Năng lượng nguyên tử, an toàn hạt nhân; Thông tin, thống kê, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu về KH&CN và truyền thông KH&CN; Chính sách KH&CN và đổi mới; Y tế; Nông nghiệp; Thông tin và truyền thông; Hợp tác khoa học và đào tạo; Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
 
Viện VKIST đã chính thức khởi động vào ngày 21/11/2017.
 
Điểm đáng lưu ý là Hàn Quốc đang hỗ trợ Việt Nam triển khai Dự án ODA thành lập Viện KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) nhằm phát triển năng lực KH&CN của Việt Nam. Ngày 18/5/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 50/NĐ-CP thành lập Viện VKIST. Viện VKIST đã chính thức khởi động vào ngày 21/11/2017 và đã ký nhiều Bản ghi nhớ hợp tác với các tổ chức khoa học, doanh nghiệp trong và ngoài nước về hợp tác phát triển công nghệ, đào tạo và thương mại hóa, làm cơ sở cho việc triển khai các hoạt động cụ thể trong thời gian tới. Bên cạnh việc ký kết các Bản ghi nhớ hợp tác, Viện VKIST đã có nhiều hoạt động trao đổi với các viện, trường ở trong nước để chuẩn bị cho một mạng lưới đổi mới sáng tạo mở cho hoạt động nghiên cứu trong thời gian tới…
 
Tiếp nối những thành tựu đã đạt được từ sau JCM 7, tại JCM 8 hai Bên cùng thảo luận một số nội dung về chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới; điểm lại hoạt động hợp tác KH&CN tử năm 2015 đến nay; đánh giá hiện trạng, tình hình phát triển và định hướng ưu tiên nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực biến đổi khí hậu và công nghệ sinh học…
 
Đồng thời, tại JCM 8 hai bên tập sẽ trung thảo luận một số nội dung trọng tâm thúc đẩy trong thời gian tới như: Chính sách khoa học và đổi mới, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, phát triển VKIST, lĩnh vực ưu tiên hợp tác giai đoạn 2018-2020, đa dạng hóa hình thức hợp tác, mở rộng quy mô hợp tác, tăng số lượng và kinh phí cấp cho các đề tài hợp tác nghiên cứu chung giữa hai bên, công nghệ thông tin và cách mạng công nghiệp 4.0; thông tin, thống kê, xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu về KH&CN và truyền thông khoa học và công nghệ; năng lượng nguyên tử; đo lường…
 
Tại JCM 8, hai bên sẽ ký kết Biên bản Kỳ họp và dự kiến thời gian, địa điểm tổ chức JCM 9./.
 
Nguồn: Vụ Hợp tác Quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự trả lời chất vấn nghiêm túc của Bộ trưởng KH&CN

 
Chiều ngày 19/3/2018, tại Phiên họp thứ 22 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thực hiện phân công của Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng điều hành phần chất vấn và trả lời chất vấn đối với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Chu Ngọc Anh về nhóm vấn đề: Hiệu quả ứng dụng kết quả các đề tài nghiên cứu khoa học trong thực tế đời sống xã hội; công tác kiểm soát nhập khẩu công nghệ trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ; ứng dụng khoa học, công nghệ thúc đẩy tăng năng suất lao động và ứng dụng công nghệ cao phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.
Tới dự và trả lời chất vấn có các đồng chí: đồng chí Vũ Đức Đam – Phó Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Chu Ngọc Anh – Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Đinh Tiến Dũng – Bộ trưởng Bộ Tài chính; đồng chí Trần Tuấn Anh – Bộ trưởng Bộ Công thương; đồng chí Phùng Xuân Nhạ – Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; đồng chí Nguyễn Xuân Cường – Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; đồng chí Nguyễn Duy Thăng – Thứ trưởng Bộ Nội vụ; đồng chí Đặng Thế Vinh – Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước.
 
Tham dự Phiên họp có các cơ quan của Quốc hội gồm: Thường trực Hội đồng dân tộc; thường trực các Ủy ban của Quốc hội; các cơ quan của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH); đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương.
 
Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết, trên cơ sở chất vấn và thảo luận của ĐBQH, qua tổng hợp kiến nghị, ý kiến cử tri, UBTVQH nhận thấy các Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) mong muốn được lựa chọn các nhóm vấn đề để được chất vấn và trả lời chất vấn nói trên.
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh trả lời chất vấn.
 
Phát biểu trước khi trả lời chất vấn, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh cho biết, thời gian qua, cùng với các hoạt động giám sát và phản biện, xử lý các kiến nghị của đại biểu và cử tri, Bộ KH&CN luôn coi các trả lời chất vấn của ĐBQH và cử tri là một trong những công việc quan trọng cần tập trung giải quyết. Do vậy các văn bản chất vấn, kiến nghị của chỉnh phủ đều được Bộ trưởng yêu cầu triển khai ngay và có văn bản trả lời kịp thời, đồng thời Bộ KH&CN cũng thường xuyên cập nhật rà soát và cập nhật tình hình triển khai nội dung công việc, báo cáo tại các văn bản trả lời chất vấn, kiến nghị để hoàn thiện, tăng cường tiềm lực và hiệu quả quản lý Nhà nước thuộc trách nhiệm của ngành.
 
Phiên chất vấn hôm nay là cơ hội quý báu để Bộ KH&CN rà soát lại, triển khai chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình để xác định được những bất cập quản lý và quan trọng từ đó tìm ra được biện pháp khắc phục các vấn đề được UBTVQH lựa chọn để chất vấn, đồng thời đây cũng là những việc trọng tâm ngành KH&CN thực hiện triển khai trong thời gian qua. Các ý kiến của các đại biểu đối với Bộ KH&CN có ý nghĩa rất quan trọng để Bộ KH&CN hoàn thiện cơ chế chính sách trong triển khai các nhiệm vụ trong thời gian tới. Bộ KH&CN sẽ phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương để khắc phục những vấn đề còn hạn chế, đưa KH&CN trở thành quốc sách hàng đầu và động lực phát triển kinh tế – xã hội.
 
Đẩy mạnh thương mại hóa các kết quả nghiên cứu
 
Mở đầu phiên chất vấn, đại biểu Phùng Đức Tiến đặt câu hỏi đề nghị Bộ trưởng cho biết cơ chế, chính sách trong thời gian tới giúp cho các viện, trường đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Khẳng định đây là trọng tâm công tác và trăn trở của Bộ KH&CN, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho rằng một hạn chế xuyên suốt là chậm thương mại hóa các kết quả nghiên cứu đi vào cuộc sống. Vừa qua, Bộ đã tham mưu Thủ tướng và được các bộ ngành liên quan ủng hộ, đó là việc quy định rõ chức năng của Bộ không chỉ quản lý Nhà nước mà còn trực tiếp tham gia trong đổi mới sáng tạo (ĐMST), trong thương mại hoá hoạt động nghiên cứu,… Trong thời gian tới, bên cạnh hoàn thiện các cơ chế, chính sách, Bộ KH&CN sẽ đẩy mạnh liên kết giữa các cơ sở nghiên cứu với doanh nghiệp để đẩy mạnh quá trình này.
 
Qua khảo sát của Bộ KH&CN ở 2.000 doanh nghiệp, có 35% đơn vị ứng dụng công nghệ thông tin giúp năng suất lao động tăng 1,7 lần; toàn bộ khối dùng công nghệ từ trung bình đến cao tăng ít nhất 2 lần năng suất lao động.
 
Giải pháp của Bộ KH&CN là là tập trung toàn bộ nội lực, gồm các kết quả nghiên cứu, hỗ trợ chuyển giao công nghệ để nâng cao năng suất, tác động mạnh vào nhóm doanh nghiệp dẫn dắt công nghệ, nhóm doanh nghiệp vệ tinh phụ trợ và nhóm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
 
Tập trung mọi lực lượng nâng cao năng suất lao động
 
Đề cập đến vai trò của khoa học là lực lượng sản xuất trực tiếp trong việc năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đại biểu Bùi Sỹ Lợi đề nghị Bộ trưởng cho biết, những giải pháp cơ bản để góp phần nâng cao năng suất, chất lượng của tăng trưởng nền kinh tế đất nước?
 
Trả lời câu hỏi của đại biểu Bùi Sĩ Lợi về phát huy vai trò của KH&CN trong việc tăng năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, Bộ trưởng cho biết, tinh thần chung của Chính phủ là tập trung mọi nguồn lực để nâng cao nâng suất lao động. Theo đó, sẽ tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát huy vai trò của KH&CN trong nâng cao năng suất nội ngành; nâng cao chất lượng đào tạo nghề; cải thiện môi trường kinh doanh; phát huy vai trò của doanh nghiệp trong chuyển giao, ứng dụng KHCN; đẩy mạnh khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo;…
 
Dẫn ra chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và cũng là “tinh thần xuyên suốt của các thành viên Chính phủ”, đó là tập trung mọi lực lượng để nâng cao năng suất lao động, vì đây là cơ sở để phát triển bền vững đất nước trong tương lai, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, về năng suất lao động và vai trò của khoa học – công nghệ, chủ trương của Đảng tại các Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết Trung ương 6, Khóa XII và Nghị quyết của QH đã thể hiện rất rõ.
 
Về giải pháp, theo Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, cần tập trung mọi điều kiện từ nội lực, tức là từ các kết quả nghiên cứu phục vụ cho đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh, vào 4 nhóm đối tượng. Một là, nhóm doanh nghiệp dẫn dắt công nghệ, tạo điều kiện để có cơ sở để triển khai nghiên cứu công nghệ. Hai là, đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, phải nhanh chóng nhận chuyển giao khoa học công nghệ để ứng dụng. Ba là, nhóm doanh nghiệp chưa tiếp nhận chuyển biến kết quả nghiên cứu chuyển giao công nghệ. Bốn là, các doanh nghiệp khởi điểm sáng tạo, hiện số lượng này đang tăng nhanh.
 
“Đây là những nhóm giải pháp chúng tôi tập trung thực hiện để thúc đẩy khoa học công nghệ hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nêu rõ.
 
Quyết liệt tháo gỡ khó khăn
 
Trả lời đại biểu Trần Thị Quốc Khánh về giải pháp của Bộ trong việc triển khai thực hiện các Nghị quyết Quốc hội và Chính phủ đã ban hành về môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lưc quốc gia, Bộ trưởng khẳng định, môi trường đầu tư kinh doanh là một trong hai yếu tố nhận được sự quan tâm chỉ đạo mạnh mẽ và quyết liệt của Chính phủ thông qua Nghị quyết 01 và Nghị quyết 19.
 
Trong lĩnh vực KH&CN, thời gian qua Bộ đã vào cuộc 2 năm nay với tinh thần quyết liệt, tháo gỡ khó khăn trong lĩnh vực: Hoàn thiện hóa các tiêu chuẩn, quy chuẩn; phối hợp với các bộ đơn giản hóa các thủ tục kiểm tra chuyên ngành; 100% các thủ tục hành chính đã ứng dụng CNTT ở mức độ cấp 3; về sở hữu trí tuệ, Bộ cũng đã có những chuyển động đáng kể trong thời gian gần đây…
 
Ngoài ra, Bộ KH&CN tiếp tục tham mưu Chính phủ hướng tới hậu kiểm sau thông quan, bên cạnh đó, cơ chế chính sách hướng tới thị trường thực sự, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Những mặt khác như SHTT, công nghệ đã và đang bám chặt chỉ đạo của Chính phủ triển khai Nghị quyết này để có những chuyển động cụ thể trong thời gian tới.
 
Đại biểu Phạm Tất Thắng đặt câu hỏi về đẩy mạnh ứng dụng, nghiên cứu, khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Bộ trưởng cho biết, khoa học xã hội nhân văn thời gian qua đã có những biến chuyển, nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế và thời gian tới sẽ có những thay đổi. Bộ sẽ triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để tăng cường sức đóng góp của khoa học xã hội nhân văn trong công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
 
Ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp đạt nhiều kết quả nổi bật
 
Tại phiên chất vấn, ĐBQH Mai Sỹ Diến (Thanh Hóa) chất vấn: “Việc ứng dụng công nghệ cao (CNC) trong sản xuất nông nghiệp đã đạt được những thành tựu. Tuy nhiên, ứng dụng công nghệ trong sản xuất vẫn còn những tồn tại, bất cập mà các nhà chuyên môn cũng như dư luận phản ánh trong thời gian vừa qua.
 
Với tư cách là người đứng đầu ngành KH&CN phụ trách sự thúc đẩy phát triển khoa học CNC, đề nghị Bộ trưởng cho biết đã chỉ đạo triển khai thực hiện những biện pháp trọng tâm nào để ngăn chặn hành vi lợi dụng đầu tư CNC vào nông nghiệp làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân Việt Nam”.
 
Trả lời câu hỏi của đại biểu Diến, Bộ trưởng Bộ KH&CN – ông Chu Ngọc Anh cho biết, sự quan tâm và chủ trương, chỉ đạo để tăng cường ứng dụng CNC vào trong nông nghiệp đã có thời gian đã lâu, đặc biệt, thời gian gần đây là thông qua Nghị quyết của Chính phủ năm 2017, Thủ tướng trực tiếp có hội nghị để triển khai. Trên thực tế, theo Luật Công nghệ cao, bên cạnh các chương trình và hỗ trợ cụ thể, chúng ta có khái niệm các khu nông nghiệp CNC, trong đó tập trung thu hút các dự án để đầu tư sản xuất CNC.
 
Nền tảng chung, Bộ KH&CN đều chịu trách nhiệm và có phân cấp đối với một số khu và dự án sản xuất nông nghiệp, cả phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, sự phối hợp này rất chặt chẽ.
 
Trước hết chặt chẽ về tiêu chí, trên tinh thần của Luật CNC là theo quyết định của Thủ tướng, luật khu vực công nghiệp rất chặt chẽ, 5% lao động, 1% doanh thu chưa kể là tất cả các yêu cầu về CNC tiên tiến, chúng ta mới đáp ứng được các ưu đãi này.
 
Vừa qua trong lĩnh vực nông nghiệp thì đã rất thành công và tác động rất rõ. Không chỉ khu, các tập đoàn khi sang đầu tư lĩnh vực này đã hình thành các chuỗi, đó là CNC, chúng ta đóng góp, có gì có thể nội địa hóa, có gì có thể tự phục vụ được.
 
“Chắc đại biểu nói về ý này, vừa rồi có triển khai gói tín dụng 100 nghìn tỷ, có 273 doanh nghiệp. Chúng tôi đã đặt ra tiêu chí hết sức ngặt nghèo, chúng tôi cho rằng nền tảng cơ bản này thì một là tác động khuyến khích rất là mạnh, thứ hai cũng đúng đối tượng để chúng ta thúc đẩy và khuyến khích. Trên thực tế, đã có những tác động, chuyển động rất mạnh” – Bộ trưởng Chu Ngọc Anh trả lời.
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, đã ra những tiêu chí hết sức ngặt nghèo để đảm bảo khuyến khích và đúng đối tượng khuyến khích khi đầu tư CNC.
 
Cũng liên quan đến câu hỏi của đại biểu Mai Sỹ Diến, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng đã mời Bộ trưởng bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường trả lời thêm về vấn đề này liên quan đến ứng dụng CNC vào lĩnh vực nông nghiệp hiện nay sản xuất như thế nào? Theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, kết quả 30 năm qua chúng ta đã đạt được thành tựu vô cùng to lớn. Việt Nam đã xuất khẩu nông sản đi 185 nước, đáp ứng đủ nhu cầu cho 93 triệu dân, năm vừa qua xuất khẩu 36,52 tỉ USD tiền nông sản, năm nay dự kiến vượt con số 40 tỉ, đó là cố gắng vượt bậc. Do đó có thể khẳng định được KH&CN rất then chốt, quyết định đến tính hiệu quả, tính cạnh tranh nay mai của chúng ta. Trong thời gian tới, biện pháp quyết định nhất là ứng dụng CNC”, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường khẳng định.
 
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, các bộ hiện đang có sự kết hợp rất chặt chẽ với nhau để thúc đẩy việc ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp.
 
Các khu CNC có tác động lan tỏa lớn
 
Đại biểu Đoàn Thị Thanh Mai (Hưng Yên) đã chất vấn Bộ trưởng Chu Ngọc Anh về hiện trạng của Khu nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội) và TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.  Đại biểu này đặt câu hỏi: "Sau nhiều năm hoạt động, kết quả ba khu CNC chưa rõ nét. Vậy giải pháp tháo gỡ để thúc đẩy phát triển đúng mục tiêu đề ra là gì?"
 
Trả lời chất vấn, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, hiện ba khu CNC đã có sự phát triển mạnh. Tại Hoà Lạc đầu tư năm 2016 đạt 13 triệu USD/ha, TP. Hồ Chí Minh là 15 triệu USD/ha. Những con số này lớn hơn rất nhiều so với trước đây.
 
Theo Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, với sự hỗ trợ ODA của Nhật, toàn bộ hạ tầng khu công nghệ cao Hòa Lạc đã được đầu tư và mang lại nhiều kết quả. Nghị định 74 về cơ chế, chính sách đặc thù đối với khu CNC Hoà Lạc cũng đã thúc đẩy xúc tiến đầu tư, tạo ra chuyển động mạnh mẽ từ giai đoạn cuối năm 2017.
 
Bộ trưởng lấy ví dụ, trong Khu công nghệ cao Hòa Lạc đã có những doanh nghiệp tạo ra hệ thống sản xuất các thiết bị điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin…
 
"Hiện các nhà đầu tư lớn ở đây đều là công nghiệp CNC, được xem như là phần cứng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Điều này có tác động lan toả rất lớn", Bộ trưởng nói.
 
Bộ trưởng cũng cho biết thêm, Bộ KH&CN tập trung phát triển các trường đại học, viện nghiên cứu tại cả 3 khu công nghệ cao. Sắp tới, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) sẽ động thổ với sự tham dự của Tổng thống Hàn Quốc. Đồng thời, Bộ trưởng cũng hy vọng, trong vài năm tới khu CNC Hòa Lạc sẽ đem lại hiệu quả cao hơn nữa.
 
Tiếp đó, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh trả lời các đại biểu về các nội dung: Giải pháp ứng dụng KH&CN trong ứng phó với biến đổi khí hậu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; giải pháp khắc phục tình trạng trùng lặp trong giao nhiệm vụ khoa học, công nghệ, gây lãng phí; giải pháp khắc phục tình trạng công trình nghiên cứu "bỏ ngăn kéo"; ngân sách cho lĩnh vực khoa học, công nghệ; thực trạng và giải pháp khắc phục tình trạng xin cho, thiếu khách quan trong phân bổ, đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học; cơ chế, chính sách thúc đẩy các tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu khoa học, công nghệ; kết quả ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp; chính sách, giải pháp tạo điều kiện phát huy đam mê sáng tạo, sáng chế của người nông dân đóng góp vào sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước; giải pháp bảo tồn, khai thác, phát triển các nguồn gen quý của đất nước; giải pháp để thực hiện tốt các mục tiêu khoa học công nghệ trong giai đoạn đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo hiện nay;…
 
UBTVQH đánh giá cao sự trả lời nghiêm túc của Bộ trưởng
 
Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng phát biểu kết luận tại phiên chất vấn với Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh.
 
Kết thúc phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết, trong phiên chiều nay có 46 câu hỏi được các đại biểu đăng ký, trong đó có 30 đại biểu đã trực tiếp hỏi và được Bộ trưởng trả lời trực tiếp tại hội trường; 16 đại biểu đã đăng ký, tuy nhiên do thời gian có hạn, chưa được hỏi tại hội trường, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị các đại biểu gửi câu hỏi để Bộ trưởng trả lời bằng văn bản. Phó Chủ tịch Quốc hội khẳng định, phiên chất vấn đã diễn ra sôi nổi, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã trả lời thẳng thắn các nội dung đại biểu Quốc hội quan tâm.
 
Phó Chủ tịch cho biết, UBTVQH đánh giá cao sự trả lời nghiêm túc của Bộ trưởng Bộ KH&CN; ghi nhận quyết tâm chính trị cùng lời hứa và những giải pháp Bộ trưởng Chu Ngọc Anh đã nêu ra để khắc phục những hạn chế còn tồn tại của KH&CN trong thời gian tới… Phó Chủ tịch Tòng Thị Phóng nhấn mạnh các nhóm vấn đề trong thời gian tới Bộ KH&CN cần tập trung giải quyết, cụ thể: Bộ KH&CN cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho môi trường hoạt động KH&CN và ĐMST. Cần kiểm soát chặt việc nhập khẩu công nghệ và dây chuyền đã qua sử dụng, quan tâm nhiều đến quy chuẩn môi trường. Quan tâm xây dựng và phát triển đội ngũ khoa học, gắn chặt liên kết Viện, trường với các cơ sở khoa học CNC. Cần đảm và phát huy được hiệu quả ngân sách chi cho KH&CN, tiếp tục huy động nguồn lực xã hội cho KH&CN để tăng cường năng lực hấp thụ công nghệ….
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam phát biểu tại phiên chất vấn.
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong phần phát biểu của mình đã thay mặt Chính phủ cảm ơn UBTVQH đặt ra nhiều vấn đề quan tâm của ĐBQH và cử tri, thể hiện sự kỳ vọng ngành KH&CN có những bước tiến mới trong giai đoạn gần đây có tiến bộ nhiều hơn. Đặt trong bối cảnh chung và tình hình mặt bằng chung của đất nước, Phó Thủ tướng khẳng định, KH&CN đã có nhiều kết quả tốt. Chỉ số sáng tạo và đổi mới toàn cầu do WIPO công bố năm 2017 cho thấy Việt Nam lần đầu tiên nằm trong Top khu vực, đứng thứ 47/127 nước và nền kinh tế, trong mặt bằng chung KH&CN đã có sự cố gắng. Điều đó cho thấy có sự định hướng đúng đắn của Đảng.
 
Tuy nhiên, Phó Thủ tướng cũng cho biết mặc dù có nhiều thành tựu ghi nhận nhưng nhìn vào báo cáo năng suất chúng ta thấy còn rất thấp so với các nước trong khu vực. Để tăng cường vấn đề này không chỉ riêng sự vào cuộc của KH&CN mà còn phải thay đổi cơ cấu nền kinh tế, cơ cấu vốn, định hướng về dịch vụ, môi trường, nhân lực KH&CN…
 
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu kết luận phiên họp ngày 19/3.
 
 
Phát biểu bế mạc phiên chất vấn và phiên họp thứ 22 của UBTVQH, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh, các nhóm vấn đề được lựa chọn là những vấn đề quan trọng trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước được cử tri, nhân dân cả nước và các vị ĐBQH quan tâm, cần sớm có những giải pháp xử lý đồng bộ, kịp thời, tạo chuyển biến tích cực trong thời gian tới.
 
Không khí chất vấn, trả lời chất vấn tại phiên họp thể hiện tinh thần dân chủ, trách nhiệm cao, tranh luận sôi nổi. Các vị ĐBQH đã tích cực chất vấn, nêu câu hỏi ngắn gọn, súc tích, rõ vấn đề cần hỏi. Các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ đã trả lời thẳng thắn, cầu thị, đi thẳng vào trọng tâm vấn đề; nghiêm túc nhìn nhận, đánh giá kết quả thực tiễn, nhận rõ hạn chế còn tồn tại thuộc trách nhiệm của mình.
 
Với tinh thần không ngừng đổi mới, UBTVQH đã thực hiện thí điểm một số cải tiến về cách thức tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn tại phiên họp này. Qua đó, đã tạo được sự tương tác nhiều hơn giữa người hỏi và người trả lời về vấn đề được chất vấn, nâng cao hơn trách nhiệm của cả người điều hành, người chất vấn và người trả lời chất vấn, đồng thời đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Việc thí điểm này tiếp tục được đánh giá, rút kinh nghiệm để có căn cứ báo cáo Quốc hội cho thực hiện tại kỳ họp thứ 5 tới đây.
 
Để có cơ sở triển khai thực hiện các giải pháp đã cam kết và báo cáo kết quả với Quốc hội tại các kỳ họp, đề nghị Tổng Thư ký Quốc hội sớm gửi thông báo kết luận của UBTVQH về chất vấn đến các cơ quan hữu quan.
 
Đồng thời, đề nghị Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện lời hứa của các Bộ trưởng, Trưởng ngành; tổ chức hoạt động giải trình về những vấn đề cần thiết trong lĩnh vực phụ trách để kịp thời có giải pháp xử lý bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu của cử tri và Nhân dân cả nước, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước.
 
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

91% hàng hóa do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý đã được chuyển sang cơ chế hậu kiểm

 
Sáng ngày 15/3/2018, tại Hà Nội, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL) – Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ (CPSC) tổ chức Hội thảo “Kinh nghiệm của Hoa Kỳ về tăng cường hoạt động kiểm tra và giám sát hàng hóa lưu thông trên thị trường”.
 
 
Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Trần Văn Vinh phát biểu tại Hội thảo.
Phát biểu tại Hội thảo, Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Trần Văn Vinh cho biết, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020, Bộ KH&CN đã đẩy mạnh việc chuyển đổi phương thức quản lý sản phẩm hàng hóa thuộc lĩnh vực quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm nhằm tạo ra môi trường thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp. Sau gần 02 năm triển khai quyết liệt, đến nay Bộ KH&CN đã giảm được 91% sản phẩm hàng hóa phải kiểm tra. Cụ thể là 22/24 nhóm sản phẩm do Bộ KH&CN quản lý đã được chuyển sang cơ chế hậu kiểm.
 
Việc chuyển đổi phương thức quản lý sản phẩm hàng hóa từ tiền kiểm sang hậu kiểm đã tạo ra những điều kiện thuận lợi dễ thấy, tuy nhiên vẫn có nhiều người còn đặt câu hỏi có hay không chuyện buông lỏng công tác quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa. Việc đẩy mạnh chuyển đổi phương thức quản lý sản phẩm hàng hóa từ tiền kiểm sang hậu kiểm là một trong những chỉ đạo của Chính phủ nhằm đơn giản hóa thủ tục, hướng tới cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong bối cảnh đó, vai trò của công tác giám sát, kiểm tra sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường là hết sức quan trọng. Tổng cục trưởng Trần Văn Vinh cho rằng, Hội thảo là cơ hội để Việt Nam học hỏi, nâng cao năng lực quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa.
 
Bà Arlene Flecha chia sẻ tại Hội thảo.
 
Tại Hội thảo, bà Arlene Flecha, Quản lý Chương trình Quốc tế của CPSC đã có những chia sẻ, đánh giá liên quan đến sản phẩm tiêu dùng tại Hoa Kỳ, các yêu cầu về thủ tục và kỹ thuật đối với sản phẩm, vai trò của tiêu chuẩn và quy trình giám sát hàng hóa nhập khẩu, trên thị trường…
 
"Tại Hoa Kỳ, chúng tôi kiểm tra, theo dõi việc tuân thủ tiêu chuẩn sản phẩm tự nguyện và theo quy định, điều tra sự cố của người tiêu dùng, khiếu nại thương mại,… Đặc biệt, có thể kiểm tra vào thời điểm thích hợp bất cứ cơ sở nào có liên quan đến quá trình sản xuất, nhập khẩu, phân phối hay bán sản phẩm tiêu dùng", đại diện của CPSC chia sẻ.
 
Toàn cảnh Hội thảo.
 
Trong khuôn khổ Hội thảo, các đại biểu tham dự có dịp tìm hiểu về hoạt động đánh giá và quản lý rủi ro sản phẩm hàng hóa tại Hoa Kỳ. Từ đó, đánh giá thực trạng công tác giám sát, kiểm tra hàng hóa của Việt Nam cũng như đưa ra giải pháp phù hợp với tình hình thực tế.
 
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Lần đầu tiên thực hiện thành công ca ghép phổi lấy từ người cho chết não tại Việt Nam

 
Ngày 16/3/2018 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Trung tướng, GS.TS. Mai Hồng Bàng, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã tổ chức gặp mặt báo chí về việc “Thực hiện thành công ca ghép phổi lấy từ người cho chết não đầu tiên ở Việt Nam tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108”. Tham dự buổi gặp mặt có GS.TS. Phạm Gia Khánh, Chủ tịch Hội Ghép tạng Việt Nam, Chủ nhiệm Chương trình KC.10/16-20; TS. Trịnh Thanh Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ KH&CN các ngành kinh tế – kỹ thuật, Bộ KH&CN; đại diện các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng; đặc biệt là sự tham gia của hàng trăm Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ, cán bộ, nhân viên Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 và sự có mặt, đại diện của hàng chục cơ quan báo chí, truyền hình trung ương và địa phương,…
Hình ảnh toàn cảnh buổi gặp mặt báo chí.
 
Ngày 26/2/2018 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, ca ghép phổi lấy từ người cho chết não đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện dưới sự chỉ đạo của GS.TS. Mai Hồng Bàng, Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, cùng tham gia thực hiện có hơn 60 thầy thuốc và nhân viên y tế của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, một số thầy thuốc của Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Chợ Rẫy và sự hỗ trợ của 3 chuyên gia y tế đến từ Cộng hòa Pháp và Vương quốc Bỉ.
 
Ca ghép phổi được thực hiện trên bệnh nhân Trần Ngọc Hanh, sinh 1964, quê tại Nam Định, được chẩn đoán trước ghép là “Suy hô hấp do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính giai đoạn cuối”, người hiến tạng phổi là một bệnh nhân nam 45 tuổi, chết não hiến tạng. Ca ghép được thực hiện trong khoảng 8 giờ. Đến nay, sau ghép 20 ngày, bệnh nhân đã có thể đi lại, nói chuyện, mọi chỉ số sinh tồn trong giới hạn cho phép; bệnh nhân tự thở được, thỉnh thoảng có hỗ trợ thở ô xy. Đây là kết quả từ một nhiệm vụ KH&CN độc lập cấp quốc gia được Bộ KH&CN phê duyệt thực hiện từ năm 2015 “Nghiên cứu triển khai ghép phổi lấy từ người cho chết não” do GS.TS. Mai Hồng Bàng làm chủ nhiệm, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 là cơ quan chủ trì.
 
Hình ảnh trực tuyến hiện tại của bệnh nhân chụp qua hình ảnh tại hội trường – camera tại phòng bệnh nhân.
 
 
Từ một ca chết não hiến tạng, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã tạo được 2 dấu ấn quan trọng: Thứ nhất là lần đầu tiên tại Việt Nam, các Bác sĩ Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã thực hiện thành công ghép phổi lấy từ người cho chết não sau khi chúng ta đã làm chủ và ghép được các tạng như: tim, gan, thận, tụy – thận (đa tạng), phổi từ người cho sống; đánh dấu một bước đột phá trong lĩnh vực ghép tạng của Việt Nam, nâng vị thế của y học Việt Nam ngang tầm với các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Dấu ấn thứ hai là các Bác sĩ đã tiến hành lấy đa tạng, ghép cho 6 bệnh nhân trên toàn quốc: ghép 2 phổi cho 1 bệnh nhân và ghép 1 thận, 1 giác mạc cho 2 bệnh nhân khác tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108; ghép giác mạc cho 1 bệnh nhân tại Bệnh viện Mắt Trung ương; ghép tim và 1 thận cho 2 bệnh nhân tại Bệnh viện Chợ Rẫy, thành phố Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện trình độ chuyên môn cao, sự nỗ lực của các thầy thuốc và vai trò quan trọng của sự điều phối, phối hợp nhịp nhàng của các thầy thuốc trên toàn quốc.
 
Có được thành công trên, ngoài sự nỗ lực, chủ động của các thầy thuốc, là sự đầu tư đúng hướng và tích cực của KH&CN vào các lĩnh vực có vai trò quyết định đối với sự thành công trong ghép tạng như: chẩn đoán, điều trị, gây mê, hồi sức cấp cứu, sinh hóa, huyết học, chẩn đoán hình ảnh, giải phẫu, ngoại khoa, phục hồi chức năng, dược, miễn dịch,…; sự đầu tư của KH&CN trong lĩnh vực ghép tạng trước đó như: chúng ta đã làm chủ và ghép được các tạng như: tim, gan, thận, đa tạng tụy – thận (2014), phổi từ người cho sống (2017);
 
Trong thời gian tới, đóng góp của KH&CN sẽ tiếp tục tạo động lực, đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và ngành y tế, lĩnh vực ghép tạng nói riêng, để chúng ta có thể tiếp tục tạo những bước đột phá khác là ghép thành công các mô, bộ phận cơ thể người như: ghép ruột, ghép tử cung, ghép chi thể,…nhằm khẳng định mạnh mẽ sự tiến bộ của ngành y tế Việt Nam ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và quốc tế; góp phần hiện thực hóa Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác đi vào cuộc sống; mở ra cơ hội sống cho nhiều bệnh nhân bị bệnh hiểm nghèo có nhu cầu ghép tạng; góp phần tiết kiệm hàng ngàn tỷ đồng so với bệnh nhân ghép tại các nước khác trên thế giới.
 
 
 
Nguồn: Vụ KH&CN các ngành kinh tế – kỹ thuật

Hợp tác KH&CN Việt NamHợp tác KH&CN Việt Nam – Australia: Đổi mới sáng tạo là một trụ cột mới trong quan hệ đối tác chiến lược – Australia: Đổi mới sáng tạo là một trụ cột mới trong quan hệ đối tác chiến lược

 
Nhân chuyến thăm chính thức Australia của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam đã phối hợp với một số tổ chức KH&CN hàng đầu của Australia tổ chức của một số sự kiện nhằm thúc đẩy hợp tác về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo và triển khai Kế hoạch hành động về hợp tác KH&CN giữa hai nước.
Có thể nói, hàng loạt sự kiện kết nối, hợp tác KH&CN Việt Nam – Australia diễn ra nhân chuyến thăm chính thức Australia của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân là sự tiếp nối thành công trong hợp tác KH&CN Việt Nam – Australia đã đạt được thời gian qua. Có thể kể đến gần đây nhất, đầu tháng 11/2017, tại sự kiện trình diễn về Đổi mới sáng tạo trong thời gian diễn ra APEC 2017 tại Đà Nẵng, Việt Nam, Bộ trưởng Ngoại giao Australia, bà Julie Bishop, đã tuyên bố Đổi mới sáng tạo là một trụ cột mới trong quan hệ đối tác chiến lược và sẽ góp phần tăng cường quan hệ song phương giữa Australia và Việt Nam. Trong chuyến thăm chính thức Australia của Chủ tịch Quốc hội Việt Nam vào cuối tháng 11/2017, Bộ KH&CN và Bộ Công nghiệp, Đổi mới và Khoa học Australia đã ký thông qua Kế hoạch hành động về hợp tác KH&CN Việt Nam – Australia. Kế hoạch hành động là tài liệu chiến lược cho các ưu tiên nghiên cứu và sẽ định hướng hợp tác cho các tổ chức KH&CN của hai nước.
 
Trước đó năm 2013, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định Hợp tác KH&CN và có hiệu lực vào tháng 7/2014. Để triển khai Hiệp định, hai nước đã thành lập Ủy ban hỗn hợp về hợp tác KH&CN, tổ chức khóa họp lần thứ nhất (tháng 3/2016) tại Australia và khóa họp lần thứ hai dự kiến sẽ tổ chức tại Việt Nam trong năm 2018.
 
Văn bản hợp tác mang tính nền tảng quan trọng không thể không nhắc đến đó là Bản ghi nhớ hợp tác KH&CN giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Australia ký năm 1992.
 
Trình diễn Đổi mới sáng tạo
 
Từ những thành công của hợp tác KH&CN Việt Nam – Australia và để triển khai triển khai Kế hoạch hành động về hợp tác KH&CN giữa hai nước, từ ngày 14-18/3/2018, Bộ KH&CN Việt Nam đã chủ trì và phối hợp với Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Australia – CSIRO; Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Quốc tế Australia – ACIAR; Đại học Công nghệ Sydney – UTS; Tập đoàn Việt – Úc; Công ty công nghệ DTT – DTT Technology Group, Công ty Emotiv, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc; Công ty cổ phần giải pháp thời tiết và nông nghiệp AgriMedia tổ chức Sự kiện trình diễn Đổi mới sáng tạo với chủ đề: “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4: Kỷ nguyên mới cho ngành công nghiệp, cơ hội mới cho Australia và Việt Nam”.
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam Chu Ngọc Anh phát biểu tại Sự kiện trình diễn Đổi mới sáng tạo. 
 
Phát biểu khai mạc sự kiện, Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam Chu Ngọc Anh khẳng định đây là sự kiện này nhằm nêu bật các cơ hội mới phát triển kinh tế cho Australia – Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). “Tôi tin chắc rằng các hoạt động hợp tác tới đây về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa hai nước sẽ tiếp tục gặt hái được những kết quả tốt đẹp, đóng góp vào sự phát triển quan hệ hợp tác chiến lược giữa hai nước nói chung và quan hệ hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa hai nước nói riêng”- Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh.
 
Theo đó, mục tiêu của sự kiện trình diễn nhằm cho thấy năng lực nghiên cứu và thương mại của Australia và Việt Nam trong ngành công nghiệp mới nổi của CMCN 4.0; Nhấn mạnh cơ hội đầu tư và thương mại song phương và lĩnh vực tiềm năng cho Australia và Việt Nam; Cho thấy giá trị của Australia là một nhà cung cấp kiến thức, kỹ năng và điểm đến về giáo dục để trang bị cho lực lượng lao động trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; Tăng cường quan hệ giữa Australia và Việt Nam thông qua Đối tác Đổi mới và các khoản đầu tư của Aus4Innovation đồng thời tích cực gắn kết với cộng đồng người Việt (Việt kiều).
 
“Thông qua sự kiện, hai bên cũng muốn gửi đến thông điệp: Australia và Việt Nam với những điểm mạnh bổ sung cho nhau có thể được khai thác tối đa để tận dụng các cơ hội của CMCN 4.0 và định hình tương lai của các ngành công nghiệp mới. Các cơ hội lớn sẽ xuất hiện với sự đầu tư thận trọng trong việc xây dựng lực lượng lao động, mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu, môi trường kinh doanh năng động, hợp tác công nghiệp và hỗ trợ của Chính phủ”- Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh.
 
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Sự kiện trình diễn Đổi mới sáng tạo.
 
Bày tỏ sự vui mừng khi tham gia sự kiện trình diễn Đổi mới sáng tạo, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết: “Trong thời điểm thế giới đang diễn ra những biến đổi công nghệ nhanh chóng cùng những diễn biến khó lường từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cả 2 nước chúng ta đều cần tập trung phát triển nền kinh tế được dẫn dắt bởi đổi mới sáng tạo để thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ và phát minh mới, nâng cao chất lượng sống của người dân, phù hợp với xu hướng của cuộc Cánh mạng công nghiệp lần thứ 4”.
 
Nhân dịp này Công ty Emotiv, Công ty công nghệ DTT và khu công nghệ cao Hòa Lạc đã ký kết Bản Ghi nhớ hợp tác nhằm: Hợp tác xây dựng lộ trình và chương trình để thu hút đầu tư công- tư (PPP) hỗ trợ cho việc thành lập Sáng kiến quốc gia về khoa học công nghệ thần kinh và nghiên cứu não bộ; Cùng nỗ lực hướng tới việc quảng bá các hoạt động tại Việt Nam nhằm nâng cao nhận thức về sáng kiến này.
 
Trong đó: là một công ty hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu về công nghệ thần kinh và sóng não, EMOTIV cam kết: Nỗ lực trong việc xác định các điều lệ, mục tiêu, lộ trình và các sản phẩm chính để hỗ trợ cho việc xây dựng sáng kiến quốc gia về công nghệ thần kinh và nghiên cứu não bộ; Cung cấp các giải pháp và tăng cường năng lực chuyên môn nhằm thúc đẩy lĩnh vực nghiên cứu khoa học thần kinh, sóng não và não bộ cho  Liên minh các đối tác trong đó bao gồm cả việc thu hút các chuyên gia toàn cầu tham gia lĩnh vực này; Đóng vai trò quan trọng trong việc xác định đối tác địa phương có giá trị để đóng góp vào hệ sinh thái địa phương, thu hẹp khoảng cách phát triển và thu hút chuyên gia quốc tế đưa Việt Nam trở thành trung tâm của sự phát triển; Đầu tư cho sự phát triển của khoa học thần kinh và sóng não ở Việt Nam.
 
Là một khu công nghiệp lớn nhất Việt Nam, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc cam kết: Tăng cường tiếp cận các cơ sở của Khu công nghệ cao để thúc đẩy phát triển hệ sinh thái cho nghiên cứu công nghệ thần kinh và não bộ; Tạo điều kiện thuận lợi cho các Trung tâm mẫu nghiên cứu về công nghệ thần kinh khoa học não bộ bao gồm việc hỗ trợ sản xuất, phát triển kỹ năng; Làm đầu mối trao đổi với các Bộ ngành liên quan và Chính phủ để xây dựng Chương trình Quốc gia về công nghệ thần kinh và khoa học trí não.
 
Là một doanh nghiệp tiêu biểu có nhiều đóng góp quan trọng cho chương trình giao dục STEM ở Việt Nam, DTT cam kết: Thúc đẩy mạng lưới STEM hiện có, các đối tác giáo dục và khu vực tư nhân nhằm xác định đối tác địa phương có giá trị để đóng góp vào hệ sinh thái địa phương và phát triển lĩnh vực này; Tham gia phát triển các mô-đun giáo dục, các chương trình tin học nhằm quảng bá kiến thức, phát triển kỹ năng về khoa học thần kinh; Tham gia phát triển các ứng dụng cho thị trường địa phương để nâng cao chất lượng cuộc sống cũng như giới thiệu các cơ hội hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thần kinh và nghiên cứu sóng não.
 
Sau sự kiện trình diễn đổi mới sáng tạo là tọa đàm (Seminar) giữa các đơn vị tham gia trình diễn. Ở tọa đàm, các đơn vị giới thiệu về hoạt động của đơn vị mình, về nhu cầu hợp tác trong tương lai. Qua đó, các bên kết nối với nhau để cùng nhau xây dựng các hoạt động chung.
 
Được biết, hoạt động hỗ trợ đổi mới sáng tạo cho Việt Nam đã được Chính phủ Australia quan tâm và triển khai thời gian qua. Điểm nhấn là Chương trình hỗ trợ phát triển trị giá 10 triệu Đô la Australia của Australia cho Việt Nam, Aus4Innovation với các hoạt động mục tiêu nhằm thúc đẩy tiềm năng đổi mới sáng tạo và tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam và Đại sứ Australia tại Việt Nam sẽ đồng chủ trì chương trình Đối tác Đổi mới sáng tạo thông qua việc đảm bảo triển khai chương trình phù hợp với nghị trình về đổi mới sáng tạo của chính phủ, thúc đẩy các cơ hội kinh doanh và giám sát các khoản viện trợ đầu tư của chương trình để hỗ trợ hệ thống đổi mới sáng tạo của Việt Nam.
 
Chi tiết của hoạt động đầu tiên “thiết kế lộ trình cho tương lai số hóa” đang được Bộ KH&CN Việt Nam và Mạng lưới nghiên cứu số Data 61 của Tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghiệp liên bang Australia (CSIRO) xây dựng.
 
Ký hai Bản ghi nhớ hợp tác với hai Tổ chức hàng đầu của Australia
 
Nhân dịp này, ngày 15/3/2018, tại nhà Quốc hộ Australia, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh và Thứ trưởng Phạm Đại Dương đã ký hai biên bản ghi nhớ hợp tác với hai Tổ chức hàng đầu của Australia (Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Australia – CSIRO và Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Australia – ACIAR) dưới sự chứng kiến của hai Thủ tướng.
 
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh ký Biên bản ghi nhớ với Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Australia – CSIRO.
 
Đây là hoạt động nhằm thúc đẩy hợp tác về Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo và triển khai Kế hoạch hành động về hợp tác KH&CN giữa 2 nước (ký tháng 11/2017).  
 
Theo đó, với CSIRO với tư cách là tổ chức nghiên cứu của Chính phủ Australia, bản ghi nhớ là cơ sở để thúc đẩy, trao đổi xây dựng các chương trình hợp tác cụ thể trên cơ sở bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi, cũng như thúc đẩy và hỗ trợ hợp tác giữa các viện nghiên cứu và phát triển, các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học chuyên ngành từ Việt Nam và CSIRO trong các lĩnh vực 2 Bên cùng quan tâm như: Nông nghiệp và Thực phẩm, Y tế và An ninh sinh học, Môi trường, Đại dương, Năng lượng, Đất và Nước, Công nghệ thông tin, Thiên văn học và Vũ trụ, và Dữ liệu số.
 
Bản ghi nhỡ cũng nêu rõ, để đạt được mục đích này, các Bên sẽ: Khuyến khích các hoạt động nghiên cứu chung trong các lĩnh vực (nhưng không giới hạn): Nông nghiệp và Thực phẩm, Y tế và An ninh sinh học, Môi trường, Đại dương, Năng lượng, Đất và Nước, Công nghệ thông tin, Thiên văn học và Vũ trụ, và Dữ liệu số; Khuyến khích trao đổi khoa học để hướng đến các hoạt động nghiên cứu chung và đối thoại học thuật; Tìm kiếm trao đổi thông tin, tài liệu và chuyển giao công nghệ có thể thực hiện theo các thỏa thuận có hiệu lực về mặt pháp lý riêng; Hỗ trợ các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học và nhà quản lý xây dựng và cải thiện năng lực; Tìm kiến các cơ hội đồng tài trợ cho các dự án nghiên cứu chung trong các lĩnh vực mà hai bên cùng quan tâm (mọi dự án nghiên cứu như vậy cần được thực hiện hiện theo các thỏa thuận có hiệu lực về mặt pháp lý riêng); Khuyến khích việc tạo ra các ấn phẩm khoa học chung; Xác định các lĩnh vực, hình thức hợp tác có thể có khác.
 
 
 
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Đại Dương ký Bản ghi nhớ hợp tác với Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Australia – ACIAR với sự chứng kiến của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull.
 
 
Với ACIAR, với tư cách là cơ quan của Chính phủ Australia và là cơ quan chuyên nghiên cứu về nông nghiệp quốc tế của Australia vì sự phát triển, mục đích của bản ghi nhớ là thiết lập hợp tác giữa MOST và ACIAR để cùng triển khai Chiến lược hợp tác nghiên cứu nông nghiệp của ACIAR ở Việt Nam 2017 – 2027.
 
Đặc biệt, các Bên sẽ tăng cường trao đổi nhằm xác định các chương trình hợp tác cụ thể trên cơ sở bình đẳng và có đi có lại, cũng như thúc đẩy và hỗ trợ hợp tác giữa các viện nghiên cứu và phát triển, các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học có chuyên môn cao từ Việt Nam, Australia và quốc tế, và xây dựng và cải thiện năng lực của các nhà nghiên cứu Việt Nam (đặc biệt là các nhà khoa học nữ), các nhà quản lý và các viện nghiên cứu chính để hỗ trợ tăng trưởng bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
 
Bản ghi nhớ cũng nêu rõ, để đạt được mục đích này, các Bên sẽ: Xác định các cơ hội nghiên cứu hợp tác trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giữa các viện nghiên cứu và phát triển, các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học từ Việt Nam, Australia và quốc tế; Đồng tổ chức và đồng hỗ trợ các cuộc họp, các hội thảo khoa học và công nghệ và các cuộc đối thoại chuyên môn hỗ trợ các mục tiêu của Chiến lược hợp tác nghiên cứu nông nghiệp của ACIAR ở Việt Nam 2017 – 2027; Trao đổi thông tin về KH&CN, chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; Hỗ trợ các nghà nghiên cứu, các nhà khoa học và nhà quản lý xây dựng và nâng cao năng lực thông qua các khóa đào tạo ngắn và dài hạn; Hỗ trợ, đồng tài trợ cho các nghiên cứu chung trong các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
 
Ngay tại lễ ký kết, Giáo sư Andrew Campbell, Tổng Giám đốc Điều hành của ACIAR khẳng định: “Việt Nam là một đối tác rất quan trọng của ACIAR. Tôi thực sự rất ấn tượng khi chứng kiến Việt Nam chuyển mình từ một nước nhận tài trợ sang vị thế của một đối tác chủ động, hợp tác trong lĩnh vực phát triển và triển khai các dự án nghiên cứu có mục tiêu rất cụ thể, thiết thực. Rất nhiều trong số các dự án đó có nguồn vốn tài trợ trực tiếp của Việt Nam, bên cạnh tài trợ từ phía Australia”.
 
 
 Tọa đàm sau Sự kiện trình diễn Đổi mới sáng tạo. 
 
Nhân dịp này, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cũng chúc mừng việc Bộ KH&CN Việt Nam và Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Australia – CSIRO đã ký kết Bản ghi nhớ về đẩy mạnh hợp tác trong Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo. “Tôi tin tưởng rằng, văn kiện mới sẽ tạo cơ sở cho việc tăng cường hợp tác giữa hai nước và mở ra cơ hội hợp tác mới về đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ và thương mại hóa các nghiên cứu”- Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.
 
 
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Amazon sẽ kinh doanh gì khi vào Việt Nam?

 Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam cho biết Amazon sắp triển khai kế hoạch đổ bộ vào thị trường. Amazon cũng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Việt xuất khẩu trực tuyến qua nền tảng này.
 
Ông Nguyễn Thanh Hưng, Chủ tịch Hiệp hội Thương mại điện tử (VECOM), thông tin với Zing.vn việc Amazon vào Việt Nam.
Theo đó, Amazon sẽ khởi động một chương trình hợp tác để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có thể bán hàng, xuất khẩu qua hệ sinh thái của đơn vị này tại Diễn đàn Toàn cảnh thương mại điện tử Việt Nam (VOBF 2018) diễn ra vào 14/3 tới đây.
 
Amazon se kinh doanh gi khi vao Viet Nam? hinh anh 1
Amazon sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Việt xuất khẩu trực tuyến. Ảnh: Wall Street Nation.
“Amazon sẽ hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu trực tuyến qua nền tảng của doanh nghiệp này. Họ sẽ có chia sẻ cụ thể tại diễn đàn và giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp và báo chí”, ông Hưng nói.
 
Theo đánh giá của VECOM và nhiều hãng nghiên cứu uy tín trên thế giới, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử của Việt Nam luôn ở mức cao. Riêng VECOM từng đánh giá tốc độ tăng trưởng hàng năm lên đến 22%. Quy mô thị trường thương mại điện tử của Việt Nam được dự đoán có thể đạt 10 tỷ USD trong 5 năm tới.
 
Do đó, Việt Nam là thị trường hấp dẫn đối với nhiều doanh nghiệp thương mại điện tử lớn trên thế giới.
 
Trước Amazon, Lazada đã vào Việt Nam và đang nắm khoảng 1/3 thị phần mua sắm trực tuyến. Alibaba của tỷ phú Jack Ma đã từng chi 1 tỷ USD mua cổ phần chi phối của Lazada để xâm nhập vào thị trường Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
 
Amazon
Hiếu Công

Kết nối doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực Khoa học và Công nghệ

 
Ông Nguyễn Văn Trúc phát biểu tại Hội thảo
 
Sáng 12/1, tại Hà Nội, Trung tâm Đào tạo và Hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ (TSC) – Cục phát triển thị trường và Doanh nghiệp khoa học và công nghệ phối hợp với Tổ chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản tại Hà Nội (JETRO Hanoi) tổ chức chương trình hội thảo: “Kết nối doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực Khoa học và Công nghệ” nằm trong khuôn khổ Dự án “Phát triển nghành công nghiệp mới ASEAN – NHẬT BẢN”.
Chương trình nhằm hỗ trợ xúc tiến giao lưu, hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam – Nhật Bản, nâng cao năng lực quản trị và phát triển tài sản trí tuệ của các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam, học tập kinh nghiệm quản trị đổi mới sản xuất và quản trị Doanh nghiệp của Nhật Bản, để từ đó xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững của Doanh nghiệp.
 
Tổ chức JETRO đang thực hiện các chương trình để hình thành nên các mạng lưới kinh doanh trong các lĩnh vực công nghệ mới giữa ASEAN và Nhật Bản như lĩnh vực kỹ thuật số, IoT,… thông qua đó thúc đẩy sự liên kết giữa các doanh nghiệp. Một trong những hoạt động của chương trình này là tổ chức các sự kiện thông qua đó để giới thiệu với các nhà kinh doanh, nhà đầu tư của Nhật Bản cũng như các nước ASEAN về công nghệ hiện đại, tiên tiến nhất hiện nay cũng như các ý tưởng trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp, thông qua đó để tìm kiếm, tạo ra những cơ hội để có thể triển khai các hoạt động kinh doanh mới cũng như có khả năng để khởi nghiệp.
 
Ông Hironobu Kitagawa cho biết, JETRO đã tổ chức những sự kiện này tại Bangkok, Jakarta, Manila, Kualalumpur. Việt Nam và Lào là nơi thứ 5 chúng tôi tổ chức sự kiện này. Trong sự kiện ở tất cả các quốc gia nói trên như hoạt động tạo dựng về mạng lưới kinh doanh giữa các doanh nghiệp Nhật Bản và doanh nghiệp của các quốc gia này đã được triển khai tích cực. Chính vì thế trong sự kiện ngày hôm nay, là một cơ hội tốt để chúng ta có thể tạo dựng được kết nối kinh doanh cũng như sự hợp tác mới trong lĩnh vực này.
 
“Từ trước tới nay, đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Trong thời đại ngày nay, với làn sóng đang diễn ra rất mạnh mẽ mà chúng ta hay nói tới là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cơ hội đầu tư và kinh doanh mới giữa Việt Nam và Nhật Bản có thể sẽ nảy sinh trong thời gian tới. Tôi nghĩ rằng điều này sẽ mang lại lợi ích cho cả 2 quốc gia. Chính vì vậy, chúng tôi hi vọng rằng sự kiện ngày hôm nay sẽ có những đóng góp, động lực nhất định để tạo ra hợp tác mới trong thời gian tới”. Ông Hironobu Kitagawa chia sẻ.
 
Ông Nguyễn Văn Trúc – Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ cho biết: Mới đây, Bộ KH&CN đã tổ chức tổng kết năm 2017, chuẩn bị kế hoạch năm 2018, Thủ tướng và Phó thủ tướng chính phủ đã trực tiếp tham dự và điều hành cũng như góp ý để lên kế hoạch cho năm 2018 trong đó tập trung vào phát triển, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo để phát triển đất nước.
 
“Chúng tôi đã được giao nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chuyển giao công nghệ, xây dựng sàn giao dịch công nghệ. Để kết nối các doanh nghiệp Việt Nam – Nhật Bản, chuyển giao các ý tưởng sáng tạo, kết quả nghiên cứu và các thiết bị máy móc để phát triển năng suất và chất lượng cho doanh nghiệp Việt Nam”. Ông Nguyễn Văn Trúc cho biết.
 
Diễn giả của chương trình là các chuyên gia đến từ JETRO HANOI, Trung tâm Đào tạo và Hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ, Trường Đại Học Ngoại Thương và Đại diện các Doanh nghiệp Việt Nam đã ứng dụng thành công các đổi mới sáng tạo, các nghiên cứu và công nghệ mới trong việc điều hành, hoạt động và phát triển doanh nghiệp đã cùng chia sẻ về các vấn đề xung quanh: Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; Hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam trong lĩnh vực khởi nghiệp – viễn cảnh và thách thức; giới thiệu về Digital Marketing tại Việt Nam; Thực trạng khởi nghiệp tại Việt Nam; …
 
Hội thảo sẽ là cơ hội hữu ích trong việc tạo ra cơ hội kinh doanh mới, đóng góp cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ giao ưu – hợp tác kinh tế giữa Việt Nam – Nhật Bản.
 
Tin, ảnh: Tuyết Hằng

Nghiên cứu, sản xuất thành công một số sản phẩm từ gạo

 
Công đoạn lọc xơ thu hồi protein thô tại Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh Dương
 
Nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ và dây chuyền thiết bị sản xuất các sản phẩm maltodextrin, nha maltose qui mô 1tấn sản phẩm/mẻ và bột protein từ gạo qui mô 50 kg sp/mẻ. Cùng với đó, sản xuất thành công 20 tấn maltodextrin, 25 tấn nha maltose và 1,1 tấn bột protein ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm, bước đầu đưa sản phẩm thương mại hóa trên thị trường.
Đó là những kết quả chủ yếu của Dự án “Hoàn thiện công nghệ sản xuất một số sản phẩm (maltodextrin, nha maltose và bột protein) từ gạo ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm”, mã số CT-592.DABKHCN.08.2015, thuộc“Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ và tổ chức khoa học và công nghệ công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm” (Chương trình 592) của Bộ KH&CN.
Thông tin được đưa ra tại buổi họp Hội đồng đánh giá, nghiệm thu cấp Nhà nước do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức ngày 26/12/2017, tại Hà Nội. Đây là Dự án Bộ KH&CN giao Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh Dương chủ trì, Viện Công nghiệp Thực phẩm phối hợp thực hiện và KS. Chu Hương Giang làm Chủ nhiệm.
 
Tận dụng nguyên liệu sẵn có 
 
KS. Chu Hương Giang – Chủ nhiệm dự án cho biết, để nâng cao giá trị cho hàng nông sản Việt Nam nói chung, nguyên liệu gạo nói riêng, việc nghiên cứu sản xuất những sản phẩm sau thu hoạch là một trong những định hướng quan trọng của Đảng, Nhà nước. Do vậy, việc đầu tư nghiên cứu công nghệ sản xuất một số sản phẩm từ gạo (maltodextrin, nha maltose và bột protein) là một hướng đi rất cần thiết nhằm nâng cao giá trị của lúa gạo nước ta. 
 
Maltodextrin là polysaccharide có giá trị năng lượng, độ ngọt thấp, là sản phẩm thủy phân từ tinh bột bằng enzyme dịch hóa, được cấu thành từ các D-glucose nhờ các liên kết α-1,4 glucosit và có chỉ số DE < 20. Do có đặc tính của chất mang, chất kết dính, chất độn, chất trơn, chất rã, chất tạo khối nên Maltodextrin được ứng dụng rất lớn trong công nghiệp thực phẩm và dược phẩm. 
 
Nha maltose cũng được sản xuất bằng sự thủy phân của enzyme dịch hóa và đường hóa, gồm glucose, maltose và các oligosaccharide khác, trong đó hàm lượng maltose cao nhất. Nha maltose có độ ngọt trung bình bằng một nửa đường mía, có độ nhớt thấp, ít hút ẩm, bền nhiệt, có màu vàng hoặc màu trắng và được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp thực phẩm. Nha maltose đang được lựa chọn để thay thế đường mía tốt nhất bởi tính năng vượt trội như tạo được độ dai, không bị lại đường, không bị chảy nhão do hút ẩm và là nguyên liệu bổ sung quan trọng cho sản xuất bia, sữa giúp hạ giá thành sản phẩm và vẫn đảm bảo chất lượng.
 
 Bột protein được sản xuất từ protein thô thu được từ dịch hóa bột gạo, sau đó thủy phân bằng enzyme protease, có hàm lượng protein, axit amin cao. Bột protein được ứng dụng nhiều trong thực phẩm, thực phẩm chức năng bởi có tác dụng thải độc và cholesterol trong máu, phòng chống các bệnh ung thư đường tiêu hóa, bệnh tim mạch, chống viêm, giảm căng thẳng, làm sạch ruột,…, bà Hương Giang cho biết. 
 
Việt Nam có tiềm năng về nguyên liệu để sản xuất ba loại sản phẩm từ gạo. Theo thống kê, tổng sản lượng lúa niên vụ 2015/2016 đạt 44,94 triệu tấn, tương đương 28,09 triệu tấn gạo đã xay xát, năng suất bình quân 5,77 tấn/ha và xuất khẩu 6,2 triệu tấn gạo trị giá 2,7 tỉ USD. Năm 2016, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 xuất khẩu gạo thế giới, sau Thái Lan và Ấn Độ. 
 
Tuy nhiên, theo bà Chu Hương Giang, việc sản xuất ba loại sản phẩm này ở quy mô công nghiệp còn rất hạn chế. Năm 2008, khi thực hiện dự án “Sản xuất thử nghiệm tinh bột biến tính bằng công nghệ enzyme làm nguyên liệu cho công nghiệp dược, công nghiệp thực phẩm”, Viện Công nghiệp Thực phẩm đã xây dựng được qui trình công nghệ sản xuất tinh bột biến tính từ gạo với DE 8-12. Còn việc nghiên cứu sản xuất maltodextrin DE 12-15, nha maltose và bột protein vẫn chưa được nghiên cứu, sản xuất. Do vậy, việc hoàn thiện công nghệ sản xuất ba loại sản phẩm từ gạo ở qui mô công nghiệp thực sự cần thiết bởi, hiện nay trong ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm và một số ngành công nghiệp khác nhu cầu sử dụng ba loại sản phẩm từ gạo là rất lớn. Để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, nhóm nghiên cứu đã đề xuất và được Bộ KH&CN phê duyệt triển khai thực hiện dự án “Hoàn thiện công nghệ sản xuất một số sản phẩm (maltodextrin, nha maltose và bột protein) từ gạo ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm”. 
 
Dự án được triển khai từ tháng 11/2015 đến tháng 7/2017, nhằm mục tiêu hoàn thiện công nghệ, thiết bị sản xuất 3 loại sản phẩm từ gạo: maltodextrin DE 12-15, nha maltose qui mô 1tấn sản phẩm/mẻ và bột protein từ gạo qui mô 50 kg sp/mẻ. Đồng thời, thành lập doanh nghiệp KH&CN. 
 
 
 
Họp Hội đồng đánh giá, nghiệm thu cấp Nhà nước
 
Đưa sản phẩm ra thị trường
 
Bà Chu Hương Giang cho biết, triển khai dự án nói trên, nhóm nghiên cứu đã nghiên cứu tổng quan về công nghệ sản xuất sản phẩm từ tinh bột gạo, thu thập thông tin, xử lý số liệu, đánh giá thực trạng sản xuất maltodextrin, nha maltose, bột protein từ gạo. Đồng thời, nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất maltodextrin DE 12-15 và nha maltose từ gạo qui mô công nghiệp 1 tấn sản phẩm/mẻ. Nghiên cứu hoàn thiện công nghệ sản xuất  bột protein bằng công nghệ enzyme từ gạo qui mô 50 kg tấn sản phẩm/mẻ. Hoàn thiện dây chuyền thiết bị sản xuất các sản phẩm maltodextrin, nha maltose qui mô 1tấn sản phẩm/mẻ và bột protein  từ gạo qui mô 50 kg sp/mẻ. 
 
Nhóm nghiên cứu đã xác định được tỷ lệ ứng dụng 3 loại sản phẩm và đánh giá hiệu quả ứng dụng tại một số cơ sở chế biến thực phẩm như Công ty bánh kẹo Hải Hà, Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh Dương, Công ty Cổ phần sữa Quốc tế, Công ty bánh kẹo Tràng An. Đồng thời, sản xuất thử nghiệm 3 loại sản phẩm: maltodextrin DE12-15 qui mô công nghiệp 1 tấn SP/mẻ, nha maltose qui mô công nghiệp 1 tấn SP/mẻ và bột protein qui mô 50kg SP/mẻ. Đặc biệt, đã sản xuất được 20 tấn maltodextrin, 25 tấn nha maltose và 1,1 tấn bột protein. Sau khi tiếp thị quảng bá và ứng dụng sản phẩm, Công ty đã bán được sản phẩm cho một số công ty chế biến thực phẩm. 
 
Theo bà Hương Giang, trong quá trình sản xuất maltodextrin, nha maltose cho thấy, cứ 1 tấn gạo thu được 60,4kg protein thô. Do đó, để tính giá thành của maltodextrin, nha maltose, bột protein, căn cứ vào giá thành sản xuất của ba loại sản phẩm này và giá thành protein thô của Trung Quốc thì maltodextrin và nha maltose chiếm 60% giá thành nguyên liệu gạo, còn bột protein chiếm 40% giá thành gạo. 
 
“Trong thời gian tới công ty muốn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm bằng cách tiếp tục quảng bá, tiếp thị sản phẩm tới tận các công ty chế biến thực phẩm và dược phẩm trong cả nước và tiến tới xuất khẩu”, bà Hương Giang cho biết.
 
Các chuyên gia, thành viên trong Hội đồng đánh giá cao kết quả của Dự án, đồng thời cho rằng, Dự án đã góp phần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong chế biến thực phẩm, trong đó có công nghệ ứng dụng enzyme trong chế biến tinh bột nhằm tạo ra sản phẩm theo hướng công nghệ nền – công nghệ sinh học, công nghệ sản xuất sạch hơn, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây là công nghệ được các nước trong khu vực và thế giới ứng dụng trong rất nhiều sản phẩm thực phẩm. 
 
Chuyên gia, PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Hạnh nhận định, các sản phẩm của dự án đã đạt chất lượng, thời hạn theo yêu cầu, một số sản phẩm vượt về số lượng so với đăng ký. Việc sản xuất 3 sản phẩm từ gạo bằng công nghệ enzyme được phát triển ở các nhà máy chế biến thực phẩm làm phong phú thêm các sản phẩm từ tinh bột, nâng cao giá trị của sản phẩm nông nghiệp, tận dụng được nguồn nguyên liệu dồi dào, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn cho các doanh nghiệp về lĩnh vực chế biến tinh bột nhằm đa dạng hóa sản phẩm. 
 
Được biết, hiện Công ty Cổ phần Thực phẩm Minh Dương đã chuẩn bị xong hồ sơ thành lập doanh nghiệp KH&CN và đã gửi Sở KH&CN Hà Nội xem xét để cấp Giấy chứng nhận đạt doanh nghiệp KH&CN. Khi được phê duyệt, đây sẽ là điều kiện thuận lợi để triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH&CN vào sản xuất, kinh doanh, đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm hàng hóa góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 
 
Bài, ảnh: Hạnh Nguyên