WIPO hỗ trợ Việt Nam phát triển tài sản trí tuệ

Các đại biểu tại buổi khai mạc chuỗi sự kiện.
 
NDĐT – Chuyên gia Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) sẽ giới thiệu các mô hình phát triển, chuyển giao công nghệ thành công và lựa chọn các đơn vị tham gia dự án “Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ”.
 
Đây là thông tin được công bố tại buổi khai mạc chuỗi sự kiện Khóa đào tạo nâng cao “Chuyển giao công nghệ thành công” và Hội nghị phỏng vấn các viện nghiên cứu, trường đại học tại TP Hồ Chí Minh, sáng 25-9.
 
Dự án “Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ” do WIPO hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực sáng tạo, quản lý và thương mại hóa công nghệ của các nước đang phát triển và kém phát triển đã được triển khai tại một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái-lan, Philippines, Ấn Độ, Iran, Mông Cổ.
 
Tại Việt Nam, dự án dự kiến sẽ kéo dài trong 5 năm (2018-2022). Hoạt động của dự án bao gồm đào tạo cán bộ cho mạng lưới, thiết lập liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với nhau và với các nhà đầu tư, góp phần hỗ trợ thương mại hóa sáng chế.
 
Để bảo đảm thành công của dự án, WIPO yêu cầu các đơn vị tham gia dự án cam kết mạnh mẽ việc triển khai. Bà Olga Spasic, Cố vấn Văn phòng hỗ trợ Khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và vừa WIPO cho biết, Việt Nam được xem là một “ngôi sao” mới nổi trong hoạt động đổi mới sáng tạo của khu vực và đã thể hiện được khá nhiều kết quả tốt. Trong đó, Chính phủ Việt Nam cũng đưa ra nhiều chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đưa hoạt động này phát triển khá mạnh mẽ và ngày càng quy mô hơn. Dự án của WIPO sẽ góp phần phát triển tài sản trí tuệ và thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ công nghệ của Việt Nam.
 
Theo Ban tổ chức, thông qua khóa đào tạo nâng cao “Chuyển giao công nghệ thành công” cho các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, các học viên sẽ có kiến thức, kỹ năng về đàm phán và soạn thảo hợp đồng chuyển giao công nghệ, định giá tài sản trí tuệ, xây dựng chính sách về chuyển giao công nghệ.
 
Còn tại Hội nghị phỏng vấn các viện nghiên cứu, trường đại học sẽ diễn ra tại TP Hồ Chí Minh, từ ngày 25 đến 26-9, và tại Hà Nội, từ ngày 28 đến 29-9, các chuyên gia WIPO sẽ giới thiệu mô hình “trục xoay và nan hoa” (Hub and Spoke) và chính thức lựa chọn các đơn vị tham gia dự án.
 
Hiện nay, Cục Sở hữu trí tuệ đã kết nối được mạng lưới gồm 30 trung tâm sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (TISC) trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Trong số 30 đơn vị này, có 20 viện nghiên cứu, trường đại học đăng ký tham gia dự án “Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ” do WIPO hỗ trợ.
 
Ông Đinh Hữu Phí, Cục trưởng Sở hữu trí tuệ cho biết, cục sẽ tập trung nguồn lực để mạng lưới TISC vận hành ổn định, giúp các trường đại học, viện nghiên cứu tăng cường năng lực nội tại trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; đặc biệt chú trọng tăng số lượng sáng chế của Việt Nam. Số lượng sáng chế này cũng là một chỉ tiêu xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) cần được cải thiện theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 19.
 
Mặt khác, Bộ Khoa học và Công nghệ đang chủ trì, phối hợp các bộ, ngành xây dựng Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia, nhằm nâng tầm hệ thống sở hữu trí tuệ với cơ chế bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích hoạt động sáng tạo, đổi mới, thu hút đầu tư, thúc đẩy chuyển giao và phổ biến thành quả sáng tạo; phát huy vai trò làm công cụ phát triển kinh tế – xã hội của hệ thống sở hữu trí tuệ trong xây dựng nền kinh tế tri thức.
 
KHÁNH BĂNG

Xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2017: Việt Nam tăng 12 bậc

 
Ngày 15/6/2017 tại Geneva, Thụy Sỹ, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) kết hợp với Trường ĐH Cornell (Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh INSEAD (Pháp) đã công bố Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) toàn cầu năm 2017 (Global Innovation Index 2017, gọi tắt là GII 2017). Theo đó, Việt Nam đã tăng hạng khá ấn tượng, từ vị trí 59/128 lên vị trí 47/127 nước và nền kinh tế (tăng 12 bậc). Đây là thứ hạng cao nhất Việt Nam từng đạt được từ trước đến nay. Việt Nam còn đứng vị trí số 1 về chỉ số GII 2017 trong số các nước có thu nhập trung bình thấp.
 
Đây là lần thứ 10 liên tiếp, Báo cáo Chỉ số GII được công bố. Mục đích của Chỉ số GII là đưa ra các đánh giá về trình độ ĐMST của mỗi quốc gia một cách toàn diện nhất. Cốt lõi của Báo cáo GII 2017 là Bảng xếp hạng về ĐMST toàn cầu, thể hiện kết quả và năng lực đổi mới sáng tạo của các nên kinh tế.
GII bao gồm nhiều tiểu chỉ số/tiêu chí. GII 2017 được tổng hợp từ 81 tiểu chỉ số (được lấy từ hơn 30 nguồn tài liệu của các tổ chức công và tư quốc tế), trong đó có 57 chỉ số “cứng”, 19 chỉ số tổng hợp và 5 chỉ số từ các cuộc điều tra) trong các lĩnh vực: thể chế/tổ chức, nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển của thị trường, trình độ phát triển kinh doanh, đầu ra công nghệ và tri thức, kết quả sáng tạo. Các tiểu chỉ số này được phân chia theo 7 trụ cột. Trong đó 5 trụ cột đầu tiên thuộc “Nhóm tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST” (gồm: Thể chế/tổ chức, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của thị trường, Trình độ phát triển kinh doanh) và 2 trụ cột sau cùng thuộc “Nhóm tiểu chỉ số đầu ra của ĐMST” (gồm: Đầu ra của tri thức và công nghệ và Đầu ra sáng tạo). Báo cáo của WIPO về ĐMST là tài liệu tham khảo hàng đầu về năng lực ĐMST hiện nay của các nước.
Trong bài phát biểu tại Lễ công bố GII 2017, Tổng Giám đốc WIPO Francis Gurry nói: "ĐMST là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng dựa trên tri thức, nhưng đầu tư nhiều hơn nữa là cần thiết để giúp thúc đẩy sự sáng tạo của con người và tăng trưởng kinh tế. ĐMST có thể giúp tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn và dài hạn." ĐMST cũng được WIPO coi là có vai trò then chốt, động lực của tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng.
Tại Lễ công bố GII 2017, ông Soumitra Dutta, Đại học Cornell cho biết: "Những nỗ lực nhằm thu hẹp khoảng cách ĐMST phải bắt đầu bằng việc giúp các nền kinh tế mới nổi hiểu được những điểm mạnh và điểm yếu về ĐMST của họ và tạo ra các chính sách và chỉ số phù hợp. Đây là mục đích của GII trong hơn 10 năm nay."
 
GII 2017 có chủ đề: "Sáng tạo Phục vụ Thế giới"
Chủ đề của GII 2017 "Sáng tạo Phục vụ Thế giới" xem xét ĐMST trong các hệ thống nông nghiệp và thực phẩm. Trong những thập kỷ tiếp theo, ngành nông nghiệp và thực phẩm sẽ phải đối mặt với sự gia tăng nhu cầu trên toàn cầu và cạnh tranh ngày càng tăng đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn. Thêm vào đó, sẽ cần phải thích nghi và giúp giảm nhẹ sự thay đổi khí hậu. ĐMST là chìa khóa để duy trì sự tăng trưởng năng suất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng này và giúp tăng cường các mạng lưới kết hợp sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu thụ và quản lý chất thải bền vững – được gọi là hệ thống thực phẩm.
Bruno Lanvin, Giám đốc điều hành của INSEAD cho biết: "Chúng tôi đã chứng kiến ​​sự xuất hiện nhanh chóng trên quy mô toàn cầu của nông nghiệp kỹ thuật số, bao gồm máy bay không người lái, cảm biến dựa trên vệ tinh và robot. Hiện đang có một nhu cầu cấp bách về nông nghiệp thông minh để tối ưu hóa chuỗi cung ứng, phân phối và thúc đẩy những mô hình kinh doanh mới sáng tạo, giảm thiểu áp lực lên đất đai, năng lượng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác – đồng thời đáp ứng nhu cầu của những người nghèo nhất thế giới".
Đến năm 2050, dân số thế giới ước đạt 9,7 tỷ người. Điều này đặt ngành nông nghiệp toàn cầu trước một thách thức khó khăn. Giai đoạn này đã được thiết lập cho một cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu tiềm ẩn nếu các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan khác không thực hiện cải tiến nông nghiệp, làm tăng đáng kể năng suất.
 
Khái quát xếp hạng GII 2017
Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hà Lan, Hoa Kỳ và Anh là những nước sáng tạo nhất thế giới, trong khi một nhóm các quốc gia bao gồm Ấn Độ, Kenya và Việt Nam đang vượt trội so với các nước đang phát triển khác. Các phát hiện chính trong xếp hạng năm nay cho thấy sự nổi lên của Ấn Độ như là một trung tâm đổi mới đang nổi lên ở châu Á.
Theo GII năm 2017, 10 nền kinh tế hàng là: (1) Thụy Sĩ, dẫn đầu bảng xếp hạng năm thứ bảy liên tiếp, (2) Thụy Điển, (3) Hà Lan, (4) Hoa kỳ, (5) Anh, (6) Đan Mạch, (7) Singapo, (8) Phần Lan, (9) Đức và (10) Ai-len.
Cũng theo GII năm 2017, các nước Khu vực Đông Á có sự thăng hạng về chỉ số ĐMST, gồm: Nhật Bản thứ 14 (so với 16 năm 2016), Trung Quốc đã đạt vị trí 22, so với vị trí thứ 25 năm 2016. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình đầu tiên trong top 25.
Một nhóm các nước có thu nhập trung bình và có thu nhập thấp có năng lực ĐMST tốt hơn đáng kể so với mức phát triển hiện tại của họ: Tổng cộng 17 nền kinh tế trong diện này, bao gồm những nước đạt được thành tựu đổi mới trong năm nay, tăng nhẹ từ năm 2016.
Bên cạnh các cường quốc đổi mới như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, một nhóm các nền kinh tế châu Á bao gồm Inđônêxia, Malaysia, Singapo, Thái Lan, Philippin, đặc biệt là Việt Nam đang tích cực làm việc để cải thiện hệ sinh thái ĐMST và xếp hạng cao trong một số chỉ số quan trọng liên quan đến giáo dục, R&D, tăng năng suất, xuất khẩu công nghệ cao.
 
Về chỉ số ĐMST 2017 của Việt Nam
Trong GII 2017, Việt Nam đứng thứ 47/127 nước và vùng lãnh thổ được xếp hạng, tăng 12 bậc so với năm 2016 (năm 2016, Việt Nam đứng thứ 59 thế giới, năm 2015 đạt vị trí 52, năm 2014 thứ 71 và năm 2013 thứ 76). Bên cạnh đó, xét về hiệu quả ĐMST, Việt Nam đứng thứ 10 thế giới (năm 2016 đứng thứ 11 thế giới, năm 2015 đứng thứ 9 thế giới, năm 2014 thứ 5 và năm 2013 thứ 17).
Phân tích Bảng 1, chúng ta có thể thấy: Sở dĩ năm 2017, Việt Nam có sự tăng bậc khá ấn tượng về chỉ số ĐMST so với năm 2016 là do có sự tăng bậc ở cả hai nhóm chỉ số đầu vào và đầu ra. Đặc biệt, trong 7 trụ cột của Việt Nam trong GII 2017, chỉ có trụ cột “Trình độ phát triển kinh doanh” là giảm 1 bậc (từ vị trí 72 xuống 73), “Đầu ra sáng tạo” là giữ nguyên vị trí, 5 trụ cột còn lại đều tăng bậc so với năm 2016, trong đó có những trụ cột tăng 30 bậc (trụ cột “Trình độ phát triển của thị trường”, từ vị trí 64 năm 2016 lên 34 năm 2017), tăng 11 bậc như “Đầu ra công nghệ và tri thức” (từ vị trí 39 lên 28), “Cơ sở hạ tầng” tăng 13 bậc (từ 90 lên 77). Dước đây là phân tích cụ thể về Nhóm tiểu chỉ số đầu vào và đầu ra của ĐMST Việt Nam năm 2017 và so sánh với năm 2016.
– Nhóm tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST: Tăng 8 bậc, chủ yếu do các chỉ số sau tăng hạng: “Thể chế/Tổ chức” (từ 93 lên 87), “Nguồn nhân lực, nghiên cứu” (từ 74 lên 70), “Cơ sở hạ tầng” (từ 90 lên 77), “Trình độ phát triển thị trường” (từ 64 lên 34), “Trình độ phát triển kinh doanh” (từ 72 xuống 73), do yếu kém về đầu tư, đặc biệt là đầu tư mạo hiểm. Như vậy, nhóm tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST của Việt Nam đã có những cải thiện rất đáng kể.
Có những chỉ số được cải thiện đáng kể, do các tổ chức có liên quan ở Việt Nam đã tích cực cập nhật thông tin cho các tổ chức quốc tế có liên quan mà từ đó WIPO lấy số liệu để xếp hạng. Chẳng hạn trong trụ cột “Nghiên cứu và phát triển” đã tăng 19 bậc (từ 99 năm 2016 lên 80 năm 2017), do số liệu về số lượng các nhà nghiên cứu (FTE)/triệu dân và số liệu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) theo %GDP đã được Cục Thông tin KH&CN Quốc gia cập nhật và cung cấp cho UNESCO, các chỉ số này của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, trong đó chỉ số về số lượng các nhà nghiên cứu (FTE)/triệu dân đã vươn lên vị trí 58 và chỉ số đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tăng bậc từ 89 năm 2016 lên 73 năm 2017 (tăng16 bậc).
Trong các tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST của Việt Nam, WIPO đánh giá cao về các chỉ số: “Chi tiêu cho giáo dục (%GDP)” (đứng thứ 26/127 nước và vùng lãnh thổ), “Tổng tư bản hình thành (%GDP)” (đứng thứ 29/127), “Tín dụng” (17/127), “Tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân” (22/127), “Vay tài chính vi mô (%GDP)” (12/127), “Hấp thu tri thức” (23/127), “Giá trị ròng về nhập khẩu công nghệ cao (% tổng giá trị thương mại)” (3/127), FDI (%GDP) (26/127).
– Nhóm tiểu chỉ số đầu ra của ĐMST: Tăng 4 bậc, do các chỉ số “Đầu ra công nghệ và tri thức” tăng hạng (từ 39 lên 28), nhờ có sự cải thiện về các tiểu chỉ số liên quan đến “Sáng tạo tri thức” (tăng 7 bậc, từ 80 lên 73, nhờ các chỉ số phụ tăng bậc như đăng ký sáng chế, số lượng công bố khoa học), “Tác động của tri thức” (tăng 20 bậc, từ 25 lên 5), xuất khẩu các dịch vụ công nghệ thông tin trên % tổng giá trị thương mại, “Tốc độ tăng năng suất lao động” (GDP/người lao động)…
Trong các tiểu chỉ số đầu ra của ĐMST của Việt Nam, WIPO đánh giá cao về các chỉ số: “Tác động của tri thức” (đứng thứ 5/127), “Phổ biến tri thức” (19/127), “Xuất khẩu công nghệ cao trừ đi tái xuất” (theo % tổng giá trị thương mại) (4/127), “Đăng ký nhãn hiệu theo nước theo nước xuất xứ/tỷ USD (PPP)” đứng thứ 20/127, “Xuất khẩu sản phẩm sáng tạo theo % tổng giá trị thương mại” (7/127).
Đặc biệt, chỉ số “Tốc độ tăng năng suất lao động” (GDP/người lao động) của Việt Nam đứng thứ 1/127 nước và vùng lãnh thổ. Đây là chỉ số đo lường tốc độ tăng năng suất lao động (được định nghĩa là sản lượng đầu ra trên một đơn vị đầu vào lao động). Bình quân GDP/lao động được tính bằng cách lấy GDP chia cho tổng số việc làm trong nền kinh tế.
Như vậy, năm 2017 Việt Nam có nhiều trụ cột và tiểu chỉ số được xếp hạng cao. Nhờ có sự cải thiện cả Nhóm tiểu chỉ số đầu vào và đầu ra của ĐMST, nên tỷ lệ hiệu quả ĐMST của Việt Nam cũng tăng bậc (từ 11 năm 2016 lên 10 năm 2017). Đây cũng là chỉ số có thứ hạng cao trong nhiều năm qua của Việt Nam.
Về chỉ số ĐMST của Việt Nam trong khu vực ASEAN: năm 2015, xếp hạng GII của Việt Nam đã nằm trong Top 3, đứng sau Singapo (thứ 7), Malaysia (thứ 32), nhưng trên Thái Lan (thứ 55). Tới năm 2016, Thái Lan đã vươn lên vị trí thứ 3 (nhờ tăng 3 bậc) và Việt Nam xuống vị trí thứ 4 (giảm 7 bậc). Tuy nhiên, năm 2017, Việt Nam đã lại vượt qua Thái Lan (thứ 51) để lấy lại vị trí thứ 3 của nước này.
Trong số các nước ASEAN được xếp hạng trong GII 2017, có 3 nước đã tụt hạng so với năm 2016 là Malaixia, Singapo và Campuchia. Trong khi đó, các nước còn lại, trừ Việt Nam, đều tăng nhẹ.
Nhiều năm trước đây, Việt Nam vẫn ở trong thứ hạng trên 70 nhưng bắt đầu từ năm 2014 đã có chiều hướng tăng hạng. Nếu như năm 2013, chúng ta xếp hạng thứ 76,  năm 2014 tăng lên 71, năm 2015 tăng ngoạn mục lên 52 và năm 2016 là 59 và hiện nay là 47. Nếu Việt Nam tiếp tục cải thiện thể chế/tổ chức, cơ sở hạ tầng, đổi mới trong KH&CN, kể cả đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu, hệ thống quản lý, tiếp cận với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế… thì thứ hạng của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng lên.
Theo đánh giá của WIPO, Việt Nam đang nỗ lực hướng tới phát triển hệ thống đổi mới quốc gia của mình bằng cách cải thiện khuôn khổ pháp lý và xây dựng thể chế. Hội nhập thương mại toàn cầu thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu và thu hút FDI đang tạo ra cơ hội cho Việt Nam học hỏi và phát triển nhanh. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có nhiều tiến bộ về hấp thụ tri thức, công nghệ, liên kết đổi mới (thông qua các cụm). Những cải thiện trong các yếu tố đầu vào và kết quả đầu ra, như thể hiện bởi năng suất lao động cao hơn và cải thiện chất lượng sản xuất thông qua các chứng nhận ISO.
Tiến bộ của Việt Nam ở hầu hết các trụ cột của GII 2017 được nhìn nhận là kết quả cả quá trình phát triển những năm qua. Cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực ĐMST. Từ năm 2014 và liên tiếp trong các năm 2015, 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với mục tiêu cụ thể gắn với các chỉ số đo đếm được theo những phương pháp chuẩn mực được thế giới công nhận.
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, và trực tiếp tại Nghị quyết 19/NQ-CP là Phó Thủ Chính phủ Vũ Đức Đam, các bộ, ngành, địa phương đã rất nỗ lực trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong những năm vừa qua. Những kết quả này ngay lập tức được ghi nhận trong xếp hạng về đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2017.
Nghị quyết 19-2017/NQ-CP ngày 06/2/2017 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh đã sử dụng 4 đánh giá xếp hạng toàn cầu: Đánh giá, xếp hạng về Mức độ thuận lợi kinh doanh của; Đánh giá, xếp hạng về Năng lực cạnh tranh quốc gia của WEF; Đánh giá, xếp hạng về Năng lực đổi mới sáng tạo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới; Đánh giá, xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc. Bằng Nghị quyết 19, lần đầu tiên Việt Nam định vị và đặt mục tiêu về chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia trong xếp hạng toàn cầu; đồng thời xây dựng và thực hiện hệ chính sách tương ứng theo thông lệ quốc tế. Chính phủ đã đặt mục tiêu cụ thể “Đến năm 2020, các chỉ số ĐMST (theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới – WIPO) đạt trung bình ASEAN 5”. Như vậy với xếp hạng GII 2017, mục tiêu này cho đến nay đã đạt được.
Năm 2017, Chính phủ đã giao Bộ Khoa học và Công nghệ làm đầu mối hướng dẫn, phối hợp với các bộ ngành, địa phương nghiên cứu, sử dụng báo cáo hằng năm về GII để thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, được thể hiện thông qua việc cải thiện các chỉ số GII. Ngoài ra, ngay sau khi được giao nhiệm vụ cải thiện chỉ số GII, các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương vào cuộc, thực hiện ngay các biện pháp khả thi, trong đó phải kể đến việc nhanh chóng cập nhật các số liệu lạc hậu, thu thập và bổ sung một số số liệu còn thiếu, qua đó góp phần có được một đánh giá toàn diện, sát thực hơn về năng lực của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt nam qua các số đo và xếp hạng GII năm 2017./.
 
Nguồn: Cục Thông tin KH&CN quốc gia

Chính sách đặc thù đối với Khu công nghệ cao Hòa Lạc

 
Chính phủ vừa ban hành Nghị định quy định cơ chế, chính sách cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, làm việc tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc sẽ được hưởng nhiều hỗ trợ.
 
Cụ thể, dự án đầu tư mới tại Khu công nghệ cao có quy mô vốn từ 4.000 tỷ đồng trở lên được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời hạn 30 năm.
 
Các dự án đã được UBND cấp tỉnh cấp phép đầu tư trước thời điểm Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu công nghệ cao (ngày 23/5/2008) và đang hoạt động tại đây được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư/Giấy phép đầu tư/Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đã được cấp.
 
Đồng thời, Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng và phát triển nhà ở (bao gồm hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và công trình nhà ở). Tổ chức, cá nhân thực hiện dự án nhà ở cho người lao động làm việc tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc được hưởng ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật hiện hành và quy định tại Nghị định này.
 
Nghị định quy định nhà đầu tư, chuyên gia và người lao động là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài và thành viên gia đình (bao gồm bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi dưới 18 tuổi) được xem xét cấp thị thực xuất cảnh, nhập cảnh có giá trị sử dụng nhiều lần và thời hạn phù hợp với thời gian làm việc trực tiếp tại Khu công nghệ cao. Đối với các dự án cần đặc biệt thu hút đầu tư vào Khu công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ trình Chính phủ hoặc Thủ tướng quyết định các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư bổ sung.

Hội thảo Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5/2017

 
     Ngày 18/5/2017, Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Hội thảo Ngày KH&CN Việt Nam 18/5. Tham dự Hội thảo có đồng chí Trần Văn Quang, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển KH&CN địa phương Bộ KH&CN, lãnh đạo một số sở, ban, ngành, các hội, doanh nghiệp; đại diện các đơn vị đang thực hiện đề tài, dự án KH&CN; lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức của Sở Khoa học và Công nghệ.
    Tại Hội thảo, đồng chí Lê Minh Thanh, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ ôn lại lịch sử ngành KH&CN cũng như ý nghĩa của Ngày KH&CN Việt Nam 18/5. Với chủ đề “Khoa học – Chìa khóa tương lai”, thời gian tới, ngành KH&CN Lạng Sơn tập trung triển khai một số nội dung như: triển khai đồng bộ công tác quản lý nhà nước về KH&CN; nâng cao chất lượng tham mưu thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực ngành phụ trách; tập trung thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo; kiểm tra việc xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 900:2008 tại các cơ quan, tổ chức…
 
    Tại Hội thảo, đại diện một số cơ quan, đơn vị đã trình bày tham luận, chia sẻ kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, ứng dụng KH&CN vào đời sống xã hội.
 
    Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Trần Văn Quang, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển KH&CN địa phương chúc mừng tập thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Sở KH&CN và đội ngũ làm công tác KH&CN của tỉnh. Đồng chí ghi nhận và biểu dương những đóng góp của toàn thể cán bộ ngành KH&CN trong thời gian qua. Đồng thời đồng chí cũng nhấn mạnh trong thời gian tới ngành KH&CN Lạng Sơn phải tiếp tục cố gắng, thực sự là đòn bẩy trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ các doanh nghiệp xác lập quyền sở hữu công nghiệp, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm chủ lực của địa phương trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và giữ vững thương hiệu sản phẩm đặc trưng của tỉnh… 
 
    Nhân dịp này, 16 cá nhân được nhận Kỷ niệm chương vì sự nghiệp KH&CN của Bộ KH&CN; 01 tập thể, 01 cá nhân nhận Bằng khen của UBND tỉnh vì đã có thành tích tiêu biểu 2 năm liên tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (2015 – 2016)./.
 
                                                                                                                                                                                                Ngọc Hưng – SKHCN

Trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học – công nghệ

Ngày 17-5, lễ trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ (KH-CN) đợt 5 cho 2 cụm công trình đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng đã diễn ra tại Hà Nội.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang trao giải thưởng cho các tác giả,  đồng tác giả có công trình xuất sắc trong lĩnh vực quốc phòng
Chủ tịch nước Trần Đại Quang trao giải thưởng cho các tác giả, đồng tác giả có công trình xuất sắc trong lĩnh vực quốc phòng
 
Đến dự có Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Đây là giải thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng các tác giả công trình, cụm công trình KH-CN đặc biệt xuất sắc, có giá trị rất cao, nhiều đột phá về KH-CN, hiệu quả kinh tế – xã hội, có tác dụng to lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng, là kết quả của sự dày công nghiên cứu, cống hiến trí tuệ và tài năng của các nhà khoa học, có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
 
Năm 2015, 4 công trình, cụm công trình của các tác giả trong Bộ Quốc phòng đề nghị xét giải thưởng. Hội đồng xét tặng giải thưởng cấp Bộ Quốc phòng đã xem xét, đánh giá và thống nhất đề nghị lên Hội đồng cấp Nhà nước. Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước và Hội đồng cấp Nhà nước đã xem xét, đánh giá và trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 2 cụm công trình đặc biệt xuất sắc về KH-CN của 52 tác giả và đồng tác giả thuộc Bộ Quốc phòng tại Quyết định số 103/QĐ-CTN ngày 11-1-2017 của Chủ tịch nước, gồm: cụm công trình về Trường Sa của 33 đồng tác giả và cụm công trình “Nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chẩn đoán và điều trị ung thư gan nguyên phát và một số bệnh lý tiêu hóa, gan mật”, của GS-TS Mai Hồng Bàng và 18 đồng tác giả, đơn vị chủ trì là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hiện công trình đã ứng dụng trong chẩn đoán điều trị tại bệnh viện và chuyển giao thành công hầu hết các kỹ thuật từ kết quả của cụm công trình cho các bệnh viện trên địa bàn cả nước như bệnh viện Bạch Mai, Chợ Rẫy, Bệnh viện K Trung ương, Quân y 175… 
 
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã trao bằng chứng nhận giải thưởng cho các nhà khoa học là tác giả và đồng tác giả của các cụm công trình được tặng giải thưởng. Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhiệt liệt biểu dương những thành tựu to lớn mà đội ngũ cán bộ KH-CN quân sự Việt Nam đã đạt được trong những năm qua; chúc mừng các nhà khoa học, các tổ chức KH-CN trong quân đội có công trình được tặng giải thưởng cao quý – Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH-CN. Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhấn mạnh, 2 cụm công trình trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng của 52 đồng tác giả được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh lần này có giá trị đặc biệt to lớn, là kết quả của sự dày công nghiên cứu, cống hiến trí tuệ và tài năng của các nhà khoa học quân sự. Đây là sự ghi nhận, đánh giá cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với những chiến công thầm lặng của các nhà khoa học quân sự Việt Nam đã tận tâm, tận lực nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, thư viện, nhà máy và cả ở những nơi đầu sóng ngọn gió của Tổ quốc để có được các thành tựu KH-CN nổi bật, đóng góp quan trọng vào công cuộc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà các thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu để giành được, đồng thời phục vụ tốt đời sống của nhân dân. 
MINH GIANG

Đổi mới công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng

 
Sáng 21/4, tại Ninh Bình, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình đã tổ chức Hội thảo “Liên kết, ứng dụng và đổi mới công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng”.
Tham dự Hội thảo có đại diện Lãnh đạo một số đơn vị của Bộ KH&CN, các Sở KH&CN, các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN vùng Đồng bằng sông Hồng; các doanh nghiệp trong nước đang sản xuất nông nghiệp và đại điện các hợp tác xã; Lãnh đạo các Viện nghiên cứu, nhà khoa học và các chuyên gia công nghệ; các doanh nghiệp quốc tế đến từ Hàn Quốc, Pháp, Nhật Bản, Hà Lan.
Hội thảo được tổ chức nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp như sản xuất rau, hoa quả an toàn; trồng và chế biến dược liệu của các tỉnh Đồng bằng sông Hồng.
 
Toàn cảnh Hội thảo
 
Nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng được Chính phủ đặt ra mục tiêu là địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện các “đột phá chiến lược”, tái cấu trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả nước về phát triển kinh tế.
Trong đó, phát triển nông nghiệp công nghệ cao là chìa khoá giúp Đồng bằng sông Hồng tiếp tục thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, khẳng định vai trò là “động lực” cho sự phát triển chung của cả nước.
Tại Hội thảo, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình Hoàng Trọng Lễ nhấn mạnh, Việt Nam là nước có tiềm năng phát triển đa dạng các loại sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm về rau quả. Trong đó, khu vực Đồng bằng sông Hồng là vùng sản xuất rau lớn nhất cả nước nhưng sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán, giá thành cao, chất lượng thấp, tổn thất sau thu hoạch lớn… Vì vậy, việc hỗ trợ, nâng cao năng lực ứng dụng và đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp an toàn trong vùng Đồng bằng sông Hồng rất quan trọng.
Bà Trần Thị Hồng Lan, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ cho biết, sau gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, trong đó KH&CN là động lực giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tăng trưởng của lĩnh vực nông nghiệp. 
Tuy nhiên, theo bà Trần Thị Hồng Lan khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao đối với phát triển kinh tế vùng là do công nghệ chậm được đổi mới đang làm hạn chế lớn đến hiệu quả, sức cạnh tranh của sản xuất và nâng cao năng suất lao động trong vùng. Hình thức tổ chức sản xuất nhỏ, thiếu liên kết các khâu, các ngành theo chuỗi giá trị làm hạn chế quá trình phát triển sản xuất hàng hóa tập trung và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng. Cùng với đó là tỷ lệ lao động nông nghiệp còn lớn, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp là vấn đề đặt ra đối với yêu cầu về giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và tăng thu nhập cho dân số nông nghiệp ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng. Chưa có cơ chế hợp tác liên kết 5 nhà (Nhà quản lý, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp, Nhà nông và Nhà băng) trong sản xuất nông nghiệp để thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất ở nông thôn trong vùng.
“Với tiềm năng, thế mạnh cũng như khó khăn, thách thức đặt ra cho lĩnh vực nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay, vai trò và tác động của KH&CN có ý nghĩa quan trọng đến phát triển kinh tế – xã hội của vùng”, bà Trần Thị Hồng Lan nhấn mạnh.
 
 
Bên lề Hội thảo các đại biểu đã tham quan gian hàng giới thiệu sản phẩm của một số Sở KH&CN
 
Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung trao đổi, thảo luận một số nội dung trọng tâm nhằm tìm ra giải pháp để có thể xác định được nhu cầu ứng dụng, đổi mới công nghệ và mô hình liên kết 5 nhà, hợp tác công tư hiệu quả theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp. Làm sao để lựa chọn được các công nghệ, mô hình ứng dụng KH&CN có chất lượng, hiệu quả, phù hợp cho vùng Đồng bằng sông Hồng, đặc biệt đối với cây trồng và rau màu trong quá trình liên kết sản xuất theo chuỗi từ khâu chọn tạo giống, canh tác, chế biến và bảo quản sau thu hoạch. Các đại biểu đã  đề xuất cơ chế hỗ trợ phù hợp, hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy hoạt động liên kết, ứng dụng, đổi mới, chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng.
Trong khuôn khổ Hội thảo, từ thực tế về nhu cầu hợp tác đầu tư, nhu cầu về một số công nghệ mới và mô hình ứng dụng công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp và doanh nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng, các chuyên gia tư vấn công nghệ đã tư vấn công nghệ và giải pháp công nghệ phù hợp cho các doanh nghiệp, hợp tác xã có nhu cầu.
 
 
Mô hình trồng rau an toàn trong nhà với ưu điểm trồng được nhiều loại cây trái mùa, không phụ thuộc vào thời tiết bên ngoài
 
Nguồn: Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ

Ứng dụng khoa học – công nghệ vào nông nghiệp công nghệ cao

Rau ăn quả được trồng trong nhà kính công nghệ cao tại trang trại ở xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc (Nam Định). Ảnh: VŨ SINH
Sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, trình độ công nghệ lạc hậu, doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp chưa phát huy hết tiềm năng, chưa có sự gắn kết giữa các nhà khoa học và các doanh nghiệp khiến cho việc phát triển nông nghiệp công nghệ cao tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc ứng dụng khoa học công nghệ cũng như tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa nông dân – nhà khoa học – doanh nghiệp – nhà nước sẽ góp phần tháo gỡ được những hạn chế nêu trên.
 
Nông nghiệp vùng ĐBSH được Chính phủ đặt ra mục tiêu là địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện các “đột phá chiến lược”, tái cấu trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả nước về phát triển kinh tế. Trong đó, phát triển nông nghiệp công nghệ cao (CNC), nông nghiệp thông minh là chìa khóa giúp ĐBSH tiếp tục thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Phó Cục trưởng Ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ (Bộ KH và CN) Trần Thị Hồng Lan cho biết, hiện nay mặc dù vùng ĐBSH đã và đang hình thành một số khu nông nghiệp ứng dụng CNC nhưng hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao, còn nhiều khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển nông nghiệp CNC đối với phát triển kinh tế vùng. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ còn lạc hậu, chậm được đổi mới đang làm hạn chế lớn đến hiệu quả, sức cạnh tranh của sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Hình thức tổ chức sản xuất nhỏ, thiếu liên kết các khâu, các ngành theo chuỗi giá trị làm hạn chế quá trình phát triển sản xuất hàng hóa tập trung. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn lớn, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp. Bên cạnh đó, chưa có cơ chế hợp tác liên kết (nhà quản lý, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông và ngân hàng) trong sản xuất nông nghiệp từ đó thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất ở nông thôn trong vùng. Với tiềm năng, thế mạnh cũng như khó khăn, thách thức đặt ra cho lĩnh vực nông nghiệp vùng ĐBSH trong giai đoạn hiện nay, vai trò và tác động của KH và CN có ý nghĩa quan trọng đến phát triển kinh tế – xã hội của vùng.
 
Theo Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh, việc ứng dụng KH và CN góp phần làm cho ngành nông nghiệp tăng trưởng từ 30 đến 40% (tính theo từng lĩnh vực). Con số này có thể cao hơn nếu doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn và đẩy mạnh hơn việc áp dụng KH và CN vào sản xuất. Các tỉnh ĐBSH sản xuất nông nghiệp còn manh mún, nhỏ lẻ, tản mát. Vì vậy cần phải tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho các tỉnh trong vùng, tập trung các nhóm cây trồng, chăn nuôi có giá trị lớn, xuất khẩu để tập trung nguồn lực; thúc đẩy các mô hình liên kết theo chuỗi giá trị, chú trọng liên kết đến vùng nguồn nguyên liệu, cơ sở chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong đó doanh nghiệp đóng vai trò là chủ lực.
 
Đánh giá cao vai trò của các doanh nghiệp, TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch cho rằng, nhờ sự đầu tư của các doanh nghiệp vào nông nghiệp CNC, các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, viện nghiên cứu đã được tiếp sức ứng dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp hiện nay còn “dè dặt” khi đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp do gặp một số khó khăn về đầu tư ban đầu, vốn đối lưu, vùng nguyên liệu… Theo TS Phạm Anh Tuấn, để phát huy tốt hơn nữa mối liên kết giữa nhà nông dân – nhà khoa học – nhà doanh nghiệp không thể thiếu vai trò quan trọng của nhà nước, nhằm có những chính sách đổi mới, phát huy điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hướng trọng tâm hoạt động KH và CN phải gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp sản xuất, đồng hành cùng doanh nghiệp để cùng tháo gỡ các khó khăn vướng mắc, nhất là về các công nghệ trong sản xuất; nghiên cứu xây dựng và triển khai Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp an toàn, nông nghiệp ứng dụng CNC, phát triển sản xuất và chế biến dược liệu.
 
Là doanh nghiệp được đánh giá liên kết tốt với nông dân, hợp tác xã, tuy nhiên Công ty cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (Ninh Bình) gặp nhiều khó khăn về thị trường, kiểm nghiệm chất lượng và quy hoạch phát triển nguồn nguyên liệu. Ông Phạm Ngọc Thành, Giám đốc Công ty cho biết, ngoài số diện tích công ty được UBND tỉnh giao sử dụng là 3.000 ha, công ty còn phải thuê nhiều đất sản xuất bên ngoài dẫn đến vùng nguyên liệu và việc sản xuất bị nhỏ lẻ, chất lượng không đồng đều, việc bố trí nguồn lực sản xuất không tập trung, ứng dụng khoa học và công nghệ cũng gặp nhiều khó khăn do quá manh mún.
 
Thứ trưởng KH và CN Phạm Công Tạc khẳng định, muốn phát triển nông nghiệp bền vững không còn cách nào khác là phải áp dụng KH và CN vào mọi khâu sản xuất, từ canh tác, thu hoạch, chế biến đến quản lý. Thực tế hiện nay chỉ 1% tổng số doanh nghiệp cả nước đầu tư vào nông nghiệp, trong đó 60% là doanh nghiệp nhỏ, con số này là quá nhỏ bé và sản xuất nông nghiệp cần nhiều hơn sự hỗ trợ, đầu tư của doanh nghiệp. "Chúng ta không chỉ thực hiện liên kết bốn nhà mà phải đẩy mạnh liên kết năm nhà. Các nhà quản lý, nhà đầu tư (doanh nghiệp), nhà nông, nhà khoa học và ngân hàng phải kết nối chặt chẽ với nhau".
 
Các chuyên gia cho rằng để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, thời gian tới, Bộ KH và CN cần tập trung đẩy mạnh việc đưa KH và CN vào phát triển nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp CNC, nông nghiệp hữu cơ tập trung vào các mặt hàng chủ lực xuất khẩu; đẩy nhanh phát triển công nghệ cho công nghiệp hỗ trợ, các ngành công nghiệp có hàm lượng KH và CN và tỷ trọng giá trị gia tăng cao, có lợi thế cạnh tranh để tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Lấy doanh nghiệp làm trung tâm đổi mới sáng tạo, xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển, ứng dụng KH và CN vào nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; xây dựng và phát triển thương hiệu. Phát triển doanh nghiệp KH và CN thông qua thúc đẩy phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH và CN, khởi nghiệp sáng tạo.
 
HẠNH NGUYÊN

Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao ở vùng đồng bằng sông Hồng

Lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh thăm cơ sở sản xuất lá tía tô xuất khẩu của Công ty cổ phần Tập đoàn Hồ Gươm đầu tư tại thôn Ngọc Khám, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài.
 
Nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng (ÐBSH) được Chính phủ đặt ra mục tiêu là địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện các đột phá chiến lược, tái cấu trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng. Trong đó, phát triển nông nghiệp công nghệ cao được xem là chìa khóa để thực hiện mục tiêu trên. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp tại vùng ÐBSH còn nhiều bất cập, chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao.
 
Ngày càng nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
 
Khoảng ba năm trở lại đây, khu vực ÐBSH liên tục có nhiều dự án đầu tư lớn về phát triển nông nghiệp công nghệ cao của các doanh nghiệp. Ở Thái Bình, Tập đoàn TH vừa tổ chức khởi công dự án Nông nghiệp công nghệ cao sản xuất rau, củ quả hữu cơ và lúa chất lượng cao tại xã Dũng Nghĩa (huyện Vũ Thư), quy mô đầu tư hơn 3.000 tỷ đồng, diện tích sản xuất khoảng 3.000 ha. Trong đó, diện tích sản xuất rau, củ quả sạch dự kiến sử dụng khoảng 1.000 ha; diện tích trồng lúa và sản xuất dầu gạo dự kiến sử dụng khoảng 2.000 ha.
 
Ðây là một trong nhiều dự án đầu tư về nông nghiệp đang được triển khai tại Thái Bình. Vừa qua, tỉnh Thái Bình còn trao quyết định 33 dự án với tổng số vốn đăng ký 25.658 tỷ đồng; trong đó trao quyết định chủ trương đầu tư 11 dự án, với số vốn đăng ký hơn 2.016 tỷ đồng; trao quyết định chấp thuận nghiên cứu dự án đầu tư 19 dự án, với số vốn đăng ký 20.925 tỷ đồng, chủ yếu để sản xuất sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nuôi trồng thủy, hải sản… Trong số này, có các dự án lớn, như trồng lúa chất lượng cao, khu nuôi trồng thủy sản, hải sản kết hợp dịch vụ sinh thái tại huyện Tiền Hải, do Công ty cổ phần xuất, nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Tập đoàn GELEXIMCO) đầu tư, với số vốn 1.200 tỷ đồng…
 
Không có những con số đầu tư “đồ sộ” như ở Thái Bình, nhưng nông nghiệp công nghệ cao thời gian qua tại tỉnh Bắc Ninh đã có những chuyển biến rõ rệt. Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN và PTNT) Nguyễn Văn Ðại cho biết, khoảng hai năm trở lại đây, Bắc Ninh có nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Ðiển hình như mô hình công nghệ cao sản xuất lá tía tô xuất khẩu do Công ty cổ phần Tập đoàn Hồ Gươm đầu tư tại thôn Ngọc Khám (xã Lâm Thao, huyện Lương Tài), với diện tích 11,2 ha, tổng kinh phí đầu tư 
150 tỷ đồng. Hiện doanh nghiệp đã trồng được 2 ha tía tô và bắt đầu thu hoạch, xuất khẩu được bốn lô hàng sang Nhật Bản. Với giá bán 500 đến 700 đồng/lá, theo ông Nguyễn Xuân Bằng, Giám đốc dự án, nếu áp dụng đúng quy trình, 1 ha trồng tía tô sẽ cho thu hoạch khoảng 17 đến 18 triệu lá, doanh thu khoảng 2,5 tỷ đồng. Ðối với những địa phương có diện tích đất nông nghiệp nhỏ hẹp như ở Bắc Ninh, nếu có sự đầu tư làm nông nghiệp bài bản, thì giá trị kinh tế từ nông nghiệp mang lại sẽ không thua kém bất kỳ lĩnh vực nào.
 
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tiếp giáp thành phố Hà Nội, Vĩnh Phúc có nhiều điều kiện để phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Nắm bắt lợi thế, từ năm 2014, Sở Khoa học và Công nghệ Vĩnh Phúc đã xây dựng đề án, triển khai thí điểm một số mô hình tại huyện Vĩnh Tường, Tam Ðảo và TP Vĩnh Yên… Phát huy những kết quả đạt được, nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp đã ra đời, thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này. Mới đây, Tập đoàn Vingroup khởi công lắp đặt và xây dựng nhà kính đầu tiên mang tên VinECO để sản xuất các sản phẩm nông sản sạch sử dụng công nghệ của I-xra-en, trên diện tích hơn 24 ha tại Tam Ðảo.
 
Ngoài ra, các địa phương khác của vùng ÐBSH, như Nam Ðịnh, Hải Phòng, Hưng Yên, Hà Nội… cũng là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư làm nông nghiệp công nghệ cao, với nhiều dự án đầu tư lớn. Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) Trần Thị Hồng Lan cho rằng, vai trò và tác động của khoa học và công nghệ có ý nghĩa quan trọng đến phát triển kinh tế – xã hội của vùng. Do vậy, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp thông minh chính là chìa khóa giúp ÐBSH tiếp tục thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, khẳng định vai trò là động lực cho sự phát triển chung của cả nước.
 
Cần hỗ trợ từ doanh nghiệp
 
Hiện nay, mặc dù ÐBSH đã và đang hình thành một số khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nhưng những mô hình có quy mô lớn, mang lại hiệu quả kinh tế như kỳ vọng còn khá ít. Nhiều mô hình quy mô nhỏ, vừa hiện nay chưa đáp ứng các yêu cầu, điều kiện để trở thành mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Giám đốc Sở NN và PTNT tỉnh Bắc Ninh Nguyễn Văn Ðại cho rằng: Bên cạnh một số mô hình nông nghiệp được đầu tư, xây dựng bài bản bởi những tập đoàn, công ty lớn, phần đông các mô hình mới chỉ phát triển theo hướng công nghệ cao, chưa phải là mô hình nông nghiệp công nghệ cao thật sự. Nhiều mô hình của người dân hiện nay mới dừng lại ở việc làm nhà màng, nhà kính, hệ thống tưới nước tự động, cho nên chưa mang lại giá trị thật sự của nông nghiệp công nghệ cao. Muốn làm nông nghiệp công nghệ cao cần có sự tham gia của các doanh nghiệp, họ hội tụ những nguồn lực cần và đủ để làm nông nghiệp một cách chuyên nghiệp. Do vậy, phải lấy doanh nghiệp làm trung tâm đổi mới sáng tạo, xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ vào làm nông nghiệp. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; xây dựng, phát triển thương hiệu.
 
Muốn phát triển nông nghiệp bền vững không còn cách nào khác là phải áp dụng khoa học và công nghệ vào mọi khâu sản xuất, từ canh tác, thu hoạch, chế biến đến quản lý. Thực tế hiện nay, chỉ 1% tổng số doanh nghiệp cả nước đầu tư vào nông nghiệp, trong đó 60% là doanh nghiệp nhỏ, con số này là quá nhỏ bé và sản xuất nông nghiệp cần nhiều hơn nữa sự hỗ trợ, đầu tư từ phía doanh nghiệp. Ðể làm quy mô lớn, theo phản ánh của nhiều đơn vị, bên cạnh nguồn vốn, thì một trong những khó khăn lớn nhất đối với doanh nghiệp là việc tiếp cận đất đai, cần quỹ đất rộng mới thực hiện được nông trại quy mô lớn.
 
Thái Bình là một trong những địa phương làm tốt công tác thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp. Trong thời gian ngắn, tỉnh đã có cách làm mới để thực hiện Luật Ðất đai, đồng thời mở ra cơ chế mới về hạn điền. Ðó là chính quyền đứng ra ký hợp đồng cho người dân thuê đất sản xuất nông nghiệp, với thời hạn từ 20 năm trở lên. Bằng cơ chế này, đến nay, Thái Bình đã tích tụ được hơn 5.000 ha đất nông nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp nông nghiệp tiếp tục nhân rộng mô hình cánh đồng mẫu lớn, mô hình kinh tế trang trại; phát huy lợi thế kinh tế nhờ quy mô; tạo đột phá cho việc ra đời thị trường thứ cấp về đất nông nghiệp, gắn với việc bảo đảm lợi ích của người nông dân. Phát biểu tại Hội nghị xúc tiến đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Bình được tổ chức mới đây, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hồng Diên khẳng định: Ðảng bộ, chính quyền và nhân dân Thái Bình luôn xem doanh nghiệp là động lực đầu tàu để phát triển kinh tế địa phương. Tỉnh cam kết luôn đồng hành cùng doanh nghiệp; hỗ trợ các doanh nghiệp thuận lợi nhất trong các khâu để thực hiện đầu tư, đồng thời áp dụng đầy đủ cơ chế, chính sách hiện hành của Nhà nước.
 
Bên cạnh sự nỗ lực của mỗi doanh nghiệp, địa phương, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ Trần Thị Hồng Lan cho rằng, để nông nghiệp công nghệ cao ở khu vực ÐBSH phát triển cần có cơ chế hỗ trợ phù hợp, hiệu quả cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, thúc đẩy hoạt động liên kết, ứng dụng, đổi mới, chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, giữa các địa phương trong khu vực cần trao đổi, liên kết, nhằm tìm ra giải pháp để xác định được nhu cầu ứng dụng, đổi mới công nghệ và mô hình liên kết 5 nhà (Nhà nước, nhà đầu tư, nhà nông, nhà khoa học và ngân hàng), hợp tác hiệu quả theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp. Làm sao để lựa chọn được các công nghệ, mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ có chất lượng, hiệu quả, phù hợp cho vùng ÐBSH, nhất là đối với cây trồng, rau màu trong quá trình liên kết sản xuất theo chuỗi, từ khâu chọn tạo giống, canh tác, chế biến và bảo quản sau thu hoạch.
 
Bài và ảnh: Chí Vịnh, Thái Sơn

Những điểm mới trong Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) vừa được thông qua

 
Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) chính thức được Quốc hội bấm nút thông qua chiều 19/6 đã cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ.
Cụ thể, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội Khóa XIV đang diễn ra, với hơn 93% số đại biểu có mặt tán thành, Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi – CGCN) đã chính thức được thông qua. Luật đã cụ thể hóa hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó tập trung đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam; khuyến khích chuyển giao công nghệ từ Việt Nam ra nước ngoài cũng như thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nước.
 
Đồng thời, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động chuyển giao công nghệ; phát triển thị trường khoa học công nghệ… nâng cao trình độ, tiềm lực công nghệ quốc gia nhằm bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển nhanh và bền vững kinh tế xã hội.
 
Những điểm mới trong Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) vừa được thông qua – Ảnh 1
Luật đã cụ thể hóa hoạt động chuyển giao công nghệ, trong đó tập trung đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghệ cao từ nước ngoài vào Việt Nam. Ảnh minh họa
 
Dưới đây là những nội dung mới của Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi):
 
1. Về phát triển thị trường KH&CN, một loạt biện pháp được đưa vào Dự thảo Luật theo hướng tạo cơ chế phát triển nguồn cung, thúc đẩy nguồn cầu và phát triển các tổ chức trung gian của thị trường KH&CN. Trong đó các tổ chức trung gian được quan tâm, hỗ trợ để thực hiện vai trò kết nối giữa bên cung và bên cầu công nghệ như:
 
– Xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hỗ trợ hoạt động của sàn giao dịch công nghệ quốc gia, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; 
– Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin công nghệ;
 
– Đào tạo nguồn nhân lực cho tổ chức trung gian;
 
– Nâng cao năng lực khai thác thông tin về công nghệ, sở hữu trí tuệ, kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ ở trong nước và nước ngoài cho tổ chức, cá nhân thực hiện dịch vụ tư vấn, môi giới, xúc tiến chuyển giao công nghệ, đánh giá, định giá và giám định công nghệ.
 
2. Về thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
 
Dự thảo Luật đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những vướng mắc từ thực tiễn đối với việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ như: giao quyền đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; phân chia lợi nhuận thu được từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; công bố kết quả hoạt động KH&CN phục vụ nhu cầu đổi mới sáng tạo của tổ chức, cá nhân; hỗ trợ hoạt động liên kết giữa tổ chức KH&CN sở hữu kết quả hoạt động khoa học và công nghệ với tổ chức ứng dụng, CGCN địa phương trong việc hoàn thiện kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để phù hợp đặc thù của địa phương được hỗ trợ từ ngân sách nhà nước dành cho KH&CN.
 
3. Về khuyến khích, hỗ trợ hoạt động ứng dụng, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
 
Dự thảo Luật đã bổ sung một số biện pháp hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng, đổi mới công nghệ. Cụ thể như sau: đề xuất cơ chế hỗ trợ vốn, bảo lãnh vay vốn và hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp có hoạt động đầu tư hạ tầng kỹ thuật cho giải mã công nghệ, thành lập tổ chức R&D; cơ chế liên kết giữa tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; mở rộng nội dung chi của Quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp; khuyến khích các hình thức hợp tác để triển khai các dự án đổi mới công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển cơ sở hạ tầng và hoạt động nghiên cứu chung với doanh nghiệp.
 
4. Để thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong nông nghiệp, Dự thảo Luật đã dành 1 Điều quy định về hoạt động này, trong đó quy định phương thức, hình thức, loại hình chuyển giao công nghệ đặc thù trong nông nghiệp và giao Chính phủ quy định chi tiết hoạt động chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp.
 
Để ngăn chặn, hạn chế công nghệ, thiết bị lạc hậu chuyển giao vào Việt Nam, Dự thảo Luật được bổ sung 1 Chương (Chương II với 8 Điều) quy định về công tác thẩm định công nghệ dự án đầu tư, trong đó quy định cụ thể loại dự án phải thẩm định, có ý kiến về công nghệ. Dự thảo Luật quy định ý kiến về công nghệ công nghệ của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền là một nội dung bắt buộc trong nội dung văn bản thẩm định dự án đầu tư khi trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định chủ trương đầu tư. Đồng thời, trong Chương này cũng thiết kế 1 Điều quy định về việc kiểm tra, giám sát công nghệ trong các dự án đầu tư, chuyển giao công nghệ, trong đó quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về KH&CN và cơ quan có liên quan trong kiểm tra, giám sát việc ứng dụng và CGCN trong dự án đầu tư cùng với việc kiểm tra, giám sát đầu tư.
 
5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác thẩm định công nghệ dự án đầu tư, ngăn chặn, hạn chế nhập khẩu công nghệ lạc hậu vào Việt Nam cũng như ngăn ngừa hiện tượng chuyển giá trong hoạt động chuyển giao công nghệ. Điều này thể hiện ở các quy định về thẩm định công nghệ dự án đầu tư và quản lý chuyển giao công nghệ. Cơ chế bắt buộc đăng ký chuyển giao công nghệ là cần thiết để các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam đã tạo nên một bộ lọc để cơ quan quản lý nhà nước có thể kiểm soát nhằm ngăn chặn việc gian lận, chuyển giá qua hoạt động chuyển giao công nghệ, đồng thời cơ quan quản lý nhà nước cũng có cơ chế để rà soát công nghệ nhập khẩu, tránh trùng lặp, gây lãng phí nguồn lực của xã hội.
 
Lê Huy

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh tiếp xã giao Chủ tịch Nhà Xuất bản Elsevier

 
Chiều 04/12, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Trần Quốc Khánh đã tiếp xã giao ông Youngsuk Chi, Chủ tịch Nhà Xuất bản Elsevier. Tại buổi tiếp, hai Bên đã cùng trao đổi về cơ hội hợp tác giữa Bộ KH&CN và Nhà Xuất bản Elsevier trong thời gian tới.
Cùng tham dự buổi tiếp đoàn Elsevier có đại diện Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Công nghệ cao, Vụ Khoa học Xã hội Nhân văn và Tự nhiên, Cục Thông tin KH&CN Quốc gia, Tạp chí KH&CN Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN.
 
Thứ trưởng Trần Quốc Khánh tiếp ông Youngsuk Chi
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh cho biết, trong thời gian qua, Bộ KH&CN cũng như một số cơ quan khác của Việt Nam đã có hợp tác chặt chẽ với Nhà Xuất bản Elsevier trong việc đặt hàng cơ sở dữ liệu có giá trị của Elsevier. Những cơ sở dữ liệu này đã được khai thác có hiệu quả, đón nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu và trường đại học.
Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cũng đã chia sẻ với ông Youngsuk Chi về kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học hiện nay ở khu vực nhà nước cũng như tư nhân tại Việt Nam. Với nguồn lực kinh phí dành cho nghiên cứu còn hạn chế, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh bày tỏ mong muốn hợp tác toàn diện với phía Elsevier để đưa được hệ thống cơ sở dữ liệu phù hợp đến các viện nghiên cứu, trường đại học và các nhà khoa học. Về chính sách giá, phía Elsevier làm sao có những chính sách giá ưu đãi đối với Việt Nam để nhiều tổ chức và nhà khoa học Việt Nam có điều kiện tiếp cận sử dụng các nguồn tin có giá trị của Nhà Xuất bản Elsevier…
Khẳng định về vai trò quan trọng của cơ sở dữ liệu trong việc đưa ra định hướng nghiên cứu, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh mong muốn việc khai thác thông tin từ cơ sở dữ liệu của Elsevier được thực hiện nhanh nhất và hiệu quả. Theo đó, thời gian tới, hai Bên sẽ cùng làm việc, thảo luận đi đến thống nhất để đưa ra những hợp tác cụ thể, trong đó ưu tiên những lĩnh vực Việt Nam đang tập trung thực hiện sao cho phù hợp với chính sách của hai Bên. Thứ trưởng Trần Quốc Khánh bày tỏ mong muốn quan hệ hợp tác giữa Bộ KH&CN và Nhà Xuất bản Elsevier ngày một phát triển.
Ông Youngsuk Chi đã giới thiệu về Elsevier, chia sẻ tiến bộ của Elsevier trong hợp tác với Bộ KH&CN và các trường đại học. Ông Younguk Chi bày tỏ mong muốn hợp tác với Việt Nam trong việc đưa cơ sở dữ liệu tới Việt Nam để việc tiếp cận cơ sở dữ liệu ngày một tốt. Ông Youngsuk Chi cho rằng nguồn cơ sở dữ liệu của Elsevier có nhiều ý nghĩa trong việc phân tích và đưa ra những quyết định về chính sách của các cơ quan liên quan được tốt hơn. Phía Elsevier sẽ tư vấn về cơ sở dữ liệu phù hợp với Việt Nam và có những chính sách cụ thể. Cùng với đó, trong thời gian tới Elsevier sẽ tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm chia sẻ kinh nghiệm về cách viết và biên tập bài báo khoa học đạt chuẩn quốc tế…
Tại buổi tiếp, đại diện Cục Thông tin KH&CN Quốc gia và Tạp chí KH&CN Việt Nam cũng đã đề xuất một số nội dung hợp tác với Elsevier trong thời gian tới như: Các chính sách giá ưu đãi đặc biệt của Elsevier đối với Việt Nam để nhiều tổ chức và nhà khoa học Việt Nam có điều kiện tiếp cận và sử dụng các nguồn tin có giá trị của nhà xuất bản; Elsevier hỗ trợ, tư vấn chiến lược cho các nhà quản lý của Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và phát triển của đất nước…
Nhà Xuất bản Elsevier là một nhà xuất bản đa quốc gia trong lĩnh vực học thuật, đứng số 1 thế giới, có trụ sở tại Amsterdam, Hà Lan  đã hoạt động tại Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Mexico, Brazil, Tây Ban Nha và nhiều nơi khác. Sản phẩm chính của Elsevier là cơ sở dữ liệu ScienceDirect – nguồn thông tin thiết yếu đối với hàng triệu nhà nghiên cứu khoa học, trong đó cung cấp trên 3.800 tạp chí hàng đầu thế giới, bao quát 24 lĩnh vực khoa học và công nghệ, bao gồm:
Khoa học tự nhiên: Toán học; Vật lý và thiên văn học; Hóa học; Khoa học máy tinh; Sinh hóa, di truyền, sinh học phân tử; Khoa học về trái đất và hành tinh khác; Khoa học vật liệu; Khoa học môi trường;
Khoa học kỹ thuật: Kỹ thuật hóa học; Năng lượng và điện năng; Kỹ thuật;
Khoa học Nông nghiệp và Sinh học; Thú ý;
Y học, dược học: Y học và Nha khoa; Miễn dịch học và I sinh vật học; Khoa học về thần kinh; Chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ; Dược học, Độc học; dược lý;
Khoa học Xã hội và Nhân văn: Kinh doanh, Quản lý và kế toán; Khoa học ra quyết định; Kinh tế học, trắc lượng kinh tế, tài chính; Tâm lý học; Khoa học xã hội.
Elsevier cũng là một trong các nhà tài trợ cho giải thưởng khoa học hàng năm của APEC về Đổi mới, Nghiên cứu và Giáo dục (ASPIRE).
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Truyền thông KH&CN