Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu

Ngày 10/10 tại Hà Nội đã diễn ra Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản (10/10/1952 – 10/10/2022) và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu. (Nguồn: Toquoc.vn)

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 1.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 2.

Dự lễ kỷ niệm có Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng; Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa; Các Ủy viên Trung ương Đảng: Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương Lại Xuân Môn; Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng biên tập Báo Nhân dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Lê Quốc Minh; Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng; Bộ trưởng Bộ TTTT Nguyễn Mạnh Hùng.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 3.

Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương Lại Xuân Môn đọc Thư chúc mừng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống. Trong Thư viết: “Trong suốt 70 năm qua, các thế hệ cán bộ, viên chức, người lao động làm công tác xuất bản, in và phát hành sách đã luôn luôn đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa – tư tưởng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 4.

Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Đảng, Nhà nước và đông đảo bạn đọc tin tưởng và mong rằng, Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, luôn luôn giữ vững định hướng chính trị, tư tưởng, bảo đảm hài hòa giữa nhiệm vụ chính trị và sản xuất kinh doanh, phục hồi và phát triển mạnh mẽ văn hóa đọc; xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản, in và phát hành sách có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng; chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần khẳng định vị thế, vai trò là một trong những hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 5.

Phát biểu tại lễ kỷ niệm, ông Võ Văn Thưởng – Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đánh giá cao những đóng góp to lớn của các thế hệ người làm xuất bản đồng thời khẳng định ngành Xuất bản, In và Phát hành sách đã phát huy tốt vai trò, sứ mệnh của mình trong việc lưu trữ, tích lũy và truyền bá tri thức, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, bồi đắp tâm hồn, xây dựng nhân cách, trí tuệ con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 6.

Ông Võ Văn Thưởng khẳng định, qua 70 năm xây dựng và phát triển, để Ngành Xuất bản có được thành tựu to lớn như hôm nay là xương máu, hy sinh của bao thế hệ cán bộ, nhân viên toàn ngành trong những năm tháng chiến tranh ác liệt, là sự nỗ lực, bền bỉ, liên tục tìm tòi, nghiên cứu, không ngại khó khăn, phát huy bản lĩnh, trí tuệ, luôn đổi mới, sáng tạo của đội ngũ những người làm xuất bản cả nước, trong các thời kỳ.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 7.

GS Đinh Xuân Dũng phát biểu tại buổi lễ.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 8.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng và Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa tặng hoa và trao biểu trưng vinh danh cho các ông Phan Khắc Hải – Nguyên Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam; Ông Đinh Xuân Dũng – Nguyên Vụ trưởng Vụ Xuất bản; Ông Lê Hoàng, Phó Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam chi nhánh phía Nam; Ông Nguyễn Văn Dòng, Chủ tịch Hiệp hội In Việt Nam

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 9.

Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo TƯ Lại Xuân Môn và Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng trao tặng thưởng cho các cá nhân

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 10.

Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng và Tổng Biên tập Báo Nhân Dân Lê Quốc Minh trao tặng thưởng cho các cá nhân

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 11.

Buổi lễ đã khẳng định sự đóng góp to lớn của Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam trong 70 năm qua; ghi nhận công lao, cống hiến của đội ngũ cán bộ, biên tập viên, người làm xuất bản; tuyên dương, khen thưởng những người làm xuất bản tiêu biểu; thông qua hoạt động kỷ niệm, nâng cao vị thế Ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam, đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của người làm xuất bản, in và phát hành sách trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 12.

Tiết mục biểu diễn nghệ thuật trong chương trình.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 13.
Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 14.
Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 15.
Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản và tôn vinh người làm xuất bản tiêu biểu - Ảnh 16.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản, in và phát hành Sách Việt Nam

Chiều 10.10, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản, in và phát hành Sách Việt Nam (10.10.1952 – 10.10.2022) và gặp mặt, tuyên dương những người làm xuất bản tiêu biểu.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản, in và phát hành Sách Việt Nam -1
Các đại biểu tham dự Lễ kỷ niệm

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng dự và phát biểu tại Lễ kỷ niệm.

*Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi thư chúc mừng.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản, in và phát hành Sách Việt Nam -3
Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng phát biểu

Cùng dự có Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa và các Ủy viên Trung ương Đảng: Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương Lại Xuân Môn; Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân Lê Quốc Minh; Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng; Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương Phạm Tất Thắng; đại diện các nhà xuất bản, công ty in, phát hành sách, một số chuyên gia trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành sách…

Tại Diễn văn kỷ niệm, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Trần Thanh Lâm đã ôn lại những chặng đường phát triển của ngành xuất bản cách mạng Việt Nam với 3 lĩnh vực xuất bản, in và phát hành, ra đời trong những ngày cách mạng còn non trẻ đã từng bước trưởng thành và vươn lên trở thành nền xuất bản độc lập, tự chủ, có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản, in và phát hành Sách Việt Nam -0
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Trần Thanh Lâm phát biểu

Đầu thế kỷ XX, đất nước trải qua những biến động xã hội sâu sắc do tác động của quá trình khai phá thuộc địa của chủ nghĩa tư bản – thực dân Pháp cùng các cuộc vận động canh tân trong nước và các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới. Trong bối cảnh đó, đi cùng với trào lưu tư tưởng tiến bộ, yêu nước, một khuynh hướng xuất bản mới, nhân văn, tiến bộ, cách mạng đã ra đời với mốc son là các tác phẩm của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các bậc tiền bối cách mạng mà tiêu biểu nhất là tác phẩm “Đường Kách mệnh” xuất bản tại Quảng Châu – Trung Quốc năm 1927, tác phẩm đánh dấu bước ngoặt trong hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, đánh dấu sự chín muồi trong tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào cách mạng Việt Nam, chỉ ra con đường nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập.

Để rồi từ đây, theo dấu chân đầy gian khó và hy sinh của những nhà cách mạng, đã lần lượt xuất hiện những cơ sở xuất bản cách mạng đầu tiên như: Xưởng in Lê Văn Tân, Xưởng in Rạng Đông, Hiệu sách Đồng Xuân ở Hà Nội, Nhà xuất bản Tân Thanh, Hiệu sách Hương Giang ở Huế, Nhà xuất bản Tư tưởng mới, Hiệu sách Việt Quang ở Đà Nẵng, Nhà sách Tân văn hoá ở Sài gòn và rất nhiều xưởng in, nhà sách theo khuynh hướng tiến bộ khác trên cả nước. Tất cả mở đầu cho việc hình thành một nền xuất bản mới – Xuất bản cách mạng.

Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống ngành Xuất bản, in và phát hành Sách Việt Nam -2
Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng trao biểu trưng vinh danh cho các cá nhân có nhiều thành tích, cống hiến cho ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, đất nước được độc lập, nhân dân được tự do. Đảng định hướng rõ mục tiêu xây dựng nền văn hóa mới với tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng và xác định rõ việc xây dựng nền văn hóa mới phải đi liền với đánh đổ nền văn hóa nô dịch của chủ nghĩa thực dân. Từ định hướng quan trọng đó, các bộ phận xuất bản, in ấn, phát hành được kiện toàn và dần đi vào hoạt động ổn định. Từ năm 1945 đến năm 1951, nhiều nhà xuất bản, xưởng in đã được thành lập như: Nhà xuất bản Lao động, Nhà xuất bản Sự thật, Nhà xuất bản Văn hoá cứu quốc, Nhà in Tiến bộ thành lập năm 1945, Nhà xuất bản Quân du kích thành lập năm 1947, Nhà xuất bản Vệ quốc quân thành lập thành lập năm 1948. Các xưởng in Quân đội, Xưởng ấn I (tách từ Nhà in Tiến bộ) cũng được hình thành trong điều kiện thiếu thốn, khó khăn tại ATK Việt Bắc trong giai đoạn từ năm 1948 – 1951.

Năm 1952, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn quyết định, chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, đòi hỏi về sách báo ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong bối cảnh đó, ngày 10.10.1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 122/SL thành lập Nhà in quốc gia. “Lần đầu tiên ngành Xuất bản có một cơ quan vừa là doanh nghiệp quốc gia vừa là cơ quan quản lý nhà nước thống nhất trên cả ba khâu: xuất bản, in và phát hành trong phạm vi cả nước. Đây là mốc son thứ hai đánh dấu một giai đoạn mới, ngành Xuất bản cách mạng non trẻ giờ đây đã tạo dựng được nền móng để lớn mạnh và phát triển. Ngày này đã trở thành ngày truyền thống của Ngành xuất bản, in và phát hành sách Việt Nam”, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương nhấn mạnh.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, toàn ngành đã xuất bản được 31 ngàn tên sách với 529 triệu bản sách. Đây là minh chứng cho sự lớn mạnh của Ngành, khẳng định những đóng góp to lớn, quan trọng của Ngành vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Và cũng trong những năm tháng chiến tranh ác liệt ấy, nhiều cán bộ – chiến sĩ làm công tác xuất bản, in và phát hành đã theo tiếng gọi non sông lên đường ra trận, nhiều người đã anh dũng hi sinh, góp phần tô thắm thêm trang sử vẻ vang của dân tộc.

Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, ngành xuất bản, một binh chủng quan trọng trên mặt trận văn hoá – tư tưởng đã nhanh chóng chiếm lĩnh trận địa. Thông qua các xuất bản phẩm, ngành đã làm tốt chức năng tuyên truyền, giáo dục, cung cấp tri thức cho xã hội trong công cuộc khôi phục, phát triển kinh tế sau chiến tranh và trong cuộc đấu tranh lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, khẳng định chân lý độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vượt qua muôn vàn khó khăn trong thời kỳ này, toàn Ngành nâng cao năng lực hoạt động, xuất bản được 22 ngàn tên sách với 533 triệu bản sách, từ đó đặt nền tảng vững chắc cho một giai đoạn đổi mới sâu sắc và toàn diện của những năm tiếp theo.

Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế do Đảng phát động, sau những lúng túng ban đầu, Ngành xuất bản, in và phát hành sách Việt Nam đã phát triển ổn định, có nhiều nỗ lực vươn lên, đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, khẳng định vị thế, vai trò là lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đóng góp xứng đáng vào công cuộc đổi mới.

Từ quốc gia thiếu sách vào những năm 80 – 90 thế kỷ XX với năng lực sản xuất vào khoảng trên 2.000 đầu sách/năm, bình quân sách/người đạt 0,8 bản, toàn ngành đã vươn lên phát triển cả về quy mô, trình độ, năng lực với hệ thống gồm 57 nhà xuất bản, trên 2.300 cơ sở in, trên 2.000 doanh nghiệp phát hành, gần 13.000 điểm phát hành trên cả nước; đã xuất bản khoảng 450 triệu bản sách/năm, đưa mức bình quân đầu người/sách đạt 4,4 – 4,5 bản, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

Đặc biệt những năm gần đây, nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, Ngành xuất bản, in và phát hành đã không ngừng đổi mới. Nhiều nhà xuất bản, đơn vị phát hành mở rộng chức năng xuất bản, phát hành sách điện tử, nhiều loại hình xuất bản phẩm điện tử hiện đại được xuất bản, nhiều cơ sở in quy mô, hiện đại ngang tầm khu vực được xây dựng, tạo dựng diện mạo mới cho Ngành xuất bản, in và phát hành.

Trên cơ sở định hướng lớn của Đảng, Nhà nước về phát triển hoạt động xuất bản theo hướng tinh gọn, chất lượng và hiện đại hoá, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương nhấn mạnh, ngành xuất bản, in và phát hành sách cần nỗ lực thực hiện tốt hơn nữa vai trò là lĩnh vực tư tưởng văn hóa của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, là một bộ phận của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nền tảng tư tưởng, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng xã hội học tập. Phải nhanh chóng tiếp cận với công nghệ mới, vươn lên trở thành một ngành kinh tế – công nghệ hiện đại, là một bộ phận quan trọng của công nghiệp văn hóa. Mỗi xuất bản phẩm ra đời phải mang sứ mệnh lan tỏa niềm tin, truyền cảm hứng, thúc đẩy động lực, thắp sáng những điều tốt đẹp trong xã hội để khởi dậy và hiện thực hoá khát vọng Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Phát biểu tại Lễ kỷ niệm, thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng ghi nhận, đánh giá cao những đóng góp quan trọng, to lớn của các thế hệ người làm xuất bản; khẳng định, ngành xuất bản, in và phát hành sách đã phát huy tốt vai trò, sứ mệnh của mình trong việc lưu trữ, tích lũy và truyền bá tri thức, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, bồi đắp tâm hồn, xây dựng nhân cách, trí tuệ con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chỉ ra một số khó khăn, thách thức từ thực tiễn hoạt động của ngành xuất bản, in và phát hành, Thường trực Ban Bí thư lưu ý, một số sản phẩm ra đời không chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí, nghiên cứu, học hỏi mà quan trọng hơn, phải giúp độc giả sau khi tiếp nhận, lĩnh hội tri thức, thông tin trong sách sẽ có những tiến bộ nhất định, góc nhìn nhận để giải quyết những vấn đề của thực tiễn, sống tốt hơn, sống đẹp hơn. Để có sách hay, sách đẹp, đòi hỏi những người làm xuất bản phải nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa, văn hóa dân tộc và nhân loại, bám sát hơi thở cuộc sống, ứng dụng khoa học công nghệ… Các nhà xuất bản phải là nơi để các tác giả gửi gắm niềm tin, là bệ đỡ cho các tác giả có thể yên tâm sáng tác những tác phẩm mang hơi thở của thời đại, xuất bản thêm nhiều đầu sách hay, giá trị, làm sao để có nhiều người đọc, muốn đọc, tác động tích cực vào nhận thức xã hội.

Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh, hoạt động xuất bản cũng phải xác định thực hiện tốt kinh tế xuất bản, kịp thời thích ứng, chuyển đổi, lựa chọn cách thức, mô hình hoạt động phù hợp xu hướng chung của thị trường, là ngành kinh tế – công nghệ hiện đại, phát triển vững chắc, toàn diện, hiệu quả. Bên cạnh đó, cần quan tâm, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới chương trình đào tạo cho đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, lãnh đạo, quản lý, người làm xuất bản có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ chuyên môn tốt, tâm huyết và am hiểu nghề, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành xuất bản trong thời kỳ mới…

Nhân dịp này, Ban Tổ chức đã quyết định tặng biểu trưng vinh danh 86 cá nhân có nhiều thành tích, cống hiến cho ngành Xuất bản, In và Phát hành sách Việt Nam.

Nguồn: https://daibieunhandan.vn/

Trước thềm Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ V

Từ những kết quả thiết thực mang đến cho ngành xuất bản và công chúng, Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ năm tiếp tục là sự kiện được quan tâm của những người làm công tác xuất bản và đặc biệt là công chúng yêu sách. Đây là giải thưởng sách có uy tín do Bộ Thông tin Truyền thông và Hội Xuất bản Việt Nam phối hợp tổ chức.

Cứ mỗi mùa thu đến thì giới những người yêu sách, những người quan tâm đến đời sống sinh hoạt tinh thần ở Việt Nam và cả các tác giả, các Nhà Xuất bản lại háo hức mong chờ đến ngày Hội đồng chấm giải sách quốc gia công bố danh sách những cuốn sách được đưa vào chấm giải.

Theo Hội đồng chấm giải Sách quốc gia lần thứ năm, chất lượng sách tham dự giải năm nay tương đối tốt và đồng đều, thu hút được nhiều sự quan tâm của các tác giả gửi sách đến dự thi. Đặc biệt, sách khoa học xã hội năm nay có những cuốn sách đã được biên soạn từ trước đây nhưng năm nay đã được biên dịch và in ấn thận trọng.

Hội đồng chấm giải chung khảo cũng bày tỏ vui mừng và đánh giá cao những cuốn sách đi sâu vào những đề tài cụ thể, chi tiết về dân tộc học, tôn giáo học và bước đầu có những kết quả nghiên cứu cụ thể.

Giải thưởng Sách Quốc gia năm nay có 48/57 nhà xuất bản tham gia với 386 cuốn sách được gửi về. Tất cả con số này đều đạt được sự tiến bộ so với lần trao giải năm ngoái, cho thấy Giải thưởng Sách quốc gia đang ngày càng tăng vị thế của mình, trở thành nơi “chọn mặt gửi vàng” cho các đơn vị xuất bản. Tuy nhiên, do ngành xuất bản cũng chịu ảnh hưởng của tình hình dịch Covid-19 nghiêm trọng, cho nên lượng sách tập trung chủ yếu là sách tái bản, đầu sách mới, tác giả mới chưa nhiều. Chính vì thế năm nay thiếu tác phẩm văn học mới và đề tài có giá trị, chưa có nhưng cuốn sách mang tính thực sự xuất sắc như những cuốn sách trước đây đã có.

Giải thưởng Sách quốc gia được nhận định đã tạo ra những chuyển biến tích cực cho ngành xuất bản, góp phần thúc đẩy văn hóa đọc. Bước sang mùa giải thứ 5, ngành sách tiếp tục đặt những kỳ vọng, góp ý để giải thưởng ngày càng hoàn thiện và trên hết là vì lợi ích chung phát triển thị trường xuất bản phẩm vững mạnh.. Lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ 5 sẽ được tổ chức vào 20h tối 3/10/2022 tại Nhà hát Đài Tiếng nói Việt Nam, 58 Quán Sứ, Hà Nội.

Mời quý vị và các bạn cùng theo dõi chương trình!

Nguồn: Truyền hình Quốc hội Việt Nam

VINH DỰ VÀ TỰ HÀO KHI NHẬN ĐƯỢC 02 GIẢI THƯỞNG SÁCH QUỐC GIA VIỆT NAM LẦN THỨ V, NĂM 2022

VINH DỰ và tự hào KHI NHẬN ĐƯỢC 02 GIẢI THƯỞNG

SÁCH QUỐC GIA VIỆT NAM lần thứ V, NĂM 2022

Tối 3/10/2022 tại Hà Nội. Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Xuất bản Việt Nam đã phối hợp tổ chức Lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ V.

Tham dự Giải thưởng Sách Quốc gia lần hai có 48/57 nhà xuất bản tham gia với 298 tên sách và bộ sách, bao gồm 386 cuốn (tăng 14 tên sách và bộ sách, 21 cuốn sách so với mùa giải lần thứ 4). Toàn bộ sách dự giải là sách in, chưa có sách điện tử. Kết quả, Hội đồng Giải thưởng Sách Quốc gia đã trao giải cho 26 cuốn sách, bộ sách, trong đó có 1 giải A, 9 giải B và 16 giải C. Các cuốn sách, bộ sách đạt giải được đánh giá là những tác phẩm giàu tính sáng tạo, mang tinh thần nhân văn sâu sắc, những công trình nghiên cứu khoa học hết sức công phu, nghiêm túc, có nhiều giá trị khoa học, xã hội và thực tiễn cao. Đáng chú ý nhất, trong 5 mùa giải chưa có mùa nào đủ 5 giải A và chưa tìm được giải đặc biệt. Năm nay chỉ có 1 giải A nằm trong mảng sách khoa học xã hội và nhân văn”.

Trong lần tham dự giải này, trong 09 giải B được trao, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đạt 02 giải B cho 02 cuốn sách “Lịch Hai mươi mốt thế kỷ (0001-2100)” của tác giả nhà nghiên cứu Lê Thành Lân và cuốn sách  “FDI – Nhiệm vụ kép trong bối cảnh mới” của tác giả TS. Phan Hữu Thắng, nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài.

Cuốn “ Lịch Hai mươi mốt thế kỷ (0001-2100)” của tác giả nhà nghiên cứu Lê Thành Lân đạt giải B

Cuốn sách được ra đời trong bối cảnh bước sang thế kỷ XXI, trước nhu cầu xây dựng bộ Quốc sử Việt Nam đã trở nên hết sức cấp thiết, năm 2012 Ban Chấp hành Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã chính thức kiến nghị được tổ chức nghiên cứu biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam nhiều tập mang tính chất của một bộ lịch sử quốc gia. Trong quá trình thực hiện, các nhà sử học soạn bộ Quốc sử đồ sộ, nhưng họ thiếu các sách để tra cứu về thời gian làm chỗ dựa chuẩn xác cho việc biên soạn lịch sử hàng ngàn năm của nước ta. Việc biên soạn và xuất bản bộ Quốc sử Việt Nam, rất cần sách để tra cứu về các mốc thời gian làm chỗ dựa chuẩn xác cho công tác biên soạn. Lịch sử dẫn chúng ta trở về quá khứ, nhưng trong các cuốn cổ sử của người xưa, thường nặng về phần sưu tầm mà ít chuyên về phần tra cứu. Việc các tư liệu Quốc sử được biên soạn đối chiếu với các tư liệu khác rất hữu ích cho giới nghiên cứu lịch sử, nhất là đối với phần cổ sử Việt Nam vốn là một lĩnh vực hết sức phức tạp, khó khăn. Cũng trong 36 năm qua, nhà nghiên cứu Lê Thành Lân là một nhà nghiên cứu độc lập với đề tài “Lịch cổ Việt Nam”, trong rất nhiều năm ông đã tự vận động để có được nguồn kinh phí tối thiểu từ các quỹ nghiên cứu trong và ngoài nước nhằm thực hiện đề tài do mình đặt ra, góp phần tôn vinh lịch vẻ vang của dân tộc, một nước Việt Nam đâm rễ sâu và phát triển mạnh trong ý thức độc lập của mình.

Là tư liệu lịch sử, lịch học, niên đại học, là công cụ tra cứu, đối chiếu đòi hỏi tính chuẩn xác và có tính liên ngành, giá trị thông tin cao, khẳng định sự tồn tại của Lịch cổ Việt Nam, cần cho việc lưu trữ tư liệu phục vụ nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn như nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, văn học cổ, gia phả học và các khoa học khác…Đáng chú ý các thư tịch cổ, nhất là các cuốn cổ sử đều ghi chép các sự kiện theo lịch cổ của các triều đại mà tác giả đã tìm ra.

Lịch gồm các nội dung: Lịch Trung Quốc từ năm 0001 – năm 1543 (chưa tìm thấy Lịch Việt Nam)

Lịch Việt Nam từ năm 1544 đến năm 2100

Đối chiếu qua lại từng ngày giữa Lịch Dương và Lịch Âm;

Tính được can chi, Tuần lễ, Lịch “sao” ngày Julius

Phụ lục

* Lịch Can chi vĩnh cửu

* Tuần lễ và lịch “sao” vĩnh cửu

Cuốn sách: “FDI – Nhiệm vụ kép trong bối cảnh mới/ FDI – Dual task in the new context ” của tác giả TS. Phan Hữu Thắng đạt giải B

“FDI – Nhiệm vụ kép trong bối cảnh mới/ FDI – Dual task in the new context” là một cuốn sách có giá trị được đầu tư viết công phu và xuất bản song ngữ Việt – Anh.

Trong bối cảnh mới, tình hình chính trị, kinh tế thế giới không thuận lợi cho đầu tư nước ngoài phát triển, khi đại dịch Covid-19 tiếp tục tác động xấu đến đến kinh tế toàn cầu, làm đứt gãy các chuỗi sản xuất, gây ra tình trạng kinh tế bị suy thoái và trì trệ nghiêm trọng, không loai trừ cả các tác động làm giảm mức phát triển của mọi nền kinh tế lớn.Trong khi cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh thương mại giữa các cường quốc, vẫn tiếp tục diễn ra.

Tuy vậy, thách thức lớn hơn trong bối cảnh mới là Việt Nam đã và đang cần phải hội nhập rất sâu vào nền kinh tế toàn cầu, với những Hiệp định Thương mại Tự do thế hệ mới, tức là phải tiến hành liên kết, hội nhập và cạnh tranh phát triển với những đối tác phát triển hàng đầu thế giới với những điều kiện “thông thoáng” nhất.

Thêm vào đó, trên quy mô toàn thế giới, cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư khi công nghệ và dịch bệnh đã và đang làm thay đổi sâu sắc cấu trúc kinh tế toàn cầu, đang thúc đẩy chuyển nhanh dần nền kinh tế truyền thống – vật thể sang nền kinh tế công nghệ cao – kinh tế số với qui mô tự động hóa sản xuất bao trùm hơn, phương thức điện tử hoá kinh doanh thông dụng hơn, vừa giúp giảm chi phí, vừa tiết kiệm được nguồn nhân lực, tiết kiệm được thời gian, nhưng đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực chất lượng cao nắm vững khoa học và công nghệ .

Trong bối cảnh đó, để phát triển bền vững với hiệu quả cao, Việt Nam phải có cách đi mới: biết tập trung sức người – sức của đầu tư vào công nghệ cao, vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, vào phát triển mạnh khối doanh nghiệp tư nhân lên một đẳng cấp mới ngay cả trong điều kiện ngân sách nhà nước còn rất eo hẹp như hiện nay. Để đạt được mục tiêu đầy thách thức trong điều kiện đó, Việt Nam càng phải tận dụng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế một cách khôn ngoan, tích cực tiếp tục hợp tác đầu tư nước ngoài để có được nguồn vốn ngoại lực tốt cho phát triển kinh tế – xã hội.

Cuốn sách “FDI-Nhiệm vụ kép trong bối cảnh mới”, đã tập trung vào làm rõ 2 nhiệm vụ đó như sau:

– Tiếp tục thúc đẩy các mặt tích cực của đầu tư nước ngoài đã đạt được trong thời gian qua.

– Khắc phục các mặt tiêu cực của đầu tư nước ngoài, tăng giá trị nhận được từ đầu tư nước ngoài trong giai đoạn mới.

– Tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân trong nước hợp tác đầu tư được với các doanh nghiệp nước ngoài.

– Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân. Có chính sách dành các ưu đãi nhất định cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác, liên doanh với nước ngoài;

– Thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển, có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đối với các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, từ đó tăng cường được mối liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài;

Viết bài: Th.s Trương Yến Minh

 

 

 

 

 

 

 

 

48 nhà xuất bản tham gia giải thưởng Sách Quốc gia 2022

Giải thưởng Sách Quốc gia lần thứ năm 2022 đang là sự kiện được người yêu đọc sách và người làm xuất bản trên cả nước đón chờ.

Hội nghị Chung khảo Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ năm

Ông Hoàng Vĩnh Bảo, Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam, cho rằng Giải thưởng Sách quốc gia, bên cạnh việc tôn vinh tác phẩm xứng đáng, còn có thể động viên, thu hút người cầm bút.

Hà Nội, sáng 8/9, Hội Xuất bản Việt Nam, Hội đồng Giải thưởng Sách quốc gia tổ chức Hội nghị Chung khảo Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ năm.

Để giải thưởng uy tín càng uy tín hơn

Ông Hoàng Vĩnh Bảo – Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam – nói Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ năm kế thừa, tiếp nối thành quả các mùa giải trước.

Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam yêu cầu các thành viên Hội đồng Chung khảo phối hợp để xét chấm giải chặt chẽ, chính xác, dựa trên kết quả chấm sơ khảo của các tiểu ban, sao cho đảm bảo độ uy tín của giải thưởng, để “giải thưởng uy tín càng uy tín hơn”.

Ông Hoàng Vĩnh Bảo – Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam. Ảnh: Duy Anh.

giai sach quoc gia anh 1

 

giai sach quoc gia anh 1
Ông Hoàng Vĩnh Bảo – Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam. Ảnh: Duy Anh.

Tại hội nghị, ông Hoàng Phong Hà – Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam – cho biết số lượng nhà xuất bản gửi sách tham dự mùa giải năm nay là 48/57 (nhiều hơn năm ngoái một nhà xuất bản); có 298 tên sách và bộ sách, bao gồm 386 cuốn (nhiều hơn 14 tên sách và bộ sách, tức 21 cuốn so với Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ tư).

Hội đồng Sơ khảo gồm có 5 tiểu ban chia theo thể loại, chủ đề sách: Chính trị, kinh tế; Khoa học xã hội và Nhân văn; Khoa học tự nhiên và Công nghệ; Văn hóa, văn học và nghệ thuật; Thiếu nhi.

Các tiểu ban chuyên ngành Hội đồng Sơ khảo Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ năm đã chấm sách dự giải thưởng theo quy định và đề cử lên Hội đồng Chung khảo xem xét, chấm và bầu chọn 28 tác phẩm đoạt giải thưởng.

Theo ông Hoàng Phong Hà, các tác phẩm đều bảo đảm chất lượng, nội dung, hình thức. “Các tiểu ban chấm rất nghiêm túc qua 2 vòng bỏ phiếu, tôi cũng được dự tiểu ban Kinh tế chính trị và thấy chấm, nhận xét rất nghiêm túc, khách quan”, Phó chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam nhận định.

Chấm giải chặt chẽ đúng quy trình

Để chọn ra những cuốn sách xứng đáng, mang giá trị phổ quát, các chuyên gia từ mỗi tiểu ban đã thảo luận sôi nổi, xem xét chấm giải kỹ lưỡng.

Phát biểu tại hội nghị, GS Nguyễn Khoa Sơn – Phó chủ tịch Hội Hàng không Vũ trụ Việt Nam, Trưởng tiểu ban sách Khoa học tự nhiên và công nghệ, Giải thưởng Sách quốc gia – cho biết tiểu ban chấm giải trên tinh thần chất lượng sách là tiêu chí hàng đầu.

Hội nghị Chung khảo Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ năm diễn ra sáng 8/9 ở Hà Nội. Ảnh: Duy Anh.

giai sach quoc gia anh 2

 

giai sach quoc gia anh 2
Hội nghị Chung khảo Giải thưởng Sách quốc gia lần thứ năm diễn ra sáng 8/9 ở Hà Nội. Ảnh: Duy Anh.

Ông Hoàng Vĩnh Bảo cũng nhận định ngoài tôn vinh tác phẩm, Giải thưởng Sách quốc gia còn có yếu tố lan tỏa, công nhận những giá trị phổ quát. Ông khẳng định: “Đã là giải là phải chọn chất lượng”.

Trả lời phỏng vấn của Zing, GS Nguyễn Khoa Sơn nói: “Tôi nghĩ các tác phẩm năm nay tốt hơn năm ngoái. Tinh thần là càng ngày càng tiến bộ. Đặc biệt, năm nay có sự xuất hiện của những cuốn sách là công trình nghiên cứu của nhiều năm. Ngoài ra, số lượng sách tham gia giải nhiều hơn. Chất lượng giải cũng có phần tốt hơn”.

Trưởng tiểu ban sách Khoa học tự nhiên và công nghệ khẳng định Giải thưởng Sách quốc gia vẫn quán triệt tốt quy định chấm giải. “Trong ban tôi, mỗi cuốn sách phải qua 3 vòng chấm nghiêm túc. Đấy mới chỉ là sơ khảo, lên sơ khảo còn phải chấm công phu hơn nữa”.

Theo nhà văn Lê Phương Liên, Trưởng tiểu ban sách Thiếu nhi, công việc xét giải ngày càng chặt chẽ. Ở năm thứ năm của Giải thưởng Sách quốc gia, số lượng nhà xuất bản gửi sách tới cũng nhiều hơn. “Giải thưởng không còn tập trung vào một vài nhà xuất bản nữa. Đó chính là điểm đánh giá độ phát triển của một giải thưởng”, bà nói.

Nguồn: Zingnews.vn

Những không gian cho người yêu văn chương trên mạng xã hội

“Hội Văn học kinh điển”, “Nhã Nam Reading Club” hay “Hiên sách” là những hội, nhóm trên mạng xã hội được thành lập với mục đích lan tỏa tình yêu văn chương đến độc giả.

Không chỉ là nơi cập nhật tin tức về các tựa sách văn học mới xuất bản và đăng tải những bài review sách văn học, không gian dành cho những ai yêu thích thể loại này ngày càng trở nên sôi nổi với tần suất đăng bài và lượt tương tác đáng chú ý. Nơi đây cũng là sân chơi tri thức cho người yêu văn chương.

Nhiều hội, nhóm trên mạng xã hội là không gian để chia sẻ về những cuốn sách văn học nổi bật. Ảnh: Hiên sách.

khong gian van hoc anh 1

 

khong gian van hoc anh 1
Nhiều hội, nhóm trên mạng xã hội là không gian để chia sẻ về những cuốn sách văn học nổi bật. Ảnh: Hiên sách.

Giới trẻ quan tâm tới văn chương nhiều hơn

Tháng 9 này, các thành viên trong Hiên sách đón chào chuỗi sự kiện mừng sinh nhật một tuổi của nhóm. Đây là không gian được thành lập với mong muốn mang đến cho bạn đọc một góc nhỏ bình yên để cùng nhau ngồi lại, chia sẻ bài viết về những cuốn sách văn học có ý nghĩa.

Cũng tại đây, “gu” đọc cũng như một số tác phẩm “gối đầu giường” của độc giả được bày tỏ và trao đổi thẳng thắn qua những bài đăng. Người yêu văn chương nhờ thế mà kết nối được gần với nhau hơn.

Huy Trương – admin Hiên sách – cho hay ngay từ khi thành lập nhóm (tháng 9/2021), anh đã nghĩ đến cái tên “Hiên sách”, bởi hiên nhà là nơi mà người ta thường ngồi để đọc sách.

“Vì thế, nhóm lấy tên Hiên sách với mục đích muốn đây là nơi mà bạn đọc có thể cùng nhau nói lên những tâm tư, suy nghĩ; cùng nhau thưởng thức các buổi tiệc văn chương nhẹ nhàng cùng tin tức, bài viết của mỗi cá nhân về những cuốn sách văn học mà họ yêu thích. Nói cách khác, Hiên sách mong muốn lan tỏa tình yêu văn chương đến mọi người”, Huy Trương nói.

Sau một năm thành lập, nhóm đã có hơn 8.000 thành viên. Đó cũng là một con số cho thấy sự quan tâm dành cho dòng sách văn học của giới trẻ hiện nay đã có tín hiệu khả quan.

Các bạn trẻ tìm đến sách văn học với nhiều mục đích khác nhau. Một số cho rằng đọc sách là cách để giải trí. Một số khác lại nói đọc để xây dựng đời sống nội tâm phong phú hoặc để chữa lành những tổn thương trong cuộc sống.

Được thành lập cách đây hơn một năm, Hội Văn học kinh điển hướng tới mục đích tạo ra một không gian để có thể giới thiệu, chia sẻ các tác phẩm văn học hay, nổi tiếng của thế giới cũng như trong nước.

Nam Đỗ – admin của hội này – cho biết cái tên Hội Văn học kinh điển có ý nhấn mạnh sự ưu tiên cho những bài đăng về các danh tác văn học cổ điển, sau đó là những tác phẩm đương đại xuất sắc.

Ở đây, các thành viên có cơ hội tìm hiểu thêm thông tin thú vị về sách, từ đó phát triển “gu” đọc đa dạng hơn. “Điều này hoàn toàn có lợi cho sự phát triển của văn hóa đọc cũng như ngành xuất bản tại Việt Nam”, admin Nam Đỗ bày tỏ.

Theo admin Hội Văn học kinh điển, số lượng tác phẩm văn học kinh điển của thế giới được xuất bản tại nước ta vẫn còn khá khiêm tốn. Nhưng bất chấp sự xuất hiện và cạnh tranh của nhiều loại hình văn học và giải trí khác, anh thấy ngạc nhiên vì lượng người dành sự quan tâm cho thể loại này vẫn ổn định. Đến nay, lượng thành viên trong nhóm là hơn 30.000.

Nam Đỗ tự tin cho rằng theo đà phát triển cũng như sự phục hồi văn hóa đọc, trong những năm tới, văn học kinh điển vẫn tiếp tục phát triển và là một thành tố không thể thiếu của thị trường sách nước ta.

Nhắc tới dòng sách văn học, không thể bỏ qua cái tên Nhã Nam. Được thành lập ban đầu với mục đích tạo ra không gian thảo luận về các đầu sách của đơn vị này, hiện Nhã Nam Reading Club đã trở thành nhóm công khai với các bài viết mở rộng hơn, gắn liền các đầu sách của mọi đơn vị xuất bản.

Sau gần 5 năm kể từ khi thành lập (tháng 5/2017), đến nay, nhóm nhận được sự quan tâm của hơn 165.000 thành viên. Con số này cho thấy sự quan tâm lớn của bạn đọc dành cho sách của Nhã Nam nói riêng và sách văn học của các đơn vị khác nói chung.

Tin tức về các sự kiện giao lưu tác giả cũng được cập nhật trên các nhóm dành cho người yêu sách. Ảnh: Hội Văn học kinh điển.

khong gian van hoc anh 2

 

khong gian van hoc anh 2
Tin tức về các sự kiện giao lưu tác giả cũng được cập nhật trên các nhóm dành cho người yêu sách. Ảnh: Hội Văn học kinh điển.

Sân chơi tri thức

Đào Phương Thu – admin Nhã Nam Reading Club – chia sẻ từ đầu năm 2020, nhóm mới bắt đầu thiết lập một đội ngũ quản lý sát sao do nhìn thấy sự phát triển mạnh mẽ và tiềm năng lớn từ cộng đồng này cả về số lượng cũng như chất lượng. Hầu hết bài viết đăng tải trên nhóm này đều nhận được sự tương tác lớn từ phía bạn đọc, tạo nên không khí trao đổi thoải mái, tích cực.

Nơi đây còn là không gian trao đổi về sách vở, tạo điều kiện cho giới trẻ tự rèn luyện, nâng cao khả năng phân tích, diễn đạt thông tin.

Admin Nhã Nam Reading Club cho biết các tin tức mới, được nhiều bạn đọc quan tâm sẽ được ưu tiên cập nhật. Chẳng hạn như tin bản quyền, tin phát hành những ấn bản đặc biệt, demo bìa sách… và những chương trình ưu đãi về sách.

Bên cạnh tin tức cập nhật sách văn học mới xuất bản và bài review sách văn học, Hiên sách cũng có những hoạt động gắn kết người yêu văn chương đến với nhau hơn. Với mong muốn kết nối cộng đồng yêu văn chương trên phạm vi cả nước, Hiên sách đã tổ chức thành công sự kiện “Trao đổi sách online” hồi đầu năm nay. Hiện tại, nhóm cũng tổ chức chuỗi sự kiện mừng sinh nhật một tuổi của mình.

“Chúng tôi rất mong muốn kết nối thêm các bạn yêu sách với nhau nên đã mang sự kiện ‘Trao đổi sách’ quay trở lại và lần này sẽ kết hợp giữa hình thức online và offline ở Hà Nội, TP.HCM ngay trong tháng 9 này. Ngoài ra, Hiên sách còn đang tổ chức cuộc thi viết chia sẻ lý do bạn tìm đến với sách. Đến nay, cuộc thi đã nhận về những bài tâm sự rất cảm động từ các bạn yêu sách trong nhóm”, admin Huy Trương nói.

Ngoài những bài review sách văn học, Hội Văn học kinh điển cũng có những hoạt động, trò chơi sôi nổi, sự kiện thi review sách văn học và tặng sách để tăng tính kết nối. Trong tương lai gần, nhóm cũng dự định tổ chức buổi giao lưu offline giữa các thành viên.

Nguồn: Zingnews.vn

AI sửa lỗi quy trình in 3D theo thời gian thực

Các nhà khoa học và kỹ sư không ngừng phát triển những loại vật liệu mới với đặc tính độc đáo để dùng trong công nghệ in 3D, nhưng để tìm ra được cách in các loại vật liệu này cũng là một câu hỏi hóc búa. Thông thường, người ta sẽ phải tạo ra hàng nghìn bản in khác nhau để thử-sai, từ đó xác định những thông số lý tưởng để in 3D một cách hiệu quả. Những thông số này bao gồm tốc độ in và lượng vật liệu mà máy sử dụng.


Các nhà nghiên cứu ở MIT mới đây đã phát triển một hệ thống học máy dùng thị giác máy tính để theo dõi và trực tiếp sửa lỗi trong quá trình sản xuất.

Wojciech Matusik, giáo sư về kỹ thuật điện và khoa học máy tính tại Phòng thí nghiệm Khoa học Máy tính và Trí tuệ Nhân tạo (CSAIL) ở MIT cho biết: “Dự án này là minh chứng đầu tiên cho việc xây dựng một hệ thống sản xuất có khả năng sử dụng học máy để học một quy trình kiểm soát phức tạp.”

Trong quy trình sản xuất kỹ thuật số, việc xác định các thông số lý tưởng là một trong những khâu tốn kém nhất vì cần phải tiến hành rất nhiều thử nghiệm. Dù kỹ thuật viên tìm thấy các thông số phù hợp thì cũng chỉ lý tưởng cho một tình huống cụ thể. Họ có rất ít dữ liệu về cách vật liệu sẽ hoạt động trong những môi trường khác, phần cứng hoặc lô sản xuất khác nhau.

Việc sử dụng một hệ thống học máy cũng đầy thách thức. Đầu tiên, các nhà nghiên cứu cần đo lường những gì đang xảy ra trên máy in theo thời gian thực. Để làm điều đó, họ phát triển một hệ thống thị giác máy tính sử dụng hai camera nhắm vào vòi phun của máy in 3D. Hệ thống sẽ chiếu sáng vào vật liệu khi nó được lắng lại, sau đó dựa trên lượng ánh sáng đi qua để tính toán độ dày của vật liệu. Kế tiếp, bộ điều khiển sẽ xử lý hình ảnh nhận được rồi điều chỉnh tốc độ nạp liệu hoặc hướng đi của máy in dựa trên bất kỳ lỗi nào mà nó nhìn thấy.

Nhưng việc đào tạo một bộ điều khiển dựa trên mạng thần kinh này đòi hỏi nhiều dữ liệu và sẽ yêu cầu tạo ra hàng triệu bản in. Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã xây dựng một trình mô phỏng thay thế. Mạng thần kinh sẽ được giao nhiệm vụ chọn ra các tham số in để tạo thành một đối tượng nhất định trong môi trường mô phỏng.

Trong trường hợp này, “lỗi” được hiểu là khi mô hình phân phối quá nhiều vật liệu, đưa vật liệu vào những chỗ đáng lẽ phải để hở, hoặc bơm nhầm vào những chỗ đáng lẽ phải để trống. Khi mô hình AI thực hiện nhiều bản in mô phỏng, nó sẽ cập nhật các quy tắc kiểm soát của mình để trở nên chính xác hơn.

Do thế giới thực lộn xộn hơn mô phỏng rất nhiều, các điều kiện in có thể thay đổi chỉ vì những biến động rất nhỏ hoặc tiếng ồn trong quá trình sản xuất, các nhà nghiên cứu đã tạo ra một mô hình số gần đúng với tiếng ồn từ máy in 3D để thêm nhiễu vào mô phỏng.

Khi kiểm tra, hệ thống điều khiển dùng AI này đã in ra đồ vật chính xác hơn bất kỳ bộ điều khiển nào được dùng để so sánh. Nó hoạt động đặc biệt tốt khi in các cấu trúc đỡ bên trong đối tượng. Một số bộ điều khiển bồi vật liệu quá nhiều đến nỗi vật thể bị phồng lên, nhưng bộ điều khiển của MIT đã điều chỉnh được đường in để vật thể luôn giữ ở mức cân bằng. Các quy tắc kiểm soát của AI thậm chí còn hiểu được cách vật liệu loang ra sau khi bồi đắp và điều chỉnh thông số cho phù hợp.

Sau khi chứng minh hiệu quả của kỹ thuật này đối với in 3D, các nhà nghiên cứu muốn phát triển bộ điều khiển cho các quy trình sản xuất khác. Họ cũng muốn xem có thể điều chỉnh cách tiếp cận này như thế nào khi có nhiều lớp vật liệu hoặc có nhiều vật liệu in ra cùng lúc. Ngoài ra, trong mô hình này, họ đã đặt cho mỗi vật liệu một độ nhớt cố định, nhưng trong lần thử nghiệm tương lai, họ sẽ dùng AI để nhận nhận dạng và điều chỉnh độ nhớt theo thời gian thực. □

Trang Linh dịch

Nguồn: https://news.mit.edu/2022/artificial-intelligence-3-d-printing-0802

Công bố quốc tế: Để thoát bẫy trung bình ?

Một thách thức đang đặt ra cho học thuật Việt Nam là làm thế nào để tránh công bố trên các tạp chí chất lượng kém? và hơn nữa là làm thế nào để có đủ nguồn lực cho các nhà khoa học hướng đến các nghiên cứu chất lượng ngày càng tốt hơn?

Một số tạp chí quốc tế thuộc tập đoàn xuất bản Springer Nature.

Đánh giá công bố: Không có một khuôn chung

Trong vài năm gần đây, ở Việt Nam xuất hiện hiện tượng công bố các bài báo trên các tạp chí rởm, được bình duyệt qua loa, thậm chí không bình duyệt. Chưa có một con số thống kê chính thức nào về số lượng công bố trên các tạp chí như thế này nhưng qua nhiều cuộc họp và những tranh luận trên mạng xã hội như facebook, nhiều nhà khoa học uy tín đã phản ánh nhiều trường hợp công bố trên các tạp chí chất lượng kém, về hiện tượng đầu nậu săn mồi sản xuất hàng trăm bài báo mỗi năm, mua bán bài báo chất lượng kém, trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các nhóm thảo luận về liêm chính khoa học.

Trong bối cảnh đó, mô hình xuất bản quốc tế lại đang có nhiều thay đổi. Trước đây chỉ có một hình thức xuất bản truyền thống, tạm gọi là xuất bản đóng bởi người đọc phải trả phí mới được đọc các bài báo đã xuất bản còn nhà nghiên cứu không mất phí nộp bài, các nhà khoa học tham gia vào quá trình bình duyệt không được trả phí và thường có thời gian bình duyệt lâu. Thì nay một hình thức xuất bản mới được hình thành, tạm gọi là xuất bản mở vì người đọc không phải trả phí đọc bài báo đã xuất bản, còn nhà nghiên cứu nộp bài mất phí để được bình duyệt, thời gian bình duyệt nhanh chóng hơn. Nhiều địa chỉ xuất bản săn mồi lợi dụng hình thức xuất bản mở để dễ dàng đăng bài báo ngay cả khi không cần bình duyệt hoặc bình duyệt qua loa.

Hiện tượng này xuất hiện khiến cho môi trường học thuật ở Việt Nam trở nên phức tạp hơn nhiều, nhất là khi cả giới nghiên cứu và quản lý khoa học vẫn còn băn khoăn tranh cãi ở việc đánh giá giá trị của các công bố khoa học. Những luồng ý kiến trái chiều về việc “đếm bài đo thành tích”, lấy các chỉ dấu IF (hệ số ảnh hưởng) hay citation (trích dẫn) làm thang đo vẫn còn chưa ngã ngũ. Nguyên nhân là vì giữa các ngành, thậm chí là trong một ngành, nhưng giữa khối lý thuyết và thực nghiệm có quá nhiều điểm khác biệt, không có một chiếc thước chung ngang bằng sổ thẳng giữa các ngành, giữa từng chuyên ngành, theo lý giải của GS Lê Văn Cường, Trường Kinh tế Paris (PSE), Đại học Paris 1 Pantheon-Sorbonne. Ông cho biết, có những chuyên ngành trong khoa học, một nhà nghiên cứu có thể đạt trích dẫn lên đến hàng nghìn, hàng chục nghìn, nhưng có chuyên ngành chỉ có lượng trích dẫn rất ít. Do đó, không thể so sánh lượng trích dẫn của GS. Ngô Bảo Châu – khoảng 1300 trích dẫn, với một nhà khoa học kinh tế có 10.000-15.000 trích dẫn. Sự bất đối xứng này còn hiển hiện ngay trong nhóm ngành Kinh tế: nghiên cứu lý thuyết có lượng trích dẫn và hệ số ảnh hưởng thấp hơn nhiều so với nghiên cứu thực nghiệm.

Đối với các công bố trên các tạp chí mở phải đóng phí, không nên sử dụng ngân sách nhà nước để tài trợ, vì có nhiều lựa chọn các tạp chí tương tự mà không phải đóng phí. GS. Phan Dương Hiệu

Trong một cuộc tọa đàm bàn tròn quy tụ các nhà nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài*, làm việc trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau – từ vật lý, kinh tế, toán học đến sử học – phần lớn các ý kiến đều đồng thuận là với một nền khoa học mới bước đầu hội nhập như Việt Nam, không dễ giải quyết cả hai vấn đề trên cùng lúc. Một số ngành khối ngành KHTN như toán, vật lý, hóa học… quy tụ được cộng đồng nghiên cứu giàu kinh nghiệm cọ xát với môi trường học thuật quốc tế trong nhiều thập kỷ và được nhiều nhà khoa học uy tín quốc tế dẫn dắt nên đã định hình được những quy chuẩn nhất định khi công bố. Nhưng mặt khác, các ngành thuộc khối ngành KHXH&NV lại chưa xây dựng được cộng đồng khoa học có mức độ hội nhập sâu rộng, chưa có nhiều kinh nghiệm phân biệt được “bẫy” của các tạp chí, nhà xuất bản chất lượng kém. Ở một số lĩnh vực, không chỉ ít người có khả năng dẫn dắt, cộng đồng nghiên cứu còn mỏng, mà còn xuất hiện pseudo – leader (giả dẫn đầu trong khoa học) không có công bố nghiêm túc nhưng vẫn tạo được ảnh hưởng. Khi đó, không chỉ khó phân biệt thật giả, mà con đường bước qua “bẫy số lượng công bố trung bình” để nuôi dưỡng các công bố chất lượng cao trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Cuộc tranh luận trong lòng cộng đồng khoa học Việt Nam về việc phân biệt các tạp chí thật – rởm và tạp chí ở vị trí “giáp ranh” (borderline) dấy lên một hai năm nay khiến các hội đồng khoa học của Quỹ NAFOSTED, nơi thường tiên phong thảo luận về cách thức quản lý mới trong khoa học, đã đưa ra đề xuất tiếp tục chọn lọc, sửa đổi danh mục tạp chí uy tín, đồng thời có những khuyến nghị về việc đăng bài ở các tạp chí mở, tránh các tạp chí săn mồi. Trước khuyến nghị đó, gần đây Quỹ NAFOSTED đã ban hành Danh mục tạp chí có uy tín trong lĩnh vực KHTN và kỹ thuật và Quy định về Liêm chính nghiên cứu áp dụng đối với các nhiệm vụ KH&CN (tháng 2/2022) với mong muốn thúc đẩy môi trường khoa học trung thực, minh bạch và khả tín. Danh mục này đã loại bỏ 25% số lượng các tạp chí trong danh mục SCIE thuộc nhóm cuối theo xếp hạng của Web of Science, quan trọng hơn, loại bỏ mọi tạp chí được xếp vào dạng “ăn thịt”, “săn mồi” xuất bản bài báo… Nhiều nhà khoa học trong nước hy vọng tuyên bố của Quỹ NAFOSTED sẽ mở rộng ra và trở thành yêu cầu chung của các cơ quan tài trợ khoa học trong nước.

TS Trần Thị Hồng Hạnh, Viện Hóa sinh biển (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Ảnh: Viện Hàn lâm KH&CN

Đây là cách làm cần thiết nhưng có lẽ còn chưa đủ với đặc thù của từng ngành, bởi một danh sách chung khó lòng bao phủ hết vì có thể “có tạp chí tốt cho ngành này nhưng lại không đủ tốt cho ngành khác”, GS Phan Dương Hiệu, Trường Viễn Thông thuộc Đại học Bách Khoa Paris, Pháp cho biết. Nhìn nhận một cách thấu đáo hơn, sự quyết liệt ấy vô hình trung đã loại đi nhiều không gian học thuật của các nước Đông Á – vốn cũng có truyền thống nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn về Việt Nam – nếu các nhà quản lý và các nhà khoa học khác ngành chỉ nhìn vào các chỉ mục của ISI/Scopus và khối các tạp chí bằng tiếng Anh, Pháp, theo nhận định từ một “người trong cuộc”, PGS.TS Trần Trọng Dương, Viện Hán Nôm, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

Do vậy, để “dung hòa” được cả việc chọn lọc tạp chí và đáp ứng được đặc điểm của từng ngành, GS. Phan Dương Hiệu đã đề xuất một cách làm phù hợp: các ứng viên đề xuất đề tài thì đồng thời tự đề xuất danh sách tạp chí uy tín mà họ dự định sẽ công bố. Khuyến nghị này của GS. Phan Dương Hiệu dựa trên nguyên tắc của lý thuyết trò chơi “người đăng ký không muốn chịu sự rủi ro về việc đưa tạp chí rởm vào trong danh sách trước khi đề tài được đánh giá vì nguy cơ một người trong hội đồng nhìn thấy tạp chí không phù hợp sẽ loại đề tài”. Các hội đồng hoàn toàn có thể mời các chuyên gia đủ năng lực, thậm chí là chuyên gia quốc tế thẩm định đâu là tạp chí tốt theo các chuyên ngành hẹp.

Ở một số lĩnh vực, không chỉ ít người có khả năng dẫn dắt, cộng đồng nghiên cứu còn mỏng, mà còn xuất hiện pseudo – leader (giả dẫn đầu trong khoa học) không có công bố nghiêm túc nhưng vẫn tạo được ảnh hưởng. Khi đó, không chỉ khó phân biệt thật giả, mà con đường bước qua “bẫy số lượng công bố trung bình” để nuôi dưỡng các công bố chất lượng cao trở nên khó khăn hơn rất nhiều.

Tuy nhiên, đối với các công bố trên các tạp chí mở phải đóng phí, GS. Phan Dương Hiệu duy trì quan điểm: không nên sử dụng ngân sách nhà nước để tài trợ, vì có nhiều lựa chọn các tạp chí tương tự mà không phải đóng phí. Hoặc nhà nghiên cứu phải giải thích được lý do mình lựa chọn tạp chí mở này. Khuyến cáo như vậy sẽ hạn chế được việc lạm dụng ngân sách tài trợ để đăng tràn lan ở các tạp chí mở chất lượng kém.

Kết quả phụ thuộc vào chính sách đầu tư

Câu chuyện của khoa học Việt Nam, một nền khoa học mới hội nhập theo tiêu chuẩn quốc tế được hơn hai thập niên, không chỉ dừng ở đó. Có một vấn đề khác, thường được nhắc đến trong nhiều hội thảo lớn nhỏ, là làm thế nào có được các công bố đột phá thực sự rất quan trọng trên bình diện quốc gia. Cần phải sớm có định hướng cho những nghiên cứu chất lượng bởi theo GS. Lê Văn Cường “Có thể chúng ta nghĩ là lượng sẽ biến thành chất nhưng để điều này tự diễn ra thì rất khó, chất là chất mà lượng là lượng”. Cùng chung quan điểm này, GS.Bs. Đinh Xuân Anh Tuấn, nguyên Hiệu trưởng Viện Trường Đại học Y khoa Corse, Pháp nhận xét “đứng từ bình diện quốc gia, nếu chúng ta cứ mải chạy theo số lượng thì mãi mãi cứ làng nhàng, lúc đó thì nguyên cả nền khoa học không phát triển. Chúng ta cần người dẫn đầu”. Ông lấy ví dụ về môi trường học thuật của Harvard, để dự tuyển vào đây, ứng viên chỉ cần nộp 12 bài quan trọng nhất, có thể IF cao hay thấp không cần thiết nhưng phải có đóng góp thực sự cho khoa học. Còn sau con số 12 bài đó thì dù có đăng 12 nghìn bài cũng không có ý nghĩa gì nữa.

Việc có nhiều công bố đột phá rất có thể là cơ hội mở đường cho khoa học Việt Nam có được những nhà khoa học lớn, có thể dẫn dắt các ngành. Nhưng trên thực tế, câu chuyện phức tạp hơn nhiều. Ở mỗi mức độ nghiên cứu, theo GS. Nguyễn Tiến Dũng, Đại học Toulouse, có thể tạm phân loại gồm các nhà nghiên cứu đã đến ngưỡng trưởng thành “dẫn dắt” (leader), “môn đệ” (follower) hay chỉ ở mức độ “tham quan” (tourist) lại có thể công bố ở những tạp chí top đầu ngành hay là những tạp chí chỉ yêu cầu mức độ chất lượng bài ở mức vừa vừa. “Một nền khoa học luôn cần có cả ba nhóm này. Nhà khoa học dẫn dắt đủ khả năng, được nuôi dưỡng để theo đuổi các tạp chí top field có thể mở ra khuynh hướng mới để phát triển của ngành; đa phần còn lại của giới khoa học – là các môn đệ để thực hiện các bài toán chi tiết, các thao tác cụ thể; và cả những người “tham quan khoa học” một đời chỉ công bố một vài bài báo nhưng những hiểu biết khoa học ấy lại hữu ích cho công việc hằng ngày của mình”, ông lý giải.

Với nhóm ngành KHXH&NV, việc đưa ra các danh sách quá tập trung vào chỉ mục ISI/Scopus và tạp chí tiếng Anh vô hình trung sẽ loại đi những môi trường học thuật quan trọng khác như khối Đông Bắc Á. Trong ảnh: Sách Nghiên cứu thư tịch chữ Hán Đông Á và từ thư cổ Hán Nôm Việt Nam (東亞漢籍與越南漢喃古辭書研究), Hà Hoa Trân, Nguyễn Tuấn Cường chủ biên, Bắc Kinh: Trung Quốc Xã hội khoa học Xuất bản xã, 2017.

Do đó, chúng ta cũng phải chấp nhận thực tại này. “Không thể nào tránh khỏi việc có những người sẽ công bố ở tạp chí làng nhàng, vì người trẻ ban đầu chưa thể nộp được tạp chí tốt. Nhưng khi người đó tiến bộ từ từ thì có thể dần sẽ có bài tốt hơn, có thể sẽ có những bài được top field. Nhà nghiên cứu tầm nào thì in tạp chí ở tầm đó”, GS. Trần Nam Bình, Đại học New South Wales, Úc cho biết. “Do đó, cần chính sách đầu tư phù hợp với từng nhóm”.

Những điều các nhà khoa học nêu rất đáng suy nghĩ, bởi sau lứa những tên tuổi lớn như Lê Văn Thiêm, Hoàng Tụy, Phan Đình Diệu…, làm sao ở Việt Nam có nhiều nhà khoa học “leader”, tạo cú hích cho nhiều công bố đột phá? GS. Trần Nam Bình lưu ý, để bước được qua ranh giới “làng nhàng” thì không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của cá nhân nhà khoa học là đủ. Vì trên thực tế mỗi cá nhân nhà khoa học chịu sự chi phối của một hệ thống các chính sách quản lý khoa học, các áp lực của cơ quan chủ quản trong việc giao chỉ tiêu số lượng công bố để tham gia cuộc cạnh tranh vị trí xếp hạng – vốn cũng lấy các chỉ số trắc lượng khoa học làm xương sống cho đánh giá năng lực. Việc người nghiên cứu coi trọng và tìm mọi cách để đảm bảo chất lượng khoa học của các bài tạp chí hay chỉ thuần túy chạy theo số lượng công bố “đếm đầu bài nhận tiền” có liên quan chặt chẽ tới cách đánh giá kết quả, thành tích khoa học, cách đầu tư cho khoa học tính đến sự khác biệt về chất lượng hay “đổ đồng”.

Vì vậy, GS. Phan Dương Hiệu khuyến nghị, cần có chính sách đặc thù cho các nhóm đã có thể đăng bài top field tới mức không cần có ràng buộc về điều kiện thời gian hay số lượng bài quá chặt chẽ, “5 – 10 năm có công bố đột phá cũng được”, vì các nhà khoa học đầu ngành đã tự định hình được hướng đi và trách nhiệm của mình với cộng đồng khoa học. “Còn với nhóm mới vào thì vẫn có chính sách khuyến khích họ đăng ở các tạp chí không phải top đầu ngành nhưng là các tạp chí nghiêm túc. Việc có nhiều bài ở các tạp chí nghiêm túc tuy chất lượng không quá cao nhưng cũng đẩy mạnh nền khoa học lên. Đây cũng là việc có ích chứ không phải chỉ cố gắng công bố ở các tạp chí top field để rồi cả đất nước chỉ có những bài đếm trên đầu ngón tay thì theo thời gian có khi lại làm nền khoa học đi xuống”, GS. Phan Dương Hiệu nói.

Vài năm gần đây, một số thành viên trong các hội đồng ngành của NAFOSTED, như PGS.TS Đặng Hoàng Minh (Đại học Giáo dục, ĐHQG HN), Hội đồng Ngành Tâm lý học đề nghị rằng “sau một thời gian thực hiện chính sách tài trợ cho các đề tài với yêu cầu đầu ra là bài báo quốc tế, và đã tạo một số lượng công bố quốc tế nhất định, Quỹ nên nghiên cứu đến phương án cần phân tầng, phân lớp đề tài”. PGS.TS Trần Đình Phong, Đại học Việt Pháp (USTH) cũng đề xuất mô hình tài trợ ba mức giống cách mà Quỹ của Hội đồng Khoa học châu Âu (European Research Council -ERC) thực hiện. Ví dụ đề tài nhóm 1 được tài trợ ngân sách lớn hơn, thời gian dài hơi hơn, dành cho các nhà khoa học uy tín đã có bài ở các tạp chí tốt thuộc tốp đầu của các ngành, nhằm khuyến khích và yêu cầu họ chú trọng đến chất lượng sản phẩm nghiên cứu, luôn đặt mục tiêu phải nghiên cứu có tiếng vang và chỉ hướng tới những tạp chí rất uy tín (và cũng chỉ cần một bài cho một đề tài); còn đề tài nhóm 2, ngân sách thấp hơn, thời gian có thể ngắn hạn hơn, dành cho các nhà nghiên cứu trẻ, công bố ở các loại tạp chí mức thấp hơn.

Nếu với công bố quốc tế, chúng ta cứ mải chạy theo số lượng thì mãi mãi cứ làng nhàng, lúc đó thì nguyên cả nền khoa học không phát triển. Chúng ta cần người dẫn đầu. GS.BS Đinh Xuân Anh Tuấn

Việc điều chỉnh chính sách phù hợp với thể trạng nội lực của các nhóm có ý nghĩa rất quan trọng, nó sẽ quyết định tới đầu ra của công bố, kể cả công bố trong các nhóm ngành KHXH&NV, được cho là ít tốn kém hơn các ngành KHTN. Một nhà nghiên cứu kinh tế giấu tên, thuộc top 5 nhà kinh tế công bố tốt nhất ở Việt Nam và thường đặt chủ đích hướng tới công bố ở các tạp chí top field cho biết, anh rất mong muốn được đầu tư nghiên cứu dài hơi cho “ra tấm ra món”, nhưng hiện nay cách tài trợ khoa học, kể cả của Quỹ NAFOSTED khiến anh không đủ thời gian và ngân sách theo đuổi những đề tài lớn. Quỹ thời gian hai năm và ngân sách eo hẹp thường khiến anh phải xoay sang công bố ở những tạp chí vừa vừa thay vì chỉ tập trung theo đuổi top field. Hay gần đây, TS Khuất Thu Hồng xin tài trợ NAFOSTED để nghiên cứu về nam giới và nam tính nhưng không đủ ngân sách để thực hiện khảo sát cỡ mẫu mong muốn nên đã phải xin tài trợ thêm từ Australian Aid.

Trước những thảo luận này, những dịch chuyển về mặt chính sách đã manh nha xuất hiện. Cơ quan tài trợ có nhiều đổi mới như Quỹ NAFOSTED đã bắt đầu cố gắng tạo ra thay đổi, bằng việc thí điểm tài trợ cho các nhóm nghiên cứu mạnh trong khối KHTN với thời gian tài trợ dài hơn. Hy vọng rằng những bước đi đầu tiên này sẽ mở đường cho một cơ chế tài trợ phù hợp hơn, để giới khoa học trong nước thoát “bẫy” công bố trung bình. □

———-

Lời cảm ơn: Tác giả trân trọng cảm ơn sự tư vấn về nội dung của các giáo sư GS. Trần Nam Bình (Kinh tế), GS. Phạm Minh Châu (ngành Hóa học), GS. Trần Chung, (Kinh tế), GS. Lê Văn Cường (ngành Kinh tế), GS. Nguyễn Tiến Dũng (Toán học),  PGS. Trần Trọng Dương (Lịch sử), GS. Phan Dương Hiệu (Mật mã), GS. Đinh Xuân Anh Tuấn (Y khoa), GS. Phạm Xuân Yêm (Vật lý) thông qua tọa đàm bàn tròn thảo luận về chất lượng công bố quốc tế do GS. Lê Văn Cường tổ chức. 

Nguồn: https://tiasang.com.vn/

Công nghệ viễn thám: Cảnh báo sớm trượt lở đất

Những phát triển mới về công nghệ ngày càng cho phép chúng ta lường trước được nguy cơ rủi ro từ tự nhiên. Một trong số đó là công nghệ viễn thám, công nghệ hữu hiệu giúp cảnh báo trượt lở đất.

Dân quân xã gùi hàng cứu trợ dân vùng bị sạt lở ở các xã Phước Thành và Phước Lộc, huyện Phước Sơn (Quảng Nam) vào tháng 11/2020. Nguồn: nld.com.vn

Chắc hẳn chúng ta còn nhớ những cơn bão năm 2020 và hệ quả nó để lại cho khu vực miền Trung. Theo báo cáo của Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai, mưa lũ, lũ quét, sạt lở đất trên diện rộng làm 249 người chết, mất tích, 1.531 nhà sập, ước tính tổng thiệt hại về kinh tế trên 36.000 tỉ đồng. Những cái tên như Rào Trăng 3, Trà Leng, Phước Sơn… đều để lại nhiều dư âm chết chóc đau buồn.

Trượt lở đất không là hiện tượng xảy ra ở riêng Việt Nam. Các số liệu thống kê toàn cầu cho thấy châu Á đang là khu vực chịu thiệt hại lớn nhất về người do trượt lở đất đá gây ra Về bản chất, trượt lở là quá trình lớp đất, đá trên bề mặt sườn dốc dịch chuyển xuống nơi có địa hình thấp hơn và vẫn diễn ra trong suốt hàng triệu năm qua. Quá trình diễn này ra tự nhiên phổ biến ở vùng đồi núi và cùng với dòng chảy của nước mang phù sa cho những đồng bằng châu thổ màu mỡ. Khi con người ngược dòng chảy của nước, tìm cách thúc đẩy phát triển nơi núi rừng cũng là lúc chúng ta đối mặt với những hiểm họa từ thiên nhiên. Phát triển giao thông, khai thác tài nguyên, hoạt động dân sinh thiếu bền vững với kết quả là sự xâm lấn thô bạo vào tự nhiên đang khiến chúng ta chịu sự đe dọa của thiên tai. Trong đó, trượt lở đất đá để lại thiệt hại ngày một gia tăng cho con người trong những năm gần đây.

Các yếu tố tự nhiên gây ra trượt lở đất gồm có địa vật lý và khí tượng… như động đất, địa chấn, mưa bão kéo dài, áp thấp nhiệt đới cùng với những tác nhân từ quá trình phát triển kinh tế thiếu bền vững, gia tăng dân số quá nhanh và mất lớp phủ tự nhiên cũng làm gia tăng sức tàn phá của hiện tượng này. Mức độ ảnh hưởng của trượt lở phụ thuộc vào vị trí, tốc độ, khối lượng đất đá và thời điểm xảy ra. Điều kiện thời tiết mưa bão kết hợp với trượt lở đất đá ở các vùng đồi núi thường có sức tàn phá khốc liệt nhất.

Khi con người ngược dòng chảy của nước, tìm cách thúc đẩy phát triển nơi núi rừng cũng là lúc chúng ta đối mặt với những hiểm họa từ thiên nhiên, trong đó, trượt lở đất đá để lại thiệt hại ngày một gia tăng cho con người những năm gần đây.

Với diện tích 3/4 là núi đồi, Việt Nam đang phải đối mặt với tai biến trượt lở đất xuất hiện từ 14 tỉnh miền núi phía Bắc và trải dài khắp miền Trung. Cộng thêm với tác động ngày một phức tạp của biến đổi khí hậu, chúng ta cần những công cụ dự báo có độ phủ rộng khắp, có khả năng triển khai tự động nhưng vẫn đảm bảo cung cấp đủ thông tin và kịp thời để giám sát và phát hiện trượt lở đất. Với công nghệ này, chúng ta cũng cần tự chủ được về mặt công nghệ và dữ liệu.

Những công cụ cảnh báo sớm

Thật khó để ngăn không cho những thảm họa tự nhiên xảy ra nhưng chúng ta luôn có cách để phòng tránh và cảnh báo sớm. Tuy nhiên, điểm khó trong cảnh báo sớm trượt lở đất là tính bất ngờ, khó dự báo, thiếu hệ thống giám sát trượt lở đất dẫn đến khó khăn trong việc cảnh báo sớm, sơ tán người dân và cứu hộ cứu nạn. Chính vì vậy, các nghiên cứu khoa học thường tập trung vào giải quyết ba vấn đề chính của trượt lở: dự báo, phân vùng cảnh báo/nguy cơ và hệ thống giám sát.

Ở Việt Nam, từ trước đến nay đã áp dụng nhiều công cụ truyền thống để giám sát, phát hiện các điểm trượt lở cố định. Trong đó, công tác thực địa, thu thập mẫu vật giúp xác định đặc tính của mỗi điểm trượt lở như tính chất cơ học của đất đá, sự biến đổi của đất đá qua các tác động của tự nhiên (mưa bão) hay yếu tố con người (thay đổi bề mặt lớp phủ) thường được quan tâm dưới góc nhìn địa chất. Những dữ liệu cơ lý của đất được mô hình hóa trong các bài toán mô phỏng để đem lại thêm thông tin dự báo trượt lở đất dưới các kịch bản có sẵn. Khi nhận diện được một số điểm trượt trên diện tích lớn, có thể đe dọa tài sản, con người, nhiều công cụ được lắp đặt bao gồm giám sát gián tiếp (nước mưa, nước ngầm…), trực tiếp (trạm đo định vị vệ tinh liên tục, đo dịch chuyển theo chu kì…) để quan trắc và thu thập dữ liệu. Ví dụ một số công nghệ mới dựa trên hệ thống trạm dày đặc đo địa chấn hay các rung động lan truyền do đất đá trượt lở để xác định được nguồn phát hay vị trí sạt lở (phương pháp này tương tự như cách các nhà khoa học tìm ra chấn tiêu của một trận động đất, hay nguồn gốc nơi xảy ra sự va chạm dẫn đến những cơn địa chấn dù vị trí xảy ra có thể ở độ sâu nhiều kilomet dưới mặt đất). Khi được bổ sung các yếu tố quan trọng khác bao gồm địa hình, dòng chảy, phân bố dân cư, giao thông…, tất cả những thông tin thu thập được cho phép phân vùng cảnh báo nguy cơ dưới dạng bản đồ.

Dù đã có nhiều bước tiến đáng kể về dữ liệu và công nghệ nhưng ngày nay, việc đưa ra dự báo trượt lở vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính dẫn đến dự báo chưa đạt được độ chính xác cần thiết là do trong trượt lở đất có sự tương tác lẫn nhau của rất nhiều yếu tố, chúng tạo nên những mối liên kết phức tạp giữa tác động ngoại lực và nội lực.

Hình 1. Ảnh vệ tinh trên ứng dụng Google Earth Pro chụp điểm sạt lở Trà Leng, Quảng Nam. Trượt lở diễn ra vào tối 28/10/2020 cùng với đợt mưa do bão Molave đổ bộ vào miền Trung. Chính giữa ảnh là khu vực 11 ngôi nhà (ảnh trái chụp 24/04/2019) đã bị đất đá vùi lấp, cướp đi sinh mạng của ít nhất 11 người (ảnh phải chụp 22/06/2021).

Là một lĩnh vực nghiên cứu hấp dẫn trên thế giới trong những năm gần đây, trượt lở đất thường dựa trên một bộ khung chung, trong đó nguồn dữ liệu đang ngày một phong phú hơn và một trong những đóng góp đáng kể nhất là dữ liệu vệ tinh với độ bao phủ rộng khắp và cho phép sử dụng không giới hạn. Mặt khác, các phương pháp xử lí dữ liệu đang chuyển dịch từ mô hình thuần vật lý sang nhóm các phương pháp về học máy (học máy, học sâu, mạng thần kinh nhân tạo) và đầu ra là các dạng bản đồ dự báo, nguy cơ hoặc cảnh báo.

Một hướng đi khác là kết hợp ảnh chụp vệ tinh quang học và radar. Giống như ảnh thường, ảnh vệ tinh ghi lại những chi tiết trên khung hình ở thời điểm chụp, qua đó so sánh từ hai ảnh trở lên chúng ta tìm ra điểm khác biệt. Với những dấu hiệu nhận biết riêng biệt, bằng mắt thường ta có thể xác định vị trí điểm sạt lở cũng như hình dung một phần quá trình đã diễn ra.

Những phân tích trên cho thấy các công cụ truyền thống phù hợp cho các điểm cố định nhưng khi giám sát và triển khai trên diện tích rộng lớn chúng ta cần đến những con mắt từ bầu trời mới có thể giải quyết được những yêu cầu này. Lời giải của nó đang dần trở nên rõ ràng hơn trong những năm gần đây nhờ tiến bộ của công nghệ viễn thám, trong đó ảnh chụp từ vệ tinh đóng vai trò then chốt.

Vì sao ảnh vệ tinh lại được đánh giá cao như vậy? Trong quá trình bay trên quỹ đạo cách Trái đất khoảng 600-800 kilomet, vệ tinh quang học có thể thu về các tấm ảnh tương tự trên máy ảnh hoặc điện thoại thông minh nhưng với độ bao phủ rộng từ vài trăm tới vài nghìn kilomet vuông. Chúng sẽ ghi nhận hầu hết dấu hiệu của trượt lở đất như lớp phủ cây cối thay thế bằng đất trống, đường sá, nhà cửa bị vùi lấp… Nhờ đó bằng trực quan so sánh các ảnh chụp ở những thời điểm trước và sau mỗi đợt mưa bão, chúng ta đều có thể nhận ra những thay đổi trên bề mặt Trái đất, ví dụ như các điểm trượt lở, ngập lụt. Tuy nhiên, vệ tinh quang học cũng có những khiếm khuyết nhất định như phụ thuộc hoàn toàn vào điều kiện thời tiết và ánh sáng Mặt trời. Vệ tinh radar với tần suất chụp ổn định và không phụ thuộc các yếu tố thời tiết là một sự bổ sung cần thiết cho các nghiên cứu về trượt lở quy mô cả nước.

Nguyên nhân chính dẫn đến dự báo chưa đạt được độ chính xác cần thiết là do trong trượt lở đất có sự tương tác lẫn nhau của rất nhiều yếu tố, chúng tạo nên những mối liên kết phức tạp giữa tác động ngoại lực và nội lực.

Dữ liệu thu thập được từ vệ tinh là dạng tín hiệu số. Mỗi bức ảnh vệ tinh quang học được hình thành từ hàng triệu điểm ảnh, mỗi điểm ảnh bao phủ một diện tích 30mx30m (vệ tinh Landsat) cho đến 0,5mx0,5m (vệ tinh Pléiades), hay còn gọi là độ phân giải không gian. So sánh các ảnh này trước và sau mỗi đợt mưa lớn có khả năng phát hiện các điểm trượt lở có diện tích từ vài trăm mét vuông trở lên, tùy thuộc vào độ phân giải của ảnh. Bên cạnh đó, vệ tinh radar cũng có khả năng bao quát tương tự với ưu thế chụp ảnh không phụ thuộc vào điều kiện thời tiết nhưng có quy trình xử lý ảnh phức tạp hơn nhiều và cung cấp thông tin đa dạng hơn. Sử dụng dữ liệu ảnh từ nhiều vệ tinh sẽ cho phép khả năng giám sát tiệm cận thời gian thực (near real-time), qua đó tăng cường khả năng phản ứng nhanh trước các diễn biến bất thường của thiên tai.

Những ưu điểm vượt trội của dữ liệu vệ tinh cùng với quá trình tư nhân hóa đã thúc đẩy sự phát triển của ngành viễn thám thông qua sự gia tăng nhanh chóng về số lượng vệ tinh và công nghệ xử lý ảnh. Kết quả xử lý ảnh vệ tinh có độ chính xác cao và dần trở nên phổ biến. Các chính phủ và doanh nghiệp công nghệ đều hiểu được tầm ảnh hưởng của công nghệ viễn thám nên đã tạo điều kiện phát triển cho ngành nhờ vào phát triển dữ liệu mở (dự án Copernicus của liên minh châu Âu EU) … và hệ thống xử lí máy tính hiệu năng cao (Google, Amazon…). Các chính sách này cho phép ngay cả những người dùng bình thường với đam mê tìm hiểu về ảnh vệ tinh cũng có thể tiếp cận các ứng dụng từ đơn giản đến độ chính xác cao.

Việt Nam có thể học hỏi những gì?

Ở Việt Nam, việc xây dựng bản đồ phân vùng cảnh báo/nguy cơ là mục tiêu chính của các đề tài nghiên cứu về trượt lở trong những năm gần đây. Các bản đồ này thực tế không phát huy hiệu quả như mong muốn do hai yếu tố chính. Thứ nhất là do độ phân giải hay tỉ lệ bản đồ chưa cao, ví dụ chỉ đến cấp xã. Vì vậy, mỗi khi có cảnh báo, các cấp chính quyền không thể di dời dân số cả một xã để phòng tránh thiên tai do tỉ lệ bản đồ chỉ đến cấp độ tương đương. Thứ hai là thông tin cảnh báo chưa dễ tiếp cận bởi các cán bộ quản lý hành chính và người dân khó mà đọc hiểu được các bản đồ bao gồm kí hiệu khoa học trong khi điều họ cần nhất là nơi nào có thể xảy ra trượt lở? khi nào cần sơ tán? nếu xảy ra trượt lở thì chạy đi đâu?

Do đó, để khắc phục hai nhược điểm này, việc xây dựng bản đồ phân vùng cảnh báo/nguy cơ cần thực hiện chuyển đổi số hay số hóa các bản đồ, dữ liệu và các sản phẩm từ nghiên cứu khoa học phải đáp ứng được nhu cầu xã hội.

Hiện tại, chúng ta đang có nhiều lợi thế để làm được điều này. Với nguồn dữ liệu lớn về ảnh vệ tinh, chúng ta đủ khả năng xây dựng một hệ thống tự động phát hiện trượt lở trên quy mô cả nước và lưu trữ thành cơ sở dữ liệu. Trượt lở khó dự đoán nhưng có tính lặp lại tại những vị trí đã từng xảy ra nên dữ liệu sẽ cho thấy những khu vực bị tiềm ẩn nguy cơ. Với cơ sở dữ liệu này kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống sẽ là nền tảng thiết yếu cho những nghiên cứu chuyên sâu về trượt lở, quy hoạch phát triển trong tương lai. Với hệ thống tự động cập nhật và lưu trữ này, chúng ta rất dễ dàng điều chỉnh để áp dụng cho các ứng dụng hữu ích khác trong quản lý tài nguyên, nông nghiệp, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra.

Trong quá trình này, chúng ta cũng cần chú ý một điểm quan trọng, đó là công nghệ viễn thám hay ảnh vệ tinh thuộc nhóm ngành công nghệ cao nên cần được liên tục cập nhật để bắt kịp xu hướng. Trong điều kiện kinh phí đầu tư còn hạn hẹp và nguồn nhân lực chưa thật dồi dào thì chúng ta có thể tăng cường hợp tác quốc tế để chủ động nắm bắt công nghệ mới và giúp phát triển đội ngũ nhân lực tiềm năng trong nước.

Tuy nhiên, sự tự chủ về nguồn nhân lực cũng cần đi kèm với tự chủ về nguồn dữ liệu. VNREDSat-1 là vệ tinh quang học đầu tiên của Việt Nam được phóng lên không gian (5/2013) với độ phân giải ảnh đạt 2,5m và không thua kém các vệ tinh quốc tế về mặt kỹ thuật. Sau gần 10 năm, khả năng tiếp cận dữ liệu của nó vẫn còn hạn chế dẫn đến không khai thác hết được tiềm năng vốn có, trong đó, việc sử dụng dữ liệu phải trả phí, quy trình đăng ký chưa rõ ràng với ngay cả các nghiên cứu trong nước là một rào cản. Thông thường, dữ liệu vệ tinh của mỗi nước cho phép các nhà nghiên cứu, chuyên gia trong nước sử dụng miễn phí với các quy định về trích dấn nguồn và mục đích phi thương mại nhưng thủ tục tinh gọn. Đây là giải pháp được nhiều chính phủ áp dụng không chỉ để thu hút nguồn lực từ trong nước mà cả quốc tế. Nhiều nơi sẵn sàng nâng giới hạn tiếp cận cho toàn bộ giới khoa học trên thế giới bao gồm trường học và viện nghiên cứu cho mục đích học tập, học thuật. Nếu muốn sử dụng dữ liệu ảnh radar TerraSAR-X của cơ quan vũ trụ Đức (DLR) hay Cosmo-SkyMed của Ý, các nhà khoa học hoặc sinh viên các trường đại học chỉ cần viết tóm tắt đề tài nghiên cứu và gửi vào hệ thống tiếp nhận. Chuỗi vệ tinh quang học của Planet cũng đưa ra chính sách tương tự nhưng với thời gian phê duyệt nhanh hơn rất nhiều với kết quả chỉ trong vài ngày. Rõ ràng, chúng ta cũng có thể đưa ra chính sách tương tự, từ đó tăng khả năng triển khai vệ tinh của riêng mình, đáp ứng yêu cầu tự chủ về nguồn dữ liệu và tăng số lượng người dùng để phát triển nguồn nhân lực đa dạng. Để có được chính sách thông thoáng cởi mở như vậy chúng ta cần những thay đổi quan điểm của nhiều cấp quản lý.

Viễn thám không giới hạn ở vùng miền hay mức độ phát triển ở mỗi quốc gia. Sự cập nhật công nghệ hay hòa nhập với quốc tế mới là hành trình không thể đảo ngược. Nếu coi dữ liệu là một dạng tài sản quốc gia cần được bảo mật thì có thể chúng ta xao lãng một điều là trên thực tế, dữ liệu chúng ta có thì quốc tế cũng có và chất lượng còn tốt hơn. Một minh chứng cụ thể là mua ảnh vệ tinh trả phí ở Việt Nam đã trở nên phổ biến hơn cho cả mục đích học thuật và dân sự. Nếu những nguồn dữ liệu này được cởi mở chia sẻ giữa các nhà nghiên cứu với nhau, giữa dân dụng và học thuật, giá trị chúng mang lại sẽ được nhân lên nhiều lần cho cộng đồng trong bối cảnh nguồn lực trong nước còn nhiều hạn chế.

Cuối cùng, không có một giải pháp nào mang tính toàn vẹn nên cũng như các phương pháp khác, ảnh vệ tinh cũng có những nhược điểm riêng. Vì vậy chúng ta không thể phó thác vào duy nhất một phương pháp để nghiên cứu một dạng thiên tai như trượt lở mà cần sự kết hợp giữa nhiều công cụ truyền thống và hiện đại, đồng thời dành một khoản đầu tư nhất định cho các nghiên cứu như vậy. Những khoản đầu tư như vậy có tốn kém? Nếu so với hàng nghìn tỷ đồng khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra thì con số đầu tư cho khoa học chỉ chiếm một phần nhỏ nhưng lại có thể góp phần giảm thiểu thiệt hại và cứu mạng sống con người. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, trượt lở đất cũng như các dạng thiên tai khác chắc chắn sẽ ngày một khốc liệt, đầu tư vào nghiên cứu khoa học sẽ không chỉ giúp thúc đẩy khoa học phát triển và chính là đi trước một bước trong phòng chống và giảm thiểu thiệt hại.□

Bảng 1. So sánh các công cụ nghiên cứu trượt lở đất truyền thống và công nghệ viễn thám/ảnh vệ tinh.

Nguồn: https://tiasang.com.vn/