Chưa đến một thanh tra trong lĩnh vực hoạt động xuất bản, in phát hành cho một tỉnh …

Khi xảy ra một vụ việc sai phạm liên quan đến sách và hoạt động xuất bản, người ta thường nghĩ ngay đến trách nhiệm của Cục Xuất bản, In và Phát hành, Bộ Thông tin và Truyền thông (TT và TT). Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý không chỉ thuộc về đơn vị này bởi còn có quy định chi tiết về công tác thanh tra, kiểm tra ở địa phương.
 
 
Trong năm 2014, Đoàn liên ngành phòng, chống in lậu (ĐLNPCIL) cấp trung ương đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 91 cơ sở in, 30 cơ sở phát hành, 12 nhà xuất bản; một vụ chuyển Cơ quan An ninh điều tra khởi tố xử lý hình sự; xử phạt vi phạm hành chính 33 tổ chức, cá nhân với tổng số tiền gần 300 triệu đồng; chuyển Sở TT&TT xử phạt theo thẩm quyền với số tiền 290 triệu đồng.
 
Về phía địa phương, năm 2014, Thanh tra Sở TT&TT Hà Nội đã ban hành 30 quyết định thanh tra, kiểm tra đối với tổ chức, cá nhân; xử phạt vi phạm hành chính đối với 24 tổ chức, cá nhân với tổng số tiền là 297 triệu đồng, tịch thu 22 xuất bản phẩm. Tại TP Hồ Chí Minh, trong sáu tháng đầu năm 2015, Thanh tra Sở TT&TT đã xử phạt ba cơ sở vi phạm, tổng số tiền phạt là 120 triệu đồng; tham mưu Chủ tịch UBND thành phố ban hành quyết định tịch thu 108.808 xuất bản phẩm in không có quyết định xuất bản (tổng giá trị theo giá bìa xuất bản phẩm là 1,778 tỷ đồng).
 
Những con số nêu trên chứng tỏ những vụ việc vi phạm trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành là khá nghiêm trọng và những hoạt động vi phạm ngày càng tinh vi hơn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với những người làm công tác quản lý là phải làm sao để công tác thanh tra, kiểm tra đạt được hiệu quả.
 
Theo Giám đốc Sở TT&TT TP Hồ Chí Minh Lê Thái Hỷ, quá trình thực thi công tác thanh tra, kiểm tra xuất bản phẩm còn nhiều khó khăn, vướng mắc và bất cập. Sở TT&TT ghi nhận một số trường hợp nhà xuất bản (NXB) giúp cho các đối tượng hợp thức hóa hồ sơ thủ tục xuất bản, gây khó khăn cho việc đánh giá hồ sơ, xác minh và xử lý. Bên cạnh đó, giám đốc NXB cho phép cấp phó giám đốc hoặc giám đốc chi nhánh NXB ký, cấp quyết định xuất bản, dẫn đến việc kiểm tra, xác minh hồ sơ gốc rất khó khăn khi tiến hành kiểm chứng đầu sách và số lượng cấp phép so với số đăng ký xuất bản theo kế hoạch. Hiện nay, trên cả nước có 64 NXB. Hằng năm các đơn vị này cho xuất bản khoảng 300 triệu bản sách. Như vậy trung bình mỗi đơn vị quản lý xuất bản của tỉnh phải quản lý xấp xỉ gần năm triệu bản sách/năm. Đấy là chưa kể sách in lậu, sách in nối bản khác. Mặt khác, nhân sự cho công tác thanh tra, kiểm tra của mỗi địa phương hiện nay ước tính trung bình chưa đến một thanh tra cho lĩnh vực xuất bản trên một tỉnh/thành phố… Thậm chí, cơ quan quản lý xuất bản cấp trung ương như Cục Xuất bản, In và Phát hành thì số lượng nhân sự cho công tác thanh tra cũng chỉ dừng lại ở con số một, hai người. Đó là một trong những khó khăn còn tồn tại trong công tác thanh tra của lĩnh vực xuất bản, in và phát hành.
 
Phó chánh Thanh tra Bộ TT&TT Đỗ Thị Tình cho biết: "Để làm rõ một cuốn sách vi phạm các quy định của pháp luật về xuất bản thường phải xác minh, thu thập tài liệu tại cơ quan quản lý nhà nước, NXB, cơ sở in và cơ sở phát hành. Các cơ quan, tổ chức này thường nằm trên nhiều địa bàn khác nhau. Hơn nữa, để đánh giá một cuốn sách có nội dung vi phạm, đòi hỏi cán bộ làm công tác thanh tra phải có trình độ kiến thức về lĩnh vực cuốn sách đề cập, nhiều vụ việc phải có trưng cầu giám định của các chuyên gia…".
 
Để công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động xuất bản, in và phát hành đạt hiệu quả, không thể không kể đến vai trò của ĐLNPCIL. Kể từ khi ra đời (5-11-2009) đến nay, ĐLNPCIL đã được thành lập tại 32 tỉnh, thành phố trong cả nước; đã phát hiện, xử lý nghiêm nhiều vụ việc vi phạm trong lĩnh vực này. Mặc dù ở một số sở TT&TT không thành lập đội liên ngành nhưng cũng đã tham mưu trình UBND cấp tỉnh bổ sung chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động in cho Đội kiểm tra Văn hóa Thông tin liên ngành 814. Tuy nhiên, đã hơn sáu năm, số đội liên ngành chống in lậu ở các địa phương vẫn chưa tăng lên, trong khi con số đơn vị hoạt động trong lĩnh vực in không ngừng gia tăng. Liệu điều đó có bảo đảm được hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động này ở các địa phương?
 
Vấn đề đặt ra hiện nay cho công tác quản lý hoạt động xuất bản, in và phát hành là bổ sung ngay các đội liên ngành cùng với việc nâng cao chế tài xử phạt, để bảo đảm tính răn đe và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định chế tài xử phạt; phối hợp chặt chẽ hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra giữa trung ương và địa phương, giữa các đơn vị với nhau; tăng cường bộ máy nhân lực và kinh phí cho hoạt động này.
 
THANH NHÀN

Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015

Sáng 16/7, tại Nghệ An, Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015.
Tham dự hội nghị có các đồng chí: Nguyễn Thế Kỷ, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành; Đỗ Quý Doãn, Chủ tịch Hội Xuất bản Việt Nam, cùng các đồng chí lãnh đạo đại diện các bộ, ban, ngành liên quan; đại diện lãnh đạo các Nhà xuất bản, đơn vị In, Phát hành trên toàn quốc.
 
Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015 là hội nghị định kỳ được tổ chức nhằm định hướng về chính trị tư tưởng trong hoạt động xuất bản, đánh giá nội dung xuất bản phẩm từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015 và đề ra phương hướng nhiệm vụ trọng tâm của ngành xuất bản trong 6 tháng cuối năm 2015.
 
 
 
Hội nghị giao ban công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015.
 
Báo cáo công tác xuất bản 6 tháng đầu năm 2015 cho thấy, hoạt động xuất bản của cả nước cơ bản vẫn giữ sự ổn định, ngành xuất bản không ngừng được kiện toàn, chấn chỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đúng định hướng. Nội dung các xuất bản phẩm, nội dung xuất bản phẩm của các nhà xuất bản đã bám sát nhiệm vụ chính trị, văn hóa, tư tưởng, thể hiện ở việc đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của bạn đọc và phục vụ tốt công tác tuyên truyền đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống.
 
Trong 6 tháng đầu năm, các nhà xuất bản trong toàn quốc đã đăng ký xuất bản 48.035 cuốn, nộp lưu chiểu 11.64 cuốn với 104,00 triệu bản in (giảm 7,3% về cuốn và giảm 46,2% về bản in so với cùng kỳ năm 2014).
 
Tuy nhiên, theo đánh giá của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, hoạt động của các nhà xuất bản cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế. 
 
Cụ thể, một số nhà xuất bản đăng ký đề tài không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vẫn còn hiện tượng đăng ký tên sách không phù hợp với tóm tắt nội dung, tóm tắt nội dung sơ sài hoặc trích nguyên tên sách vào phần tóm tắt nội dung hoặc viết tắt, viết sai chính tả; nộp xuất bản phẩm lưu chiểu chậm; ghi không đầy đủ hoặc không đúng quy định các thông tin trên xuất bản phẩm. 
 
Bên cạnh đó, một số nội dung xuất bản phẩm phản ánh hiện thực xã hội một cách sai lệch, không khách quan, có những nhận định, đánh giá tiêu cực đối với một số vấn đề chính trị xã hội, không phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. 
 
Một số nhà xuất bản không biên tập, đọc duyệt kỹ lưỡng, dẫn đến có những cuốn vi phạm về nội dung, bị cơ quản quản lý xử lý; ngôn từ trong một số cuốn sách có nội dung không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam, gây lệch lạc trong nhận thức của người đọc. Hiện tượng in lậu, in nối bản tiếp tục diễn biến phức tạp; thực trạng liên kết xuất bản tràn lan hiện nay gần như đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, làm suy yếu vai trò chủ đạo của các nhà xuất bản và của chính cơ quan chủ quản; một số cơ quan chủ quản Nhà xuất bản và đơn vị xuất bản chưa chủ động thực hiện đầy đủ các qui định về điều kiện thành lập và bảo đảm hoạt động của nhà xuất bản…
 
Trong 63 nhà xuất bản trên toàn quốc chỉ có 24 nhà xuất bản (chiếm 38,1%) đảm bảo đủ điều kiện hoạt động. Song, do thiếu nguồn tài chính, thiếu chức danh lãnh đạo, thiếu biên tập viên, thiếu diện tích trụ sở, chỉ có khoảng 13% nhà xuất bản hoạt động ổn định và phát triển, 11% nhà xuất bản hoạt động thua lỗ, số còn lại hoạt động cầm chừng, thiếu ổn định. Một số nhà xuất bản có năng lực xuất bản yếu kém, trong 6 tháng đầu năm 2015 chỉ xuất bản được trên dưới 10 đầu sách. 
Cùng với sự tăng trưởng về chất lượng đầu sách và số bản, nhiều nhà xuất bản tiếp tục chú trọng phát triển các tủ sách giáo dục truyền thống, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật và công nghệ dành cho các lứa tuổi và nhiều nhóm đối tượng bạn đọc khác nhau. Các hội chợ, triển lãm sách trong nước và quốc tế tiếp tục được duy trì và từng bước mở rộng. Đó là những đóng góp quan trọng, giàu ý nghĩa để xuất bản khẳng định vị thế là lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, có nhiệm vụ truyền bá các giá trị tinh thần, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hoá và khoa học của xã hội; xây dựng đạo đức, lối sống và phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam.
 
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Thế Kỷ đánh giá cao các đơn vị xuất bản đã chủ động xây dựng, tìm kiếm, lựa chọn nội dung bản thảo có chất lượng phục vụ công tác tuyên truyền, thực hiện các nhiệm vụ chính trị trọng tâm của năm 2015 – năm diễn ra Đại hội Đảng các cấp, chuẩn bị các công việc để tiến hành Đại hội Đảng lần thứ XII.
 
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xuất bản năm 2015, trong sáu tháng còn lại của năm, đồng chí Nguyễn Thế Kỷ đề nghị ngành xuất bản cần khẩn trương, nghiêm túc triển khai những nhiệm vụ, giải pháp mà hội nghị vừa thống nhất, phấn đấu nâng cao chất lượng, hiệu quả phát triển của ngành từ nay đến cuối năm. Trong đó, lưu ý những nhiệm vụ trọng tâm như:
 
Các nhà xuất bản trên cơ sở định hướng thông tin đã thống nhất từ đầu năm, căn cứ vào tình hình thực tiễn rà soát lại kế hoạch đề tài và kế hoạch xuất bản, đẩy nhanh tiến độ xuất bản, hoàn thành các đề tài phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước, nhất là các đề tài phục vụ tuyên truyền về Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng; các gương điển hình tiên tiến tiến tới Đại hội thi đua yêu nước lần thứ IX; phát triển kinh tế – xã hội; tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc và các ngày lễ lớn, ngày kỷ niệm quan trọng của dân tộc, đất nước: 70 năm Cách mạng Tháng tám và Quốc khánh 2-9.
 
Các cơ quan chức năng chỉ đạo, quản lý nghiên cứu, có cơ chế phù hợp, phối hợp với cơ quan chủ quản tăng cường nguồn lực cho nhà xuất bản, tiếp tục đẩy nhanh quá trình tham mưu, xây dựng bổ sung vốn, nhất là vốn lưu động; đẩy mạnh triển khai đầu tư trụ sở, trang thiết bị cho nhà xuất bản trực thuộc, tạo sự chuyển biến tích cực về năng lực, tiềm lực ở các nhà xuất bản, đặc biêt khối các nhà xuất bản địa phương. Đối với các nhà xuất bản thuộc khối doanh nghiệp, nghiên cứu, linh hoạt sử dụng các cơ chế đầu tư thông qua các kênh đặt hàng, đấu thầu, tạo nguồn tích lũy cho nhà xuất bản, sớm thực hiện việc hỗ trợ các đơn vị xuất bản theo Luật Xuất bản năm 2012 và Điều 8 Nghị định 195/CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Xuất bản năm 2012, bảo đảm từ nay đến cuối năm vấn đề này được triển khai đồng bộ, toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp xuất bản.
 
Để chuẩn bị cho Lễ tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị 42 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về“Nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản” và sơ kết 5 năm các quyết định QĐ 281, 282, 283 của Ban Bí thư về xuất bản trong quý IV năm nay, đồng chí Nguyễn Thế Kỷ cũng đề nghị các nhà xuất bản tập trung trí tuệ toàn ngành, bám sát nhiệm vụ, hoàn thành các chỉ tiêu đề ra, đáp ứng tốt nhu cầu về xuất bản phẩm của toàn xã hội, xây dựng ngành xuất bản phát triển vững mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
 
Tuấn Trí

Nhà sáng chế không chuyên: Thiếu vốn là khó khăn lớn nhất

 
 
Ông Đỗ Văn Trường trong buổi Giao lưu trực tuyến sáng 25/4. Ảnh: NH
 
Đến nay, mặc dù đã cung cấp cho thị trường hàng trăm chiếc bơm vô ống, cũng có khi lợi nhuận lên đến 500 triệu đồng/năm nhưng khó khăn lớn nhất với với ông Đỗ Văn Trường – Thị Xã Tam Điệp, Tỉnh Ninh Bình vẫn là nguồn vốn để phát triển và nhân rộng sản phẩm.
Là khách mời của chương trình Giao lưu trực tuyến "Tôn vinh hoạt động đổi mới sáng tạo trong quần chúng nhân dân" do Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học và công nghệ (KH&CN) và báo Đất Việt phối hợp tổ chức, ông Đỗ Văn Trường đã chia sẻ nhiều điều xoay quanh việc nghiên cứu, thiết kế, chế tạo ra sản phẩm bơm vô ống có nhiều tính năng vượt trội so với bơm trục đứng trên thị trường. 
 
– Xin ông cho biết một số thông tin về sản phẩm bơm vô ống do ông thiết kế, chế tạo? 
 
Ông Đỗ Văn Trường: Tôi là thợ cơ khí, có một xưởng cơ khí nhỏ trước đây chuyên sản xuất, sửa chữa các loại máy móc do khách hàng đặt, trong đó mặt hàng bơm nước là nhiều nhất. Đầu tiên, tôi sản xuất loại bơm có ống. Qua quá trình sản xuất và bán cho khách hàng, tôi đã cải tiến từng phần và tìm ra những cách tiết kiệm năng lượng cho bơm.
 
Ví dụ, tôi thấy ống càng ngắn càng to thì càng giảm năng lượng cho bơm khi bơm cùng lượng nước. Tôi nghiên cứu, thử nghiệm các loại cánh bơm, tạo ra sự luân chuyển nước đều, không bị quẩn xoáy trong vùng hoạt động của cánh bơm, giảm năng lượng tiêu hao. Tính toán vận tốc nước qua bơm phù hợp với độ cao của nước để giảm tối thiểu lực gia tốc khối lượng nước. Lực này rất đáng kể vì không phải quan hệ bậc nhất mà quan hệ bình phương với vận tốc.
 
Xuất phát từ thực tế nước ta là nước nông nghiệp, diện tích cấy lúa nước rất nhiều ở đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, tôi đã có ý tưởng thiết kế, chế tạo loại bơm đơn giản nhưng hiệu quả này. 
 
Như đã biết, động lực bơm nước là do mặt phẳng nghiêng cánh quay quanh trục tạo lực nâng nước, do đó, ống bơm là phần dẫn nước. Ta có thể không cần ống bơm, thay vào đó là bửng bơm để ngăn cách mặt nước bên này với bên kia. Bửng bơm lắp vào mang cống, thân bơm liên kết với bửng bơm, chiều dài thân bơm chỉ 30 phân, đường kính thân bơm 90 phân vừa để lắp đủ cánh bơm. 
 
Cánh bơm liên kết với trục quay, trên đầu trục có buli, động cơ điện lắp trên bờ kéo bằng dây cuaroa quay chuyển động xuống cánh bơm. Có cơ cấu đóng mở nắp, khi bơm ta quay mở nắp bơm. Bơm xong, ta quay cơ cấu đóng nắp bơm lại thì lúc này bơm như một cánh phai cống đóng kín nước. Do bơm không có ống nên lấy tên là bơm vô ống. 
 
Bà con nông dân ở đồng bằng Bắc Bộ đang sử dụng phổ biến loại bơm trục đứng và một số ít sử dụng bơm ly tâm. Sản phẩm bơm vô ống có tính khác biệt so với 2 loại bơm này về hiệu quả và tiết kiệm điện năng. Bơm vô ống tiết kiệm 3,5 lần về điện năng so với bơm trục đứng. Ví dụ, cùng lượng nước bơm như nhau, đối với mỗi vụ lúa, bơm trục đứng tiêu hao điện năng 7.000 kWh, thì bơm vô ống chỉ tiêu thụ hết 2.000 kWh. 
 
Bơm vô ống là loại bơm đơn giản, trọng lượng nhẹ gấp 5 lần bơm trục đứng dù cùng công suất. Do đó, giá thành thấp hơn 4 lần so với bơm trục đứng. Ngoài ra, loại bơm này còn giúp giảm nhiều các chi phí khác. Bơm vô ống bơm được 2 chiều nên chỉ cần xây dựng một cống vẫn có thể vừa bơm ra vừa bơm vào bằng cách đảo pha điện.
 
Còn đối với bơm trục đứng, phải xây cống lấy nước, cống nội đồng, bể hút, cửa xả và cửa tưới rất tốn kém. Ngoài ra, do điện năng tiêu thụ ít, nên đối với loại bơm công suất 4.000m3/h, bơm vô ống chỉ dùng động cơ 20kW, còn bơm trục đứng dùng động cơ 75kW. Do đó, bơm vô ống có thể sử dụng trực tiếp lưới điện có sẵn của địa phương, còn bơm trục đứng đòi hỏi phải xây dựng trạm biến áp mới, tốn kém hơn. Bơm vô ống có độ bền cao, chi phí sửa chữa ít.
 
 
Ông Đỗ Văn Trường giới thiệu về sản phẩm. (Ảnh: NH)
 
Hiện nay các hợp tác xã đã có sẵn cống nội đồng, bơm vô ống sẽ sử dụng những cống có sẵn và không phải xây cống mới.
 
– Sản phẩm bơm vô ống của ông đã được người dân địa phương đón nhận như thế nào?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Năm 2004, tôi đã thiết kế, chế tạo thành công, đưa vào sử dụng bơm vô ống ngay tại nơi tôi ở (Đội 1, nông trường Đồng Giao). Vụ chống lụt năm ấy, hợp tác xã Đàm Khánh sang thăm và thấy rõ hiệu quả của bơm nên đã đặt tôi sản xuất 1 chiếc công suất 4.000 m3/h, động cơ kéo 20kW, giá 20 triệu đồng.
 
Tôi nhớ khi ấy Đội 1 đang chống hạn cho lúa. Hôm thử bơm, 1 giờ đêm nước mới lên, chỉ có mình tôi ngoài đồng, thấy kết quả tốt, mừng quá tôi về báo gia đình. Cả nhà tôi lẫn hàng xóm kéo ra đồng xem, mọi người rất ngạc nhiên vì động cơ nhỏ mà lượng nước bơm như tháo cống, nước bơm rất mạnh, chỉ 15 tiếng đồng hồ bơm đã đủ nước chống hạn cho 50ha.
 
Do tôi thấy loại bơm này có lợi ích lớn đối với nông nghiệp và thị trường sử dụng rộng nên tôi đã làm đơn bảo hộ độc quyền sáng chế gửi Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KH&CN. Năm 2006, bơm vô ống đã được Cục cấp bằng độc quyền sáng chế.
 
– Khó khăn lớn nhất của ông khi muốn hoàn thiện, phát triển và nhân rộng sản phẩm của mình là gì?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Khi thiết kế thành công bơm vô ống năm 2004 tôi cũng có ý định phát triển và nhân rộng sản phẩm nhưng khó khăn lớn nhất vẫn là thiếu vốn. 
 
Đất tôi ở khi đó chưa có sổ đỏ nên không thể thế chấp để vay ngân hàng nên tôi chỉ vay mượn người thân, bạn bè để mở rộng diện tích xưởng cơ khí từ 70m2 lên 200m2 và sắm thêm một số máy móc đơn giản, rẻ tiền. Bởi vậy, không thể nâng cao năng suất lao động, việc phát triển và nhân rộng sản phẩm vì đó cũng rất chậm.
 
Trong thời gian sản xuất và cung ứng bơm cho thị trường, 50% hợp tác xã được huyện, tỉnh hỗ trợ vốn để mua bơm. Số bơm này được thanh toán ngay trong năm. 50% số bơm còn lại hợp tác xã  phải tìm nguồn vốn khác như dân góp, hoặc trích từ nguồn khác. Do đó, tiền thanh toán chậm, thường 3-4 năm mới thanh toán hết. Xưởng của tôi nhiều khi thiếu vốn để tái sản xuất, phải dừng lại không nhận thêm đơn hàng.
 
– Trong quá trình nghiên cứu, sáng chế, cơ quản quản lý địa phương có hỗ trợ gì, thưa ông ?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Khi tôi thiết kế, chế tạo được bơm vô ống, Sở KH&CN tỉnh Ninh Bình và Liên hiệp Các hội khoa học kỹ thuật tỉnh đến đánh giá công trình, đồng thời mời các chuyên gia ở Viện Khoa học Thuỷ lợi và trường Đại học Bách khoa đến đánh giá. Họ đánh giá rất cao sản phẩm này và nhận định nó là loại bơm mới, chưa hề có trên thị trường.
 
Trong tỉnh, các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, đài, báo cũng hỗ trợ quảng bá cho sản phẩm. Sở KH&CN Ninh Bình sau đó còn tổ chức hội thảo đầu bờ và Chủ tịch tỉnh trực tiếp đến thăm trạm bơm ở hợp tác xã có sử dụng loại bơm này. 
 
Sau khi hỏi chi phí xây dựng trạm bơm và biết hết 20 triệu đồng, Chủ tịch tỉnh đã quyết định hỗ trợ ngay chi phí xây dựng trạm bơm cho hợp tác xã và tặng đặc cách cho tác giả 10 triệu đồng, trong khi nếu theo quy chế, mức thưởng lớn nhất là 3 triệu đồng.
 
Trong Nghị quyết 03 của tỉnh về trồng cây vụ đông trên đất hai lúa có khuyến khích các hợp tác xã trồng 20 ha sẽ được tài trợ một trạm bơm vô ống. Chương trình này kéo dài trong 5 năm. Tôi thấy đây là sự hỗ trợ rất thiết thực. Trong 5 năm này tôi đã cung ứng cho thị trường trong tỉnh hơn 100 trạm bơm vô ống. 
 
– Hiện trên thị trường, các sản phẩm máy bơm của Trung Quốc xuất hiện nhiều và đa dạng về chủng loại, giá thành, làm thế nào để sản phẩm của ông có thể cạnh tranh?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Bơm vô ống đã được Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KHCN cấp bằng độc quyền sáng chế. Do đó, doanh nghiệp nước ngoài khi đưa sản phẩm vào thị trường Việt Nam cũng phải tuân thủ luật bản quyền.
 
Hiện mặt hàng bơm của Trung Quốc chủ yếu là loại bơm nhỏ, dùng trong gia đình, công suất chỉ vài chục m3/h, còn bơm vô ống phục vụ sản xuất nông nghiệp, công suất lớn 4.000m3/h. Do đó, không lo phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc.
 
– Ông có dự định gì trong thời gian tới để tiếp tục hỗ trợ những người nông dân bằng những nghiên cứu hữu ích của mình?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Hiện sản phẩm của tôi mới chỉ cung ứng chủ yếu cho tỉnh Ninh Bình và một số tỉnh lân cận như Thanh Hoá, Thái Bình, Nam Định,… Tôi mong muốn sản phẩm được bà con nông dân đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long sử dụng rộng rãi, nhưng hiện nay đang "lực bất tòng tâm" do thiếu vốn.
 
Tôi mong được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi và Nhà nước có cơ chế hỗ trợ để nhân rộng sản phẩm.
 
– Ông có đề xuất gì để Nhà nước có thể đưa ra những chính sách mới hỗ trợ những sáng kiến, sáng chế trong thời gian tới?
 
Ông Đỗ Văn Trường: Để một sáng chế thành công, đối với tác giả mất rất nhiều công sức và thời gian. Có những công trình thành công, có những công trình không thành công. 
 
Theo tôi, đối với những sáng chế có hiệu quả về kinh tế, xã hội, được thực tế công nhận rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Vì những người sáng chế ít khi là doanh nghiệp nên muốn phát triển và nhân rộng sản phẩm cần có vốn. Những người sáng chế không chuyên như chúng tôi rất mong được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước để mở rộng quy mô và nhân rộng sản phẩm.
 
– Vâng, xin cảm ơn ông!
 
Quỳnh Chi (lược ghi)
 

Chế tạo thành công các khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực xe tăng

 
 
Đội hình xe tăng-thiết giáp của Lữ đoàn 215, Binh chủng Tăng-Thiết giáp.
Viện Tự động hóa Kỹ thuật quân sự (Viện Khoa học và Công nghệ quân sự, Bộ Quốc phòng) đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công một số khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực cho xe tăng T54B, tích hợp thành một hệ thống hoàn chỉnh, thử nghiệm đạt kết quả tốt.
Trên cơ sở khảo sát thực tế, xây dựng thiết kế hệ thống, thử nghiệm… các cán bộ thực hiện đề tài đã nghiên cứu chế tạo thành công các khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực xe tăng gồm: Khối đài quan sát; khối điều khiển truyền động đài quan sát; khối máy tính trung tâm (bao gồm máy tính xử lý ảnh, máy tính tính toán phần tử bắn, máy tính điều khiển truyền động, máy tính giao diện và điều khiển quang điện tử); khối thiết bị ngoại vi (gồm bảng điều khiển của trưởng xe, màn hiển thị và điều khiển của pháo thủ, cần điều khiển bổ sung của pháo thủ, màn hiển thị loại đạn, khối đo nhiệt độ thuốc đạn, khối đo các tham số nòng pháo). Ngoài ra, hệ thống cũng được kết nối với các thiết bị khác như: Khối điều khiển của trưởng xe, khối liên kết, khối đo các tham số khí tượng.
 
Các sản phẩm đã được thử nghiệm theo từng phân đoạn, tích hợp thành hệ thống hoàn chỉnh và thử nghiệm tổng hợp. Hệ thống cũng đã được lắp đặt, hiệu chỉnh thực tế trên xe tăng của Lữ đoàn 201, Binh chủng Tăng-Thiết giáp và thử nghiệm trong điều kiện cơ động tại thực địa. Kết quả cho thấy hệ thống hoạt động ổn định, thực hiện đúng các chức năng theo thiết kế, có khả năng tiếp tục phát triển thành hệ thống hoàn chỉnh, đưa vào huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.
 
Việc nghiên cứu thiết kế chế tạo thành công các khối chính trong hệ thống điều khiển hỏa lực cho xe tăng có ý nghĩa lớn, góp phần chủ động nguồn vật tư, trang bị trong nước, nâng cao tính chủ động trong công tác bảo đảm kỹ thuật, từ đó nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị tăng-thiết giáp.
 
Nguồn tin: qdnd.vn

NHỮNG GÓP Ý CHO VIỆC PHÁT TRIỂN NGÀNH XUẤT BẢN Một chìa khóa quan trọng cho việc hình thành nền kinh tế tri thức

 
Vài năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi Thủ tướng quyết định công nhận Ngày sách Việt Nam là 21/4 hàng năm, giới xuất bản đã nhìn thấy những chuyển biến trong văn hóa đọc, khi thấy thói quen đọc sách trở nên rõ ràng hơn với người Việt Nam, đặc biệt là các bạn trẻ, học sinh, sinh viên. Nhiều trường học phổ thông, trường đại học… và cả các cơ quan, doanh nghiệp, đã bắt đầu quay lại và mở ra thư viện, phòng đọc nhỏ, tặng sách cho nhân viên… Bản thân tôi ngày càng được mời đi nói chuyện nhiều hơn ở các trường, doanh nghiệp, tổ chức. Các hội sách ở các tỉnh thành phố trở nên phong phú, được chính quyền các cấp quan tâm, nhưng ở cấp độ nhỏ hơn, ở các trường, lớp cũng có nhiều… Giới trẻ, người Việt Nam hiểu về giá trị của sách, của tri thức. Trải qua giai đoạn kinh tế khó khăn, các doanh nghiệp và cả người lao động hiểu rằng, họ cần giỏi hơn, trưởng thành hơn, có kiến thức hơn, để có tư duy sáng tạo… thì mới phát triển được doanh nghiệp, hoặc đơn giản là xin được việc làm..
 
 
Thực tế, ngành xuất bản, văn hóa đọc nói chung và sách vở nói riêng có vai trò hết sức quan trọng. Thứ nhất nó giúp phát triển tri thức của dân tộc, đóng góp cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức. Thứ hai nó là công cụ để tăng cường giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, qua đó buôn bán, thương mại, du lịch phát triển hơn. Thứ ba nó giúp người dân hiểu biết về văn hóa, lịch sử và truyền thống dân tộc, là một công cụ phát triển kỹ năng, kiến thức cho người dân bên cạnh các phương tiện khác như báo chí, truyền hình… Xét riêng về khía cạnh giáo dục, sách vở là phương tiện giáo dục trọn đời, và là một công cụ cực kỳ quan trọng cho giáo dục, khi có thể nhanh chóng chuyển tải đầy đủ các kiến thức, tư duy mới trong khi sách giáo khoa, giáo trình thì chậm hơn, và chỉ cung cấp kiến thức nền tảng.
 
Tôi cho rằng việc phát triển văn hóa đọc và ngành xuất bản không phải chỉ là trách nhiệm và công việc của riêng ngành xuất bản, mà nó cần phải là sự cộng hưởng và trách nhiệm chung của toàn xã hội. Thậm chí việc phát triển ngành xuất bản chính là việc phát triển tri thức cho cả dân tộc, và cần phải biến nó trở thành một chiến lược cấp quốc gia. Thói quen đọc sách  và việc nâng cao tri thức cho người Việt không chỉ phát triển thông qua các hoạt động hội sách, hội chợ mà cần đi vào chiều sâu nhiều hơn.
 
Tôi đề xuất nên tiến hành một số hoạt động như sau:
 
Thứ nhất: Phát triển và làm mới lại hệ thống thư viện nhưng là các thư viện mở, OPEN Library như của thế giới hiện nay. Cũng giống như sự phát triển của ngành phát hành, trước đây, sách bán ở các cửa hàng “đóng”, được trưng bày cách xa tầm với của độc giả, độc giả muốn mua sách thì chỉ vào sách đó và có người đưa cho để họ chọn. Nhưng hình thức nhà sách như vậy đã quá lỗi thời, các nhà sách bây giờ đều đã chuyển sang hình thức mới là nhà sách tự chọn. Thư viện cũng vậy, cần trở thành nơi đọc sách tự chọn… Khác với thư viện số, thư viện mở sẽ là nơi để độc giả không chỉ đọc sách mà còn giao lưu, trao đổi, hình thành và phát triển thói quen đọc sách… Tại các quốc gia văn minh, các gia đình thỉnh thoảng đi thư viện hoặc học sinh được trường học cho đi thư viện, giống như đi bảo tàng… để làm quen và hình thành dần thói quen đọc sách của trẻ.
 
Thứ hai: hình thành và triển khai các dự án xuất bản lớn, mang tầm vóc Quốc gia… Ví dụ ngoài đề án đổi mới sách giáo khoa, thì còn cần hình thành các dự án phát triển, khôi phục lại lịch sử, văn hóa truyền thống, như dịch và công bố nhiều sách trong kho tàng Hán Nôm, hoặc các sách do người nước ngoài viết về Việt Nam. Hoặc nhanh chóng thay thế, làm mới và xuất bản bộ sách giáo trình hiện đại cho bậc đại học. Phát triển các dự án xuất bản sách phổ biến kiến thức cho trẻ em hoặc sử  dụng hình thức đấu thầu, mua và trang bị sách khoa học cho học sinh phổ thông, giống như chương trình Room To Read đang làm. Tôi rất ngạc nhiên và thất vọng khi thấy cả năm 2014, ngân sách & các dự án sách đặt hàng của nhà nước cho ngành xuất bản chỉ ở con số 40 tỷ. Đây là con số quá nhỏ bé so với yêu cầu…
 
 Thứ ba: Thay đổi cơ chế tiến hành, ví dụ áp dụng các hình thức hợp tác Công ty PPP hay BOT trong các lĩnh vực giao thông, vận tải cho ngành xuất bản. Tức là nhà nước và tư nhân cùng tiến hành các đề án này, theo hình thức tư nhân tự đầu tư nhưng nhà nước mua hàng hóa hoặc nhà nước bỏ tiền đầu tư bản quyền sách giáo trình đại học, rồi cho các công ty tư nhân đấu thầu quyền khai thác & sử dụng. Ví dụ nhà nước bỏ 10 triệu USD để triển khai mua bản quyền, dịch 500 cuốn sách giáo trình đại học hiện đại của thế giới, rồi cho đấu thầu quyền khai thác trong 5 năm… Đơn vị thắng thầu sẽ tìm cách hiệu quả nhất để khai thác, bán sách, họ không thể bán giá quá cao vì không ai mua, nhưng cũng không bán rẻ và sẽ tìm cách hiệu quả nhất đưa sách đến cho người tiêu dùng, ở đây là sinh viên, trường học. Tương tự như vậy, các đề án như xuất bản sách lịch sử văn hóa truyền thống, sách phổ biến kiến thức, khoa học… đều nên tiến hành theo hình thức này…
 
Cuối cùng: Việc phát triển văn hóa đọc, ngành xuất bản không thể tách rời khỏi lĩnh vực giáo dục, bởi thói quen đọc sách phải được hình thành từ thời thơ ấu và phải được nuôi dưỡng suốt quá trình lớn lên và trưởng thành của mỗi người thì văn hóa đọc mới có thể phát triển bền vững trong cộng đồng, giúp hình thành được những lớp công dân ưu tú có kiến thức, có ích cho sự phát triển của đất nước. Theo đó, nó yêu cầu chất lượng cũng như yêu cầu cái tâm thực sự của những người thực hiện trong mọi quá trình từ việc giúp học sinh/ sinh viên hiểu được tầm quan trọng trọng của việc đọc sách; việc chọn sách có chất lượng để xây dựng/ bổ sung vào các thư viện; đến việc tổ chức/ hướng dẫn học sinh/ sinh viên đọc sách, làm báo cáo; đưa ra các đề tài để học sinh phải tự tìm tòi/ học hỏi qua các cuốn sách… Một quốc gia không thể phát triển và vươn lên hàng thứ nhất nếu thiếu đi những người tài; và những người tài cũng không thể hình thành nếu thiếu đi một nền giáo dục và những người thầm lặng: những cuốn sách tốt. q
 
>> NGUYỄN CẢNH BÌNH
 
Giám đốc Công ty Alpha books

Hội sách chào mừng ngày sách Việt Nam lần thứ 2 – Sách phục vụ bạn đọc 3 triệu bản, tổng doanh thu khoảng trên 12 tỷ đồng

 
Ngày 24/02/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 284/QĐ-TTg lấy ngày 21/4 hàng năm là Ngày Sách Việt Nam. Ngay sau đó, các hoạt động chào mừng, hưởng ứng Ngày sách Việt Nam đã được Bộ Thông tin và Truyền thông và các Bộ, ngành liên quan, địa phương tổ chức thu hút đông đảo bạn đọc yêu sách và các đơn vị xuất bản, phát hành tham gia nhiệt tình, đồng thời khuyến khích và phát triển phong trào đọc sách trong cộng đồng, nâng cao nhận thức của nhân dân về ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của việc đọc sách đối với việc nâng cao kiến thức và kỹ năng, phát triển tư duy, giáo dục và rèn luyện nhân cách con người.

 
Hội sách chào mừng Ngày Sách Việt Nam lần thứ 2 được Bộ Thông tin và Truyền thông giao cho Cục Xuất bản, In và Phát hành tổ chức tại Công viên Thống Nhất, đường Trần Nhân Tông, phường Lê Đại Hành, Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, từ ngày 17/4/2015 đến ngày 21/4/2015 (Buổi lễ Khai mạc bắt đầu vào lúc 9h ngày 17/4/2015, thời gian đóng mở cửa hoạt động Hội sách từ 8h đến 21h hàng ngày).
 
Ngày Sách Việt Nam lần thứ 2 – năm 2015 là một sự kiện văn hóa lớn được các tổ chức trên phạm vi toàn quốc với sự tham gia hưởng ứng của các bộ, ngành, các tổ chức, đoàn thể Trung ương đại phương đã và đang hình thành một lễ hội sách của cộng đồng.
 
Trong các hoạt động nổi bật của Ngày Sách Việt Nam lần thứ 2, Hội Sách tại Công Viên Thống Nhất, Hà Nội do Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo, Cục Xuất bản, In và Phát hành chủ trì tổ chức đã đem lại một hiệu quả xã hội cao với sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đã trả lời đang đặt ra “Người dân có quan tâm đến sách và văn hóa đọc hay không?”.
 
Với quy mô 150 gian hàng của 100 đơn vị tham gia, Hội Sách lần này đã tạo một dấu ấn riêng từ khâu thiết kế, tổ chức đến chương trình hoạt động trải đều trong suốt 5 ngày tổ chức từ ngày 17 đến 21/4/2015, thu hút một lượng người đông đảo với nhiều lứa tuổi đến tham dự và mua sách. Đặc biệt có những ngày số lượng người đến Hội Sách vượt cả dự kiến của Ban tổ chức với hàng trăm ngàn lượt người trong khoảng thời gian từ 9h đến 21h trong ngày thứ bẩy và chủ nhật.
 
Số lượng sách được các đơn vị trưng bày, giới thiệu, quảng bá tại Hội Sách khá phong phú, đa dạng, với những chương trình tri ân bạn đọc một cách thiết thực như: giảm giá; mua một cuốn sách là đóng góp từ thiện cho Quỹ học trò nghèo vùng cao; xây dựng trường nội trú cho học sinh miền núi… đã tạo nên một không gian văn hóa sách hết sức ấn tượng tại Thủ đô ngàn năm văn hiến. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Ban tổ chức, tổng số lượng sách phục vụ bạn đọc của Hội Sách lần này khoảng trên 3 triệu bản, với tổng doanh thu khoảng trên 12 tỷ đồng. Trong đó, có những đơn vị đạt hiệu quả cao như gian hàng của các đơn vị: Nhã Nam, Thaihabook, AlphaBooks, Tân Việt, Kim Đồng, Giáo dục, Quảng Văn, Fahasa…
 
Bên cạnh việc giới thiệu, quảng bá sách tại Hội Sách, các chương trình hoạt động giao lưu như: tôn vinh sách; tôn vinh tác giả, tác phẩm; trưng bày sách theo từng chủ đề cũng đã được Ban tổ chức và các đơn vị tham gia quan tâm đầu tư tương xứng, tạo sức hút với người dân đến với Hội Sách. Hội Sách có khoảng 30 sự kiện được tổ chức đều trong 5 ngày với chất lượng và số lượng người tham dự đông đảo, trong đó nổi bật một số hoạt động như: giao lưu với nhà thơ Trần Đăng Khoa của Công ty cổ phần Văn hóa Huy Hoàng; giới thiệu sách “Hồ Chí Minh và 5 bảo vật quốc gia”, “Đến với Trường Sa” của Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông; Chung kết cuộc thi “Tôi đọc sách” của Công ty cổ phần sách Thái Hà; Tọa đàm “Tuổi trẻ đọc gì?” của Công ty sách AlphaBooks… Đặc biệt là việc trưng bày, giới thiệu câu đố, thư pháp cổ và chương trình nghệ thuật của Câu lạc bộ văn hóa truyền thống thuộc Hội Người cao tuổi đã tạo một sự gắn kết giữa truyền thống và hiện đại của Hội sách từ sách cổ của cha ông được viết và lưu giữ trên các thư mục, tài liệu đến sách in công nghiệp, sách điện tử…
 
Có thể nói với hiệu quả xã hội của Hội Sách đem lại, có thể khẳng định sự thành công trong công tác tổ chức và chương trình hoạt động của Hội Sách. Qua sự thành công của Hội Sách và các hoạt động triển khai rộng khắp của Ngày Sách Việt Nam lần thứ 2 trên phạm vi toàn quốc cho thấy sự thành công của một Quyết định mang tầm chiến lược quốc gia của Thủ tướng Chính phủ: Ngày Sách Việt Nam. 

Chuyển giao công nghệ – con đường ngắn nhất để công nghiệp hóa

 
 
International Techmart Vietnam 2015 sẽ có khoảng 600 gian hàng trong nước và nước ngoài
 
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các doanh nghiệp nhận thức được rằng, muốn đạt được mục tiêu lợi nhuận cao cần phải ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN). Chỉ có áp dụng kết quả nghiên cứu KH&CN mới đi tắt đón đầu, tiết kiệm được thời gian. Thực tiễn cho thấy chuyển giao công nghệ bao giờ cũng là con đường ngắn nhất để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đó là khẳng định của bà Lê Thị Khánh Vân, Phó Cục trưởng Cục Thông tin KH&CN Quốc gia tại Hội nghị giới thiệu Chợ Công nghệ và Thiết bị Quốc tế Việt Nam 2015 (International Vietnam 2015) diễn ra mới đây tại Hà Nội.
 
Tạo lập và phát triển thị trường KH&CN
 
International Techmart Vietnam 2015 là sự kiện KH&CN có quy mô lớn nhất từ trước tới nay nhằm đẩy mạnh việc tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tăng cường gắn kết giữa nghiên cứu, đào tạo với sản xuất – kinh doanh, xúc tiến thương mại hóa sản phẩm KH&CN. Đây sẽ là cơ hội để cho các đơn vị giới thiệu, chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ, thiết bị và sản phẩm mới của mình vào sản xuất kinh doanh, tìm kiếm đối tác, tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài.
 
International Techmart Vietnam 2015 sẽ góp phần hỗ trợ đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng suất lao động và chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Đồng thời tôn vinh năng lực và sức sáng tạo của đội ngũ KH&CN đất nước, trao đổi hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ với các nước ASEAN +3 và các nước EU, Nga, Mỹ.
 
Tại International Techmart Vietnam 2015 dự kiến có khoảng 600 gian hàng trong nước và nước ngoài, giới thiệu hàng ngàn công nghệ, thiết bị, giải pháp phần mềm và các sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho mọi đối tượng khách hàng có nhu cầu.
 
Trong sự kiện này các thành tựu nghiên cứu khoa học và đặc biệt là các công nghệ, thiết bị được ứng dụng và có tác động sâu rộng tới hoạt động kinh tế – xã hội của các Bộ, ngành, địa phương và đối tác quốc tế sẽ được giới thiệu và chuyển giao. Ngoài các viện nghiên cứu, trường đại học, các Sở KH&CN và các doanh nghiệp, Techmart lần này có sự tham gia của các nhà sáng chế không chuyên từ mọi miền đất nước với các công nghệ, thiết bị gần gũi và thiết thực với đời sống và sản xuất.
 
Chợ công nghệ và thiết bị quốc tế Việt Nam là chợ công nghệ tổng hợp, đa ngành với mục đích hỗ trợ và khuyến khích các tổ chức KH&CN, doanh nghiệp, tập thể và cá nhân giới thiệu chào bán, tìm mua công nghệ, thiết bị trong mọi lĩnh vực. Do vậy, các công nghệ và thiết bị giới thiệu tại International Techmart Vietnam 2015 lần này là kết quả nghiên cứu của các đơn vị trong và ngoài nước đã được kiểm nghiệm, ứng dụng thành công. Đó là những công nghệ thiết bị đã hoàn thiện, sẵn sàng để chuyển giao, đảm bảo chất lượng, giá rẻ hơn so với nhập ngoại. Các công nghệ và thiết bị của nước ngoài phải có chất lượng cao, giá cả hợp lý, phù hợp với nhu cầu trong nước.
 
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ
 
Trên thực tế việc đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất còn gặp những khó khăn. Chia sẻ về vấn đề này, bà Lê Thị Khánh Vân cho biết, thực sự gắn kết các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp rất khó khăn vì giữa nhà khoa học và doanh nhân luôn có khoảng cách, bởi hai tinh thần, hai mục tiêu khác nhau. Các nhà khoa học muốn khoa học vì khoa học, còn doanh nghiệp muốn làm thế nào để có lợi nhuận. Techmart chính là nơi gắn kết các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp để khoa học không chỉ vì khoa học mà khoa học phải vì nhân sinh.
 
 
 
Gắn kết khoa học và công nghệ với sản xuất kinh doanh
 
“Bộ KH&CN đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích như: tổ chức các hoạt động xúc tiến gắn kết các nhà khoa học với sản xuất – kinh doanh, xúc tiến phát triển thị trường công nghệ. Hậu Techmart là giai đoạn rất quan trọng. Những công nghệ có tính ứng dụng cao, ký kết được nhiều hợp đồng, nhận Cúp vàng Techmart, Bộ KH&CN có cơ chế hỗ trợ để phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp và nông dân ở các tỉnh, thành phố. Ngoài ra,  bên bán và bên mua công nghệ nội sinh (nếu đáp ứng được những tiêu chí đặt ra) sẽ được hỗ trợ  từ  Quỹ phát triển KH&CN Quốc gia, Quỹ Đổi mới công nghệ và Dự án đổi mới sáng tạo hướng tới người thu nhập thấp… “, bà Lê Thị Khánh Vân cho hay.
 
Tuy nhiên, những thông tin trên chưa được nhiều doanh nghiệp và các nhà khoa học biết tới, nên đôi khi chính sách đưa ra tốt nhưng vẫn chưa áp dụng được nhiều. Vì vậy, mỗi lần tổ chức Techmart Ban Tổ chức phổ biến những thông tin hỗ trợ khuyến khích của Bộ KH&CN để cho xã hội thấy được sự quan tâm của nhà nước và luôn đổi mới phương thức gắn kết KH&CN với sản xuất- kinh doanh, tăng cường năng lực cạnh tranh. Đặc biệt làm thế nào để cải thiện chất lượng sản phẩm hàng hóa của Việt Nam để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Nếu các doanh nghiệp không chủ động liên kết với các nhà khoa học để áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công nghệ, thiết bị mà tự mình mày mò giải quyết khó khăn trong sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm thì rất khó vươn ra thị trường thế giới mà vẫn chỉ có thể tiêu thụ ở “ sân nhà”.
 
Hiện nay, trong thị trường công nghệ khâu yếu nhất là định chế trung gian. Bà Lê Thị Khánh Vân cho hay, trước đây chưa có Thông tư điều chỉnh các hoạt động của tổ chức trung gian, tư vấn công nghệ cũng như chính sách hỗ trợ đối với các tổ chức trung gian, bên mua và bên bán đã gặp gỡ nhưng rất khó hoàn thành cả quá trình chuyển giao công nghệ vì thiếu kiến thức. Hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen trả phí tư vấn công nghệ. Các doanh nghiệp chủ yếu lấy thông tin mua và bán công nghệ từ các Sàn giao dịch công nghệ vì tư vấn thông tin công nghệ đều miễn phí. Do vậy, thị trường công nghệ đã hình thành nhưng chưa phát triển mạnh mẽ .
 
 
Để thúc đẩy hoạt động của các tổ chức trung gian, tư vấn công nghệ phát triển, đồng thời thúc đẩy phát triển thị trường công nghệ, Nhà nước cần hỗ trợ phí tư vấn cho cả bên mua và bán thông qua việc hỗ trợ cơ sở, vật chất – kỹ thuật cho các Sàn giao dịch công nghệ và lựa chọn các cặp ký kết hợp đồng tại Techmart để hỗ trợ kinh phí triển khai.
 
Năm 2014, để đánh giá mức độ triển khai các hợp đồng đã ký kết tại Techmart, Cục Thông tin KH&CN quốc gia đã tổ chức điều tra các đơn vị tham gia Techmart.  Trong tổng số 283 phiếu điều tra thu được có 193 phiếu của các doanh nghiệp, tổ chức KH&CN chào bán và 90 phiếu tìm mua công nghệ, sản phẩm của các lĩnh vực: Nông – Lâm – Thủy sản – Chế biến thực phẩm đồ uống, Cơ khí – Chế tạo máy, Vật liệu – hóa chất, Dệt may – Da giày – Môi trường, Điện – Điện tử – Tự động hóa, Công nghệ thông tin, Y tế – Dược phẩm.
 
Kết quả điều tra các đơn vị bên cung, bên cầu đã tham gia ký kết các hợp đồng trong các kỳ Techmart và hậu Techmart:- Số lượng hợp đồng và biên bản ghi nhớ đã triển khai được trong thực tế chiếm 30%  – 50% trong tổng số các hợp đồng đã ký kết tùy từng lĩnh vực.
– Doanh thu của các đơn vị tăng từ 10% – 50% tùy từng đơn vị của các lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, nhờ có Techmart, có một số đơn vị đã ký kết được nhiều hợp đồng sau Techmart và doanh thu của đơn vị tăng 100%.
 
 
Bài, ảnh: Bảo Chi
 
 

Đại hội Đại biểu Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020

 
Trong 2 ngày 26-27/6/2015, tại Hà Nội, Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Đại hội Đại biểu Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020. 
 
Toàn cảnh Đại hội Đại biểu Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015-2020
 
 
Tham dự Đại hội về phía Lãnh đạo Bộ KH&CN có đồng chí Nguyễn Quân, Ủy viên Ban Chấp Hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Trần Văn Tùng – Bí thư Đảng ủy Bộ KH&CN, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Trần Việt Thanh, Thứ trưởng Bộ KH&CN; đồng chí Trần Quốc Khánh, Thứ trưởng Bộ KH&CN.
 
Về phía Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn Viên chức Việt Nam có bà Nguyễn Thị Thu Hồng – Ủy viên đoàn Chủ tịch, Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn Viên chức Việt Nam. Bà Nguyễn Giang Tuệ Minh – Ủy viên BCH Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phó chủ tịch thường trực Công đoàn Viên chức Việt Nam.
 
Ngoài ra, Đại hội còn có sự tham gia của các đại biểu là lãnh đạo Công đoàn Bộ Ngoại giao, Công đoàn Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Công đoàn Viện Hàm lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam. Các đại biểu nguyên là Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN qua các thời kỳ; đại diện Lãnh đạo Công đoàn viên chức Việt Nam; đại diện Đảng ủy Bộ; đại diện Hội Cựu chiến binh; Đoàn thanh niên; Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ Bộ KH&CN; thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ cùng 140 đại biểu ưu tú đại diện cho gần 7.000 cán bộ công chức, viên chức và người lao động, công tác trong các cơ quan, đơn vị của Bộ KH&CN…
 
 
Ông Đặng Quang Huấn – Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN phát biểu khai mạc Đại hội
 
 
Phát biểu tại Đại hội, ông Phan Minh Hải, Phó chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN cho biết, tính đến thời điểm Đại hội XVIII, Công đoàn Bộ KH&CN có 52 Công đoàn trực thuộc (Khối quản lý nhà nước 22 đơn vị; Khối sự nghiệp 23 đơn vị; Khối doanh nghiệp 07 đơn vị), trong đó có 12 công đoàn bộ phận và 40 công đoàn cơ sở với tổng số CBCCVC&LĐ là gần 7.000 người.
 
Trong nhiệm kỳ qua Công đoàn Bộ KH&CN đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên các lĩnh vực, thực hiện tốt các chỉ tiêu Đại hội XVII đề ra. Hoạt động của các cấp công đoàn có nhiều khởi sắc, hướng về cơ sở, thu hút đông đảo cán bộ, đoàn viên tham gia, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mỗi cơ quan, đơn vị và đóng góp vào thành tựu kinh tế xã hội của đất nước. 
 
Những thành tích và kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua là nhờ có sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban cán sự, Lãnh đạo Bộ, Đảng ủy Bộ KH&CN và Công đoàn Viên chức Việt Nam; sự quan tâm, phối hợp, tạo điều kiện của lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trong Bộ và đặc biệt là thành quả nỗ lực phấn đấu của toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động (CBCCVC&LĐ), đoàn viên công đoàn Bộ KH&CN.
 
Theo đó, căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Bộ KH&CN, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội IV Công đoàn Viên chức Việt Nam, trên cơ sở đánh kết quả hoạt động, phân tích những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của nhiệm kỳ qua, Đại hội Công đoàn Bộ KH&CN lần thứ XVIII xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015-2020 như sau: Tăng cường tuyên truyền giáo dục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động công đoàn; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công đoàn. Phát huy quy chế dân chủ ở cơ quan, đơn vị; chăm lo bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của CBCCVC&LĐ; Tổ chức sâu rộng các phong trào thi đua yêu nước kết hợp chặt chẽ với cuộc vận động xây dựng người cán bộ CCVC “Trung thành, Sáng tạo, Tận tuỵ, Gương mẫu”; tích cực tham gia đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí; Tích cực tham gia cải cách hành chính, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh.
 
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân đánh giá cao những thành tích mà Công đoàn Bộ KH&CN đã đạt được trong thời gian qua. Bộ trưởng cũng tin tưởng rằng, Công đoàn KH&CN sẽ tiếp tục lớn mạnh hơn nữa, phát triển lên một tầm cao mới
 
 
Tham dự và phát biểu tại Đại hội, Bộ trưởng Nguyễn Quân đánh giá cao những thành tích mà Công đoàn Bộ KH&CN đã đạt được trong thời gian qua. Đồng thời bày tỏ niềm hy vọng đội ngũ CB CCVC&LĐ của Bộ sẽ phát huy, tiếp tục phấn đấu thực hiện 8 chữ của công đoàn viên chức Việt Nam “Trung thành – Sáng tạo – Tận tụy – Gương mẫu” và 8 chữ của Công đoàn Bộ “Kỷ luật – Mẫn cán – Trí tuệ – Nhân ái”. Bộ trưởng cũng tin tưởng rằng, Công đoàn Bộ KH&CN sẽ tiếp tục lớn mạnh hơn nữa, phát triển lên một tầm cao mới, đặc biệt là xây dựng khối đoàn kết nhất trí cao trong từng đơn vị, tham mưu cho chính quyền, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của mình.
 
Bộ trưởng nhận định, thời gian qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến việc đổi mới công nghệ phải gắn với sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Đặc biệt, việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội từ nông thôn, miền núi cho tới thành phố lớn. Để đáp ứng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Bộ trưởng kêu gọi đội ngũ CB CCVC&LĐ của Bộ cùng nhau đưa ý tưởng tốt đẹp mang tính thời đại của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. 
 
“Làm sao doanh nghiệp Việt Nam nhận được nhiều công nghệ mới nhất, công nghệ cao nhất tiến tới tự sáng tạo công nghệ mới, công nghệ cao của chính mình. Làm sao những người làm khoa học phải hướng vào doanh nghiệp, đồng hành với doanh nghiệp. Làm sao các cơ quan quản lý nhà nước không chỉ quan tâm bằng lời nói mà bằng việc xây dựng cơ chế chính sách đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và hoạt động sản xuất kinh doanh”.
 
 
Bà Nguyễn Thị Thu Hồng – Ủy viên đoàn Chủ tịch, Phó chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam hi vọng các cấp Công đoàn Bộ KH&CN sẽ càng ngày lớn mạnh hơn nữa, đóng góp nhiều kết quả thiết thực vào sự thành công chung của Bộ KH&CN và sự nghiệp KH&CN nước nhà
 
 
Tham dự và phát biểu tại Đại hội lần này, bà Nguyễn Thị Thu Hồng – Ủy viên đoàn Chủ tịch, Phó chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn Viên chức Việt Nam đánh giá cao những gì Công đoàn Bộ KH&CN làm được. Bà Nguyễn Thị Thu Hồng cũng bày tỏ hy vọng rằng, cùng với sự nghiệp KH&CN của nước nhà mà Đảng và Nhà nước đã giao phó cho Bộ, các cấp Công đoàn Bộ KH&CN sẽ càng ngày lớn mạnh hơn nữa, đóng góp nhiều kết quả thiết thực vào sự thành công chung của Bộ KH&CN và sự nghiệp KH&CN mà Lãnh đạo Đảng, Nhà nước giao phó.
 
 
Thay mặt Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Bộ trưởng Nguyễn Quân trao Huân chương cao quý này cho Công đoàn Bộ KH&CN
 
 
Bà Nguyễn Thị Thu Hồng đã trao Kỷ niệm chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn cho 06 đồng chí cán bộ lãnh đạo, cán bộ công đoàn
 
 
Bà Nguyễn Giang Tuệ Minh – Ủy viên BCH Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Phó chủ tịch thường trực Công đoàn Viên chức Việt Nam trao tặng Bằng khen của Công đoàn Viên chức Việt Nam cho cho 10 đồng chí đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua xây dựng cơ quan và tổ chức công đoàn vững mạnh
 
Với những thành quả đóng góp trong thời gian qua, Công đoàn Bộ KH&CN vinh dự được đón nhận Huân chương Lao động Hạng nhì do Đảng và Nhà nước trao tặng; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng trao tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn cho 06 đồng chí cán bộ lãnh đạo, cán bộ công đoàn; Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng trao tặng Bằng khen của Công đoàn Viên chức Việt Nam cho cho 10 đồng chí đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua xây dựng cơ quan và tổ chức công đoàn vững mạnh. 
 
 
 
Đại hội đã tiến hành bầu 27 đồng chí vào Ủy viên Ban Chấp hành và 07 đồng chí vào Ủy viên Ban thường vụ khóa mới
 
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân và bà Nguyễn Thị Thu Hồng chụp ảnh lưu niệm, chào mừng 27 đồng chí đã được bầu vào Ủy viên BCH Công đoàn Bộ KH&CN khóa mới.
 
Kết thúc phiên làm việc trong ngày thứ hai, Đại hội đã tiến hành bầu 27 đồng chí vào Ủy viên Ban Chấp hành và 07 đồng chí vào Ủy viên Ban Thường vụ khóa mới.
 
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân và bà Nguyễn Thị Thu Hồng chụp ảnh lưu niệm cùng các đồng chí nguyên là chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN qua các thời kỳ
 
 
Hàng loạt tiết mục văn nghệ ca mua nhạc diễn ra chào mừng Đại hội Đại biểu Công đoàn Bộ KH&CN lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 – 2020
 
 
Nguồn:  Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Khởi công Dự án cơ sở hạ tầng Khu Công nghệ cao Hòa Lạc

 
Ngày 26/6/2015, tại Khu Công nghệ Cao Hòa Lạc (Km 29, Đại lộ Thăng Long, Hà Nội), Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Lễ khởi công Dự án Phát triển Cơ sở hạ tầng Khu Công nghệ cao (CNC) Hòa Lạc. 
 
Tham dự buổi lễ có Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng; Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu; Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm; Ủy viên BCH TW Đảng, Trưởng ban Kinh tế TW Vương Đình Huệ; Ủy viên BCH TW Đảng, Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo; Ủy viên BCH TW Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân; Ủy viên BCH TW Đảng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng; Ủy viên BCH TW Đảng, Chủ tịch Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam Châu Văn Minh… và các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước; Đại diện lãnh đạo các Ban, Ngành TW, Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Quốc phòng, Bộ Công thương, Đại học Quốc gia Hà Nội… cùng đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí, các nhà đầu tư tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc. Về phía Nhật Bản có ông Hiroshi Fukada, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam; ông Mori Mutsuya, Trưởng đại diện Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA) tại Việt Nam.
 
 
Toàn cảnh Lễ Khởi công
 
 
Phát biểu tại Lễ khởi công, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Dự án Phát triển Cơ sở hạ tầng Khu Công nghệ cao Hòa Lạc là dự án lớn với tổng vốn đầu tư lên đến 450 triệu USD từ nguồn ODA của Chính phủ Nhật Bản và nguồn đối ứng của Chính phủ Việt Nam, trong đó nguồn vốn ODA của Nhật Bản khoảng 400 triệu USD.
 
Đồng thời, đây là một dự án có ý nghĩa hết sức quan trọng, là điều kiện để Khu Công nghệ cao Hòa Lạc phát triển nhanh hơn, hiệu quả hơn. “Năm 2018, Dự án được hoàn thành và đi vào hoạt động, Khu Công nghệ cao Hòa Lạc sẽ có diện mạo mới, điều kiện mới để phát triển vượt bậc so với trước đây, hướng tới hình thành một thành phố khoa học tầm cỡ quốc gia, làm cầu nối tiếp nhận, chuyển giao và sáng tạo công nghệ” – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu.
 
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại lễ khởi công
 
 
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng yêu cầu các nhà thầu tư vấn và thi công thực hiện tốt pháp luật Việt Nam và các hợp đồng đã cam kết, đảm bảo dự án được triển khai đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng và hiệu quả. Thủ tướng giao Bộ Khoa học và Công nghệ từ thực tiễn quản lý, rà soát các cơ chế chính sách hiện có và tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các cơ chế chính sách thích hợp, khuyến khích và thu hút mạnh đầu tư khoa học công nghệ vào Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, cả thu hút các nhà khoa học, các nhà đầu tư và doanh nghiệp phát triển nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
 
Thủ tướng lưu ý các dự án thu hút vào Khu CNC Hòa Lạc phải đúng tiêu chí, thực sự là các dự án khoa học công nghệ cao, thực sự nghiên cứu, sáng tạo, khoa học công nghệ mới và đào tạo nhân lực chất lượng cao. Thủ tướng cũng yêu cầu thành phố Hà Nội tiếp tục hoàn thành công tác giải phóng mặt bằng khoảng 300 ha để bào giao cho dự án triển khai theo đúng tiến độ.
 
Nhân dịp này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cảm ơn Chính phủ Nhật Bản đã dành sự ủng hộ ODA lớn nhất cho Việt Nam. 20 năm qua, Nhật Bản đã tài trợ ưu đãi cho Việt Nam khoảng 27 tỷ USD vốn ODA để tập trung phát triển cơ sở hạ tầng. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: Việt Nam coi trọng và mong muốn cùng Nhật Bản tiếp tục đưa quan hệ Đối tác Chiến lược ngày càng đi vào chiều sâu, thiết thực hiệu quả, đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân phát biểu tại lễ khởi công
 
 
Được biết, dự án gồm 5 gói thầu chính: CP-1A – Phát triển hạ tầng chính (gồm các hạng mục hệ thống đường, cầu cống, viễn thông, cấp nước, thoát nước, nước thải, cấp điện); CP-1B – Cải tạo hồ Tân Xã và bảo vệ suối Dứa Gai; – CP-2 Nhà máy xử lý nước thải; – CP-3 Trạm điện và ES-II – Tư vấn giám sát. Tất cả các gói thầu sẽ được triển khai thực hiện trong năm 2015. 
 
Trước đó, ngày 17/6/2015, Ban Quản lý Khu CNC Hòa Lạc và Liên danh nhà thầu (Công ty Taisei – Nhật Bản, Tổng Công ty Vinaconex và Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn) đã ký kết Hợp đồng thực hiện gói thầu CP-1A.
 
Khu CNC Hòa Lạc được thành lập năm 1998 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu nghiên cứu – phát triển và ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao. Theo quy hoạch, Khu CNC Hoà Lạc có diện tích 1.586ha, thuộc địa bàn 02 huyện Thạch Thất và Quốc Oai, TP Hà Nội với các khu chức năng: Giáo dục và Đào tạo, Nghiên cứu – Triển khai, Phần mềm, Công nghiệp Công nghệ cao và các dịch vụ tiện ích khác. 
 
Khu CNC Hòa Lạc được quy hoạch theo mô hình một thành phố KH&CN thông minh, sẽ là một khu vực thu hút các loại hình nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ cao trong môi trường cạnh tranh nhằm kích thích phát triển các ngành công nghệ cao trong cả nước. Các lĩnh vực công nghệ cao được ưu tiên phát triển tại đây gồm: Công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ phần mềm; Công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, thuỷ sản, y tế; Công nghệ vi điện tử, cơ khí chính xác, cơ – điện tử, quang điện tử và tự động hoá; Công nghệ vật liệu mới; Công nghệ nano; Công nghệ thân môi trường, công nghệ năng lượng mới;… và một số ngành công nghệ đặc biệt khác.
 
Sau 17 năm thành lập, bóng dáng của một thành phố KH&CN đang hình thành, quá trình xây dựng, phát triển Khu CNC Hòa Lạc đã có nhiều tín hiệu khởi sắc. Hiện việc giải phóng mặt bằng đã đáp ứng được yêu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng và thu hút đầu tư. Toàn bộ mặt bằng sẽ được bàn giao cho các đơn vị thi công theo đúng tiến độ. 
 
Tính đến tháng 5/2015, đã có trên 10.000 người đang học tập và làm việc tại đây. Ban Quản lý Khu đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư/Quyết định giao đất cho gần 70 dự án đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 56.800 tỷ đồng trên diện tích đất 336 ha. Các lĩnh vực được tập trung đầu tư gồm: sản xuất và kinh doanh phần mềm; công nghệ thông tin; sinh học, y học; điện tử, tự động hóa, sản xuất thiết bị viễn thông. Hiện nay, 33/67 dự án đang hoạt động, 10 dự án trong quá trình xây dựng, 22 dự án đang hoàn thiện thủ tục để triển khai,… Năm 2014, tổng giá trị xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp tại Khu CNC Hòa Lạc đạt 228 triệu USD, trong đó giá trị xuất khẩu đạt 133 triệu USD, giá trị nhập khẩu đạt 95 triệu USD.
 
Trong Khu CNC Hòa Lạc hiện có Trường Đại học FPT đang hoạt động với khoảng 2.500 sinh viên; Đại học KH&CN Hà Nội (có sự hỗ trợ bằng nguồn vốn ODA khoảng 210 triệu đô la Mỹ của Ngân hàng Phát triển Châu Á và Chính phủ Pháp) và Đại học Việt Nam – Nhật Bản (có sự hỗ trợ nguồn vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản) đang trong quá trình hình thành, xây dựng và phát triển. Viện KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (V-KIST) theo mô hình Viện KIST (Hàn Quốc) đã được Chính phủ thành lập và sẽ xây dựng tại Khu CNC Hòa Lạc với nguồn vốn hỗ trợ ODA khoảng 35 triệu đô la Mỹ của Chính phủ Hàn Quốc. 
 
Nhiều đơn vị nghiên cứu ở trong và ngoài nước đã và đang đầu tư xây dựng tại đây như Trung tâm Vũ trụ Quốc gia, Trung tâm Nghiên cứu của Công ty Nissan Techno (Nhật Bản), Trung tâm Điều khiển vệ tinh nhỏ của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Trung tâm Công nghệ cao về thông tin và truyền thông của Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện Nghiên cứu phát triển của Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel,… 
 
Hiện, Ban Quản lý Khu CNC Hòa Lạc đang tăng cường các hoạt động tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, kết nối cung – cầu về công nghệ tại Khu CNC Hòa Lạc với các tổ chức, đối tác trong và ngoài nước với mục tiêu đưa nơi đây thành trung tâm trình diễn và chuyển giao công nghệ hàng đầu tại khu vực phía Bắc. Các chính sách ưu đãi đầu tư đặc thù cho Khu CNC Hòa Lạc cũng đang được xây dựng, hoàn thiện và dự kiến trình Chính phủ ban hành vào cuối năm 2015. 
 
Với việc triển khai và hoàn thành dự án Phát triển Cơ sở hạ tầng Khu CNC Hòa Lạc vào năm 2018, đây sẽ là Khu CNC hiện đại, có hạ tầng tốt và đồng bộ theo mô hình một thành phố KH&CN thông minh, thực sự là một trong những điểm đầu tư hấp dẫn nhất tại Việt Nam. Cùng với hệ thống cơ sở pháp lý hoàn thiện, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,… giai đoạn khởi động cho việc xây dựng và phát triển Khu CNC Hòa Lạc về cơ bản đã hoàn thành. Khu CNC Hòa Lạc đang đồng thời triển khai các hoạt động thu hút đầu tư, phát triển các dự án của giai đoạn tăng tốc và cất cánh. Bộ KH&CN cũng như Ban Quản lý Khu CNC Hòa Lạc đã đề ra chiến lược trong giai đoạn này là tập trung nâng cao, phát triển tiềm lực KH&CN nhằm hướng đến mục tiêu phát triển thành trung tâm nghiên cứu phát triển và ứng dụng công nghệ cao quốc gia theo như Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển KH&CN của đất nước. 
 
Thực hiện Tuyên bố chung Việt Nam – Nhật Bản, Dự án Phát triển Cơ sở hạ tầng Khu CNC Hòa Lạc đã được Nhật Bản hỗ trợ triển khai Điều chỉnh Quy hoạch chung Khu CNC Hòa Lạc, Nghiên cứu tiền khả thi và Nghiên cứu khả thi dự án. Trên cơ sở báo cáo Nghiên cứu khả thi dự án do Đoàn Nghiên cứu Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) lập, năm 2010, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Dự án Phát triển Cơ sở hạ tầng Khu CNC Hòa Lạc sử dụng vốn ODA Nhật Bản và vốn đối ứng trong nước.
Ngày 18/3/2010, Bộ Tài chính Việt Nam và JICA đã ký Hiệp định vay số VNXVII-10 cho Giai đoạn Dịch vụ kỹ thuật của dự án với các công tác thiết kế chi tiết, nâng cao năng lực và phát triển thể chế.
Ngày 30/3/2012, Bộ Tài chính Việt Nam và JICA đã ký Hiệp định vay lần 1 số VN-P8 trị giá 15,218 tỷ Yên (YPY) cho Giai đoạn xây dựng của dự án. Theo kế hoạch, Hiệp định vay lần 2 sẽ được ký kết trong năm tài chính 2016 với tổng số vốn vay dự kiến khoảng 30 tỷ YPY. Dự án được khởi công vào ngày 26/6/2015 và sẽ hoàn thành vào cuối năm 2018, sau 37 tháng thi công.
 
Nguồn:  Minh Châu, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Truyền thông KH&CN

Khai mạc Hội thảo Việt Nam – Liên bang Nga về hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân

Sáng ngày 23/6/2015, Hội thảo Việt Nam – Liên bang Nga về hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân đã được khai mạc tại trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ. Hội thảo do Cục Năng lượng nguyên tử chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan của Việt Nam và Liên bang Nga tổ chức từ ngày 23-25/6/2015.
 
Các đại biểu tham dự Hội thảo
 
 
 
Đây là một trong các hoạt động chính nhằm triển khai kết luận của Khóa họp 7 Ủy ban điều phối hợp tác năng lượng nguyên tử vì hòa bình của Việt Nam – Liên bang Nga. Mục đích của Hội thảo là xây dựng khung kế hoạch hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga về phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân giai đoạn 2015-2017.
 
Đoàn công tác của Liên bang Nga do ông Yury SOKOLOV, Trưởng ban hợp tác quốc tế về Khoa học và kỹ thuật của Công ty Rosenergoatom làm Trưởng đoàn và 7 cán bộ quản lý của Tập đoàn Năng lượng nguyên tử quốc gia ROSATOM (Cục Chính sách nhân lực, Ban Kinh doanh quốc tế, Công ty Mạng lưới quốc tế RUSATOM, Văn phòng dự án cơ sở hạ tầng điện hạt nhân) và Cơ quan liên bang Rostechnadzor.
 
Về phía Việt Nam, tham dự Hội thảo có các đại biểu của các Bộ, ngành, cơ quan: Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Năng lượng nguyên tử, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, Vụ Hợp tác quốc tế), Bộ Công Thương (Tổng Cục Năng lượng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận), Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an, Bộ Xây dựng.
 
Cũng trong sáng ngày 23/6, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Việt Thanh đã tiếp xã giao Đoàn công tác của Liên bang Nga. Tại buổi tiếp, Thứ trưởng đánh giá cao sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả của Liên bang Nga đối với chương trình điện hạt nhân ở Việt Nam. Thứ trưởng cho biết Kế hoạch Tổng thể về phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2014. Bộ Khoa học Công nghệ với vai trò là cơ quan điều phối, chủ trì về phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân sẽ tạo mọi điều kiện để thúc đẩy hợp tác với Nga trong lĩnh vực này, đặc biệt là hợp tác xây dựng đội ngũ chuyên gia quản lý và kỹ thuật phục vụ phát triển điện hạt nhân. Thứ trưởng mong muốn phía Nga sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng Trung tâm khoa học công nghệ và hạt nhân trở thành cơ sở nghiên cứu đào tạo nhân lực hạt nhân tầm cỡ trong khu vực.
 
Thứ trưởng Trần Việt Thanh tiếp đoàn
 
 
Thay mặt Đoàn công tác của Liên bang Nga, ông Y. SOKOLOV bày tỏ cam kết Nga sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong các hoạt động phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân như tăng cường đào tạo trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nghiên cứu triển khai, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng, quản lý và vận hành nhà máy điện hạt nhân, góp phần phát triển một cách an toàn và hiệu quả điện hạt nhân ở Việt Nam. Với kinh nghiệm nhiều năm làm việc tại cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) ở cương vị Phó Tổng Giám đốc phụ trách lĩnh vực điện hạt nhân, ông Yury SOKOLOV đã giành nhiều sự giúp đỡ trong việc phát triển cơ sở hạ tầng hạt nhân quốc gia cho các nước mới bắt đầu chương trình hạt nhân, trong đó có Việt Nam.
 
Về đào tạo nhân lực cho điện hạt nhân, ông Y. SOKOLOV khẳng định phía Nga sẽ tạo điều kiện cho các cán bộ, sinh viên Việt Nam sang thực tập tại các cơ sở hạt nhân của Liên bang Nga.
 
Trong 03 ngày làm việc, các đại biểu sẽ tiến hành thảo luận về khung kế hoạch hợp tác song phương để phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân Việt Nam giai đoạn 2015-2017 theo19 vấn đề về phát triển điện hạt nhân của IAEA, trong đó tập trung thảo luận về 3 nhóm vấn đề chính bao gồm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện khuôn khổ pháp quy và thông tin tuyên truyền điện hạt nhân.
 
Liên bang Nga hiện có 10 nhà máy điện hạt nhân với 34 tổ máy. Hiện nay, Nga đang xúc tiến các dự án mới tại các nước như Belarus, Thổ Nhĩ Kỳ, Banglades, Jordan, Việt Nam, vv…
 
Nguồn:  Cục Năng lượng nguyên tử