Dùng đất để giảm phát thải khí nhà kính

Đất có một đặc tính quan trọng ít được chú ý: Khả năng cô lập cácbon, giảm phát thải khí nhà kính. Các nhà khoa học đang nghiên cứu lợi ích này để tìm giải pháp chống biến đổi khí hậu.
 
 
Đất có khả năng cô lập cácbon, làm giảm phát thải khí nhà kính. Ảnh: Organicconsumers
 
Trong không khí hiện có khoảng 830 tỷ tấn cácbon. Mỗi năm, con người thải thêm khoảng 10 tỷ tấn. Đất có thể chứa 4.800 tỷ tấn, gấp 6 lần không khí.
 
Ônh Johannes Lehmann thuộc Đại học Cornell – đồng tác giả nghiên cứu – cho biết: “Chúng ta có thể làm giảm đáng kể lượng cácbon trong khí quyển bằng cách sử dụng đất, sử dụng công nghệ quản lý đất để giảm khí nhà kính”.
 
Điều quan trọng là phải tăng cường chu trình nitơ trong đất, đảm bảo nitơ – yếu tố cần thiết cho sự tăng trưởng thực vật – được cân bằng. Điều này không chỉ giúp đất tăng khả năng cô lập cácbon, giảm hiệu ứng nhà kính mà còn tăng độ phì nhiêu của đất, tăng năng suất cây trồng và đa dạng sinh học, giảm ô nhiễm nước và xói mòn, bảo vệ cây trồng khỏi các tác động của biến đổi khí hậu.
 
Các hoạt động cụ thể để quản lý đất là: Giữ gìn đất bằng cách duy trì rừng hoặc đồng cỏ, giảm đất canh tác, tăng cường chăn thả gia súc, áp dụng than sinh học, trồng cây che phủ và thảm thực vật cho vùng đất sản xuất cằn cỗi.
 
Để phát huy tác dụng kiềm chế hiện tượng nóng lên toàn cầu, việc quản lý đất đai đòi hỏi sự kết hợp kiến thức trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
 
N.Ánh (Theo Techtimes)
 

“An toàn điện hạt nhân chỉ đạt được qua giáo dục”

Ông Yves Fanjas – Giám đốc Viện quốc tế về Năng lượng hạt nhân Pháp – khẳng định như vậy trong buổi làm việc tại Việt Nam mới đây, nhằm tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn trong công tác đào tạo nhân lực điện hạt nhân của Việt Nam.
 
Tìm hiểu nhu cầu, xây dựng một chương trình tổng thể về đào tạo nhân lực là cách thức nước Cộng hòa Pháp lựa chọn để đưa công nghệ điện hạt nhân (ĐHN) ra thế giới – đặc biệt là những quốc gia đang chuẩn bị xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên như Việt Nam.
 
 
Ông Yves Fanras thảo luận về điện hạt nhân với các đối tác quốc tế. Ảnh: INT
Pháp mở rộnghợp tác đào tạo ĐHN
Cộng hoà Pháp là quốc gia có tỷ trọng ĐHN chiếm tới 3/4 tổng điện năng quốc gia. Đến nay, Pháp vẫn tiếp tục xem nguồn năng lượng này là quan trọng nhất trong nền điện năng quốc gia.
Không chỉ phát triển ĐHN ở trong nước, Pháp còn đẩy mạnh xuất khẩu công nghệ và hợp tác đào tạo nhân lực ĐHN ra thế giới. Bắt đầu bằng việc hợp tác đào tạo nhân lực cho Ba Lan vào tháng 9/2011, ngoài hy vọng Ba Lan sẽ được hưởng lợi từ những kinh nghiệm của mình khi xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên, Pháp cũng muốn bán công nghệ cho quốc gia này.
 
Việt Nam đang chuẩn bị các bước để khởi công xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên tại Ninh Thuận. Việc đào tạo nguồn nhân lực – nhất là các chuyên gia về an toàn hạt nhân – được xác định là ưu tiên hàng đầu. Pháp đã không bỏ qua cơ hội này.
 
Trong cuộc gặp gỡ vào tháng 3/2012 tại Hội nghị thượng đỉnh về an ninh hạt nhân Seoul (Hàn Quốc), ông Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng Việt Nam nhiệm kỳ 2006-2011 và ông François Fillon – Thủ tướng Pháp từ năm 2007-2012 – đã nhất trí sẽ tăng cường hơn nữa quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử – trong đó ưu tiên lĩnh vực đào tạo và an toàn hạt nhân.
 
Triển khai lộ trình Chính phủ Pháp đã vạch sẵn, Cơ quan hạt nhân quốc tế Pháp đã đến Việt Nam vào tháng 6/2012 để xây dựng một chương trình tổng thể về đào tạo nhân lực ĐHN của Việt Nam.
 
Nhu cầu đào tạo nhân lực ĐHN của Việt Nam khá đa dạng, từ chuyên gia xây dựng hệ thống văn bản pháp quy, cán bộ hỗ trợ kỹ thuật cho cơ quan pháp quy, cán bộ quản lý đến chuyên gia, kỹ sư vận hành các nhà máy ĐHN.
 
Tại buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ – khi đó là ông Nguyễn Quân, ông Marc Ponchet – Phó Giám đốc Cơ quan Hạt nhân quốc tế Pháp – đã nói về ý tưởng xây dựng các cơ sở đào tạo lĩnh vực ĐHN tại Việt Nam, hợp tác đào tạo giảng viên ĐHN.
 
Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam từ cuối tháng 2/2016 đã ký biên bản ghi nhớ về hợp tác đào tạo nhân lực ĐHN với Viện quốc tế về Năng lượng hạt nhânPháp. “Đây là chương trình quy mô lớn bao gồm cả đào tạo, nghiên cứu, xây dựng, vận hành nhà máy ĐHN” – ông Yves Fanjas – Giám đốc Viện quốc tế về Năng lượng hạt nhân Pháp – cho biết trong buổi làm việc với Trung tâm Thông tin năng lượng nguyên tử (ICONE) ngày 12/4.
 
Ông Yves Fanjas cho biết, mục đích của chuyến thăm ICONE lần này là tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn trong đào tạo nhân lực ĐHN của Việt Nam – đặc biệt là tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Bên cạnh đó, việc hợp tác đào tạo giáo viên chuyên ngành ĐHN cho các trường đại học cũng như các trung tâm đào tạo chuyên ngành năng lượng hạt nhân cũng được người Pháp cho là có tiềm năng.
3 trường đại học đào tạo sâu về ĐHN
 
“An toàn ĐHN chỉ đạt được khi thông qua giáo dục” – ông Yves Fanjas nói. Vì vậy, ngoài 3 trường đại học đào tạo chuyên sâu về năng lượng nguyên tử là Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Đà Lạt, phía Pháp cũng sẽ hợp tác với Đại học Điện lực để đào tạo nhân lực ĐHN.
 
Nước Pháp có kinh nghiệm trong việc đào tạo nhân lực ĐHN, có trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác đào tạo cũng như xây dựng nhà máy ĐHN. Ông L. Turpin – Giám đốc Cơ quan hạt nhân quốc tế Pháp (AFNI) – khẳng định: “Kinh nghiệm về ĐHN của Pháp sẽ mang lại hiệu quả cao nếu được Việt Nam áp dụng”.
 
Theo Ban quản lý dự án ĐHN Ninh Thuận, đến năm 2022 số nhân sự cần cho hai nhà máy ĐHN Ninh Thuận I và II là khoảng 2.200 người. Trong đó, yêu cầu về trình độ đại học là hơn 800 người, cao đẳng nghề hơn 900 người, lao động phổ thông là hơn 400 người.
 
Việc đào tạo nhân lực năng lượng nguyên tử nói chung, ĐHN nói riêng đang nhận được sự quan tâm của Chính phủ, các bộ, ngành Việt Nam, bởi đây là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước.
 
PGS-TS Hà Mạnh Thư – Giám đốc ICONE – cho biết, Ban chỉ đạo quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử cũng đã giao 3 trường đại học đào tạo chuyên sâu về năng lượng nguyên tử là Đại học Khoa học tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Đà Lạt.
 
Các trường đại học khác sẽ tổ chức tuyển sinh, đào tạo các chuyên ngành đã được phân công theo quy hoạch của đề án 1558 về “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2010. Cùng với đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan và Tập đoàn Điện lực Việt Nam triển khai các chương trình đào tạo nhân lực để phục vụ các dự án ĐHN.
 
Tuy nhiên, do “tiềm lực và kinh nghiệm trong phát triển ĐHN còn hạn chế nên cùng với sự tăng cường đầu tư của Nhà nước, hợp tác quốc tế đóng vai trò quan trọng, đảm bảo nguồn nhân lực cho phát triển ĐHN của nước ta” – PGS Hà Mạnh Thư nói.
Nguyễn Hoàng

Trên 500 đại biểu trong nước và quốc tế sẽ tham dự “Những ngày Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo ASEAN-EU 2016”

Theo thống kê của Ban Tổ chức, sự kiện “Những ngày Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo ASEAN-EU 2016” sẽ có trên 500 đại biểu trong nước và quốc tế tham dự, trong đó có hơn 300 đại biểu quốc tế đến từ gần 40 quốc gia trên thế giới.
 
Với mục đích tăng cường hội nhập, nâng cao nhận thức, đẩy mạnh hợp tác về khoa học công nghệ giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia sẽ tổ chức sự kiện “Những ngày Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo ASEAN-EU 2016 (ASEAN-EU STI Days 2016)” từ ngày 10 – 12/5/2016 tại khách sạn Melia, 44B, Lý Thường Kiệt, Hà Nội.
 
 
Trên 500 đại biểu trong nước và quốc tế sẽ tham dự sự kiện ASEAN-EU STI Days 2016, trong đó có hơn 300 đại biểu quốc tế đến từ gần 40 quốc gia trên thế giới
Sự kiện ASEAN-EU STI Days 2016 có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy, tăng cường hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa hai khu vực Liên minh châu Âu và Đông Nam Á.
 
Với 22 hội thảo, hội nghị kéo dài trong 3 ngày, nội dung chính của STI Days 2016 gồm có:
 
– Hội thảo khai mạc với sự tham gia của nhiều quan chức, các nhà hoạch định chính sách cấp cao từ Liên minh châu Âu và khu vực Đông Nam Á nhằm trình bày quan điểm đối với hoạt động hợp tác về KHCN giữa 2 khu vực;
– Nhiều hội nghị/hội thảo khoa học về các chủ đề có sự quan tâm chung giữa hai khu vực như y tế, quản lý nguồn nước, an ninh và an toàn thực phẩm, đo lường, đổi mới sáng tạo, kết nối doanh nghiệp…;
– Triển lãm về đổi mới sáng tạo với mục đích quảng bá năng lực KHCN và đổi mới sáng tạo của các quốc gia Đông Nam Á đối với các đối tác tại châu Âu.
 
 
ASEAN – EU STI Days 2016 – cơ hội để các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Việt Nam gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ phát triển các mối quan hệ với các đối tác thuộc Liên minh châu Âu
 
Sự kiện ASEAN-EU STI Days 2016 sẽ là dịp để các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Việt Nam gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ thông tin, hoạt động nghề nghiệp, tìm kiếm cơ hội hợp tác tiềm năng, phát triển các mối quan hệ với các đối tác thuộc Liên minh châu Âu và khu vực Đông Nam Á, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong hợp tác khoa học và công nghệ.
Thông tin chi tiết liên tục được cập nhật tại website http://www.stidays.net/
 
 
Nguồn:  NASATI
 
 

Nghiên cứu tiến hóa và bảo tồn của các loài Mang (Cervidae: Muntiacinae) ở Việt Nam bằng phương pháp sinh học phân tử

Năm 2015, Nhóm nghiên cứu do Lê Đức Minh – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đứng đầu đã thành công trong việc Nghiên cứu tiến hóa và bảo tồn của các loài Mang (Cervidae Muntiacinae) ở Việt Nam bằng phương pháp sinh học phân tử. Thành công của nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong phân loại học của nhóm Mang, một nhóm động vật quý hiếm, cũng như trong việc xây dựng kế hoạch bảo tồn nhóm động vật đang bị đe dọa tuyệt chủng. Các kết quả nghiên cứu được đăng trên tạp chí ISI và một số tạp chí chuyên ngành uy tín của Việt Nam.
 
Mục tiêu của nghiên cứu là nhằm nghiên cứu tổng thể mức độ đa dạng của nhóm Mang ở Việt Nam sử dụng các phương pháp thu mẫu không trực tiếp. Các mẫu đã được thu từ phân và mẫu khô của thợ săn tại vùng điều tra và từ những mẫu hiện nằm trong các bảo tàng để nhằm xác định mức độ đa dạng về gen và biến động về số lượng của những loài này từ trước đến nay. Số liệu thu được từ các mẫu này cũng được sử dụng để phân tích và đánh giá phân bố, cấu trúc gen trong quần thể, số lượng và mức độ đa dạng và kiểu hình thành loài. Ngoài ra, mục đích chính của nghiên cứu là nhằm xác định những loài ẩn sinh bằng cách so sánh số liệu về gen của những mẫu thu được từ nhiều địa điểm khác nhau, kiểu hình thành loài, và sự biến động về số lượng theo thời gian. Đồng thời, số liệu thu được dùng để kiểm chứng một số giả thuyết liên quan đến kiểu phân bố của nhóm này. Cụ thể là ở mức độ địa phương, mẫu của những loài có phân bố rộng đã được thu thập từ nhiều vùng địa lý khác nhau và so sánh về mặt gen sử dụng công cụ cây phát sinh loài để xác định sự khác biệt di truyền giữa các quần thể này. Ở mức độ vùng, các loài của giống này đã được so sánh bằng cây phát sinh loài để xác định mối quan hệ về mặt tiến hóa. Những mối quan hệ này sau đó được sử dụng để tìm ra lịch sử về mặt địa sinh học và xem nó liên quan gì với mô hình thay đổi khí hậu. các kết quả nghiên cứu này cũng xác định vùng đặc hữu của nhóm này. 
Nghiên cứu này cũng đã phát triển được một số phương pháp về chiết tách và nhân dòng các mẫu có chất lượng ADN thấp và các phương pháp xây dựng quy trình xây dựng cây phát sinh loài phục vụ nghiên cứu tiến hóa phân tử.
Nhóm nghiên cứu tiến hành điều tra trên toàn bộ vùng phân bố của Mang từ tỉnh Điện Biện đến Kon Tum. Tập trung chủ yếu vào khu bảo tồn hiện có và đang được kiến nghị và tập trung vào môi trường sống ưa thích của chúng ở các khu rừng có độ cao tương đối lớn. Thu được hơn 200 mẫu từ các vùng phân bổ này. Các mẫu được thu và giữ khô bằng hạt silica hoặc ngâm trong cồn để phục vụ chiết tác ADN. Để lập được bản đồ vùng phân bổ, mỗi mẫu được gắn mã số riêng và tọa độ địa lý được ghi lại bằng máy GPS. Các mẫu khác được thu từ mẫu khô của thợ săn trong vùng phân bổ hoặc ở các bảo tàng.
 
Bằng cách sử dụng bộ phân tách Qiamp DNA Stool Kit của Qiagen, nhóm tiến hành tách ADN từ các mẫu phân thu được. Do lượng ADN trong mẫu thấp nên họ đã sử dụng hỗn hợp đa dụng HotStarTaq, đây là Taq đặc trưng và chuyên dụng dùng cho các mẫu có lượng ADN thấp.
 
Các mẫu thu được từ thợ săn và lấy từ bảo tàng được phân tách bằng bộ DNeasy Kit thông thường của Qiagen hoặc bộ Qiamp DNA Micro Kit trong trường hợp lượng ADN còn lại thấp. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm nghiên cứu sử dụng 3 loại Gen khác nhau, trong đó có 2 Gen ti thể (NADH dehydrogenase 4 (ND4) – 700 nucleotid, cytb-1.140 nucleotid) và 1 Gen nhân (G-fibrinogen-590 nucleotid). Tất cả các cặp mồi được thiết kế (ND4) hoặc được lấy tìe Egan (2000). Các mẫu đã chiết tách được tổng hợp nhân bản và đọc trình tự. Quá trình này được thực hiện tại phòng thí nghiệm Bộ môn Di truyền – Đại học Khoa học Tự nhiên. Nhóm đã thay thế gen 16S và 12S bằng ND4 vì gen này có mức độ đột biến cao hơn.
 
Các chuỗi ADN sau khi đọc trình tự được sắp xếp lại bằng phần mềm ClustalX. Kết quả thu được dùng phương pháp phân tích maxium parsimony (MP) và phương pháp Bayes để phân tích. Chỉ số bootstrap được đánh giá dựa trên 1000 lần phân tích lặp lại có sử dụng lặp lại 100 lần có thêm taxon ngẫu nhiên. Việc tính khoảng cách di truyền giữa các mẫu được thực hiện trên phần mềm PAUP.
Nghiên cứu đã đạt được một số kết quả khả quan. Các phương pháp phân tích số liệu được phát triển thông qua nghiên cứu này có tính ứng dụng rộng rãi và đã được sử dụng thành công trong các nghiên cứu tương tự với nhiều loại đối tượng nghiên cứu khác nhau. Cây phát sinh loài có độ chính xác cao, đạt tiêu chuẩn đặt ra bởi các tạp chí hàng đầu trong lĩnh vực. Cây phát sinh loài giúp cho việc phát triển các giả thiết tiến hóa như mối tương quan giữa những thay đổi về điều kiện khí hậu và môi trường trong quá khứ tới tốc độ phát sinh loài, sự hình thành vùng địa sinh học trong suốt chiều dài lịch sử của nhóm loài, tương tác giữa hoạt động địa chất tới quá trình phân tách di truyền của các quần thể. Phương pháp này còn có thể sử dụng rộng rãi trong việc phát hiện loài mới bằng phương pháp sinh học phân tử. Trong tương lai, phương pháp này hứa hẹn sẽ có nhiều ứng dụng trong nghiên cứu tại Việt Nam, giúp cho việc nghiên cứu tiến hóa phân tử của nhiều nhóm loài, cũng như giúp cho việc mô tả loài mới đặc biệt ở những nhóm loài còn ít được nghiên cứu. Từ cây phát sinh loài, nhóm nghiên cứu xác nhận Việt Nam có thêm một loài mang mới, đó là loài mang Roosevelt, mà loài này trước đây được ghi nhận tại Lào. Ngoài ra, cây phát sinh loài cũng cho thấy nhiều loài mang ở nước ta có tính đa dạng di truyền cao đặc biệt là loài mang vó vàng (Muntiacus muntjak) và mang lớn (Muntiacus vuquangensis). Loài Mang Pù Hoạt có thể không phải là một loài có hiệu lực và là loài đồng vật (synonym) với loài mang Roosevelt. Thành công trong việc xây dựng phương pháp chiết tách và nhân dòng ADN từ các mẫu có chất lượng thấp thực sự hữu dụng cho việc điều tra các loại khó tiếp cận. Bằng phương pháp này, nhóm đã thu được số liệu từ các loài mang và rùa mai mềm Thượng Hải. Kết quả nghiên cứu đã góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đối với việc buôn bán trái phép các loài quý hiếm thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu sinh học phân tử của các loài này. Cơ sở dữ liệu này sẽ giúp xác định và nhận dạng chính xác các mẫu vật và các sản phẩm từ các loài quý hiếm đang bị buôn bán. Phương pháp chiết tách và nhân dòng đạt hiệu quả cao, có thể khắc phục những khó khăn trong việc đọc trình tự ADN từ những mẫu vật và những sản phẩm.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài Nghiên cứu tiến hóa và bảo tồn của các loài Mang (Cervidae: Muntiacinae) ở Việt Nam bằng phương pháp sinh học phân tử tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia. Mã đề tài: 106.15-2010.30.
 
Nguồn:  P.T.T (NASATI, 2015)
 

Ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm nấm có ích trừ rầy nâu hại lúa và trừ sâu hại rau họ hoa thập tự tại Hải Phòng

“Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh học sản xuất chế phẩm nấm có ích Metarhizium (BIOFUN 1) trừ rầy nâu hại lúa và Beauveria (BIOFUN 2) trừ sâu hại rau họ hoa thập tự tại Hải Phòng” là dự án ứng dụng được Chi cục Bảo vệ Thực vật (Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hải Phòng) triển khai thành công từ tháng 12/2014 đến tháng 2/2016, trên cơ sở tiếp nhận quy trình công nghệ sản xuất 02 loại chế phẩm nấm có ích BIOFUN 1 và BIOFUN 2 từ Viện Bảo vệ Thực vật. Dự án được Hội đồng Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cấp thành phố đánh giá xếp loại xuất sắc chiều 28/4/2016 tại Sở KH&CN thành phố Hải Phòng.
 
 
Sản xuất chế phẩm nấm có ích BIOFUN 1 trừ rầy nâu hại lúa
Dự án đã đào tạo được 04 cán bộ kỹ thuật thuộc Chi cục Bảo vệ Thực vật phục vụ trực tiếp mô hình và 15 cán bộ kỹ thuật của Chi cục nắm được quy trình công nghệ sinh học sản xuất và sử dụng chế phẩm nấm có ích BIOFUN 1 trừ rầy nâu hại lúa và BIOFUN 2 trừ sâu hại rau họ hoa thập tự. 
 
Với việc tiếp nhận và áp dụng 05 quy trình kỹ thuật để sản xuất chế phẩm trong khoảng thời gian từ 20-28 ngày (kỹ thuật nhân sinh khối nguồn nấm sơ cấp có ích BIOFUN 1 và BIOFUN 2 (giống cấp 1); kỹ thuật nhân sinh khối chế phẩm sơ cấp nấm có ích BIOFUN 1 và BIOFUN 2 (giống cấp 2); kỹ thuật nhân sinh khối trên giá thể sản phẩm; kỹ thuật sấy chế phẩm và kỹ thuật kiểm nghiệm, đóng gói và bảo quản chế phẩm), dự án đã sản xuất thử nghiệm được 1.000 kg chế phẩm nấm BIOFUN 1 và BIOFUN 2, trong đó có 850 kg đạt tiêu chuẩn. Chế phẩm đạt tiêu chuẩn có mật độ bào từ đạt 2,97 – 3,26 x 109 trong 01 gram chế phẩm. Công suất sản xuất chế phẩm đạt 5 tấn/năm. Giá thành sản xuất chế phẩm nấm có ích tại Chi cục Bảo vệ Thực vật Hải Phòng là 89.585 đồng/kg, thấp hơn khoảng 20.000đ/kg so với giá bán tại Viện Bảo vệ thực vật.
 
Sau khi sản xuất thử nghiệm thành công 02 loại chế phẩm nấm có ích, dự án triển khai thực nghiệm tại 02 địa điểm: Chế phẩm BIOFUN 1 trừ rầy nâu hại lúa vụ Xuân 2015 thực hiện tại thôn Lai Thị, xã Tân Dân, huyện An Lão, diện tích 10 ha; Chế phẩm BIOFUN 2 trừ sâu hại rau họ hoa thập tự thực hiện tại xã An Hòa, huyện An Dương, diện tích 5ha. Kết quả thực nghiệm cho thấy, sử dụng chế phẩm BIOFUN 1 cho hiệu quả trừ rầy nâu hại lúa đạt 85% sau 14 ngày phun chế phẩm. So với ruộng của nông dân (ngoài vùng dự án), mật độ rầy nâu trong vùng dự án tại các thời kỳ sinh trưởng của lúa thấp hơn đáng kể, đặc biệt từ giai đoạn làm đòng đến khi chín và thu hoạch (giai đoạn làm đòng, có thời điểm, mật độ rầy nâu tại ruộng của nông dân là 1.567,5 con/m2, ruộng trong vùng dự án là 102 con/m2; giai đoạn chín – thu hoạch, mật độ rầy nâu tại ruộng của nông dân là 328,6 con/m2, ruộng trong vùng dự án là 41,2 con/m2). Thử nghiệm chế phẩm nấm có ích BIOFUN 2 trừ sâu hại rau họ hoa thập tự cho hiệu quả trừ sâu hại đạt từ 62,8 – 80,6% sau 7 – 10 ngày phun chế phẩm, tùy thuộc vào áp lực sâu trên đồng ruộng và đối tượng sâu hại. Sử dụng chế phẩm sin học trừ rầy nâu hại lúa và trừ sâu hại rau họ hoa thập tự trong vùng dự án cho hiệu quả kinh tế cao hơn ruộng của nông dân ngoài vùng dự án (sử dụng thuốc hóa học phòng trừ sâu bệnh) từ 827.700 – 977.800 đồng/ha.
 
Theo đánh giá của Hội đồng KH&CN, dự án cần được nhân rộng bởi những hiệu quả thiết thực về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
 
Nguồn:  Sở KH&CN thành phố Hải Phòng

Phân bón sản xuất bằng ánh sáng Mặt Trời

Các nhà khoa học Mỹ phát hiện cách thức sử dụng ánh sáng Mặt Trời để tổng hợp amoniac, thành phần quan trọng trong việc sản xuất phân bón.
 
 
Phân bón đóng vai trò quan trọng giúp tăng năng suất cây trồng. Ảnh: WordPress.
 
Theo UPI, hiện nay có hai cách chính để tổng hợp amoniac (NH3) từ khí nitơ (N2). Đầu tiên là biện pháp sinh học, vi khuẩn có trong nốt sần của rễ cây họ đậu và một số loài cây khác sử dụng protein nitrogenase biến đổi nitơ thành amoniac. Cách thứ hai dựa trên quy trình công nghiệp Haber – Bosch, gồm nhiều phản ứng hóa học ở điều kiện nhiệt độ và áp suất cao.
 
Các nhà khoa học ở Phòng thí nghiệm Năng lượng Tái tạo Quốc gia (NREL) thuộc Bộ Năng lượng Mỹ hợp tác với Đại học Colorado, tìm ra quy trình tổng hợp mới, khai thác tiềm năng sinh hóa của nitrogenase trên quy mô sản xuất công nghiệp.
 
Nhóm nghiên cứu kết hợp nitrogenase với tinh thể nano của hợp chất cadmium sulfide (CdS). Năng lượng ánh sáng Mặt Trời kích thích các electron trong tinh thể nano, tạo ra sự chuyển đổi nitơ thành amoniac. Kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science hôm 22/4.
 
"Bí quyết nằm ở chỗ kết hợp các tinh thể nano bán dẫn có khả năng hấp thụ năng lượng ánh sáng Mặt Trời với nitrogenase, chất xúc tác tự nhiên giúp chuyển đổi nitơ thành amoniac", Gordana Dukovic, đồng tác giả nghiên cứu, cho biết.
 
Hiện nay, sản xuất phân bón là một quy trình tốn nhiều năng lượng, chủ yếu dựa vào nguồn nhiên liệu hóa thạch. Công nghệ mới mang đến hy vọng sản xuất phân bón theo cách bền vững hơn.
 
"Sử dụng ánh sáng Mặt Trời để thực hiện những phản ứng hóa học xúc tác khó mở ra tiềm năng chế tạo các hóa chất mới và sản xuất nhiên liệu hiệu quả hơn", Katherine Brown, nhà nghiên cứu tại NREL, chia sẻ.
 
Theo Vnexpress
 

Xây dựng khung nghiên cứu giai đoạn 2016-2020: Bức xúc của xã hội là đặt hàng cho khoa học

Xác định nhiệm vụ tinh, thiết thực, không trùng lặp, tìm và tháo gỡ các vướng mắc để sản phẩm khoa học và công nghệ (KH&CN) đi vào cuộc sống, vào sản xuất kinh doanh là các tiêu chí để Bộ KH&CN hệ thống lại các chương trình trọng điểm quốc gia giai đoạn 2016-2020.
 
Chỉ giữ lại những chương trình thiết thực, khả thi
 
Tại cuộc gặp mặt các ban chủ nhiệm chương trình trọng điểm cấp nhà nước mới đây do Bộ KH&CN tổ chức, lãnh đạo bộ cho biết trong giai đoạn 2016-2020, thực hiện chủ trương tái cơ cấu các chương trình trọng điểm quốc gia, bộ chỉ giữ lại 6 chương trình gồm KX.01, KC.02, KC.05, KC.08, KC.09 và KC.10. Đến thời điểm này, các ban chủ nhiệm chương trình đã được hoàn thiện và đang gấp rút xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu của năm 2016.
 
 
 
Nhà nghiên cứu Lê Văn Bình trong phòng lên men của Viện Công nghệ thực phẩm, Đại học Bách khoa Hà Nội. Ảnh chụp tháng 4/2016. Ảnh: Phượng Hằng
Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân đánh giá: “Chương trình trọng điểm cấp nhà nước đã qua nhiều giai đoạn, đến nay cơ bản đã thành công ở các mức độ khác nhau, giúp cho nền móng công nghệ, đất nước phát triển, tăng cường tiềm lực KH&CN”.
 
Tuy nhiên ông Nguyễn Quân cũng cho biết, năm 2016, các chương trình sẽ được hệ thống lại để tránh trùng lặp với các chương trình quốc gia, các nhiệm vụ đặt ra cũng phải thực sự cần thiết và khả thi.
 
Đồng tình với nguyên Bộ trưởng, GS-TS Nguyễn Vũ Việt – Chủ nhiệm chương trình KC.08 (KH&CN phục vụ phòng tránh thiên tai, bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên) – dẫn ví dụ: Lĩnh vực thiên tai và môi trường đang nổi lên nhiều thách thức rất lớn, nhất là năm 2015, tình trạng El Nino, xâm nhập mặn luôn là vấn đề thời sự. Vì vậy, việc tiếp tục chương trình KC.08 giai đoạn 2016-2020 là rất xác đáng.
 
Minh chứng về sự cần thiết của chương trình KC.08, ông Việt cho biết, những thành tựu về môi trường và phòng, chống thiên tai nhiều năm qua đều xuất phát từ đề tài trước đây của Bộ KH&CN, như dự báo hạn giúp điều hành sản xuất, hay dự báo nước về sau khi Trung Quốc xả nước, giúp các tỉnh mở cống đón nước ngọt đúng thời điểm…
 
“Điều này cho thấy việc xây dựng nhiệm vụ nghiên cứu phải bám sát thực tiễn. Trước mắt sẽ xác định nhiệm vụ năm đầu. Ban chủ nhiệm chương trình, Bộ KH&CN phải biết được bức xúc của xã hội và đây chính là đặt hàng của đất nước để xác định nhiệm vụ nghiên cứu” – TS Việt nói.
 
Đại diện Ban chủ nhiệm chương trình KC.09 – nghiên cứu về biển đảo – bày tỏ băn khoăn về việc phát triển kinh tế biển như thế nào để đảm bảo an ninh, chủ quyền. Lực lượng nghiên cứu về biển muốn có sự giúp đỡ và kết nối của các chuyên gia có kiến thức chuyên môn sâu để hình thành các đề tài hữu ích.
 
Cần xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin khoa học
 
“Để triển khai chiến lược phát triển KH&CN, cần xác định trọng tâm, trọng điểm. Kinh phí có hạn, nhưng phải làm có chất lượng và hiệu quả. Đặc biệt, khi xác định nhiệm vụ, các nhà khoa học phải trả lời được câu hỏi KH&CN đã đóng góp được gì, có thể giúp gì cho sự phát triển chung” – Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh nói.
 
Theo đó, việc xây dựng kế hoạch nghiên cứu có sản phẩm rõ ràng, có hướng giải quyết các vấn đề trọng điểm, bức xúc của cuộc sống là định hướng được lãnh đạo bộ xác lập với các ban chủ nhiệm chương trình trọng điểm cấp nhà nước. Các giải pháp cũng được bàn thảo để tránh sự trùng lặp, chồng chéo.
 
Một trong các giải pháp được ông Lê Xuân Định – Cục trưởng Cục Thông tin KH&CN quốc gia – đề xuất là phải dựa vào cơ sở dữ liệu thông tin khoa học. Theo đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin khoa học không chỉ giúp tránh nghiên cứu trùng lặp những vấn đề đã có kết quả từ trước mà còn trả lời được câu hỏi then chốt: Nghiên cứu đó sẽ đóng góp được gì cho sự phát triển chung của đất nước.
 
Cụ thể, khi thực hiện điều kiện giao nộp và công bố thông tin, các nhà khoa học sẽ phải đề cập tới nhiệm vụ KH&CN ở cả 3 trạng thái: Đang tiến hành, kết quả thực hiện nhiệm vụ, kết quả ứng dụng nhiệm vụ KH&CN. “Nếu chúng ta làm trọn vẹn ba bước này, khi tổng hợp kế hoạch báo cáo theo bản hướng dẫn thì đa số thông tin đã nằm trong đó. Chính đây là câu trả lời về việc đề tài có hiệu quả hay không” – ông Lê Xuân Định nói.
 
Gần đây, Bộ KH&CN đã tập trung đầu tư cho Cục Thông tin KH&CN quốc gia để nhập một số nguồn tin có tầm quốc gia. Theo đó, nếu như tất cả các bộ, ngành, địa phương đưa mọi nhiệm vụ KH&CN từ cấp cơ sở vào hệ thống dữ liệu thì sẽ tránh được sự trùng lặp trong nghiên cứu hoặc giao đề tài. Quan trọng hơn, các nhà khoa học phải lấy đầu bài là những bức xúc của cuộc sống để đi tìm lời giải từ các nhiệm vụ nghiên cứu để chứng minh hiệu quả nguồn lực đầu tư cho KH&CN.
 
H.Minh – T. Dương

Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Sẽ hỗ trợ doanh nghiệp có nhu cầu tiếp cận khoa học, công nghệ

 
"Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tạo điều kiện và môi trường thực sự cho doanh nghiệp có nhu cầu tiếp nhận, ứng dụng và chuyển giao KH&CN bằng mọi hình thức để từ đó nâng cao chất lượng của sản phẩm hàng hoá, sự cạnh tranh của sản phẩm".
 
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh đã nhấn mạnh điều này khi phát biểu tại hội nghị Chính phủ với doanh nghiệp ngày 29/4. 
 
Hội nghị được tổ chức trực tuyến với sự tham gia của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, các Phó Thủ tướng, đại diện lãnh đạo các bộ, ngành cùng gần 1000 đại biểu doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các hiệp hội doanh nghiệp như: AmCham, Eurocham, Phòng Thương mại Hàn Quốc, Nhật Bản…. Tại các điểm cầu 62 tỉnh, thành phố trên cả nước có khoảng 50 đến 100 đại diện doanh nghiệp tham dự.
 
 
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại cuộc họp với doanh nghiệp sáng 29/4.
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, Bộ KH&CN nhận thức việc ứng dụng chuyển giao đổi mới công nghệ và phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp công nghệ là công việc trọng yếu, là mặt trận để song hành cùng doanh nghiệp. 
 
"Bộ KH&CN cùng với cộng đồng doanh nghiệp tập trung vào 2 việc: Thứ nhất là hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng KH&CN có giá trị gia tăng cao để đóng góp cho nền kinh tế. Thứ hai là tạo điều kiện và môi trường thực sự cho doanh nghiệp có nhu cầu tiếp nhận, ứng dụng và chuyển giao KH&CN bằng mọi hình thức để từ đó nâng cao chất lượng của sản phẩm hàng hoá, sự cạnh tranh của sản phẩm. Chúng tôi cam kết cùng các bộ ngành sẽ vào cuộc cùng để thực hiện và tăng cả số lượng doanh nghiệp một cách chất lượng nhất để duy trì sự phát triển trong giai đoạn sắp tới" – Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh.
 
Tại hội nghị Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra thông điệp: Doanh nghiệp là động lực phát triển kinh tế đất nước. Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi nhất để khởi nghiệp kinh doanh, thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển cả về số lượng và chất lượng.
 
Thủ tướng nêu rõ, doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong tạo việc làm, tăng thu nhập của xã hội, khơi nguồn đổi mới, sáng tạo trong kinh doanh nên cần có chính sách riêng để nhóm doanh nghiệp này phát triển hội nhập. Đảng, Nhà nước “coi doanh nghiệp tư nhân là động lực phát triển kinh tế”.
 
Cho rằng nhận thức, cam kết của các bộ, ngành đối với doanh nghiệp rất quan trọng, Thủ tướng nhấn mạnh, “như đồng chí Bộ trưởng Công an vừa nói, Chính phủ cũng như ngành Công an không có chủ trương hình sự hoá các quan hệ kinh tế”, nhưng sẽ xử lý nghiêm các vi phạm như xả chất thải gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người dân.
 
"Nhà nước sẽ giảm dần, tiến tới loại bỏ các loại giấy phép con, phí, phụ phí bất hợp lý. Phải bỏ hết những quy định cũ trái với quy định của luật đã được Quốc hội thông qua… " – Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói.
 
Một trong những điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, Thủ tướng cho biết, là sẽ giảm 1% lãi suất trung, dài hạn. Trong một số lĩnh vực ưu tiên Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ KH&CN phối hợp với NHNN xem xét có gói hỗ trợ doanh nghiệp về khoa học công nghệ.
 
Bích Ngọc

Huy động nhà khoa học, mời chuyên gia quốc tế làm rõ nguyên nhân cá chết

Văn phòng Chính phủ vừa có thông báo truyền đạt chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới các bộ, ngành có liên quan đến việc hải sản chết bất thường tại miền Trung.
 
Trước đó, theo Văn phòng Chính phủ, vào chiều ngày 28/4, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì cuộc họp, trực tiếp nghe báo cáo của các Bộ: Tài nguyên – Môi trường, Nông nghiệp – Phát triển nông thôn, Khoa học – Công nghệ, Thông tin – Truyền thông, Công an… Sau khi nghe báo cáo, Thủ tướng kết luận việc hải sản chết tại một số tỉnh miền Trung trong những ngày vừa qua đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân. Thủ tướng chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, xác định nguyên nhân và thực hiện các giải pháp phù hợp để hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng.
 
 
Thủ tướng yêu cầu khẩn trương làm rõ nguyên nhân cá chết.
Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng và một số Bộ trưởng đã đến làm việc, kiểm tra trực tiếp vùng bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, đây là sự cố môi trường biển trên diện rộng, phức tạp, lần đầu tiên xảy ra ở nước ta, mặc dù các cơ quan chức năng đã khẩn trương vào cuộc nhưng đến nay vẫn chưa làm rõ được nguyên nhân, chưa đáp ứng được yêu cầu, gây bức xúc xã hội.
 
Trước tình hình này, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Khoa học – Công nghệ chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng huy động các nhà khoa học, trường hợp cần thiết mời chuyên gia quốc tế khẩn trương, kịp thời làm rõ nguyên nhân gây chết hải sản, bảo đảm khách quan, khoa học. Bộ Công an tập trung thu thập tài liệu chứng cứ, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật hình sự thì kiên quyết xử lý nghiêm theo đúng quy định.
 
Bộ Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn chủ trì phối hợp với Bộ Lao động, Thương binh – Xã hội, Ủy ban nhân dân các tỉnh rà soát, thống kê, kịp thời đề xuất chính sách hỗ trợ người dân bị thiệt hại, không để người dân bị thiếu đói. Phối hợp với Bộ Y tế chỉ đạo các địa phương thu gom, xử lý hải sản chết, bảo đảm vệ sinh môi trường; nghiêm cấm việc vận chuyển, kinh doanh hải sản chết. Đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành liên quan hướng dẫn các địa phương, người dân trong việc tiếp tục nuôi trồng, khai thác và sử dụng hải sản an toàn. Bộ Tài nguyên – Môi trường là đầu mối cung cấp thông tin chính thức cho các cơ quan thông tin truyền thông liên quan đến vụ việc này.
 
Theo Thanh Niên

Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà: Không cho phép xả thải ngầm

Thừa nhận các bộ, ngành, cơ quan nghiên cứu khoa học còn lúng túng khi xử lý hiện tượng cá chết hàng loạt tại Miền Trung vừa qua, Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà cũng khẳng định sẽ xem xét lại hệ thống xử lý nước thải ở Formosa.
 
Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà chỉ đạo công tác phối hợp xử lý hệ thống xả thải của Formosa Hà Tĩnh.
 
 
Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà chỉ đạo công tác phối hợp xử lý hệ thống xả thải của Formosa Hà Tĩnh.
 
“Sắp tới, tôi sẽ chỉ đạo một số cơ quan cùng Sở TN&MT Hà Tĩnh trực tiếp làm việc với các ông để xem xét một số vấn đề về hệ thống xử lý nước thải. Đặc biệt, đối với pháp luật Việt Nam thì hệ thống ống thải xả thải mà lắp đặt ngầm là không cho phép. Chúng tôi đề nghị các ông có biện pháp để giám sát, tiếp cận và quan sát hệ thống này”, Bộ trưởng TN&MT Trần Hồng Hà ngày 28/4 nói với đại diện Formosa Hà Tĩnh.
“Tôi xin nhận khuyết điểm”
 
Ngày 28/4, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà dẫn đầu đoàn công tác cùng với lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh đi thực tế vùng biển Vũng Áng (thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh) và hoạt động của chuỗi nhà máy Formosa. Khoảng 11h cùng ngày, đoàn lên tàu đi thực tế các vùng biển trước đó có hiện tượng cá, ngao… chết. Đến 14h, đoàn lên bờ, đi kiểm tra khu xử lý nước thải, khu quan trắc và nhà máy nhiệt điện Vũng Áng.
 
Đại diện Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Cty FHS) trình bày quy trình xử lý nước thải công nghiệp, sơ đồ xử lý nước thải công nghiệp. Cty cũng dán sẵn kết quả quan trắc chất lượng nước thải công nghiệp trong giai đoạn chạy thử.
 
Theo đại diện Cty, ngày 11/12/2015, xưởng xử lý nước thải công nghiệp nhận được giấy phép xả thải số 3215/GP-BTNMT và lấy mẫu nước phân tích theo dõi chất lượng nước thải phù hợp các yêu cầu trong giấy phép.
 
Tại xưởng xử lý nước thải, ngoài những yêu cầu trong giấy phép, mỗi tuần, Cty còn lấy mẫu nước thải đầu vào và sau xử lý để phân tích chất lượng, mỗi ngày đều ghi lại 5 hạng mục quản chế từ trạm quan trắc tự động. Kết quả quan trắc chất lượng nước thải công nghiệp tháng 2 và 3 do Trung tâm Quan trắc và kỹ thuật môi trường Hà Tĩnh cung cấp cho thấy, bình quân lượng nước thải xử lý trong mỗi tháng là 10.965m3/ngày.
 
Tiếp đó, đoàn đi thực địa ở trạm quan trắc tự động, rồi tới khu bể xử lý nước thải. Tại đây, mùi khí nồng nặc bốc lên từ các bể chứa. Dòng nước đen từ các ống dẫn đổ xuống bể chứa. Các bể khác, nước cũng đen và dày đặc bọt kết tủa.
 
Kết thúc chuyến thực tế trong Cty FHS, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà chia sẻ quan điểm với các phóng viên. “Trước hết, tôi xin được chia sẻ với toàn thể bà con nhân dân các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế hiện đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do thảm họa môi trường vừa qua. Với sự chỉ đạo khẩn trương, quyết liệt, và sự quan tâm sâu sắc của Thủ tướng Chính phủ, Bộ TN&MT đã cùng các bộ, ngành liên quan, các nhà khoa học tích cực xác định chính xác nguyên nhân, dựa trên cơ sở khoa học để từ đó có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định pháp luật, cũng như có giải pháp trước mắt và lâu dài. Chúng tôi rất mong bà con nhân dân sẽ tiếp tục tin tưởng vào Bộ TN&MT cũng như các bộ, ngành khác làm hết trách nhiệm của mình với tinh thần công tâm, khoa học, trách nhiệm với bà con nhân dân”, Bộ trưởng nói.
 
Theo ông Hà, đây là một sự cố rất lớn, lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. “Chúng tôi phải thừa nhận rằng, các bộ, ngành, các cơ quan nghiên cứu khoa học dù đã rất nỗ lực nhưng việc điều phối, triển khai trước các thảm họa như thế này còn lúng túng, chưa khoa học, chậm, chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của bà con và công luận. Với tư cách là người đứng đầu Bộ TN&MT, tôi xin nhận khuyết điểm về vấn đề này”, ông nói.
 
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, hiện nay, việc đánh giá cá chết, chất lượng cá, tôm có ảnh hưởng sức khỏe con người hay không, Bộ NN&PTNT đã và đang kiểm tra, chờ kết quả xử lý các mẫu vật. Trong vài ngày tới sẽ có kết quả và công bố. Bộ sẽ có hướng dẫn việc tiếp tục đánh bắt cũng như sử dụng các loại hải sản cho bà con.
 
“Đương nhiên, đến thời điểm hiện nay, chúng tôi cho rằng, thảm họa không phản ánh tình hình môi trường thường xuyên mà có thể thảm họa này do con người gây ra, có thể do thiên nhiên. Các số liệu của chúng tôi và các bộ, ngành khảo sát thời gian qua cho thấy, thành phần chất lượng môi trường xung quanh nước biển chưa phát hiện ra, chưa thấy các thông số không đáp ứng được các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường. Chúng tôi đã hướng dẫn, chỉ đạo các UBND thường xuyên quan trắc môi trường nước biển, để có những công bố thông báo cho bà con có thể tham gia các dịch vụ du lịch biển, tắm biển… trong dịp nghỉ lễ bình thường”, ông Hà nói.
 
Về việc tăng cường chất lượng hệ thống quan trắc môi trường, Bộ trưởng TN&MT cho hay: “Chúng tôi sẽ phối hợp với các nhà khoa học, đặc biệt là làm việc với các cơ sở sản xuất liên quan để minh bạch, công khai và thường xuyên giám sát trực tiếp các chất thải, nước thải. Từ đó, giúp cho môi trường lành mạnh, bảo vệ môi trường sống của người dân”.
 
Pháp luật Việt Nam không cho phép xả thải ngầm
 
Trao đổi với lãnh đạo Cty FHS, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói: “Hiện nay, chúng ta đã có hệ thống quan trắc tự động 6 thông số. Một mặt, tập đoàn có thể phối hợp với Sở TN&MT Hà Tĩnh nhằm cung cấp số liệu trực tuyến để Sở có thể theo dõi thường xuyên giống như tập đoàn. Ngoài việc quan trắc theo quy định của pháp luật, chúng tôi đề nghị khi có sự cố xảy ra hoặc có dấu hiệu xấu về môi trường, chúng tôi sẽ quan trắc với mật độ dày đặc hơn. Hiện nay, công nghệ cho phép chúng ta lắp camera trực tuyến để giám sát toàn bộ khu vực xử lý chất thải, nước thải. Ngoài ra, chúng ta có thể đặt thêm một số thiết bị để Sở TN&MT khi cần có thể kiểm tra doanh nghiệp”.
 
Theo ông Hà, Formosa là một doanh nghiệp có vốn đầu tư lớn, có công nghệ sản xuất hiện đại, bởi vậy, cần đầu tư hiện đại hóa các thiết bị môi trường sao cho tương xứng nhằm bảo vệ môi trường.
 
“Việc các ngài hợp tác, tạo uy tín về vấn đề môi trường sẽ giúp các ngài có thể đầu tư bền vững và sự ủng hộ của người dân Việt Nam. Hiện nay, chúng tôi chưa có nhận định gì, qua kiểm tra chúng tôi chưa thấy bằng chứng nào về mối quan hệ giữa việc phát thải của nhà máy với vấn đề thảm họa môi trường. Nhưng chúng tôi cho rằng, về gián tiếp có vấn đề liên quan. Khi chúng ta đánh giá, chúng ta chưa tính hết. Vịnh Vũng Áng là vịnh kín, thời điểm tháng 4, tháng 5 điều kiện nhiệt độ và dòng chảy rất đặc biệt và tại đây nồng độ dinh dưỡng rất cao. Việc bổ sung các chất dinh dưỡng đã tạo ra chất xúc tác từ đó dẫn đến sự cố về môi trường”, Bộ trưởng TN&MT nói.
 
Theo Tiền Phong