Thứ trưởng Trần Văn Tùng ” đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác cải cách hành chính”

Ngày 19/4/2016, Đoàn công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do đồng chí Trần Văn Tùng, Thứ trưởng Bộ KH&CN, thành viên Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính (CCHC) của Chính phủ làm Trưởng đoàn đã đến và làm việc với Ủy ban Nhân dân (UBND) tỉnh Thái Nguyên về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính (CCHC) và kết quả hoạt động KH&CN năm 2015; kế hoạch hoạt động năm 2016 và những năm tiếp theo. 
 
Đại diện các đơn vị thuộc Bộ KH&CN tham gia Đoàn công tác gồm Vụ Phát triển KH&CN địa phương, Vụ KH&CN các ngành kinh tế kỹ thuật (KT-KT), Vụ Đánh giá Thẩm định và Giám định công nghệ, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch Tổng hợp, Vụ Pháp chế, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ. 
 
 
Thứ trưởng Trần Văn Tùng phát biểu tại buổi làm việc với UBND Tỉnh
Tiếp và làm việc với đoàn có đồng chí Trịnh Việt Hùng, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh và Lãnh đạo các Sở: Sở KH&CN, Sở Nội vụ, Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Sở Tư Pháp, Sở Thông tin và Truyền thông cùng đại diện một số ban, ngành khác của tỉnh Thái Nguyên.
 
Tại buổi làm việc, đoàn công tác đã nghe đại diện Lãnh đạo Sở Nội vụ báo cáo về kết quả thực hiện công tác cải cách hành chính; đại diện lãnh đạo Sở KH&CN báo cáo kết quả hoạt động KH&CN năm 2015, tình hình triển khai nhiệm vụ năm 2016, kế hoạch hoạt động KH&CN năm 2017 và các năm tiếp theo của tỉnh Thái Nguyên.
 
Về kết quả thực hiện công tác CCHC: Cơ bản, công tác CCHC đã được các cấp, các ngành của tỉnh quan tâm, chủ động xây dựng kế hoạch nâng cao Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) giai đoạn 2015 – 2016. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác CCHC tại các cơ quan, đơn vị, địa phương tương đối ổn định, từng bước tham mưu có hiệu quả. Về nhận thức của người đứng đầu, cán bộ, công chức các đơn vị, các cấp đối với công tác CCHC được nâng lên, trách nhiệm của các ngành, các cấp được phân định rõ ràng. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông giải quyết thủ tục hành chính tiếp tục được thực hiện có nề nếp, chất lượng giải quyết thủ tục hành chính cho tổ chức và công dân ngày càng được nâng cao, hồ sơ tồn đọng ít. Công tác kiểm soát thủ tục hành chính được thực hiện thường xuyên, sự phối hợp giữa các ngành liên quan trong việc dự thảo trình UBND Tỉnh công bố sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ… Các cơ quan, đơn vị tăng cường, đẩy nhanh tiến độ thực hiện theo Đề án vị trí việc làm, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng đáp ứng yêu cầu trong hoạt động công vụ, việc phân cấp quản lý được đẩy mạnh. Một số nhiệm vụ CCHC giai đoạn 2011 – 2015 cơ bản đã được các sở, ban, ngành liên quan đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo thời gian và hoàn thành theo đúng yêu cầu; đã góp phần nâng cao chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh PCI xếp thứ 7/63 tỉnh, thành và chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh PAPI nằm trong tốp các tỉnh, thành đạt chỉ số cao nhất.
 
Về kết quả hoạt động KH&CN năm 2015: UBND Tỉnh đã ban hành 07 văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa Luật KH&CN năm 2013; ban hành Quyết định thành lập và phê duyệt Điều lệ của Quỹ phát triển KH&CN Tỉnh nhằm đổi mới cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN. Công tác quản lý nhà nước về KH&CN được quan tâm đẩy mạnh hơn thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra thường xuyên trong các lĩnh vực: sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ hạt nhân, tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Các đề tài, dự án KH&CN, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới được triển khai có tính ứng dụng cao và nhiều kết quả nghiên cứu đã được nhân rộng có hiệu quả trên địa bàn Tỉnh, đặc biệt là trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, đã góp phần nâng cao năng xuất lao động, tăng thu nhập và tạo việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, năm 2015 cũng còn những tồn tại, hạn chế cần sự đóng góp, tác động tích cực hơn nữa của KH&CN trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH trên địa bàn Tỉnh như: Chưa xây dựng và hình thành được các khu nông nghiệp công nghệ cao; vùng sản xuất hàng hóa tập trung còn nhỏ lẻ, phân tán; các cơ sở chế biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch chưa nhiều, quy mô nhỏ, chưa có những sản phẩm mang tính cạnh tranh cao của Tỉnh; Thị trường KH&CN còn nhỏ bé, do chưa tạo được môi trường cho thị trường phát triển. Giữa nghiên cứu ứng dụng và triển khai ra diện rộng còn có khoảng cách nhất định. Số lượng các đề tài, dự án KH&CN còn nhiều, dàn trải, kinh phí, quy mô nghiên cứu còn hạn chế, một số ít đề tài, dự án sau khi được nghiệm thu không có tính nhân rộng; Hoạt động KH&CN cấp huyện, thành phố, thị xã còn nhiều bất cập về nhân lực, kinh phí hoạt động, cơ chế chính sách để hoạt động. Công tác tham mưu cho UBND các huyện, thành, thị xây dựng kế hoạch hoạt động KH&CN cấp huyện chưa kịp thời; Các đơn vị còn thiếu chủ động trong việc đề xuất triển khai các nhiệm vụ KH&CN; Công tác xã hội hóa các hoạt động KH&CN còn hạn chế, việc thực hiện đa dạng nguồn vốn cho hoạt động KH&CN còn nhiều khó khăn, chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách Nhà nước.
 
Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Trịnh Việt Hùng, Phó Chủ tịch UBND Tỉnh đã báo cáo những nét khái quát nhất về tiềm năng, thế mạnh, về tình hình phát triển KT-XH của Thái Nguyên. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động KH&CN trên địa bàn Tỉnh, đồng chí Trịnh Việt Hùng thay mặt Lãnh đạo Tỉnh đề nghị Bộ KH&CN có hướng dẫn cụ thể trong thực hiện định mức chi tiêu đối với nhiệm vụ khoa học sử dụng ngân sách Nhà nước; tạo điều kiện cho các tổ chức KH&CN của Tỉnh được tham gia thực hiện các nhiệm vụ đã đề xuất, đặt hàng với Bộ; xem xét cho phép sử dụng nguồn kinh phí khoa học hỗ trợ thực hiện triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO tại các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, nhất là cấp xã; tạo điều kiện cho các tổ chức KH&CN của Tỉnh được tham gia và thực hiện các nhiệm vụ KH&CN đã đề xuất đặt hàng với Bộ KH&CN; giúp đỡ xây dựng và cấp kinh phí thực hiện Đề án nâng cao năng lực hoạt động của các Trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN, kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng của Tỉnh; xây dựng cơ chế chính sách tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động KH&CN cũng như chỉ đạo vấn đề thẩm định, đánh giá công nghệ đối với các dự án đầu tư trên địa bàn có sử dụng ngân sách nhà nước; giúp đỡ, hỗ trợ các doanh nghiệp trên địa bàn Tỉnh trong việc đổi mới công nghệ; nâng cao thương hiệu, giá trị của sản phẩm chủ lực, thế mạnh của địa phương đặc biệt là cây chè.
 
Kết luận buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Văn Tùng đã đánh giá cao công tác cải cách hành chính của Tỉnh và đề nghị Tỉnh tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý cải cách hành chính. Về hoạt động KH&CN, đồng chí yêu cầu tỉnh cần tăng cường đầu tư, trong đó khuyến khích các doanh nghiệp tham gia. Để phát triển sản phẩm chủ lực của tỉnh là cây chè, tỉnh phối hợp với các đơn vị chức năng của Bộ rà soát lại diện tích, quy trình sản xuất, xây dựng thị trường…để đưa vào chương trình phát triển sản phẩm Quốc gia nhằm nâng cao, thương hiệu, giá trị của sản phẩm. Với các kiến nghị của Tỉnh, giao cho các đơn vị của Bộ tiếp thu, phối hợp với tỉnh để giải quyết kịp thời.
 
 
Đoàn thăm mô hình nuôi trồng thủy sản tại Trung tâm đào tạo, nghiên cứu và phát triển thủy sản Đông Bắc, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
 
Cùng ngày, Đoàn công tác Bộ KH&CN đã đến thăm mô hình ứng dụng tiến bộ KH&CN tại Trung tâm đào tạo, nghiên cứu và phát triển thủy sản Đông Bắc của trường Đại học Nông lâm thuộc Đại học Thái Nguyên./.
 
Nguồn:  Ngô Xuân Cường, Vụ Phát triển KH&CN địa phương

Giải pháp công nghệ sinh học nhằm nâng cao chất lượng chè an toàn

 
Năm 2015, nhóm nghiên cứu do Thạc sỹ Lê Thị Thanh Thủy – Viện Thổ nhưỡng Nông hóa – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đứng đầu đã tiến hành Nghiên cứu các giải pháp công nghệ sinh học nhằm nâng cao năng suất, chất lượng chè an toàn tại tỉnh Yên Bái.
 
Kết quả đạt được qua quá trình nghiên cứu như sau:
 
Phục tráng thành công 2 giống chè Shan (Dòng chè SG1 và SG2) có chất lượng và năng suất cao bằng phương pháp chỉ thị phân tử.
 
Dòng chè SG1 đạt năng suất là 13,0 – 16,14 tấn/ha. Về chất lượng có hàm lượng chất tan là 46,03%, hàm lượng tanin là 37,32%, thử cảm quan chè xanh (ngoại hình, màu nước pha, mùi, vị) đạt ≥15,2 điểm. 
 
Dòng chè SG2 đạt năng suất 10,04-12,86 tấn/ha. Về chất lượng có hàm lượng chất tan là 45,16%, hàm lượng tanin 31,63%, cảm quan chè xanh đạt ≥15,2 điểm. Cây chè phục tráng có sức sống, tỷ lệ sống sót giống chè Shan phục tráng cao hơn 13% so với loại chè không phục tráng. Môi trường thích hợp để nhân nhánh cây chè là N6+2mg/l BA +0,4mg/l IAA. Môi trường ra rễ cây chè là N6 +1,5mg/l BA +0.3 mg/l α-NAA. Đã nhân giống cây chè con từ 2 dòng chè chọn lọc từ cây chè Shan cổ thụ Suối Giàng (SG1 và SG2) và đưa vào trồng 4 ha chè Shan tại Suối Giàng và Bản Công (Yên Bái). Giống chè phục tráng đảm bảo chất lượng, hiệu quả kinh tế năng suất tăng 21-24%.
 
Chủng giống VSV có hoạt tính sinh học: Hoạt tính cố định nitơ đạt 342,7 – 427,2 nmol C2H4/ml/ngày. Hoạt tính sinh chất KTST thực vật là 103,48-162,70µg IAA/ml. Hoạt tính phân giải lân (đường kính VPG) là 16-18 mm. Hoạt tính đối kháng nấm gây bệnh (đường kính VPG) là 15-80 mm. Hoạt tính phân giải xenlulo (đường kính VPG) đạt 30 mm, kế thừa được 2 chủng. Định danh VSV được 12 chủng như sau: 3 chủng vi khuẩn cố định nitơ tự do gồm VC03, TY02, YB03; 3 chủng phân giải lân là BL2, BL4, BL7; 3 chủng kích thích sinh trưởng là ST1, ST8, ST18 có các hoạt tính sinh học cao; 3 chủng vi khuẩn đối kháng VKĐK58, VKĐK313, VKĐK362 có các hoạt tính kháng nấm bệnh cao. 12 chủng này được đánh giá an toàn sinh học cho người và động vật máu nóng. Các chủng này có hoạt tính phân giải xenluno cao, sử dụng để xử lý nguyên liệu hữu cơ sản xuất phân bón được kế thừa từ các nghiên cứu trước. Phù hợp với yêu cầu sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh và chế phẩm vi sinh phòng bệnh cho cây chè tỉnh Yên Bái.
 
Chế phẩm vi sinh phòng bệnh: Có được 2 sản phẩm phân bón hữu cơ vi sinh và chế phẩm vi sinh chuyên dụng cho thâm canh và phòng chống bệnh chè đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Mật độ tế bào VSV đối kháng bệnh đạt 108 CFU/g, Giảm tỷ lệ bệnh là 50,9 – 77,58%. Chế phẩm vi sinh phòng trừ bệnh cho chè đảm bảo chất lượng sản phẩm và áp dụng tốt tại các cơ sở sản xuất. Đạt tiêu chuẩn cấp cơ sở. Đảm bảo mật độ tế bào vi sinh vật hữu ích trong sản phẩm là 108 CFU/g, sau 6 tháng bảo quản. Xây dựng thành công quy trình sản xuất và sản xuất 10 tấn chế phẩm vi sinh để phòng bệnh chè Yên Bái.
 
Phân bón hữu cơ vi sinh: Ca, S, Mn lần lượt là 1,374%; 0,686%; 0,3%. B, Mn, Zn lần lượt là 0,0175; 0,03%; 0,08 và Acid humic là 3%. Độ pH là 6,0-7,0. Vi sinh vật là Bacillus; Azotobacter. Mật độ vi sinh vật có ích trên mỗi loại là ≥1.106CFU/g. Độ ẩm là 25-30%. Hữu cơ ≥22%. N-P2O5(hh)-K2O là 1,3-1-1%. Thời gian bảo quản ≥6 tháng. Phân hữu cơ vi sinh đảm bảo chất lượng sản phẩm và đạt tiêu chuẩn cấp cơ sở và mật độ tế bào VSV hữu ích trong sản phẩm là 106 CFU/g, sau 6 tháng bảo quản. Xây dựng được quy trình sản xuất và sản xuất 50 tấn phân hữu cơ vi sinh và chế phẩm vi sinh phòng bệnh cho cây chè tỉnh Yên Bái.
 
Việc xây dựng được 02 mô hình, 2 ha/mô hình tại xã Suối Giàng – huyện Văn Chấn và xã Bản Công – huyện Trạm Tấu tại tỉnh Yên Bái. Cùng với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới (giống chè Shan SG1, phân bón hữu vi sinh VTN6-SHAN,chế phẩm vi sinh VTN7-ĐK, kỹ thuật trồng chè sạch, chăm sóc) giúp cho cây chè Shan trong mô hình sinh trưởng, phát triển tốt, tăng sức đề kháng của cây, tăng khả năng sống sót, giảm bệnh hại chè (đốm nâu, phồng lá). Bên cạnh đó giảm chi phí đầu tư phân khoáng và thuốc bảo vệ thực vật, góp phần duy trì, nâng cao dinh dưỡng đất và bảo vệ môi trường. Các quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh, quy trình sản xuất vi sinh phòng bệnh cho chè, quy trình thâm canh chè đều cho năng suất cao, chất lượng tốt, đảm bảo xuất khẩu và dễ thực hiện. Các quy trình này đều được Hội đồng KH&CN cấp cơ sở đánh giá nghiệm thu.
 
Kết quả của nghiên cứu đã góp phần quan trọng trong công tác bảo tồn loài gen cây chè Shan cổ thụ tại Suối Giàng quý hiếm, làm sáng tỏ hơn nữa khả năng ứng dụng các chủng vi sinh vật trong xử lý phụ phẩm nông nghiệp và sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh, chế phẩm vi sinh phòng chống bệnh cây trồng. Mỗi loại cây trồng sẽ có một loại phân đặc thù và cho hiệu quả kinh tế cao nhất. Các kết quả minh chứng rõ nét hiệu quả của việc áp dụng quy trình thâm canh chè năng suất cao và đảm bảo xuất khẩu.
 
Tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài tại Thư viện Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Mã số kho 11321-2015).
 
Nguồn:  P.T.T (NASATI)

Cung cấp dịch vụ chiếu xạ kiểm dịch đối với hàng hóa nông sản

Ngày 22/4/2016 tại Hà Nội đã diễn ra Lễ kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (Trung tâm) và khánh thành Dự án Nâng cấp cơ sở hạ tầng Trung tâm phục vụ chiếu xạ kiểm dịch quả tươi xuất khẩu.
 
Tham dự có nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Việt Thanh và đại diện các cá nhân, ban ngành có liên quan.
 
 
Thứ trưởng Trần Việt Thanh phát biểu tại buổi Lễ
Phát biểu tại buổi Lễ, Thứ trưởng Trần Việt Thanh cho biết, năm 1986, với sự hỗ trợ của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia đã thành lập Trung tâm đầu tiên của Việt Nam tại Hà Nội. Với chức năng chính là thực hiện công tác nghiên cứu và triển khai công nghệ chiếu xạ thực phẩm, giúp đảm bảo an toàn thực phẩm và an ninh lương thực cho đất nước, Trung tâm đã triển khai hàng loạt nghiên cứu khoa học nhằm khẳng định ưu điểm công nghệ, tạo tiền đề cho sự phát triển của ngành công nghiệp chiếu xạ của Việt Nam.
 
Qua 30 năm phát triển, Trung tâm đã trở thành một cơ sở nghiên cứu, triển khai hàng đầu trong lĩnh vực công nghệ bức xạ gồm các thiết bị chiếu xạ gamma nguồn Co – 60, máy gia tốc cyclotron 13 MeV,… Điều này đã góp phần tích cực trong việc đảm bảo chất lượng nông sản thực phẩm, kiểm soát dịch bệnh, hỗ trợ, thúc đẩy thương mại các loại thực phẩm trong và ngoài nước.
 
Để đáp ứng yêu cầu cung cấp dịch vụ chiếu xạ kiểm dịch đối với hàng hóa nông sản miền Bắc (trước mắt là quả vải và nhãn), Bộ KH&CN đã quyết định đầu tư cho Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam thực hiện Dự án Nâng cấp Trung tâm phục vụ chiếu xạ kiểm dịch hoa quả tươi xuất khẩu.
 
 
Lễ cắt băng khánh thành Dự án Nâng cấp cơ sở hạ tầng Trung tâm phục vụ chiếu xạ kiểm dịch quả tươi xuất khẩu
 
“Xử lý chiếu xạ đã được xem là biện pháp hiệu quả để kiểm dịch hoa quả tươi xuất khẩu, kỹ thuật này đã được nhiều quốc gia phát triển như: Mỹ, Úc xem như biện pháp bắt buộc để kiểm dịch hoa quả tươi xuất khẩu”, Thứ trưởng Trần Việt Thanh nhấn mạnh.
 
Thứ trưởng cũng mong muốn Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tiếp tục tiếp tục hỗ trợ Trung tâm sớm được cấp phép của các nước nhập khẩu, trở thành địa chỉ tin cậy nhằm giúp nông sản miền Bắc tiếp cận các thị trường lớn, khó tính thay vì phải vận chuyển vào Nam.
 
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Việt Thanh trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho Trung tâm 
 
Tại buổi Lễ, Giám đốc Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội Đặng Quang Thiệu cho biết, trong hoạt động nghiên cứu, thời gian qua, Trung tâm đã hoàn thành một số lượng lớn các nhiệm vụ KH&CN liên quan đến chiếu xạ như: chiếu xạ thực phẩm, khử trùng y tế, biến tính vật liệu polyme, công nghệ nano, sản xuất đồng vị 18F, dược chất phóng xạ,…
 
Ngoài ra, Trung tâm đã thiết lập các Chương trình hợp tác nghiên cứu với nhiều cơ sở khoa học và đào tạo chuyên ngành trong và ngoài nước nhằm tăng cường khả năng ứng dụng công nghệ bức xạ trong nông nghiệp, y tế và xử lý môi trường,…
 
“Trên cơ sở có 04 loại trái cây tươi hiện nay của Việt Nam được phép xuất khẩu sang Mỹ gồm thanh long, chôm chôm, vải, nhãn và việc hoàn thành Dự án nâng cấp thiết bị chiếu xạ để kiểm dịch hoa quả tươi phục vụ xuất khẩu, Trung tâm có thể đáp ứng yêu cầu chiếu xạ kiểm dịch các loại quả trên và trở thành địa chỉ tin cậy để xử lý chiếu xạ quả tươi trước khi xuất khẩu sang thị trường Úc, Mỹ, NewZealand trong thời gian tới”, ông Đặng Quang Thiệu cho biết.
 
 
Phòng điều khiển dây chuyền chiếu xạ tại Trung tâm 
 
Nguồn:  Ngũ Trịnh, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Tự động hóa – một trong bốn lĩnh vực ưu tiên phát triển

“Đảng và Nhà nước đã coi tự động hóa là một trong 4 lĩnh vực công nghệ cao được ưu tiên phát triển, Bộ Khoa học và Công nghệ đã xác định đây là một trong bốn lĩnh vực công nghệ cao cần phải được tập trung, đầu tư”. Chủ tịch Hội tự động hóa Việt Nam, TS. Nguyễn Quân cho biết nhân Lễ kỷ niệm 15 năm Tạp chí Tự động hóa ngày nay ra số đầu tiên sáng ngày 22/4.
 
Sự ra đời của Tạp chí Tự động hóa ngày nay (Tạp chí) đánh dấu sự xây dựng của một nền tạp chí chuyên ngành, đóng góp vào sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Lễ kỷ niệm cũng là dịp nhìn lại chặng đường phát triển của Tạp chí, đồng thời đề ra các biện pháp, các ý kiến đóng góp xây dựng và phát triển Tạp chí trong giai đoạn tiếp theo.
 
Phát biểu tại buổi lễ, ông Nguyễn Quân thay mặt cho Hội tự động hóa Việt Nam- cơ quan chủ quản của Tạp chí nhiệt liệt chúc mừng Tạp chí đã trải qua 15 năm hoạt động và có những thành công bước đầu được xã hội ghi nhận, được những người làm khoa học công nghệ nói chung và tự động hóa nói riêng coi là một địa chỉ tin cậy có thể công bố kết quả nghiên cứu của mình. 
 
 
Ông Nguyễn Quân, Chủ tịch Hội tự động hóa Việt Nam phát biểu tại buổi lễ
Chủ tịch Hội Hội tự động hóa Việt Nam chia sẻ: 15 năm đối với một tạp chí khoa học không phải là dài nhưng nỗ lực của Ban biên tập, sự hợp tác của các nhà khoa học trong cả nước đã góp phần làm nên thành công của Tạp chí ngày nay. Chúng tôi tin tưởng trong giai đoạn sắp tới, Tạp chí tiếp tục có những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, nhất là khi Việt Nam bước vào giai đoạn hội nhập thế giới sâu rộng và toàn diện.
 
Nhân dịp này, thay mặt cho Hội tự động hóa Việt Nam, Chủ tịch Nguyễn Quân bày tỏ sự biết ơn đối với các nhà học, những người nếu thiếu họ Tạp chí không thể thành công bởi các sản phẩm, kết quả nghiên cứu của họ trong 15 năm qua được đăng tải trên Tạp chí giúp cho Tạp chí có độ tin cậy cao, có hệ số tương đối tốt trong hệ thống tạp chí được Bộ Giáo dục và Đào tạo và Hội đồng chức danh Nhà nước chấp nhận. 
 
 
Ông Nghiêm Vũ Khải, Phó Chủ tịch Liên Hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trao Bằng khen cho tập thể và cá nhân đã có đóng góp cho Tạp chí
 
Ông Trịnh Đình Đề, Tổng biên tập Tạp chí cho biết, trải quả 15 năm hình thành và phát triển, nội dung và hình thức của Tạp chí đã đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc, các sự kiện trong nước liên quan đến KH&CN nói chung và tự động hóa nói riêng thường xuyên được cung cấp tới bạn đọc về tình hình ứng dụng, xu hướng phát triển kỹ thuật công nghệ, các sự kiện trên thế giới và khu vực.
 
Đặc biệt hơn, Tạp chí đã tạo được một diễn đàn KH&CN với luận đàm về chủ đề nóng của ngành, những bài viết chuyên sâu về nghiên cứu khoa học có tính ứng dụng rộng rãi, chia sẻ ý tưởng, kinh nghiệm, thông tin… góp ý hoàn thiện cho các nghiên cứu mới, ứng dụng mới tại từng cơ sở sản xuất cũng như từng doanh nghiệp.
 
Nhân dịp này, Hội tự động hóa Việt Nam cũng đã biểu dương tập thể và cá nhân đã có đóng góp cho Tạp chí.
 
 
Chụp ảnh lưu niệm tại buổi lễ
 
Nguồn:  Mai Hà, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
 
 
 

Ngoài nước thải độc, cứ 1 tấn thép ra lò ở Formosa, sẽ thải ra hơn nửa tấn chất thải rắn, 2,3 tấn khí độc, gây bụi kim loại và mưa axit

Sản xuất thép là một trong những ngành được cảnh báo về nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường. Với công suất 10,5 triệu tấn/năm, Formosa có thể cho ra hơn 31 triệu m3 nước thải độc hại và 6 triệu tấn chất thải rắn nếu các chất thải không được xử lý.
 
 
Ảnh minh họa. Nguồn: Thisismoney.
 
Hiện tượng cá chết hàng loạt hay mới đây, 1 thợ lặn tại vùng biển Vũng Áng đã tử vong dấy lên mối quan ngại về tình trạng ô nhiễm môi trường trong ngành sản xuất thép.
Trả lời trên Vietnamnet, ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hội Đúc Luyện kim Việt Nam cho biết: Công nghệ khu liên hợp gang thép của Formosa tại Vũng Áng sử dụng là công nghệ lò cao.
 
Theo phương pháp này, quặng sắt phải nghiền ra thành bột cùng với than, trộn với than coke rồi đốt trong lò cao ở nhiệt độ trên 2.000°C, tạo ra gang lỏng. Sau đó đưa gang lỏng vào lò và thổi khí oxy để đốt carbon thừa.
 
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ, nhưng phương pháp này tiêu thụ nhiều than và sinh ra xỉ, khí dioxyd carbon và nhiều bụi. Trong quặng sắt còn chứa nhiều hóa chất rất độc hại khác như chì, arsen (thạch tín), lưu huỳnh, phốt pho. Cùng với đó, công đoạn luyện than coke cũng phát thải nhiều chất độc hại ra môi trường.
 
Theo số liệu thống kê từ Hội Đúc Luyện kim Việt Nam, để sản xuất được một tấn thép thô bằng công nghệ lò cao, sẽ phải thải ra hơn 585 kg chất thải rắn, trong đó có 455 kg xỉ. Đồng thời, mỗi tấn thép thô sản xuất còn tạo ra 3 m3 nước thải độc hại.
 
Với công suất 10,5 triệu tấn thép/năm (giai đoạn 1), Formosa có thể cho ra hơn 31 triệu m3 nước thải độc hại và 6 triệu tấn chất thải rắn nếu không qua xử lý.
 
Ngoài ra, lượng khí thải ra từ việc sản xuất 1 tấn thép thô có 2,3 tấn CO2, cùng các loại khí CO, SO2, NOx, bụi và bụi kim loại….
 
Vì vậy, trong các vùng luyện kim, khí quyển bị nhiễm bẩn thường chiếm tỷ lệ gần 60%. Nếu các loại khí thải này không được xử lý tốt, các hóa chất chứa trong đó sẽ gây ra mưa axít, cùng với bụi kim loại, sẽ gây nguy hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng trong khu vực. Nhìn chung, sản xuất thép là ngành công nghiệp không thân thiện với môi trường, nên phải chú ý kiểm soát chặt khâu xử lý ô nhiễm.
 
Bên cạnh đó, việc xử lý chất thải chỉ hiệu quả với những lò cao dung tích trên 3.000 m3.
 
Dung tích lò cao của Formosa vượt trội so với các doanh nghiệp thép nội của Việt Nam, nhưng cũng chỉ ở mức 2.000 m3.
 
Quan trọng nhất, chi phí xử lý khí thải, chất thải rắn và nước thải khá tốn kém. Và để tiết kiệm chi phí, không phải doanh nghiệp nào cũng tuân thủ việc xử lý chất thải đúng quy định trước khi xả thải ra môi trường.
 
Trường hợp của Vedan trước đây là một ví dụ. Công ty này đã xả thẳng ra sông Thị Vải và phải 14 năm sau, khi có hiện tượng cá chết hàng loạt, vấn đề xả thải gây ô nhiễm môi trường của Vedan mới được phanh phui.
 
Giám đốc đối ngoại Formosa: Phải lựa chọn, hoặc nhà máy thép hoặc cá tôm
Bảo Bảo
 
Theo Trí Thức Trẻ
 
Từ khóa:   FORMOSA, xử lý chất thải, ô nhiễm môi trường, cá chết hàng loạt, vũng áng, sản xuất thép, Vedan, sông thị vải

mSales: Công cụ quản lý công tác phát triển thị trường hiệu quả

(ICTPress) – Phần mềm mSales của MobiFone đã được Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) và Ban Tổ chức Chương trình Danh hiệu Sao Khuê 2016 bình chọn thuộc Top 10 Sao Khuê 2016
 
 
Phần mềm mSales là một công cụ hiệu quả giúp quản lý công tác phát triển thị trường, giám sát nhân viên bán hàng và chăm sóc điểm bán lẻ. Hệ thống đã góp phần không nhỏ vào mức tăng trưởng doanh thu và tốc độ phát triển kinh doanh ấn tượng trong năm 2015 của Tổng Công ty.
Giải pháp phần mềm mSales đã được triển khai tại MobiFone với vai trò là hệ thống duy nhất trong quản trị, quản lý kênh phân phối và lực lượng bán hàng lên đến 115.000 điểm bán, hơn 1500 đại lý trên nền tảng di động, phát triển trên công nghệ MobileFirst, hỗ trợ tích hợp ứng dụng với các hệ thống nghiệp vụ bên trong doanh nghiệp một cách an toàn.
 
Giải pháp mSale có thiết kế tuân thủ kiến trúc hướng dịch vụ SOA, trong đó mọi kết nối đến hệ thống khác đều thông qua trục tích hợp dịch vụ ESB. Áp dụng giải pháp công nghệ quản lý quy trình nghiệp vụ BPM để dễ dàng thiết kế, điều chỉnh theo yêu cầu sản xuất kinh doanh. Với 4 lĩnh vực kinh doanh chính là Viễn thông – CNTT, Truyền hình, Phân phối và bán lẻ, Đa dịch vụ, việc đưa Msale tham dự Sao Khuê là chứng minh nỗ lực của MobiFone trong việc cung cấp các giải pháp CNTT cho khách hàng. MobiFone mong muốn giúp các nhà sản xuất, nhà phân phối sử dụng hiệu quả phần mềm mSale trong công tác phân phối, quản lý, từ đó nâng cao hiệu quả bán hàng.
 
Đơn vị triển khai phần mềm mSales, Tổng Công ty Viễn thông MobiFone đã vinh dự được tôn vinh tại chương trình Danh hiệu Sao Khuê ngày 23/04/2016 về doanh thu, thương hiệu, thị phần, và đặc biệt là mức độ ảnh hưởng tới kinh tế – xã hội.
 
Sự kiện nhận giải thưởng Sao Khuê đã diễn ra chỉ một vài ngày sau khi MobiFone chính thức khai trương cửa hàng bán lẻ thứ 10 tại Hải Phòng, đồng thời chính thức triển khai chiến dịch “Triệu trái tim kết nối” với hàng loạt ưu đãi lớn dành cho khách hàng trên cả nước trong thời gian từ 21/4 – 31/5/2016.
 
Chương trình Danh hiệu Sao Khuê là hoạt động do Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA) tổ chức. Năm 2016 là năm đầu tiên chương trình này bình chọn Danh hiệu Top 10 Sao Khuê dành cho 10 sản phẩm, dịch vụ CNTT xuất sắc nhất về các mặt doanh thu, uy tín thương hiệu, thị phần, số lượng khách hàng sử dụng, và đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội to lớn. Theo thông tin từ Ban tổ chức, Top 10 Sao Khuê năm 2016 có tổng doanh thu trên 240 triệu USD, chiếm 17% doanh thu của toàn ngành phần mềm hiện nay. 
 
Minh Anh
 
Từ khóa: mSales, phần mềm, MobiFone

Công nghệ chống thấm mới cho các công trình

(Cadn.com.vn) – Kỹ sư Phạm Hoàng Trung, Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Phúc Tất Đạt (Đà Nẵng) chia sẻ: sau hơn 6 năm áp dụng và nghiên cứu công nghệ chống thấm bằng màng composite WPC, doanh nghiệp giờ đã tự tin đưa giải pháp này ra thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu của các công trình xây dựng dân dụng hiện nay.
 
"Công nghệ chống thấm trong xây dựng xưa nay đã phổ biến, có rất nhiều dạng và giải pháp khoa học khác nhau. Nhưng với vật liệu chống thấm composite do tiến sĩ Hương Trần Phương Nam – một trong 80 nhà khoa học hàng đầu của Úc – đã nghiên cứu thành công và chuyển giao cho chúng tôi ứng dụng, thì các công trình sẽ có khả năng chống thấm tốt hơn, rút ngắn thời gian thi công và thêm nhiều tính năng hiệu quả khác", ông Trung bày tỏ như vậy.
 
 
 
Đội ngũ kỹ thuật Công ty Phúc Tất Đạt đang thi công chống thấm tầng ngầm chứa nước
ở một công trình dân dụng.
Hiệu quả công nghệ mới
 
Theo ông Trung, sở dĩ Công ty Phúc Tất Đạt tự tin đưa quảng bá công nghệ chống thấm mới vì giải pháp này dựa vào các ưu thế mà vật liệu composite có được, vượt trội hơn những loại vật liệu khác.
 
Tiến sĩ Hương Trần Phương Nam, một trong những người tiên phong ứng dụng vật liệu composite trên nhiều dạng chất liệu, từng chia sẻ, yêu cầu tìm kiếm các loại vật liệu mới, thay thế những vật liệu truyền thống như: gỗ, đá, sắt thép… đã đặt ra từ lâu với giới nghiên cứu. Trong đó, composite là vật liệu có nhiều tính năng ưu việt, đã ứng dụng thành công trong nhiều lĩnh vực như: xây dựng, giao thông, vật dụng sinh hoạt…
 
Dựa trên những kinh nghiệm thực tiễn, tiến sĩ Phương Nam đã cùng Công ty Phúc Tất Đạt nghiên cứu triển khai vật liệu composite vào chống thấm cho các công trình xây dựng. Sáng chế này dùng vật liệu composite với nền nhựa nhiệt rắn, kết hợp một số phụ gia và vật liệu sợi gia cường, gọi tắt là FRP (Fiber Reinforced Plastic – nhựa gia cường bởi vải sợi).
 
"Chúng tôi chế vật liệu này dưới dạng keo lỏng composite hai thành phần WTC-C, dùng quét đều lên bề mặt công trình, sau khi khô, keo sẽ trở thành màng bọc, cách ly bề mặt công trình với nước. Nếu keo được gia cường bởi vải thủy tinh tissue có chất lượng cao trên thế giới, thì bề mặt công trình  được chống nứt, chống ăn mòn và khả năng ngăn ngừa thấm nước sẽ càng tăng lên. Do đó, khi dùng giải pháp này, sử dụng thêm các phụ gia, vấn đề ngăn nước gần như tuyệt đối, chống thấm triệt để cho các công trình", ông Trung giải thích.
 
Tốt hơn cho công trình
 
Ngoài khả năng chống thấm, màng composite WPC-C còn được đánh giá cao về các yếu tố như chịu được hóa chất, độ bền cơ lý cao, chịu được độ uốn cong và giãn nở tốt, có khả năng gia cố bê tông và nhất là an toàn với sức khỏe con người. Màng keo này khi kết hợp với vải thủy tinh tissue sẽ càng giúp tường, bê tông… được gia cố vững chắc, đồng thời giúp giảm hấp thụ nhiệt, không truyền điện qua vật liệu.
 
"Hãy tin rằng màng WPC sẽ là lớp áo composite bao quanh công trình như tấm áo mưa ngăn mọi nguy cơ ngấm nước. Do loại keo này cực kỳ kỵ nước nên khi tiếp xúc với nước, nó có xu thế đẩy nước ra. Khi phủ keo lên bề mặt, do ở dạng lỏng, keo còn ngấm vào mao mạch bê tông, xi măng, sau đó tự đông cứng tạo thành màng bịt kín các mao mạch tăng độ kết dính và chống nước. Hạn chế truyền nhiệt và không truyền điện, màng keo sẽ giúp công trình khô ráo, chống nóng mùa hè, giảm lạnh mùa đông và tránh những rủi ro khi có rò rỉ điện trong tường và bê tông".
 
Bên cạnh những yếu tố chất lượng, giải pháp dùng màng composite WPC còn có lợi thế về thời gian thi công, độ bền bảo đảm chất lượng công trình và khả năng áp dụng trong mọi điều kiện, bối cảnh chi tiết công trình.
 
Thay vì phải mất từ 12 – 24 giờ để hoàn tất việc chống thấm khi dùng các loại vật liệu chống thấm khác như gốc xi măng, màng composite chỉ cần 4 giờ đồng hồ để khô và ngay sau đó, đội ngũ thi công có thể tiếp tục làm các hạng mục khác.
 
Thời gian sử dụng màng composite trong điều kiện bình thường sẽ kéo dài trên 20 năm, vượt gấp 4 – 5 lần so với nhiều loại vật liệu chống thấm khác.
 
Ông Trung còn lý giải, việc thi công màng keo cũng không đòi hỏi về mặt bằng rộng hay những kết cấu thiết bị phiền phức. Cho nên, giải pháp này có thể áp dụng chống thấm với cả những "tiểu công trình" như: lỗ thoát nước trên sàn, toilet, xử lý bể tắm, hồ cá…
 
Công ty Phúc Tất Đạt những năm qua, đã lần lượt ứng dụng giải pháp công nghệ chống thấm, chống nứt này tại nhiều công trình lớn như các khu nghỉ dưỡng tại FLC Sầm Sơn (Thanh Hóa), Khu nghỉ dưỡng FLC Nhơn Lý (Bình Định), Khu lọc hóa dầu Dung Quất (Quảng Ngãi), Khu nghỉ dưỡng FLC Vĩnh Phúc… Các kết quả ứng dụng thực tế này đều rất khả năng, khẳng định công nghệ chống thấm, chống nứt bằng màng composite WPC.
 
Vì thế, từ mùa hè 2016 này, Công ty Phúc Tất Đạt xác định chuyển hướng đầu tư sâu hơn vào các công trình dân dụng, tập trung tại miền Trung.
 
"Đây là vùng thường có bão tố, mưa dầm, nắng gắt, đòi hỏi các công trình phải có khả năng chống thấm tốt, đặc biệt là công trình dân dụng. Tập trung vào miền Trung, chúng tôi hy vọng vừa có thể tìm được cơ hội phát triển của mình, vừa mang lại những điều kiện tốt hơn cho những ngôi nhà người dân nơi đây, cũng chính là những bà con thân thuộc của chúng tôi", ông Trung kết luận như vậy.
 
Theo: cand.com.vn
 
Từ khóa liên quan: Công nghệ, chống thấm mới, các công trình   
 

Vì sao cá chết hàng loạt – Cục khảo sát địa chất Mỹ lý giải

Trên trang web của mình, Cục Khảo sát Địa chất Mỹ (USGS) đã trả lời về nguyên nhân cá chết hàng loạt. Theo đó, trong trường hợp cá chết vì nhiễm các chất độc hại thì nồng độ phải khá cao và vị trí xả thải phải ở khá gần với khu cá bị ảnh hưởng.
 
Theo USGS, rất nhiều trường hợp cá chết hàng loạt trong mùa hè là do nồng độ oxy hòa tan trong nước thấp. Cá, cũng như các dạng sống phức tạp khác, cần oxy để sống. Chúng lấy oxy dưới dạng hòa tan trong nước. Đó là lý do tại sao bể cá nhà bạn cần một thiết bị sục khí.
 
 
Cá chết hàng loạt ở vịnh Narragansett, đảo Rhode, Mỹ
Trong nước ấm có ít oxy hòa tan hơn nước lạnh, vì vậy mùa hè là thời điểm cá rất khó nhận được đủ oxy trong nước. Hơn nữa còn sự tác động của những sinh vật khác cũng phải sử dụng oxy như loại tảo phát triển trong mùa hè và cả vi khuẩn phân huỷ chất hữu cơ. 
 
Ban ngày, các loại tảo tự sản xuất oxy thông qua quá trình quang hợp, nhưng vào ban đêm, khi quá trình quang hợp dừng lại, những loại tảo này và các vi sinh vật khác vẫn tiếp tục hô hấp và sử dụng oxy.
 
Vì vậy, vào những đêm hè nóng nực, nồng độ oxy hòa tan trong nước vốn đã thấp lại còn phải chia sẻ với những sinh vật như trên là nguyên nhân khiến cá chết hàng loạt.
 
Tình trạng này có thể bị đẩy tới mức tồi tệ hơn bởi những điều kiện hoàn toàn tự nhiên hay những hoạt động của con người như xả thêm các chất như nitơ, phốt pho vào nước.
 
Những chất thải đến từ nhiều nguồn như phân bón, các phương tiện giao thông, nước thải… Quá nhiều chất như vậy sẽ có xu hướng gia tăng tốc độ phát triển của các loại tảo và làm giảm lượng oxy hòa tan trong nước. Nồng độ oxy hòa tan thấp cũng có thể do nhiều yếu tố khác như sự tuần hoàn nước kém, ít nạo vét, hoặc một cơn mưa lớn sau đợt khô hạn kéo dài.
 
Cá chết hàng loạt cũng có thể xảy ra khi nước nhiễm các chất độc hại. Tuy nhiên, để điều này xảy ra, các hợp chất độc hại phải có nồng độ khá cao. Trong một vùng nước rộng lớn, phải có một lượng rất lớn các hợp chất độc hại, và vị trí xả thải phải ở khá gần với khu cá bị ảnh hưởng.
 
PHẠM KHÁNH (Lược dịch)

Phát ngôn “gây sốc” của Formosa khiến báo quốc tế đưa tin

Truyền thông quốc tế đã đưa tin phản ánh sự việc nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh bị phản đối về nghi vấn xả nước thải độc hại xuống biển nhưng lại có phát ngôn vô trách nhiệm gây "bão" dư luận tại Việt Nam.
 
 
Một người dân địa phương cầm trên tay một vài con cá chết mà ông nhặt được trên bờ biển Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế.
Ảnh: AFP
Báo Straits Times của Singapore và China Post của Trung Quốc ngày 25/4 đã dẫn lại nguồn hãng thông tấn Pháp AFP đưa tin phản ánh sự việc nhà máy thép Formosa của Đài Loan (Trung Quốc) đặt tại tỉnh Hà Tĩnh đối mặt nghi vấn xả hóa chất tẩy rửa đường ống độc hại xuống biển, gây hiện tượng cá chết hàng loạt. 
 
Đặc biệt là sau khi ông Chou Chun-fan (Chu Xuân Phàm), Giám đốc đối ngoại của công ty Formosa Hà Tĩnh trả lời phỏng vấn trên kênh truyền hình VTC14 với thái độ vô trách nhiệm rằng: “Nhiều khi mình không được cả hai, mình phải lựa chọn: Muốn bắt cá, bắt tôm, hay xây dựng một nhà máy thép hiện đại”, thì dư luận càng sôi sục hơn nữa. Đại diện Formosa qua đó đã yêu cầu người dân địa phương cân nhắc xem họ đánh giá đời sống sinh vật biển hay đầu tư nước ngoài hơn. (Xem video dưới đây)
 
Straits Times dẫn lại thông tin trên báo Thanh Niên ghi nhận rằng, đường ống xả thải dài 1,5km chạy thẳng từ nhà máy tỉ đô Formosa cắm xuống biển Hà Tĩnh. Mặc dù, đường ống này là hợp pháp, nhưng Formosa chỉ được cho phép xả nước thải đã qua xử lý xuống biển. Hàng tấn cá chết, bao gồm cả các loại quý hiếm sống xa bờ, đã dạt vào các bãi biển dọc miền Trung Việt Nam, khiến ngư dân điêu đứng và gây báo động trong dân cư. 
 
Các ngư dân địa phương cho hay trước khi nhà máy hoạt động, hải sản ở khu vực này rất dồi dào, tuy nhiên, cho tới nay đã sụt giảm. 
 
Straits Times cũng dẫn lại thông tin từ báo Thanh Niên cho biết, Formosa đã nhập khoảng 300 tấn hóa chất độc để súc rửa đường ống xả thải.
 
Hoàng Trang (tổng hợp)
 
Từ Khóa: Formosa, nước thải, độc tố, cá chết,
 

Khuất tất việc xả thải ở Formosa

TP – Thứ trưởng Bộ TN&MT cho rằng, Sở TN&MT Hà Tĩnh chịu trách nhiệm giám sát việc xả thải của Cty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS). Tuy nhiên, đại diện Sở này cho biết chưa lắp thiết bị giám sát. Và cứ ba tháng Sở TN&MT mới vào lấy mẫu một lần.
 
 
 
Một góc nhà máy Formosa (ảnh lớn). Ngư dân hoang mang trước việc cá biển chết bất thường (ảnh nhỏ). Ảnh: PV.
Cưỡi ngựa xem hoa
 
Trao đổi với PV Tiền Phong tại cuộc họp giữa Bộ NN&PTNT với bốn tỉnh ngày 23/4, Thứ trưởng Bộ TN&MT, ông Võ Tuấn Nhân cho biết, giám sát việc xả thải của FHS do Sở TN&MT Hà Tĩnh đảm nhận. Tuy nhiên, đại diện Sở TN&MT Hà Tĩnh cho biết vì điều kiện hạ tầng chưa làm được nên chưa kết nối được với trạm quan trắc tự động mẫu nước của FHS. Như vậy là đã rõ, việc FHS ba tháng đầu năm 2016 nhập về 296 tấn hóa chất sử dụng và xả thải như thế nào chỉ có mỗi đơn vị này biết.
 
Chiều qua, 25/4, tại cuộc làm việc với PV Tiền Phong, ông Hoàng Dật Thuyên, đại diện Bộ phận An toàn Vệ sinh Môi trường FHS cho biết, FHS nhập 296 tấn hóa chất không phải chỉ để dùng mỗi rửa đường ống. “Số hóa chất đó dùng trong nhiều hạng mục của FHS”, ông Hoàng Dật Thuyên nói. Vị đại diện FHS khẳng định, tất cả nước thải sinh hoạt và công nghiệp trước khi xả ra biển phải qua trạm xử lý sau đó đến trạm quan trắc. Nếu không đạt các chỉ số sẽ bị trả lại trạm để xử lý lại.
 
“FHS đầu tư 45 triệu USD trong việc xử lý nước thải. Dự án hơn 10 tỷ USD, FHS không dại gì đi làm việc đó”, đại diện Bộ phận An toàn Vệ sinh Môi trường FHS cho biết. Trả lời câu hỏi của PV về việc hiện gần 300 tấn hóa chất Cty nhập về hiện sử dụng bao nhiêu và còn lại những hóa chất gì? Đại diện FHS cho rằng chưa thống kê được. “Số lượng sử dụng và còn lại chúng tôi đang thống kê. Tuy nhiên số hóa chất này là để cho vào nước làm nguội không phải chuyên tẩy rửa đường ống”, đại diện FHS nói.
 
Tại giấy phép xả nước thải vào nguồn nước số 3215, ngày 11/12/2015 của Bộ TN&MT cấp phép cho FHS, yêu cầu về chất lượng nước thải đơn vị này phải đạt được 12 thông số và giới hạn nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải.
 
Tại phần 2, Bộ TN&MT yêu cầu FHS phải quan trắc liên tục tự động nước thải tại vị trí đập quan trắc nước thải sau khi xử lý từ hệ thống nước xử lý nước thải công nghiệp công suất 45.000m3/ngày đêm với các thông số quan trắc là nhiệt độ, pH, COD, SS, tổng Nitơ và lưu lượng nước thải.
 
Theo tiết lộ của vị đại diện FHS, đơn vị giám sát việc xả thải là Sở TN&MT Hà Tĩnh. Tuy nhiên việc này được thực hiện thông qua một đơn vị quan trắc. “Thông thường đơn vị quan trắc 3 tháng lấy mẫu một lần. Từ đầu năm đến nay, đơn vị này lấy mẫu hai lần từ tháng 2 và 3. Kết quả đơn vị này báo cáo cho Sở TN&MT Hà Tĩnh”, đại diện FHS nói.
 
 
Một góc trạm xử lý nước thải công nghiệp của FHS.
 
Vì sao nghi vấn FHS?
 
Trao đổi với PV Tiền Phong, một chuyên gia có kinh nghiệm nhiều năm về vấn đề tẩy rửa và thụ động hóa về mặt kim loại trước khi vận hành cho rằng còn khi tẩy rửa bề mặt và thụ động hóa bề mặt kim loại trước vận hành sẽ phải sử dụng hàm lượng cao gấp nhiều lần và thường là trong giai đoạn này hệ thống xử lý nước thải của các nhà máy chưa sẵn sàng cho việc này nên họ thường tìm cách đổ ra môi trường. Đặc biệt là các nhà máy không nằm trong khu công nghiệp tập trung, không có nơi xử lý giúp trong giai đoạn đầu”, vị chuyên gia nhận định.
 
Theo đó, các cơ quan chức năng nên tập trung làm rõ các hóa chất mà FHS nhập về để tẩy rửa và thụ động hóa bề mặt kim loại cho hệ thống. Đặc biệt tập trung vào các hóa chất mua của các nhà sản xuất là Trung Quốc hoặc Đài Loan vì các nhà sản xuất này rất coi thường công tác an toàn môi trường sau bán hàng và dễ thỏa hiệp với khách hàng. “Các Cty hóa chất uy tín thường sẽ từ chối xử lý nếu công tác môi trường không được đảm bảo, gây ảnh hưởng đến uy tín của họ đã gây dựng hàng trăm năm nay”, vị chuyên gia này nói.
 
Theo nhận định của vị chuyên gia này, theo dõi trên phương tiện truyền thông thấy cá chết chủ yếu sống ở tầng đáy. “Rất khớp với việc sử dụng các chất tẩy rửa và thụ động hóa bề mặt có tỷ trọng lớn hơn nước biển”, vị chuyên gia nói. 
 
Giải thích vì sao cá lại chết trôi dạt vào các vùng biển từ Hà Tĩnh trở vào, vị này nhận định có thể độc tố chỉ gây chết cá 1 vùng, sau đó cá chết bị phân tán theo một chiều của dòng hải lưu. “Ngoài biển rộng mênh mông, sóng gió liên tục, làm gì có chuyện thiếu oxy để cá chết được. Tôi nghĩ nếu các cơ quan chức năng mà không nhanh tay chắc chắn vào cuộc sẽ không còn gì để mà phát hiện nữa đâu. FHS có thể đã tẩy rửa và thụ động hóa gần xong hết cả nhà máy rồi”, vị chuyên gia lo lắng.
 
Truy tìm độc tố
 
Theo vị chuyên gia này, việc truy tìm độc tố trong cá cần phải tập trung vào các độc tố là các muối của kim loại nặng có tỷ trọng lớn hơn nước biển. Vì các hóa chất sau khi thải sẽ tập trung và ít bị phân tán khi bị đưa ra biển. Trong khi đó, các chất hoạt động bề mặt để tẩy rửa dầu và chất diệt vi sinh thường có tỷ trọng gần bằng nước biển nên dễ bị pha loãng và phân tán trong môi trường biển. Điều này rất khó đủ nồng độ để làm cá chết.
 
Nên tập trung vào phân tích các chỉ tiêu này trong dạ dày cá hay nước biển tại những nơi nuôi trồng thủy sản vẫn còn mẫu nước này. Từ đó mới kết luận có hay không có liên quan đến FHS được. Nếu chỉ phân tích COB, BDO, pH, Độ mặn,…thì không thể kết luận liên quan đến FHS được.
 
Để kiểm tra FHS có thải những chất này ra biển hay không phải kiểm tra số liệu như ngày nào họ tẩy rửa và thụ động hóa, lượng hóa chất tiêu thụ là bao nhiêu, thể tích nước đã dùng đã tẩy rửa và thụ động là bao nhiêu, bao nhiêu ppm (mg/l) kim loại nặng đi vào hệ thống nước thải, họ đã xử lý bằng phương pháp nào để đạt được các chỉ tiêu nước thải công nghiệp ra môi trường? Dữ liệu chứng minh họ đã phân tích và theo dõi trong quá trình xử lý đâu?
 
Xây đường ống ngầm để đỡ ảnh hưởng?
 
Trả lời PV về việc tại sao FHS lại xây dựng hệ thống xả thải ngầm ra biển kéo dài hơn 1,5km. Đại diện FHS cho rằng, nước xả thải là nước ngọt, nếu xả ra khu vực ven bờ sẽ ảnh hưởng đến môi trường bờ biển. “Việc làm ống ngầm ra xa bờ là để mức độ lan tỏa xa hơn”, vị đại diện này nói. Về việc phát ngôn gây sốc chọn nhà máy thép hay chọn tôm cá của ông Chu Xuân Phàm, Giám đốc đối ngoại FHS. Trao đổi với PV trên chuyến xe đưa PV thị sát hệ thống quan trắc tự động hệ thống xả thải, ông Phàm cho rằng khi đầu tư vào đây được nhà nước cho phép và đã hỗ trợ người dân chuyển đổi nghề. Trong khu vực phạm vi cảng FHS người dân không thể vào đó đánh bắt vì tàu bè công suất lớn đi lại nhiều, lỡ xảy ra tai nạn thì sao. Khu vực đó đã giao FHS làm dự án thép thì không thể để còn đánh bắt tôm cá”, ông Phàm nói.
 
Theo: tienphong.vn
 
Từ khóa: formosa, chất thải, cá chết, độc tố