Nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của các cán bộ quản trị mạng và chuyên gia kỹ thuật về các vấn đề an ninh, an toàn thông tin và bảo mật đối với các hệ thống thông tin KH&CN của Việt Nam, Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia phối hợp với Trung tâm Thông tin mạng Châu Á – Thái Bình Dương (APNIC) tổ chức Hội thảo quốc tế về nâng cao an toàn bảo mật trên mạng thông tin KH&CN Việt Nam. Hội thảo đã diễn ra trong 05 ngày từ 10-14/6/2024 với các nội dung xoay quanh chủ đề an ninh mạng.
Các đại biểu tham dự khai mạc hội thảo
Tham dự khai mạc hội thảo có ông Vũ Anh Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia; các chuyên gia của APNIC cùng với các cán bộ công nghệ thông tin từ các đơn vị trực thuộc Bộ Khoa học Công nghệ, các Sở Khoa học và Công nghệ và Trường đại học.
Trong 5 ngày hội thảo, các đại biểu đã được nghe các chuyên gia của APNIC chia sẻ về các chủ đề chính như: chia sẻ những kinh nghiệm và kiến thức mới nhất về xây dựng, phát triển; các vấn đề kỹ thuật an toàn bảo mật trong vận hành mạng (Các nguyên tắc cơ bản về an ninh mạng; Phân tích các gói tin trong cơ sở dữ liệu về KH&CN; Bảo mật, mã hóa cơ sở dữ liệu và cơ chế kiểm soát mất dữ liệu; Bảo mật thiết bị đầu cuối và hạ tầng mạng thông tin; Vận hành và Giám sát an ninh mạng thông tin). Ngoài ra, hội thảo đề cập đến chính sách quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu tuân thủ các quy định về an toàn và bảo mật thông tin.
Các đại biểu tại buổi bế mạc hội thảo nhận giấy chứng nhận tham dự
Hội thảo đã góp phần giúp nâng cao nhận thức và hiểu biết của các nhà quản trị mạng và các chuyên gia thông tin trong việc triển khai hạ tầng thông tin và các cơ sở dữ liệu về khoa học và công nghệ vận hành ổn định, an toàn. Các kỹ sư và quản trị viên tham gia hội thảo được trang bị những kiến thức cơ bản và nâng cao về cấu hình hệ thống, thiết lập tường lửa và sử dụng các bộ công cụ giúp giám sát, theo dõi hệ thống mạng thông tin KH&CN phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Vừa qua, trường Cao đẳng Công Thương miền Trung (MITC) đã có buổi gặp gỡ, trao đổi với Liên minh Design Thinking – TECHFEST Việt Nam về phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại nhà trường.
Buổi làm việc có sự tham gia của TS. Trần Kim Quyên, Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Nhà trường; các thầy cô trong ban giám hiệu, trưởng các đơn vị trong trường. Phía Liên minh Design Thinking Việt Nam, có bà Dương Tường Nhi – Trưởng Liên minh Design Thinking Việt Nam, trưởng Làng Tư duy Thiết kế (Design Thinking), nhà sáng lập Công ty Happy Lifestyle; Bà Nguyễn Thu Phương – Giám đốc vận hành Công ty MetaUni, thành viên Nhóm sáng lập Liên Minh Design Thinking Việt Nam.
TS. Trần Kim Quyên – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch hội đồng, Hiệu trưởng Nhà trường chia sẻ tại buổi làm việc (Ảnh: MITC)
Tại buổi làm việc, lãnh đạo trường Cao đẳng Công Thương miền Trung đã chia sẻ những kết quả mà nhà trường đạt được ở các lĩnh vực đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp và chuyển đổi số. Trong đó, nhấn mạnh về các hoạt động, chương trình khởi nghiệp tại nhà trường như đưa các môn học về khởi nghiệp vào nội dung đào tạo chính quy, hằng năm tổ chức các cuộc thi tìm kiếm ý tưởng khởi nghiệp dành cho sinh viên, hỗ trợ sinh viên xây dựng, phát triển dự án khởi nghiệp tham gia các cuộc thi do Nhà trường, Bộ Lao động – Thương Binh và Xã hội tổ chức.
Đại diện phía Liên minh Design Thinking Việt Nam cũng đánh giá cao cách tổ chức các hoạt động cũng như cách xây dựng không gian khởi nghiệp tại Nhà trường. Trong đó, nhấn mạnh việc cần hiểu rõ hơn về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và tầm quan trọng của việc áp dụng tư duy thiết kế (Design Thinking) vào việc phát triển các ý tưởng, xây dựng mô hình khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Thông qua các báo cáo, các đại biểu tham gia cũng đã có những ý kiến đóng góp xây dựng cho hệ sinh thái MITC phát triển lớn mạnh. Việc xây dựng hệ sinh thái MITC được khẳng định sẽ tạo ra một mạng lưới phong phú và đa dạng của các đối tác và nguồn lực (độc lập) tạo thành hệ thống hợp tác để tập trung giải quyết các vấn đề trọng tâm theo mục tiêu và triết lý của MITC.
Thành công của buổi làm việc lần này hứa hẹn sẽ mở ra những cơ hội trao đổi, chia sẻ cụ thể hơn trong thời gian tới giúp đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tại MITC.
Làng Design Thinking thuộc Techfest Quốc Gia – Dự án Xây dựng Hệ sinh thái Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo (Đề án 844 do Chính phủ phê duyệt năm 2016, Bộ Khoa học & Công nghệ chủ trì). Làng Design Thinking gồm doanh nghiệp, nhà cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư, chính phủ, nhà huấn luyện và các trường đại học. Sự đa dạng, phong phú và kết nối giữa các thành phần trong hệ sinh thái là điều kiện tiên quyết để tạo nên môi trường hỗ trợ cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân đổi mới sáng tạo, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển sáng tạo và bền vững.
Các chuyên gia y tế nhận định oxy cao áp là phương pháp có thể điều trị được ở tất cả các thời điểm của bệnh mà không hạn chế về thời gian.
Ngày 17.5, Bệnh viện 199 – Bộ Công an phối hợp với Hội Y học biển Việt Nam tổ chức đại hội Chi hội Y học biển miền Trung (nhiệm kỳ 2024 – 2029) và hội thảo khoa học về y học dưới nước, oxy cao áp.
Tại hội thảo, với chủ đề “Ứng dụng của y học cao áp trong lâm sàng”, Thầy thuốc nhân dân, GS-TS Nguyễn Trường Sơn, Chủ tịch Hội Y học biển Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng khoa học công nghệ – Viện Y học biển, đã làm rõ được sự cần thiết phải phát triển chuyên ngành oxy cao áp.
Theo GS Nguyễn Trường Sơn, khi lao động trong môi trường nước và áp suất cao, nếu không tuân thủ đúng quy trình, người lặn sẽ bị tai biến do thay đổi áp suất đột ngột (vỡ phổi, đau các xoang và tạng rỗng, tắc mạch do bóng không khí) hoặc bị bệnh giảm áp, tắc mạch do bóng khí…
Nếu không được cứu chữa kịp thời và đúng phương pháp, với thiết bị chuyên dụng (buồng cao áp) thì sẽ để lại nhiều biến chứng nguy hiểm hoặc tử vong.
Các chuyên gia y tế trao đổi về tầm quan trọng của việc triển khai ứng dụng của công nghệ y học cao áp trong lâm sàng. Ảnh: Hoàng Sơn.
Cũng theo ông Sơn, ở Việt Nam hiện nay các cơ sở y tế ở 28 tỉnh, thành, ngành triển khai y học cao áp với 21 buồng đa và 67 buồng đơn, nhưng mới tập trung chủ yếu ở các cơ sở bệnh viện phục hồi chức năng, bệnh viện y học cổ truyền.
Do các bệnh viện đa khoa còn khá mơ hồ về công nghệ này nên bệnh nhân còn chưa có điều kiện tiếp cận, rất thiệt thòi. Do vậy, đã đến lúc các bệnh viện nên xây dựng khoa hoặc trung tâm oxy cao áp để mọi người dân được hưởng các dịch vụ kỹ thuật và công nghệ điều trị cao này.
Các chuyên gia cũng báo cáo nội dung liên quan đến lĩnh vực oxy cao áp, như: Quá trình phát triển trưởng thành của chuyên ngành y học dưới nước và oxy cao áp ở Việt Nam; kết quả điều trị vết loét bàn chân do đái tháo đường bằng oxy cao áp tại Viện Y học biển; kết quả điều trị nhồi máu não bằng oxy cao áp tại Viện Y học biển Việt Nam từ năm 2019 – 2023…
Các báo cáo đều nêu rõ được vai trò, tầm quan trọng của việc triển khai ứng dụng của công nghệ y học cao áp trong lâm sàng. Theo đó, oxy cao áp là phương pháp có thể điều trị được ở tất cả các thời điểm của bệnh mà không hạn chế về thời gian, từ đó có tác dụng rất lớn trong phục hồi các tổn thương do nhồi máu não.
Do đó, các bệnh viện nên xây dựng, khẩn trương triển khai trung tâm oxy cao áp để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và thực hiện tốt nhất nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân.
TS-BS Quách Hữu Trung, Giám đốc Bệnh viện 199 – Bộ Công an, tân Chủ tịch Chi hội Y học biển và cao áp miền Trung, đánh giá việc ứng dụng trị liệu oxy cao áp đang bắt đầu khởi sắc, mở ra một hướng nghiên cứu mới về điều trị đặc hiệu cho nhiều bệnh lý trên lâm sàng.
Trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm là vấn đề nghị sự toàn cầu, đã và đang thu hút sự quan tâm của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Biểu tượng ChatGPT của Công ty OpenAI. Ảnh minh họa: AFP/TTXVN
Trong bối cảnh kinh tế – xã hội đang phát triển với tốc độ nhanh chóng, vấn đề này đặt ra nhiều thách thức, rủi ro về đạo đức, xã hội, pháp lý. Việc phát triển trí tuệ có trách nhiệm cần có cái nhìn toàn diện và sâu rộng trên cơ sở xây dựng chính sách pháp luật liên quan. Xu thế chung Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Quế Anh, Hiệu trưởng Trường Đại học Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội), trí tuệ nhân tạo là một trong những thành tố cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh những lợi ích to lớn, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo cũng đã và đang làm dấy lên những quan ngại sâu sắc về các rủi ro tiềm ẩn từ các khía cạnh đạo đức, xã hội, pháp lý.
Không nằm ngoài xu thế chung về trí tuệ nhân tạo, tại Việt Nam, xác định trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm cần bao gồm việc nghiên cứu cách tiếp cận của các quốc gia điển hình trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm và đưa ra hàm ý chính sách cho Việt Nam. Cũng theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Quế Anh, Việt Nam có lợi thế đi sau học tập kinh nghiệm các nước nhưng không thể sao chép nguyên văn chính sách, pháp luật của nước ngoài mà phải phân tích, đánh giá, tiếp thu phù hợp với bối cảnh của Việt Nam. Nêu dẫn chứng cụ thể đối với ngành Giáo dục và Đào tạo, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Quế Anh cho rằng, trí tuệ nhân tạo đóng vai trò quan trọng trong hiện thực hóa ý tưởng học tập cá nhân hóa bằng việc điều chỉnh quá trình học, nội dung và tốc độ phù hợp với nhu cầu cụ thể của từng học sinh. Bên cạnh đó, cung cấp khả năng lấy dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau, xác thực và phân tích dữ liệu bằng các công cụ như phân tích dự báo và học máy. Tiềm năng của trí tuệ nhân tạo trong giáo dục là rất lớn, đóng vai trò là chất xúc tác cho quá trình chuyển đổi giáo dục cho tất cả các bên liên quan. Tuy nhiên, việc triển khai ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực giáo dục cũng đi kèm với rủi ro tiềm ẩn mang khía cạnh đạo đức và xã hội như: Quyền riêng tư, bảo vệ và sử dụng dữ liệu người học; ngăn chặn phân biệt đối xử dựa trên giới tính, chủng tộc, đặc điểm kinh tế – xã hội và sự khác biệt về trình độ năng lực; ngăn chặn sự lan tỏa các định kiến xã hội và văn hóa… Còn theo Tiến sỹ Tôn Quang Cường, Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, việc ứng dụng các công nghệ như thị giác máy tính, học máy, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, robot thông minh, tự động và cảm biến, công nghệ ảo… đã, đang và sẽ nhanh chóng mở rộng tới toàn bộ hệ thống giáo dục Việt Nam từ giáo dục phổ thông đến giáo dục đại học hay dạy nghề, đào tạo doanh nghiệp, giáo dục phi chính quy – giáo dục suốt đời… Sự phổ biến của ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực giáo dục và tầm quan trọng của lĩnh vực này đang đặt ra nhu cầu lớn về xác định, đánh giá những chuẩn mực đạo đức để tối đa hóa lợi ích và kiềm chế rủi ro mà trí tuệ nhân tạo có thể gây ra. Cân đối yếu tố kinh tế, đạo đức, pháp lý Trong bối cảnh việc phát triển trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm ngày càng được chú trọng, mới đây, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định 1290/QĐ-BKHCN về việc hướng dẫn một số nguyên tắc về nghiên cứu, phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm. Một trong những mục tiêu của hướng dẫn này là hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực cho con người và cộng đồng. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, các hệ thống trí tuệ nhân tạo được đánh giá sẽ mang lại các lợi ích to lớn cho con người, xã hội và nền kinh tế thông qua việc hỗ trợ, giải quyết các vấn đề khó khăn mà con người, cộng đồng đang phải đối mặt. Tuy nhiên, cần nghiên cứu, có biện pháp giảm thiểu các rủi ro trong quá trình phát triển, sử dụng trí tuệ nhân tạo; cân đối các yếu tố kinh tế, đạo đức và pháp lý liên quan. Vì vậy, các cơ quan chuyên môn cần nghiên cứu, xây dựng các tiêu chuẩn, hướng dẫn để định hướng kể cả đó là các quy định mềm và không có tính ràng buộc. Bên cạnh đó, việc chia sẻ, trao đổi thông tin về các quy trình, các biện pháp thực hành tốt giữa các bên liên quan cũng sẽ thúc đẩy sự đồng thuận để gia tăng lợi ích từ các hệ thống trí tuệ nhân tạo và kiểm soát được các rủi ro. Quan điểm của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc nghiên cứu, phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo ở Việt Nam là hướng đến một xã hội lấy con người làm trung tâm, mọi người được hưởng những lợi ích từ cuộc sống cũng như từ các hệ thống trí tuệ nhân tạo. Bộ Khoa học và Công nghệ cũng cho rằng cần đảm bảo sự cân bằng hợp lý giữa lợi ích và rủi ro của các hệ thống trí tuệ nhân tạo, trong đó nhấn mạnh yêu cầu giảm thiểu nguy cơ xâm phạm quyền hoặc lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân từ các hệ thống trí tuệ nhân tạo… Mục tiêu của hướng dẫn là thúc đẩy sự quan tâm của các bên liên quan trong việc nghiên cứu, phát triển và sử dụng các hệ thống, ứng dụng trí tuệ nhân tạo ở Việt Nam một cách có trách nhiệm; đồng thời, hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực cho con người và cộng đồng; nhằm đạt được sự tin tưởng của người dùng và xã hội đối với trí tuệ nhân tạo. Trong hướng dẫn, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đưa ra 9 nguyên tắc nghiên cứu, phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo: Tinh thần hợp tác, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; tính minh bạch; khả năng kiểm soát; an toàn; bảo mật; quyền riêng tư; tôn trọng quyền và phẩm giá con người; hỗ trợ người dùng; trách nhiệm giải trình.
Ngày 13/6, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức Hội thảo lấy ý kiến về định hướng chính sách lớn trong sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ.
Phát biểu tại Hội thảo, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Phương Tuấn cho biết, Luật Khoa học và Công nghệ được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2013 có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 cơ bản đã phát huy vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý, là cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ, là khâu đột phá để thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ…
Hội thảo lấy ý kiến về định hướng chính sách lớn trong sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thi hành, nhiều quy định của Luật đã bộc lộ hạn chế, bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung để thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành. Đồng thời, để đáp ứng những yêu cầu mới trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia.
Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Kế hoạch số 81/KH- UBTVQH15, trong đó có nhiệm vụ sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Theo đó, dự án Luật này dự kiến trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025) và thông qua tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025).
Theo ông Nguyễn Phương Tuấn, Luật Khoa học và Công nghệ là đạo luật gốc, có tầm quan trọng đặc biệt trong thúc đẩy nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế – xã hội.
Do đó, Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng dự án Luật này do đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ là Trưởng Ban, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ là Phó Trưởng Ban, thành viên gồm đại diện Lãnh đạo các Bộ ngành, địa phương, cơ quan. Thực hiện nhiệm vụ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân công, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ động chuẩn bị từ sớm, từ xa về nội dung thẩm tra các chính sách trong dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi).
Tại Hội thảo, các đại biểu, chuyên gia, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế đều thống nhất sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 thành Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo (sửa đổi); đồng thời tập trung thảo luận vào 7 nhóm vấn đề chính.
Cụ thể, thứ nhất, mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật Khoa học và Công nghệ, trong đó bổ sung phạm vi đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, đầu tư tài chính cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó nghiên cứu thiết kế mô hình Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, nghiên cứu quy định về chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, hỗ trợ tài chính và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, ưu đãi về thuế.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Trong đó, nghiên cứu về cách thức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nghiên cứu đổi mới cơ chế ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm hạn chế, chấm dứt tình trạng “đề tài bỏ ngăn kéo”.
Thứ năm, hoàn thiện quy định được thành lập và hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ, hoàn thiện quy định về cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ.
Thứ sáu, nghiên cứu cơ chế thử nghiệm có kiểm soát.
Thứ bảy, đề xuất thêm nội dung sửa đổi, bổ sung (nếu có).
Theo World Crunch, số lượng tác phẩm dày hơn 400 trang được ra mắt đang ngày càng ít đi. Thực tế này nói lên điều gì về xu hướng đọc và thị trường xuất bản hiện nay?
“Thời gian đọc: 2 phút…” là thông điệp ngày càng phổ biến khi độc giả truy cập các bài báo trên phương tiện truyền thông số. Được đặt ngay phần đầu tin tức, khuyến nghị này giúp độc giả cân nhắc có nên dành thời gian cho nội dung phía dưới hay không. Việc đặt cảnh báo như vậy cũng cho thấy các đơn vị xuất bản tin tức nhận thức rõ về sự quý giá của thời gian và sự cạnh tranh gay gắt hiện nay trong việc cung cấp thông tin.
Và với sách, một điều may mắn là chưa có cảnh báo tương tự ngay trên bìa. Tuy nhiên, các nhà xuất bản cũng đã nhận thức rõ xu hướng đọc mới từ độc giả khi họ ra mắt các cuốn sách ngày càng ngắn hơn. Theo một báo cáo từ tổ chức phi lợi nhuận Words Rated của Mỹ, trong thập kỷ qua, số lượng sách bán chạy đã giảm hơn 11% và những cuốn sách dày hơn 400 trang ngày càng trở nên hiếm.
Độ dài của các tác phẩm được ra mắt ngày càng ngắn đi. Ảnh: Zuma.
Mang lại thêm lợi nhuận cho nhà xuất bản
Trong khi công chúng có thể đặt câu hỏi về việc thu hẹp độ dài tác phẩm có ảnh hưởng tới chất lượng văn bản không thì câu trả lời dường như là không. Chất lượng văn học không liên quan gì đến số trang.
Một minh chứng tương đối rõ là bộ tác phẩm 7 quyển, mỗi quyển trung bình 600 trang, In Search of Lost Time của Marcel Proust và cuốn Metamorphosis chỉ dài hơn 100 trang của Kafka đều là kiệt tác văn học với những giá trị đặc sắc riêng biệt.
Khi chất lượng tác phẩm với số trang không ảnh hưởng gì tới nhau thì xu hướng ra mắt các tác phẩm ngắn hơn hiện tại tác động ra sao tới giới xuất bản. Tại Tây Ban Nha, báo cáo Panorámica de la edición Española de libros (Tổng quan về các tác phẩm tiếng Tây Ban Nha) năm 2019, được thực hiện với dữ liệu từ đơn vị xác nhận các tác phẩm ISBN Agency, tiết lộ rằng số trang sách trung bình hiện tại là 250 và gần 50% số sách được xuất bản có độ dài dưới 200 trang.
Hiện ít có tác phẩm nào có độ dày tương tự như In Search of Lost Time. Ảnh: Medium.
Trong bối cảnh thị trường xuất bản nhiều biến động sau đại dịch Covid-19, giá giấy và các vật tư công nghiệp khác tăng, thì việc xuất bản những cuốn sách ngắn hơn có thể giảm phần nào gánh nặng chi phí cho nhà xuất bản.
Trước đây, độc giả có thể dành ba tháng để đọc một quyển trong bộ tác phẩm của Proust, với giá dưới 20 euro/ cuốn thì nay họ có thể đọc 3 cuốn sách có chất lượng như các kiệt tác của Kafka với giá khoảng 15 euro mỗi cuốn. Theo cách tính này, lợi nhuận của nhà xuất bản được đảm bảo.
Thói quen của độc giả
Có thể nhận thấy thói quen đọc hay thu thập thông tin của độc giả đại chúng đang thay đổi ngày càng rõ rệt, đặc biệt là việc họ quen với nội dung dạng ngắn. Các ứng dụng mạng xã hội phổ biến như Facebook, X, TikTok… cho phép người dùng lướt qua các nội dung và video chỉ trong vài giây.
Các tác phẩm ngắn phù hợp với những khoảng thời gian giữa các chuyến đi. Ảnh: The Teen Magazine.
Nghiên cứu từ năm 2010 của tác giả ăn khách kiêm chuyên gia công nghệ thông tin Nicholas Carr đã chỉ rõ tác hại của việc tiếp xúc với nội dung dạng này là độc giả sẽ đọc hời hợt hơn, ghi nhớ kém hơn và không được lợi nhiều từ giá trị nội dung.
Tuy nhiên, bất chấp những cảnh báo tương tự, việc các tập đoàn công nghệ liên tục đổi mới nội dung và hình thức thông tin theo hướng ngắn đã cuốn người dùng theo thói quen của họ. Hiện nay có thể thấy xu hướng này đang tác động lên hầu hết ấn phẩm, từ phim ảnh, video trực tuyến đến tác phẩm văn học.
Công chúng ngày nay có thể đã nghe đến “tiêu dùng thông tin” – cụm từ phản ánh rõ một xã hội tiêu dùng nhanh, vội vã và ngày càng hối hả. Theo đó, việc đọc sách dần không còn diễn ra chậm rãi, thư thả khi người đọc có thể dành cả buổi chiều cho một cuốn sách. Để thích ứng với xu hướng này, các cuốn sách ngắn được ra đời để mọi người có thể tranh thủ đọc khi đang ngồi trên xe bus, ngồi chờ máy bay hay trong các hành trình di chuyển khác.
Với tốc độ phát triển của công nghệ hiện nay, thật khó để dự đoán liệu trong tương lai không xa, việc đọc nội dung trên trang bìa sách in cũng được tính vào thời gian đọc và được khuyến nghị ngay dưới chân trang hay không? Nếu điều này xảy ra, có lẽ mọi người có thể tự an ủi mình bằng câu châm ngôn của nhà truyền giáo kiêm triết gia dòng Tên người Tây Ban Nha Baltasar Gracián, viết trong cuốn The Art of Worldly Wisdom năm 1647: “Những điều tốt khi được truyền tải ngắn gọn thì càng trở nên đẹp đẽ hơn. Còn sự xấu xa nếu được diễn đạt gọn lại cũng không quá tệ”.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn coi phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là quốc sách hàng đầu.
Hệ thống Robot AGV là robot tự hành chia chọn tự động 100% các loại hàng hóa nhẹ, mỏng, hàng có hình dáng đặc thù, tròn lăn, thích hợp với hàng hóa trên sàn thương mại điện tử. Đây là công nghệ robot hiện đại được nhiều đơn vị logistic lớn trên thế giới sử dụng.
Ảnh: Minh Quyết/TTXVN
Nhiều cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển đã được ban hành và đi vào cuộc sống. Ngày 11/5/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, trong đó xác định phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là quốc sách hàng đầu, đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn mới; là nền tảng để thực hiện chuyển đổi số quốc gia…
Ứng dụng khoa học công nghệ cũng được coi là chìa khóa tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam. Để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, nhiều doanh nghiệp Việt đã và đang tích cực đầu tư đổi mới, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Tạo không gian tăng trưởng mới
Trong bối cảnh chuyển đổi số, Rạng Đông gia tăng ứng dụng công nghệ số để phát triển hệ sinh thái sản phẩm, mở ra không gian tăng trưởng mới. Theo ông Nguyễn Đoàn Kết, Phó Tổng Giám đốc, Trưởng Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số Rạng Đông, xác định khoa học công nghệ là then chốt, trong hơn 30 năm đổi mới, Công ty đã thực hiện thành công 4 lần chuyển tầng công nghệ trong Ngành Kỹ thuật chiếu sáng. Từ một công ty chuyên sản xuất đèn dây tóc sang sản xuất đèn huỳnh quang, đèn compact, sang chiếu sáng LED và nay là chiếu sáng thông minh, chấm dứt hoàn toàn sản xuất đèn phóng điện FL, CFL ngày 31/12/2019.
Rạng Đông là một trong những doanh nghiệp trong ngành chiếu sáng chủ động đón đầu cập nhật công nghệ. Công ty đã đầu tư, nghiên cứu chuyển đổi, số hóa, đưa công nghệ vào các khâu từ quản lý, điều hành, sản xuất, đánh giá, kiểm soát sản phẩm,… theo quy trình khép kín, đồng bộ. Trung tâm Nghiên cứu và phát triển cùng đội ngũ cán bộ, kỹ sư đã nhanh chóng tích hợp trí tuệ nhân tạo AI vào Hệ sinh thái sản phẩm và dịch vụ của mình bằng công nghệ Machine Learning, trí tuệ nhân tạo xử lý tại biên (Edge AI),…; từ đó, phát huy được năng lực lõi và thế mạnh truyền thống là kỹ thuật chiếu sáng; đưa nhanh các thành tựu về công nghệ số, IoT, AI tạo thêm những giá trị mới, xây dựng các giải pháp chiếu sáng thông minh trên nền tảng công nghệ số.
Giải pháp Chiếu sáng thông minh cho đường phố và kiến trúc cảnh quan của Rạng Đông đã được trao tặng giải thưởng thành phố thông minh Việt Nam năm 2021 và được xếp hạng 5 sao ở hạng mục: Giải pháp cho hạ tầng kỹ thuật thành phố thông minh. Thông qua chiếu sáng cảnh quan thành phố, các công trình di tích lịch sử, kết hợp chiếu sáng nhân tạo, giải pháp này đang góp phần thay đổi diện mạo của thành phố về đêm, thúc đẩy phát triển kinh tế du lịch,… của các đô thị.
Các công trình chiếu sáng tiêu biểu của các giải pháp trên đã được Rạng Đông cung cấp dịch vụ trọn gói từ khảo sát, tư vấn, thiết kế đến thi công lắp đặt, chuyển giao công nghệ và vận hành cho nhiều địa phương, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh…
Nhiều năm qua, Rạng Đông đã dành 15% lợi nhuận sau thuế cho công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) và 7% lợi nhuận sau thuế thành lập Quỹ Đầu tư mạo hiểm. Việc đầu tư phát triển hệ sinh thái sáng tạo mở với bệ đỡ là quỹ đầu tư mạo hiểm, hạt nhân trung tâm là các đội nhóm sáng tạo trẻ giúp mở rộng kết nối, từng bước hình thành tổ chức học tập suốt đời, văn hóa sáng tạo. Công ty cũng thành lập Trung tâm R&D; ký thỏa thuận hợp tác với các viện nghiện cứu, trường đại học và các đối tác khoa học công nghệ như: Việt Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Ngoại thương Hà Nội, Học Viện Nông nghiệp Việt Nam…
Ứng dụng công nghệ số vào quá trình sản xuất, kinh doanh, nhiều cơ sở sản xuất, doanh nghiệp đã có những bước thành công vượt bậc.
Qua 5 năm hoạt động, Hợp tác xã sản xuất rau, củ, quả an toàn Văn Giang (Văn Giang, Hưng Yên) đã tích cực ứng dụng công nghệ số trong sản xuất, kinh doanh và đạt được thành tựu. Với tổng diện tích sản xuất gần 48 héc-ta, trong đó chủ yếu là các loại cây ăn quả và rau ăn lá, Hợp tác xã đầu tư lắp đặt 1 bộ điều khiển thông minh giúp kiểm soát lượng nước, chất dinh dưỡng cung cấp cho cây trồng và kiểm soát chất lượng đất trồng. Thông qua bộ điều khiển thông minh được kết nối thông tin, cảnh báo tới điện thoại thông minh của người sử dụng, Hợp tác xã có biện pháp chăm sóc cây trồng tốt nhất nhằm tăng năng suất, chất lượng và bảo đảm an toàn.
Ngoài ra, Hợp tác xã cũng tham gia Hệ thống thông tin điện tử sử dụng mã QR truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hóa tỉnh Hưng Yên (https://hy.check.net.vn), đồng thời tích cực quảng bá, giới thiệu sản phẩm, hàng hóa trên mạng xã hội.
Bà Lý Thị Hà, Giám đốc Hợp tác xã cho biết, việc áp dụng công nghệ số vào sản xuất, kinh doanh đã giúp Hợp tác xã giảm chi phí đầu vào, giảm nhân công lao động, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm đầu ra. Áp dụng công nghệ số không chỉ thúc đẩy quá trình sản xuất mà còn giúp Hợp tác xã tiếp cận dễ dàng, nhanh chóng hơn với khách hàng trên cả nước; từ đó kết nối, đưa sản phẩm, hàng hóa có chất lượng, bảo đảm an toàn đến khách hàng, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn gấp 2 lần so với trước kia. Đến nay, Hợp tác xã đã có 2 sản phẩm là: ổi và cam được cấp giấy chứng nhận sản phẩm OCOP.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã tham gia thị trường thương mại điện từ bằng việc đưa sản phẩm lên chào bán tại các nền tảng bán hàng trực tuyến như Shopee, Lazada, Tiki, Sendo… và các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram, Zalo, Tiktok… Ứng dụng công nghệ, đặc biệt là công nghệ số đã trở nên ngày càng phổ biến, hiệu quả trong bối cảnh hiện nay.
Quản lý giám sát vận hành khu tổ hợp là hệ thống NOC theo dõi hành trình của từng đơn hàng thời gian thực. Hệ thống giám sát thông minh gồm công nghệ Digital Twin, camera AI, kiểm soát trạng thái của toàn bộ hệ thống thiết bị và hoạt động khai thác hàng hóa, phát hiện và cảnh báo về các hành vi bất thường, giúp xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh.
Ảnh: Minh Quyết/TTXVN
Yếu tố then chốt để phát triển
Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt, việc ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo có vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất chất lượng, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế với hàng loạt hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã được ký kết và ảnh hưởng của cuộc các mạng công nghiệp lần thứ tư đang có tác động ngày càng sâu rộng. “Trình độ và năng lực công nghệ là yếu tố then chốt để doanh nghiệp tạo ra được sản phẩm, dịch vụ có đặc tính cạnh tranh hay vượt trội, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nói.
Mặt khác, cũng theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, cạnh tranh chiến lược và căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn trong thời gian gần đây dẫn tới sự gia tăng của những biện pháp tăng cường bảo hộ, sự cạnh tranh quyết liệt về công nghệ cùng với những đòi hỏi của mục tiêu phát triển bền vững là các vấn đề thực tiễn đang đặt ra cho doanh nghiệp, tạo áp lực lớn buộc doanh nghiệp phải thực hiện các giải pháp căn cơ, quyết liệt để vượt qua những thách thức cốt yếu về việc hấp thụ công nghệ, đổi mới công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ theo hướng công nghệ xanh và bền vững.
Tuy nhiên, với doanh nghiệp Việt, đặc biệt là các doanh nghiệp khoa học công nghệ, nhiều hạn chế, khó khăn còn ở trước mắt, trong đó, vướng mắc về cơ chế chính sách đang được coi là một trong những rào cản lớn nhất của bộ phận doanh nghiệp này.
Ông Hoàng Đức Thảo, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho rằng Nghị định 13/2019/NĐ-CP của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ là bước đột phá về cơ chế chính sách hỗ trợ hoạt động doanh nghiệp khoa họa công nghệ với những ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, đất đai, tín dụng…
Nghị định 13 quy định doanh nghiệp khoa học công nghệ được miễn hoặc giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải đáp ứng điều kiện, trước tiên doanh nghiệp khoa học công nghệ phải là một doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, doanh nghiệp phải có kết quả nghiên cứu thuộc một trong những lĩnh vực có thể sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, bố trí mạch tích hợp hoặc những chương trình máy tính được các cơ quan quản lý Nhà nước công nhận.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp đang sở hữu những giống cây trồng, vật nuôi mới được tạo ra trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ mới được xem xét thụ hưởng ưu đãi. Nếu doanh nghiệp liên kết với các đơn vị khác hoặc nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, sau một thời gian làm chủ được công nghệ và tạo ra được những sản phẩm của riêng mình thì được công nhận là doanh nghiệp khoa học công nghệ.
Quá trình thực thi Nghị định này mang lại kết quả cho các doanh nghiệp còn rất hạn chế, doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Cụ thể, ông Thảo dẫn chứng, qua kết quả khảo sát của Hiệp hội đối với 167 doanh nghiệp thành viên tính đến hết năm 2023 cho thấy, đa số doanh nghiệp khoa học công nghệ không được hưởng chính sách ưu đãi theo Nghị định 13. Mới chỉ có 6 doanh nghiệp được ưu đãi theo Nghị định 13 với tổng số tiền ưu đãi là 91 tỷ đồng.
Ông Trần Xuân Đích, Phó Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp khoa học công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết, Nhà nước đã ban hành một số chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho doanh nghiệp doanh nghiệp khoa học công nghệ như ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn, giảm tiền thuê đất. Một số doanh nghiệp khoa học và công nghệ được hưởng chính sách ưu đãi, hỗ trợ khác của Nhà nước như miễn, giảm thuế giá trị gia tăng, hỗ trợ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, vay vốn với lãi suất thấp hơn doanh nghiệp thông thường…
Ông Trần Xuân Đích cho biết thêm, Bộ Khoa học và Công nghệ đang lập đề xuất xây dựng luật sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ, dự kiến trình trong năm nay. “Bộ sẽ nghiên cứu, hoàn thiện và đề xuất sửa đổi các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ”, ông Trần Xuân Đích nói.
Với độ mở lớn của nền kinh tế, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển. Nếu tận dụng được từ việc chuyển đổi, ứng dụng khoa học công nghệ, bằng hỗ trợ từ các cơ chế, chính sách cụ thể, doanh nghiệp Việt sẽ có được đà phát triển, tạo được sức cạnh tranh ở không chỉ thị trường trong nước mà còn tại thị trường khu vực và trên thế giới.
Để khoa học và công nghệ (KH&CN) phát triển và đóng góp nhiều hơn nữa cho tăng trưởng kinh tế, Việt Nam cần có phương pháp tiếp cận hiệu quả hơn đối với các lĩnh vực công nghệ mới.
Ảnh minh họa.
Nhóm nghiên cứu của TS. Nguyễn Trường Phi tại Trung tâm Thiết kế, Chế tạo và Thử nghiệm thuộc Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo đã thực hiện đề tài: “Nâng cao năng lực, xây dựng và kiểm nghiệm phương pháp chuyển giao công nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam”.
Sau thời gian nghiên cứu, Đề tài đã thu được các kết quả sau:
Đánh giá tổng quan về thực trạng chuyển giao công nghệ tại Việt Nam với các phân tích tổng thể về chính sách, thực thi chính sách và các đơn vị liên quan trong hệ sinh thái chuyển giao công nghệ, trong đó đặc biệt tập trung vào ba đối tượng chính là: tạo ra công nghệ, sử dụng công nghệ và trung gian hỗ trợ chuyển giao công nghệ.
Khảo sát học tập kinh nghiệm phát triển hoạt động chuyển giao công nghệ từ một số quốc gia trên thế giới, các quốc gia được khảo sát, lựa chọn là: đã trải qua giai đoạn phát triển tương tự Việt Nam về KH&CN; có hoạt động chuyển giao công nghệ đã được vận hành hiệu quả; đang trong quá trình chuyển đổi để nâng cao hiệu quả của hoạt động chuyển giao công nghệ.
Xây dựng được phương pháp chuyển giao công nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam với các nhiệm vụ, chức năng cụ thể cho từng đối tượng trong hệ sinh thái KH&CN. Trong đó tập trung vào ba đối tượng chính là đối tượng tạo ra công nghệ, đối tượng sử dụng công nghệ, và đối tượng trung gian hỗ trợ chuyển giao công nghệ.
Việc xây dựng thành công mạng lưới kết nối hỗ trợ chuyển giao công nghệ tại Việt Nam với sự tham gia của các đơn vị trong nước và nước ngoài, là cơ sở trọng tâm trong việc phát triển các hoạt động, dịch vụ trong thời gian tới tại Trung tâm nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của đơn vị hỗ trợ quản lý nhà nước, cũng như vai trò thực thi chính sách hỗ trợ chuyển giao công nghệ.
Toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 17328/2019) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia.
Nguồn: Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
Ngày 13.6, Trường ĐH Quy Nhơn (Bình Định) tổ chức Ngày khoa học công nghệ năm 2024 với sự tham gia đông đảo của sinh viên, giảng viên.
Đây là hoạt động thường niên nhằm thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nhà trường. Qua đó, gắn kết nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ giữa nhà trường với doanh nghiệp và địa phương.
Ngày khoa học và công nghệ Trường ĐH Quy Nhơn năm 2024
Hoạt động khoa học công nghệ phục vụ cộng đồng
Phát biểu tại buổi lễ, PGS-TS Đỗ Ngọc Mỹ, Hiệu trưởng Trường ĐH Quy Nhơn, cho biết hoạt động khoa học công nghệ của trường ngày càng đi vào chiều sâu, gắn với định hướng ứng dụng, phục vụ cộng đồng.
“Trường ĐH Quy Nhơn là một trong số ít trường ĐH tổ chức ngày khoa học công nghệ, việc này nhằm tổng kết và đánh giá chung các hoạt động về khoa học công nghệ của trường”, PGS-TS Đỗ Ngọc Mỹ nhấn mạnh.
Trường ĐH Quy Nhơn ký kết biên bản ghi nhớ với Công ty CP tư vấn chuyển giao sở hữu trí tuệ Quốc tế
Tại buổi lễ, Trường ĐH Quy Nhơn đã ký kết biên bản ghi nhớ với Công ty CP tư vấn chuyển giao sở hữu trí tuệ Quốc tế (SIPC Group) về việc thiết lập mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.
Dịp này, Trường ĐH Quy Nhơn cũng tổ chức trao giải cuộc thi nghiên cứu khoa học do nhà trường tổ chức. Theo đó, giải nhất được trao cho đề tài “Sự tương đồng và khác biệt của giới tính trong phàn nàn của khách hàng trong du lịch và khách sạn” do nhóm sinh viên Bùi Thị Ngọc Trâm, Nguyễn Tố Liên và giảng viên Trương Văn Định (khoa Ngoại ngữ, Trường ĐH Quy Nhơn) thực hiện.
Sinh viên Bùi Thị Ngọc Trâm chụp ảnh bên poster sản phẩm đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm
Gắn với thực tiễn
PGS-TS Nguyễn Tiến Trung, Trưởng phòng Khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế (Trường ĐH Quy Nhơn), cho biết nhà trường đang thực hiện 1 đề tài khoa học và công nghệ do Quỹ đổi mới sáng tạo Vingroup (VINIF) tài trợ: “Sản xuất các gonadotropin chuỗi đơn để điều trị sinh sản” và 3 đề tài cấp quốc gia thuộc Bộ KH-CN… Trong đó, đề tài của PGS-TSKH Nguyễn Thị Mộng Điệp (Trường ĐH Quy Nhơn) đã tổng hợp thành công gonadotrapin tái tổ hợp chuỗi đơn có hoạt động sinh học như hormone kích thích trưởng thành của nang trứng, dùng để điều trị vô sinh ở người.
Năm học 2023 – 2024, Trường ĐH Quy Nhơn có 95 đề tài của sinh viên được triển khai, trong đó có 92 đề tài được nghiệm thu đúng hạn. Trường đã xét chọn 31 đề tài đạt giải thưởng sinh viên nghiên cứu khoa học cấp trường (trong đó có 5 giải nhất, 6 giải nhì, 11 giải ba và 9 giải khuyến khích).
Sinh viên xem các poster trưng bày sản phẩm đề tài nghiên cứu khoa học
“Nhìn chung, hoạt động khoa học công nghệ của viên chức, giảng viên trong trường không ngừng được phát triển và nâng cao; kết quả các đề tài không chỉ là các bài báo uy tín, sách phục vụ đào tạo mà còn gắn với thực tiễn và tiềm năng cho phát triển thành các sản phẩm ứng dụng, chuyển giao công nghệ. Đây là tiền đề quan trọng để hợp tác với doanh nghiệp trong và ngoài nước, hình thành doanh nghiệp khoa học công nghệ trong trường. Điều này sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, tạo uy tín và thương hiệu cho Trường ĐH Quy Nhơn”, PGS-TS Nguyễn Tiến Trung nói.
Các nhà nghiên cứu chế tạo thành công viên thuốc gắn cảm biến phát hiện vị trí bệnh, dữ liệu được truyền về máy tính cho trí tuệ nhân tạo (AI) phân tích.
Nghiên cứu được thực hiện bởi phòng thí nghiệm Khan Lab thuộc Trường Kỹ thuật Viterbi – Đại học Nam California (USC), đứng đầu bởi phó giáo sư Yasser Khan, công bố trên tạp chí Cell Reports Physical Science. Trong đó, viên thuốc thông minh được đánh giá mang tính đột phá nhờ khả năng tìm đến đúng vị trí và phát hiện bệnh sớm.
Hệ thống cuộn cảm phát hiện vị trí cảm biến do Trường Kỹ thuật Viterbi – Đại học Nam California nghiên cứu. Ảnh: USC
Nhóm của Khan cùng Viện Đổi mới Hệ thống Y tế và Công nghệ (ITEMS) tại Trung tâm Khoa học Sinh học Hội tụ Michelson thuộc USC đã đặt một cuộn dây có thể đeo được để tạo từ trường trên áo phông. Cùng lúc, một viên nang chứa cảm biến sẽ đi vào bên trong cơ thể. Nhiệm vụ của cuộn dây là xác định vị trí viên thuốc.
Với viên nang, nhóm sẽ đưa vào các cảm biến sinh học cực nhỏ để theo dõi từng loại bệnh được xác định từ đầu. Bên ngoài được bọc “màng cảm biến quang học chọn lọc các loại khí” – lớp màng với cấu tạo chứa vật liệu có các electron thay đổi hành vi khi khí amoniac xuất hiện.
Bên trong cơ thể, khí amoniac là một thành phần được tạo ra từ vi khuẩn đường ruột H pylori. Khi nồng độ khí tăng cao, đó có thể là tín hiệu loét dạ dày, ung thư dạ dày hoặc hội chứng ruột kích thích. “Loại khí này được xem như là ‘đại diện’ của đường ruột và có thể được sử dụng như cơ chế phát hiện bệnh sớm”, Khan giải thích.
Với chất liệu cảm biến, nhóm thử nghiệm khả năng bị ăn mòn trong môi trường ruột, ban đầu mô phỏng với chất lỏng và trong ruột bò. Do có cuộn cảm giúp bác sĩ có thể xác định chính xác vị trí nơi bị bệnh. Dữ liệu thu được sẽ chuyển đến máy tính, AI phân tích trước khi đưa ra chẩn đoán cuối cùng.
“Nó giống như hệ thống GPS trong cơ thể người”, theo ông Khan. “Cảm biến sinh học có thể tiêu hóa, kết hợp cuộn cảm vừa nhỏ gọn, mang đến một hướng đi rõ ràng cho việc khám chữa bệnh”.
Tuy vậy, viên thuốc chưa được thí nghiệm trên cơ thể người. Ngoài việc phát hiện sớm vết loét, viêm và ung thư dạ dày, nhóm cho biết thiết bị này còn hướng đến khả năng theo dõi sức khỏe não bộ. “Đây sẽ là phương pháp không xâm lấn trong việc phát hiện các chất dẫn truyền thần kinh liên quan đến bệnh Parkinson và bệnh Alzheimer”, Khan nói thêm.