Hệ thống sưởi hơi nước 5 triệu tấn chạy bằng điện hạt nhân

Trung Quốc khởi động hệ thống sưởi hơi nước Heqi No 1, giúp giảm tiêu thụ 400.000 tấn than nhờ chuyển từ điện than sang điện hạt nhân.

Một bức ảnh chụp từ máy bay không người lái được chụp vào ngày 19 tháng 6 năm 2024 cho thấy quang cảnh Nhà máy điện hạt nhân Tianwan ở thành phố Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô phía đông Trung Quốc. Ảnh: Xinhua/Li Bo

Nhà máy điện hạt nhân Tianwan ở thành phố Liên Vân Cảng, tỉnh Giang Tô, nhìn từ trên cao. Ảnh: Xinhua/Li Bo

Để dịch chuyển khỏi nhiên liệu hóa thạch, Trung Quốc đang giải quyết nhu cầu công nghiệp bằng điện hạt nhân thay vì điện từ than đá. Tập đoàn Hạt nhân Quốc gia Trung Quốc (CNNC) xác nhận, nhà máy điện hạt nhân Tianwan ở tỉnh Giang Tô đã bắt đầu cung cấp hơi nước cho Cơ sở Công nghiệp Hóa dầu Liên Vân Cảng, Interesting Engineering hôm 21/6 đưa tin.

Với mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2060, Trung Quốc đang sử dụng nhiều giải pháp và đa dạng hóa các nguồn năng lượng sạch. Nước này đã xây dựng một số nhà máy điện mặt trời lớn hàng đầu thế giới, đồng thời đầu tư mạnh vào xây nhà máy điện hạt nhân. Các nhà máy điện hạt nhân hướng đến việc đáp ứng nhu cầu công nghiệp về nhiệt và điện, thay thế nhiệt điện than vốn giúp Trung Quốc phát triển suốt nhiều thập kỷ.

Năm 2022, Trung Quốc triển khai dự án cung cấp hơi nước bằng điện hạt nhân với chi phí 108 triệu USD. Đến nay, việc xây dựng dự án đã hoàn tất và nhà máy bắt đầu hoạt động vào tuần này.

Dự án hơi nước điện hạt nhân mang tên Heqi No 1 do CNNC xây dựng. Dự án sử dụng điện hạt nhân để biến nước thành hơi trong máy áp suất cao (cỗ máy đun sôi nước từ một nhà máy khử mặn). Hơi nước sau đó được đưa đi khoảng 23 km, qua đường ống trên mặt đất đến Cơ sở Công nghiệp Hóa dầu Liên Vân Cảng. Tại đây, sau khi đi qua nhiều hệ thống trao đổi nhiệt, hơi nước sẽ được sử dụng cho nhu cầu sưởi ấm.

Để tăng tính an toàn, dự án sẽ liên tục theo dõi mức độ phóng xạ của hơi nước và ngừng hoạt động ngay lập tức khi phát hiện bất thường, CNNC cho biết. Khi hoạt động hết công suất, dự án có thể cung cấp gần 5 triệu tấn hơi nước hàng năm cho cơ sở công nghiệp.

Nhờ chuyển từ than sang điện hạt nhân, Heqi No 1 ước tính giúp giảm tiêu thụ 400.000 tấn than. Điều này có thể giúp giảm hơn một triệu tấn CO2, 184 tấn SO2 và 263 tấn khí thải nitơ oxit. Với ngành hóa dầu, việc Heqi No 1 đi vào hoạt động cũng cho phép tiết kiệm hơn 700.000 tấn khí thải theo hạn ngạch carbon, vốn đòi hỏi phải trồng cây trên diện tích 2.900 ha.

Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)

Nhà khoa học tìm giải pháp kiểm soát bệnh truyền nhiễm

Các chuyên gia hàng đầu từ 17 quốc gia chia sẻ và thảo luận các nghiên cứu góp phần kiểm soát các đợt bùng phát dịch bệnh và mô hình bệnh truyền nhiễm.

Sự kiện khai mạc sáng 24/6 tại Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành (ICISE) Quy Nhơn, Bình Định do Hội Khoa học Gặp gỡ Việt Nam, Trung tâm ICISE và mạng lưới MIDSEA tổ chức. Hội nghị quy tụ nhiều chuyên gia hàng đầu về mô hình bệnh truyền nhiễm trong khu vực Đông Nam Á như GS Alexander Richard Cook (Trường Y tế công cộng Saw Swee Hock, Đại học quốc gia Singapore); GS Jomar Rabajante (Đại học Philippines Los Baños, Philipines); GS May Anne Mata (Đại học Philippines Mindanao), PGS Wirichada Pan-ngum (MORU, Thái Lan).

Phát biểu khai mạc, GS Trần Thanh Vân, Chủ tịch Hội Gặp gỡ Việt Nam cho biết Trung tâm ICISE mong muốn phối hợp với các tổ chức quốc tế nhằm đóng góp cho sự phát triển khoa học khu vực Đông Nam Á ngày càng lớn mạnh.

Ông cho hay, Trường hè, hội thảo và hội nghị chuyên đề MIDSEA được tổ chức với mong muốn truyền cảm hứng cho các nghiên cứu sinh Việt Nam và thế giới khi nghiên cứu mô hình các bệnh truyền nhiễm. Thông qua chương trình, kiến thức về mô hình các bệnh truyền nhiễm theo nhiều chủ đề được cập nhật, là cơ hội kết nối các nhà khoa học. “Học viên có thêm kiến thức và niềm yêu thích để mạnh dạn theo đuổi đề tài nghiên cứu”, ông cho hay.

GS Trần Thanh Vân phát biểu tại buổi khai mạc Trường hè, Hội thảo và Hội nghị chuyên đề MIDSEA. Ảnh: Trọng Nhân

GS Trần Thanh Vân phát biểu tại buổi khai mạc sự kiện sáng 24/6. Ảnh: Trọng Nhân

Tại hội nghị chuyên đề MIDSEA, các nhà khoa học và nghiên cứu sinh trao đổi ý tưởng về mô hình bệnh truyền nhiễm, đặc biệt các nghiên cứu góp phần kiểm soát các đợt bùng phát dịch bệnh ở Đông Nam Á và khu vực. Trong đó các mô hình bệnh truyền nhiễm như mô hình tác động vaccine HPV, Strep A và chikungunya; tìm hiểu di chứng lâu dài của bệnh truyền nhiễm; khám phá mô hình dịch tễ học sinh thái về sự lây lan của Hantavirus và mô hình dịch tễ học về sự lây truyền Covid-19.

GS Alexander Richard Cook, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y tế công cộng Saw Swee Hock, Đại học Quốc gia Singapore (NUS) kỳ vọng thông qua hội nghị các nghiên cứu sinh trẻ Đông Nam Á và khu vực có cơ hội được tiếp cận, học hỏi. GS Alex Cook là một trong những người hướng dẫn chính tại Trường hè. Ông chia sẻ các nghiên cứu chính về mô hình và thống kê các bệnh truyền nhiễm, gồm sốt xuất huyết, cúm và các tác nhân gây bệnh về hô hấp.

GS Alexander Richard Cook. Ảnh: Trọng Nhân

GS Alexander Richard Cook. Ảnh: Trọng Nhân

Sự kiện kéo dài 10 ngày, từ ngày 19-29/6 nằm trong chuỗi “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ 20 tại ICISE. Thành lập năm 2013, ICISE là tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại thành phố Quy Nhơn, với sứ mệnh thúc đẩy hợp tác khoa học và giáo dục quốc tế. Đây là điểm gặp gỡ, giao lưu học thuật theo chuẩn quốc tế, góp phần kết nối các nhà khoa học Việt Nam và thế giới. Mỗi năm, ICISE tổ chức hàng chục sự kiện khoa học, quy tụ hàng nghìn nhà khoa học hàng đầu thế giới trên nhiều lĩnh vực tham gia.

Như Quỳnh

Nhà khoa học Việt phát triển công nghệ sàng lọc trẻ mắc chứng khó đọc

Nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đang phát triển công nghệ theo dõi chuyển động mắt đầu tiên tại Việt Nam có khả năng hỗ trợ sàng lọc, chẩn đoán và can thiệp cho trẻ em mắc chứng khó đọc (Dyslexia).

TS Ngô Thị Duyên, Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết hội chứng khó đọc do rối loạn thần kinh bẩm sinh ảnh hưởng tới 5 -10% trẻ em trong độ tuổi đi học. Ước tính tại Việt Nam có hàng chục ngàn học sinh đang mắc hội chứng này nhưng chưa được phát hiện.

Khi mắc chứng khó đọc, trẻ thường gặp khó khăn trong việc kết nối ngôn ngữ nói và chữ viết. Điều này ảnh hưởng đến cuộc sống và quá trình học tập của trẻ, làm cho trẻ khó có thể bắt kịp những trẻ phát triển bình thường khác.

Theo dõi chuyển động mắt là công nghệ đầu tiên có khả năng sàng lọc số lượng lớn, hỗ trợ các chuyên gia đưa ra chẩn đoán xác nhận, phân loại các chứng khó đọc mà trẻ mắc phải. Công nghệ cũng có thể gợi ý cho giáo viên và phụ huynh học sinh các biện pháp can thiệp sớm, hiệu quả cho nhóm trẻ đang mắc chứng này.

TS Duyên cho biết trên thế giới đã có những nghiên cứu sử dụng công nghệ theo dõi chuyển động mắt để phát hiện chứng khó đọc. Tuy nhiên, do đặc trưng của từng ngôn ngữ khác nhau, các công nghệ này không thể áp dụng được cho trẻ mắc chứng khó đọc tại Việt Nam.

Chị cùng cộng sự đã phát triển một hệ thống có tiềm năng hỗ trợ sàng lọc, phát hiện, và hỗ trợ can thiệp dành riêng cho trẻ em Việt Nam mắc chứng khó đọc. Hệ thống gồm phần mềm và phần cứng đơn giản gồm một thiết bị theo dõi chuyển động mắt có sẵn trên thị trường, kết nối với laptop qua cổng USB.

Khi trẻ thực hiện các bài kiểm tra với ngữ liệu đầu vào tiếng Việt trên máy tính, thời lượng từ 10-15 phút, hệ thống sẽ theo dõi ánh nhìn của trẻ và ghi lại toàn bộ tọa độ điểm nhìn của mắt trẻ trên màn hình. Nhóm nghiên cứu đã xây dựng các thuật toán dựa trên trí tuệ nhân tạo (AI) để xử lý dữ liệu này.

Nhóm nghiên cứu dẫn đầu bởi TS Ngô Thị Duyên (giữa) tại Phòng thí nghiệm Tương tác người – máy, Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: NVCC

TS Ngô Thị Duyên (giữa) cùng nhóm nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Tương tác người – máy, Khoa Công nghệ thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: NVCC

Đây là bộ thuật toán đầu tiên có khả năng liên kết các đặc trưng chuyển động mắt của trẻ (bao gồm điểm dừng của mắt, chuyển động mắt từ một điểm dừng này sang điểm dừng khác, chuyển động mắt ngược chiều văn bản…) với ngữ liệu đầu vào của bài kiểm tra (bao gồm âm đầu, vần, màu sắc… của văn bản Tiếng Việt), từ đó giúp phát hiện trẻ mắc chứng khó đọc.

Ngoài ra, chuyển động mắt của trẻ có thể được lưu trữ thành hồ sơ, để đánh giá các đặc trưng cá nhân hóa trong hành vi đọc của từng trẻ. Đây là hướng tiếp cận hoàn toàn mới, có độ chính xác cao trong hỗ trợ chẩn đoán và can thiệp chứng khó đọc tại Việt Nam. “Nếu chỉ sử dụng các bài kiểm tra truyền thống trên giấy, bằng mắt thường, ngay cả các chuyên gia giáo dục đặc biệt có kinh nghiệm cũng không thể làm được những điều này”, TS Duyên nói.

Bản đồ đường quét mắt thu được từ hệ thống theo dõi chuyển động mắt của người bình thường khi thực hiện bài kiểm tra Hiệu ứng Stroop, một trong những bài kiểm tra được dùng để chẩn đoán chứng khó đọc ở trẻ. Ảnh: Nhóm nghiên cứu.

Bản đồ đường quét mắt thu được từ hệ thống theo dõi chuyển động mắt của người bình thường khi thực hiện bài kiểm tra Hiệu ứng Stroop, một trong những bài kiểm tra được dùng để chẩn đoán chứng khó đọc ở trẻ. Ảnh: Nhóm nghiên cứu.

TS Nguyễn Thị Cẩm Hường, Trưởng Bộ môn Giáo dục trẻ khiếm thị và trẻ khuyết tật học tập, Khoa Giáo dục đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội – người có hơn 10 năm nghiên cứu chứng khó đọc ở trẻ – đánh giá “Công nghệ do nhóm TS Duyên phát triển rất có ý nghĩa trong bối cảnh nhu cầu sàng lọc, chẩn đoán và can thiệp sớm cho trẻ mắc chứng Dyslexia tại Việt Nam hiện rất lớn”.

Theo nghiên cứu trước đây của TS Hường, trung bình mỗi lớp học ở Việt Nam đều có ít nhất một trẻ mắc hội chứng khó đọc. Trẻ mắc chứng khó đọc thường cảm thấy tự ti, phát triển các rối loạn hành vi thách thức chống đối theo thời gian, ví dụ như không học, sợ học hoặc thậm chí nhiều trẻ đã bỏ học. Ở tỷ lệ này, nhóm trẻ mắc Dyslexia đang đặt gánh nặng lớn lên từng giáo viên giảng dạy, trên toàn hệ thống giáo dục nếu không được quan tâm đầy đủ và đúng cách. Theo đó chỉ cần giúp trẻ mắc hội chứng Dyslexia đọc được, các em sẽ phát triển bình thường, nhiều trẻ còn phát triển với tài năng vượt trội.

TS Hường đã trực tiếp tham gia vào quá trình thử nghiệm công nghệ mới do nhóm TS Duyên phát triển trên 35 học sinh, trong đó có 5 học sinh mắc hội chứng khó đọc tại hai trường tiểu học ở Hà Nội và Hòa Bình. Cô nhận định công nghệ theo dõi chuyển động mắt hiện đã chứng minh được khả năng hỗ trợ giáo viên và các chuyên gia giáo dục đặc biệt trong tất cả các bước từ sàng lọc, chẩn đoán tới can thiệp cho trẻ mắc chứng khó đọc.

“Các bài kiểm tra chuyển động mắt có thể được tích hợp ngay vào phòng y tế học đường, hoặc các đợt khám sức khỏe đầu năm cho học sinh tiểu học, nhằm giúp phát hiện ra nhóm trẻ có nguy cơ cao mắc chứng khó đọc”, TS Hường nói.

Theo chị, đặc trưng chuyển động mắt là một lớp thông tin chuyên sâu, liên kết trực tiếp với cách trẻ xử lý thông tin và chức năng não bộ. Vì vậy, các thông tin về đặc trưng chuyển động mắt sẽ giúp chuyên gia đưa ra chẩn đoán chính xác, đồng thời phân loại được trẻ đang mắc phải chứng khó đọc dạng nào.
Sau khi có được chẩn đoán, các dữ liệu này một lần nữa sẽ giúp các chuyên gia đưa ra định hướng can thiệp cá nhân hóa cho từng trẻ.

Nhóm nghiên cứu và TS Nguyễn Thị Cẩm Hường đang thử nghiệm công nghệ theo dõi chuyển động mắt trên một trẻ mắc chứng khó đọc. Ảnh: NVCC

Nhóm nghiên cứu và TS Nguyễn Thị Cẩm Hường đang thử nghiệm công nghệ theo dõi chuyển động mắt trên một trẻ mắc chứng khó đọc. Ảnh: NVCC

Can thiệp cá nhân hóa bằng công nghệ cũng là mục tiêu mà nhóm nghiên cứu của TS Duyên đang hướng đến. Theo đó, dữ liệu đầu ra của hệ thống theo dõi chuyển động mắt có thể được sử dụng làm dữ liệu đầu vào cho một ứng dụng có khả năng giúp trẻ mắc chứng khó đọc hiểu được văn bản theo cách riêng của mình.

“Hội chứng Dyslexia có các thể khác nhau. Mỗi thể lại cần có các phương pháp can thiệp khác nhau”, TS Duyên nói. “Ở thể nhẹ nhất, trẻ chỉ gặp các vấn đề về xử lý thị giác. Sử dụng một ứng dụng có khả năng tùy biến trong hiển thị văn bản, ví dụ như làm cho phông chữ lớn hơn, tăng khoảng cách giữa các dòng chữ là đã giúp cải thiện khả năng đọc được của trẻ”.

Đối với các thể rối loạn đọc nặng hơn, khi trẻ không thể đọc được chữ, đặc biệt là gặp khó khăn với một số vần khó, từ khó hoặc con số cụ thể trong Tiếng Việt, ứng dụng có thể đưa ra phương án thay thế các từ hoặc con số này bằng hình ảnh hoặc âm thanh để trẻ có thể hiểu được.

TS Duyên cũng mong muốn lan tỏa thông tin đến các bậc phụ huynh học sinh, bởi “nhiều bậc cha mẹ không biết con mình đang gặp vấn đề và ngay cả khi phát hiện ra vấn đề, họ cũng không biết đó là Dyslexia”.

Nhóm nghiên cứu đang hướng tới xây dựng ứng dụng cho thiết bị di động mà giáo viên và phụ huynh học sinh có thể tải về điện thoại, máy tính bảng hoặc laptop của mình.

Ứng dụng cho phép thực hiện những can thiệp thường xuyên, cá nhân hóa cho từng trẻ mắc chứng khó đọc ngay tại nhà và tại trường học, mà không cần trực tiếp đến các trung tâm giáo dục đặc biệt.

TS Duyên ước tính sẽ mất khoảng 1-2 năm nữa để nhóm hoàn thiện công nghệ. Công việc đòi hỏi thu thập thêm một số lượng lớn dữ liệu chuyển động mắt của trẻ, đào tạo các thuật toán trí tuệ nhân tạo song song với tinh gọn các thiết bị phần cứng.

Thanh Long

Quy hoạch Tây Nguyên trở thành vùng phát triển nhanh, bền vững dựa trên nền tảng KH,CN&ĐMST

Ngày 23/6/2024, Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên đã tổ chức hội nghị lần thứ 3 tại TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên chủ trì Hội nghị. Tham dự Hội nghị có lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương; lãnh đạo các tỉnh vùng Tây Nguyên, các chuyên gia, nhà khoa học… Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang tham dự.
Toàn cảnh Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Tây Nguyên.
Tại Hội nghị, lãnh đạo 5 tỉnh Tây Nguyên đã báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW về phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 152/NQ-CP ngày 15/11/2022 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang tham dự Hội nghị.
Hội nghị cũng thông qua các nhiệm vụ trọng tâm triển khai trong năm 2024 gồm: các bộ, ngành, địa phương phối hợp rà soát các cơ chế, chính sách hiện hành và đề xuất các cơ chế chính sách đặc thù của vùng Tây Nguyên để kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội; tập trung tổ chức thực hiện quy hoạch vùng Tây Nguyên và các quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ…
Phát biểu tại Hội nghị, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đánh giá, thời gian qua vùng Tây Nguyên đã đạt được một số kết quả tích cực, đáng khích lệ về KT-XH. Thông qua Hội nghị lần này, Hội đồng sẽ nắm bắt những vấn đề vướng mắc mà các địa phương đang gặp phải, từ đó báo cáo Chính phủ, đề xuất hướng xử lý cho Vùng.
Phó Thủ tướng cũng lưu ý thêm, để việc quy hoạch phát triển Tây Nguyên với tầm nhìn dài hạn, bền vững, các địa phương trong vùng nên học hỏi theo tinh thần “Hợp tác trong phát triển, phát triển trong hợp tác”. Cụ thể như kết nối giao thông giữa các tỉnh, phát triển du lịch theo chuỗi và chia sẻ thu hút đầu tư dự án quy mô lớn giữa các địa phương để thúc đẩy phát triển cả khu vực.
Dịp này, Ban Tổ chức cũng công bố Quyết định số 377/QĐ-TTg ngày 05/05/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu của Quy hoạch hướng đến năm 2030, Tây Nguyên trở thành vùng phát triển nhanh bền vững dựa trên kinh tế xanh, tuần hoàn; phát triển kinh tế nông nghiệp hiệu quả cao, dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), chuyển đổi số hình thành một số sản phẩm nông nghiệp quy mô lớn có thương hiệu quốc tế gắn với các trung tâm chế biến, trở thành điểm đến hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế.
Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang và các đại biểu chúc mừng thành viên Hội đồng điều phối Vùng Tây Nguyên cùng đón nhận Quyết định Quy hoạch vùng Tây Nguyên.
Sáng cùng ngày, Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang đã dự Lễ công bố Quy hoạch tỉnh Lâm Đồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xúc tiến đầu tư vào tỉnh.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang tại Lễ công bố Quy hoạch tỉnh Lâm Đồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
KH,CN&ĐMST đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên
Với vai trò là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST, Bộ KH&CN đã phối hợp với Bộ, ngành Trung ương tham mưu cho Chính phủ xây dựng nhiều Chương trình quốc gia về KH&CN gắn với cơ chế, chính sách phục vụ phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, trong đó có vùng Tây Nguyên. Điển hình như: Chương trình phát triển tài sản trí tuệ; Chương trình quốc gia Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp; Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia trong phát triển Sâm Ngọc Linh, cà phê, Chương trình KH&CN phục vụ phát triển KT-XH vùng Tây Nguyên; Chương trình Nông thôn miền núi…
Đồng thời, Bộ KH&CN đã phối hợp với các địa phương trong vùng triển khai hiệu quả các Chương trình phối hợp hoạt động KH&CN, một số nhiệm vụ có sự tham gia tích cực của doanh nghiệp bước đầu tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, phục vụ phát triển KT-XH của địa phương. Hỗ trợ các địa phương trong vùng triển khai các nhiệm KH&CN nhằm quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường ứng phó biến đổi khí hậu; các nhiệm vụ cấp thiết có tác động đến phát triển KT-XH, quốc phòng, an ninh của địa phương; nhất là các nhiệm vụ liên tỉnh, liên vùng phục vụ phát triển các sản phẩm trọng điểm, chủ lực của địa phương…
Trong thời gian tới, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương trong vùng Tây Nguyên và các bộ, ban, ngành có liên quan triển khai một số nội dung nhằm hỗ trợ thúc đẩy phát triển hoạt động KH,CN&ĐMST của Vùng nói riêng và cả nước nói chung, góp phần phát triển KT-XH đất nước. Đặc biệt là nghiên cứu đề xuất các giải pháp tăng cường liên kết trong triển khai hoạt động KH,CN&ĐMST, nhất là liên kết các ngành, doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu, trường đại học trong nội vùng với nhau và với các vùng khác.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Tàu vũ trụ Starliner của Boeing bị lỗi, không được chở phi hành gia về Trái đất

Trong quá trình kiểm tra tàu Starliner, phi hành đoàn đã phát hiện 5 lỗi kỹ thuật ở 28 động cơ đẩy, 5 điểm rò rỉ helium có thể tăng áp suất với những động cơ này và một số vấn đề chưa được khắc phục ở hệ thống van dẫn.

Hai phi hành gia người Mỹ của NASA gồm Butch Wilmore (trái) và Suni Williams được tàu Starliner đưa lên Trạm ISS hôm 5-6-2024, sau nhiều lần trì hoãn - Ảnh: REUTERS

Hai phi hành gia người Mỹ của NASA gồm Butch Wilmore (trái) và Suni Williams được tàu Starliner đưa lên Trạm ISS hôm 5-6-2024, sau nhiều lần trì hoãn – Ảnh: REUTERS

Trong thông báo ngày 21-6 (giờ Mỹ), Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) cho biết kế hoạch đưa tàu Starliner của Boeing chở theo các phi hành gia từ Trạm vũ trụ quốc tế (ISS) về Trái đất tiếp tục bị hoãn.

NASA không đưa ra thời hạn dự kiến mới cho kế hoạch này.

Trong quá trình kiểm tra tàu, phi hành đoàn đã phát hiện 5 lỗi kỹ thuật ở 28 động cơ đẩy, 5 điểm rò rỉ helium có thể tăng áp suất với những động cơ này và một số vấn đề chưa được khắc phục ở hệ thống van dẫn.

Những trục trặc này làm gia tăng các vấn đề trong chương trình Starliner của Boeing, vốn trong nhiều năm đã gặp lỗi phần mềm, lỗi thiết kế hoặc tranh cãi giữa các nhà thầu phụ.

Đây là lần hoãn thứ 4 kể từ khi tàu Starliner đưa hai phi hành gia người Mỹ của NASA là Butch Wilmore và Suni Williams lên ISS hôm 5-6, sau nhiều lần hoãn, hủy.

Chuyến bay cũng là lần đầu tiên Starliner đưa theo các phi hành gia lên vũ trụ, sau 2 lần bay không người lái từ năm 2019.

Hành trình đầu tiên của phi hành đoàn CST-200 Starliner tới ISS là dấu mốc quan trọng đối với Tập đoàn Boeing, bởi đây được xem là bài kiểm tra then chốt trước khi NASA cấp chứng nhận cho phép Starliner thực hiện các chuyến bay thường lệ.

Đợt phóng tàu vũ trụ này diễn ra vào thời điểm Boeing đang nỗ lực giành thị phần lớn hơn trong hoạt động kinh doanh giàu lợi nhuận của NASA.

Tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động công đoàn trong tình hình mới

Hội nghị giao lưu của 3 tổ chức công đoàn: Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Viện Hàn Lâm KH&CN Việt Nam và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam được tổ chức hằng năm đã trở thành sự kiện quan trọng, là nơi gắn kết ba công đoàn từng tách ra từ Công đoàn Ủy ban Khoa học Nhà nước, khẳng định tinh thần đoàn kết và nỗ lực không ngừng của các tổ chức công đoàn.

Đó là khẳng định của ông Phạm Gia Chương, Phó Bí thư trường trực Đảng ủy Bộ KH&CN tại Hội nghị trao đổi kinh nghiệm hoạt động công đoàn năm 2024. Đây là hoạt động chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Công đoàn viên chức Việt Nam (2/7/1994 – 2/7/2024).
Ông Phạm Gia Chương chia sẻ, 3 tổ chức công đoàn: Bộ KH&CN, Viện Hàn Lâm KH&CN Việt Nam và Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đã hoạt động tích cực và hiệu quả trong thời gian qua, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của 3 tổ chức công đoàn trong tình hình mới.
Từ năm 2003, Hội nghị giao lưu được tổ chức hằng năm đã trở thành sự kiện quan trọng, là nơi gắn kết ba công đoàn từng tách ra từ Công đoàn Ủy ban Khoa học Nhà nước, khẳng định tinh thần đoàn kết và nỗ lực không ngừng của các tổ chức công đoàn.
Nhìn lại chặng đường từ khi 3 tổ chức công đoàn tách ra, mỗi tổ chức có những bước tiến lớn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của các lĩnh vực KH&CN của đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế – xã hội, vai trò của các công đoàn lại càng được khẳng định.
Ông Phạm Gia Chương phát biểu tại Hội nghị.
Ông Hà Quốc Trung, Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin, Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN cho biết, trong thời gian qua Công đoàn Bộ KH&CN đã đẩy mạnh thi đua, đưa nghị quyết đại hội các cấp công đoàn vào cuộc sống và đạt nhiều kết quả. Theo đó, Công đoàn Bộ KH&CN đã tổ chức chương trình Bộ trưởng đi thăm và tặng quà tại Điện Biên. Tại đây Đoàn công tác đã trao 100 suất quà cho 100 công nhân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn, với tổng trị giá trên 130 triệu đồng và 6 tivi 55 inch, 4 máy in, 20 máy vi tính, 2 máy chiếu; tặng hơn 500 suất quà là đồ dùng học tập cho học sinh hai trường trên địa bàn 2 xã Noong U và Pu Nhi.
Công đoàn Bộ KH&CN đã chức buổi lễ trao tặng quà cho 28 đoàn viên công đoàn có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn. Ngoài ra, Công đoàn Bộ cũng tổ chức đoàn đi thăm và tặng quà tại bệnh viện Việt Đức và Bệnh viện Nhi trung ương cho 2 trường hợp Đoàn viên công đoàn có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Bên cạnh đó, Công đoàn Bộ KH&CN đã triển khai hướng dẫn các công đoàn trực thuộc phối hợp với Thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức Hội nghị cán bộ, công chức, viên chức và Hội nghị người lao động năm 2024 để thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Tổ chức Hội nghị triển khai công tác và ký giao ước thi đua năm 2024 của Khối thi đua I – Công đoàn Viên chức Việt Nam. Năm 2024 với vai trò là khối trưởng khối thi đua I, Công đoàn Bộ đã chủ động xây dựng Kế hoạch hoạt động của Khối và Giao ước thi đua để Công đoàn các Bộ, ngành cùng tham gia.
Trong khuôn khổ chuỗi hoạt động chào mừng Ngày KH&CN 18/5 và Kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN, Công đoàn Bộ KH&CN đã tổ chức Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chính sách, pháp luật của ngành KH&CN; tổ chức Hội nghị, tọa đàm kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Công đoàn Bộ KH&CN và gặp mặt các thế hệ cán bộ Ban Chấp hành Công đoàn Bộ qua các thời kỳ…
Ông Hà Quốc Trung trao đổi về các kết quả của Công đoàn Bộ KH&CN trong thời gian qua.
Chia sẻ về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Công đoàn trong tình hình mới, ông Phạm Minh Phúc, Chủ tịch Công đoàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết: Công đoàn Viện đã tích cực đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động một cách toàn diện từ tư duy đến phương pháp, đảm bảo sự hợp tác hài hòa, bền chặt với chính quyền. Đồng thời, xác định rõ quan điểm: không thể dựa vào sự tạo điều kiện từ chính quyền mà cần chủ động khẳng định vai trò, vị trí của mình thông qua việc trả lời các câu hỏi: Tổ chức công đoàn mang lại quyền lợi gì cho công đoàn viên? Công đoàn giúp gì cho chính quyền? Trong thời gian tới, để tiếp tục hiện thực hóa công tác đổi mới, Công đoàn Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam tiếp tục thực hiện tốt ba phương hướng đổi mới về nhận thức, con người và phương thức hoạt động. Trong đó nhận thức về mục đích đóng vai trò chủ đạo, chi phối trực tiếp đến mọi phương pháp hoạt động.
Ông Phạm Minh Phúc chia sẻ về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Công đoàn trong tình hình mới.
Bà Nguyễn Thanh Tâm, Phó Chủ tịch Công đoàn Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam chia sẻ, những năm qua, Công đoàn Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã rất chú trọng công tác cải tiến phong cách, lề lối làm việc của cán bộ công đoàn để nâng cao hiệu quả công tác, đồng thời xây dựng nhận thức cho đoàn viên công đoàn trong việc thực hiện tu dưỡng, rèn luyện. Đội ngũ cán bộ công đoàn các cấp thuộc Công đoàn Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực trong đổi mới lề lối làm việc và thực thi nhiệm vụ, góp phần không nhỏ vào thành tích chuyên môn của cơ quan, đơn vị.
Bà Nguyễn Thanh Tâm chia sẻ tại Hội nghị.
Tại Hội nghị, các đại biểu đã trao đổi thảo luận, cũng như kiến nghị, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động phối hợp, học tập công tác công đoàn giữa các công đoàn của 3 cơ quan: Bộ KH&CN, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Đồng chí Lê Xuân Định, Bí thư Đảng ủy, Thứ trưởng Bộ KH&CN chụp ảnh cùng các đại biểu tham dự Hội nghị.
Một số hình ảnh tại Hội nghị:
Bà Nguyễn Thị Huệ, Chủ tịch Công đoàn Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam trao cờ truyền thống cho ông Hà Quốc Trung.
Các đại biểu trao đổi tại Hội nghị.
Các đại biểu dâng hương tại Nhà tưởng niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh.  
Các đại biểu tham quan Trung tâm KH,CN&ĐMST thuộc Sở KH&CN Hải Phòng.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Tạo ra kim cương nhân tạo trong 15 phút nhờ kỹ thuật mới

Kim cương tự nhiên được hình thành trong lớp vỏ Trái đất, là vùng nóng chảy bị chôn vùi sâu hàng trăm km bên dưới bề mặt hành tinh. Quá trình này diễn ra dưới áp suất cực lớn lên tới vài gigapascal và nhiệt độ trên 1.500oC. Các điều kiện tương tự đã được sử dụng trong phương pháp hiện nay để tổng hợp ra kim cương nhân tạo. Phương pháp này thiết lập các điều kiện khắc nghiệt về áp suất và nhiệt độ như trong tự nhiên để thu hút carbon hòa tan trong kim loại lỏng như sắt, để chuyển nó thành kim cương xung quanh một hạt nhỏ hoặc viên kim cương nhỏ ban đầu.

Những viên kim cương được chế tạo bằng kỹ thuật mới hầu hết đều nguyên chất nhưng chúng có kích thước quá nhỏ.

Một nhóm nghiên cứu do Rodney Ruoff (Viện Khoa học Cơ bản,  Hàn Quốc) dẫn đầu đã công bố kỹ thuật tạo kim cương nhân tạo mới. Kỹ thuật mới này sử dụng Gallium được đun nóng bằng điện với một chút silicon trong nồi nấu bằng than chì. Gallium có thể xúc tác cho sự hình thành graphene từ mê tan. Graphene là carbon nguyên chất giống như kim cương, nhưng chứa các nguyên tử trong một lớp chứ không phải theo hướng tứ diện như các loại đá quý khác.

Các nhà nghiên cứu đặt nồi nấu kim loại Gallium trong một khoang được duy trì ở áp suất khí quyển ngang mực nước biển, trong đó khí mê tan siêu nóng, giàu carbon có thể được xả vào khoang này. Khoang tạo kim cương này cho phép nhóm nghiên cứu có thể điều chỉnh nhanh chóng các hoạt động với nồng độ kim loại và khí khác nhau.

Thông qua việc tinh chỉnh như vậy, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, hỗn hợp gali – niken – sắt – kết hợp với một ít silicon là tối ưu để xúc tác cho sự phát triển của kim cương. Với công thức pha trộn này, nhóm nghiên cứu đã thu được kim cương từ đáy nồi nấu kim loại Gallium chỉ sau 15 phút. Sau khoảng 150 phút, một màng kim cương hoàn chỉnh hơn đã được hình thành. Các phân tích quang phổ cho thấy lớp màng này phần lớn là tinh khiết nhưng chứa một vài nguyên tử silicon.

Các chi tiết của cơ chế hình thành kim cương bằng kỹ thuật này phần lớn vẫn còn chưa rõ ràng với nhóm nghiên cứu, nhưng họ cho rằng, sự giảm nhiệt độ sẽ đẩy carbon từ khí mê tan về phía trung tâm của nồi nấu kim loại, nơi nó kết hợp lại thành kim cương. Ngoài ra, không có silicon thì không có kim cương hình thành nên các nhà nghiên cứu cho rằng nó có thể hoạt động như một hạt giống để carbon kết tinh xung quanh.

Mặc dù vậy, phương pháp mới này cũng có những thách thức riêng. Đó là những viên kim cương được sản xuất bằng kỹ thuật này rất nhỏ (nhỏ hơn hàng trăm nghìn lần so với những hạt kim cương nhân tạo sử dụng phương pháp hiện có). Tuy nhiên, kỹ thuật mới này có ưu điểm là tạo ra kim cương từ điều kiện nhiệt độ và áp suất không quá khó khăn nên các nhà nghiên cứu đang tìm cách tăng kích thước các hạt kim cương.

Công Minh (theo livescience.com)

Khám phá lịch sử hàng nghìn năm của sách

Cuốn Lịch sử sách (tên gốc tiếng Anh: The Oxford Illustrated History of the books) do James Raven – học giả người Anh chuyên về lịch sử sách – làm chủ biên (Hoàng Lan dịch) là một tuyển tập gồm 14 bài tiểu luận đa chuyên ngành về lịch sử sách của các giáo sư đầu ngành đến từ các viện nghiên cứu, đại học danh tiếng của Mỹ, Anh Pháp, Thụy Điển, Nhật Bản, Italy…

Lịch sử sách nhìn từ góc độ đa chuyên ngành

Với việc nhìn sách từ nhiều góc độ: sử học về khoa học, tư tưởng, văn hóa, xã hội, nghệ thuật; thư mục học; văn học; ngôn ngữ; codex học; cổ tự; văn khắc; thủ thư; bảo tồn sách; nhân chủng học; khảo cổ học…, cuốn sách đã mang đến hiểu biết mới mẻ về sách, khám phá vai trò của sách, cung cấp một cái nhìn “đa văn hóa” về những yếu tố tạo nên một “cuốn sách”, đồng thời cho chúng ta có cái nhìn bao quát hơn về lịch sử của sách.

Theo James Raven, điểm hấp dẫn của lịch sử sách trên bình diện toàn cầu trải dài trong nhiều thế kỷ chính là những sự khác biệt trong các định nghĩa về sách. Lý do là sách đã liên tục được sửa đổi, cải cách theo thời gian ở nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.

Lịch sử của sách cũng rất đa dạng và có niên đại ít nhất 5.000 năm, nó không chỉ gồm lịch sử của sách codex hay sách in, mà còn là lịch sử của các dân tộc khác nhau, ở những nơi khác nhau trên thế giới, theo những cách khác nhau, vì những lý do khác nhau và với những hệ quả rất khác nhau, đã nỗ lực, lưu hành, phổ biến cũng như truy xuất kiến thức, thông tin.

Lich su sach anh 2

Sách Lịch sử sách (ấn bản thường). Ảnh: MC.

Mặt khác, xét trên phạm vi toàn thế giới và ở nhiều xã hội khác nhau trong quá khứ cũng như hiện tại, sách tồn tại dưới nhiều hình thức và thể loại khác nhau như: bảng hình nêm; dạng sách cuộn; nút thắt khipu (hoặc “quipu”) của nền văn hóa Inca; sách thẻ tre (trúc thư), in mộc bản hay thuật khắc gỗ của người Trung Quốc và Đông Á; cuộn tranh thanka Phật giáo; sách lá của người Java, Bali, Singhala cũng như sách bằng da trâu của Dakota.

Ngay cả trong phạm vi chung của codex, tập bản đồ, sách nhạc, scrapbook (cuốn sách có những trang trống), sách lật (Flipbook), truyện tranh (hay Manga) cũng cho thấy sự đa dạng về thể loại và hình thức sách. Nhưng trên hết, ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới với sự đa dạng của các loại sách kỹ thuật số có khả năng mang lại những trải nghiệm đọc, tiếp cận, xử lý và sáng tác văn bản khác nhau.

Do vậy, khi nghiên cứu lịch sử sách sẽ có những thách thức mang tính so sánh về chất liệu, thể loại, hình thức sách, cũng như việc sử dụng đọc sách (lịch sử của các phương thức đọc và tiếp nhận khác nhau). Thách thức này vừa mang tính khái niệm vừa mang tính phương pháp luận trong việc xác định những đặc điểm những tên gọi của sách cũng như chất liệu khác nhau của chúng.

Tuy nhiên, lịch sử của sách không chỉ đơn giản là vấn đề hình thức vật chất, cũng không hẳn là lịch sử đọc và tiếp nhận. Câu hỏi lớn hơn là về tác động của việc sản xuất, phân phối và tiếp nhận văn bản dưới mọi hình thức tài liệu khác nhau ở trong các xã hội và trong các khoảng thời gian khác nhau – đây là cách thức mà chính các cuốn sách đã tạo nên lịch sử.

Từ thế giới cổ đại đến thời đại kỹ thuật số hiện đại

Để giải quyết những vấn đề đặt ra trên, cuốn sách đi tuần tự từ thế giới cổ đại đến thời đại kỹ thuật số hiện đại. Bên cạnh đó, tại mỗi chương (sách gồm 14 chương), các tác giả đều đưa ra những hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ giữa sách và câu chuyện về thời đại của chúng. Ngoài ra, 168 hình minh họa đi kèm chú thích mô tả, sách còn đưa ra những ví dụ rất riêng biệt, cụ thể, sinh động về lịch sử sách.

Bắt đầu với Thế giới cổ đại, Lịch sử sách đi từ những sách tồn tại trước khi sách như chúng ta biết đến ngày nay xuất hiện: nghĩa là, nhiều đồ vật và hình thức chuyên chở chữ viết đã hiện diện trước khi cả những tờ giấy gắn lại với nhau, trở thành phương tiện di động, mặc định cho việc lưu trữ văn bản và truyền tải văn bản trên toàn thế giới.

Điểm nhấn của thế giới cổ đại đó là chữ viết cổ được phát minh – hoặc được phát triển trong một thời gian dài ở ít nhất 4 khu vực trong lịch sử thế giới đó là Ai Cập cổ đại, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Trung Mỹ. Đồng thời với sự ra đời của chữ viết là sự xuất hiện của những phương tiện truyền đạt chữ viết được chấp nhận là sách.

Nó gồm hai dạng: các tờ được cuộn (cuộn sách) hoặc gập thành tập (codex) và những trường hợp đặc biệt như dây thắt nút khipu, đất sét khoáng hoặc đất nung, xương, đá, kim loại, da động vật, sợi thực vật, thẻ tre, gỗ, lụa tơ tằm…

Lich su sach anh 3

Cho đến nay thiết kế chính xác của chiếc máy in đầu tiên vẫn còn là một câu hỏi, nhưng chúng ta vẫn có thể cảm nhận chung về diện mạo của nó vào cuối thế kỷ XV. Hình ảnh từ sách Nova Reperta, xuất bản ở Antwerp năm 1590. Nguồn: sothebys.

Tiếp theo Thế giới cổ đại, Lịch sử sách đưa bạn đọc đến thành phố “Byzantine”, tìm hiểu sự phát triển của sách trong nền văn hóa Đông La Mã, từ cuối thế kỷ 1 và 2 sau công nguyên, cho đến khi nó sụp đổ dưới cuộc xâm lược của Ottoman năm 1453.

Chất liệu chủ đạo của sách tại khu vực này trong thời kỳ đầu là giấy cói, thường ở dạng cuộn, nhưng cũng ở dạng tờ riêng biệt. Tiếp theo là giấy da (da động vật chưa thuộc da) và sau đó, từ thế kỷ 13, giấy, được sản xuất chủ yếu ở Italy và Tây Bản Nha và xuất khẩu quanh Địa Trung Hải. Các văn bản tôn giáo sử dụng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong số sách được xuất bản trong thời đại này và các hình ảnh minh họa bắt đầu được sử dụng.

Tiếp đến, Lịch sử sách đưa chúng ta đến “Đông Á thời Trung cổ và thời kỳ cận đại”. Giống như phần còn lại của thế giới, ở khu vực này phương thức xuất bản sớm nhất là chép tay. Tuy nhiên, từ thế kỷ 7 đến 13, khu vực này đã phát minh ra một số công nghệ in: in khắc gỗ hay còn gọi là in mộc bản, và các loại chữ in rời bằng đất nung. In mộc bản là hình thức sản xuất sách chính và là công nghệ in thống trị ở khu vực này cho đến thời hiện đại.

Lịch sử sách tiếp tục đưa bạn đọc qua “Tây Âu thời Trung cổ”, nơi sách được coi là công cụ thiết yếu cho việc tranh luận bằng lý trí. Đây là thời đại mà một cuốn sách có thể làm nên những điều kỳ diệu: sách mang ý nghĩa hơn hẳn so với một vật thuần túy mang chở câu chữ trên các trang giấy.

Trong tất cả các phương tiện lưu giữ chữ viết thì cấu trúc mà trong đó các tập giấy được đóng gáy dính lại với nhau rồi được đặt trong một loại bảo vệ – hay nói ngắn gọn là sách – được ưu ái sử dụng trong cộng đồng Cơ đốc giáo. Các nghệ nhân sản xuất Kinh Thánh thời này thường rất ý thức về việc cần phải làm sai cho sản phẩm của mìn xứng đáng với sự tôn kính mà nó truyền tới người đọc.

Tiếp theo Tây Âu thời Trung cổ, độc giả sẽ bước vào chương “Phục hưng và cải cách” để tìm hiểu kỹ thuật in bằng chữ rời – một công nghệ cho phép sao chép một lượng lớn sách với tốc độ cực nhanh của Johannes Gutenberg. Ngoài ra, độc giả cũng sẽ được tìm hiểu khối lượng xuất bản và phân phối, cũng như việc đọc và tác động của in ấn ở khu vực này.

Chương tiếp theo của Lịch sử sách đề cập đến công việc quản lý thông tin trong sách, lưu ý đến vai trò của hình ảnh, mục lục, trang nội dung và các yếu tố khác. Chương “Công nghiệp hóa” đề cập đến tác động của công nghiệp hóa đến việc in ấn và các khía cạnh khác của sản phẩm xuất sách, đặc biệt là giai đoạn hiện nay với sự phát triển của sách điện tử.

Các chương khác đề cập đến sách và lịch sử sách ở Thế giới Hồi giáo, Trung Quốc, Nhật Bản và Triều Tiên thời hiện đại, Nam Á, thời kỳ Cách mạng và khai sáng. Chương “Toàn cầu hóa”, đề cập đến các hoạt động xuất bản mang tính quốc tế, các hiệp định, công ước bảo hộ về bản quyền, quyền tác giả, độc giả toàn cầu…Chương cuối “Những cuộc cách mạng của sách” đề cập đến sự biến đổi của sách theo hai hướng chính: công nghệ analog và kỹ thuật số.

Tóm lại, với việc nhìn sách từ nhiều góc độ, Lịch sử sách đã mang đến cho chúng ra những hiểu biết mới về thế giới rộng lớn của sách, khám phá diễn trình phát triển của sách… Cuốn sách thực sự là món quà ý nghĩa dành cho những ai yêu thích sách, tri thức và lịch sử.

Minh Châu

Lò nhiệt hạch siêu dẫn nhiệt độ cao đầu tiên trên thế giới

Trung Quốc ghi nhận một cột mốc quan trọng khi hoàn thành và vận hành lò tokamak siêu dẫn nhiệt độ cao toàn phần đầu tiên trên thế giới tên HH70 ở Thượng Hải hôm 18/6.

Lò tokamak HH70 của Energy Singularity. Ảnh: Energy Singularity

Lò tokamak HH70 của Energy Singularity. Ảnh: Energy Singularity

Lò tokamak thường được ví như “Mặt Trời nhân tạo” thường khá lớn và đắt đỏ. Thiết kế và chế tạo bởi công ty thương mại Energy Singularity, HH70 nhỏ và có chi phí rẻ hơn, mở đường cho những lò phản ứng nhiệt hạch khả thi hơn về mặt thương mại trong tương lai, theo Guo Houyang, nhà đồng sáng lập kiêm giám đốc công nghệ của Energy Singularity. HH70 sở hữu hệ thống từ trường được xây dựng từ vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao đầu tiên trên thế giới. Energy Singularity đạt được điều này trong vòng hai năm, lập kỷ lục thế giới về phát triển và xây dựng lò tokamak nhanh nhất, theo CGTN.

Việc vận hành thành công HH70 giúp xác định tính khả thi về mặt kỹ thuật của lò tokamak siêu dẫn nhiệt độ cao, mở ra tương lai năng lượng sạch và bền vững. World Energy Outlook, nếu các nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ, khí tự nhiên và than đá dần dần rút khỏi thị trường toàn cầu, nhân loại sẽ đối mặt với thiếu hụt năng lượng ở mức hơn 10% vào năm 2050. Đây là cơ hội và thách thức lớn đối với kiểm soát và khai thác năng lượng nhiệt hạch.

Trong vài năm qua, những đột phá ở vật liệu siêu dẫn nhiệt độ cao và nhiều công nghệ khác cho phép phát triển lò tokamak khả thi về mặt kinh tế. Lò tokamak là cỗ máy thử nghiệm được thiết kế để khai thác năng lượng nhiệt hạch. Nếu có thể tạo ra nhiều năng lượng từ lò hơn mức nạp vào, đây sẽ là giải pháp giúp đối phó biến đổi khí hậu và cạn kiệt tài nguyên.

Năm 2027, Energy Singularity hướng tới xây dựng một lò tokamak thế hệ mới, phiên bản nhiệt độ và từ trường cao với trạng thái ổn định. Dự án này sẽ đặt nền móng cho mục tiêu cuối cùng là xây dựng nhà máy điện nhiệt hạch thử nghiệm năm 2030, theo Guo.

An Khang

Phát minh xe hơi đầu tiên trên thế giới

Cỗ xe sử dụng động cơ đẩy bằng hơi nước đầu tiên trên thế giới được chế tạo bởi một nhà phát minh người Pháp ít tiếng tăm tên Nicolas-Joseph Cugnot.

Cỗ xe Fardier à vapeur trưng bày tại bảo tàng ở Paris. Ảnh: Wikimedia

Cỗ xe Fardier à vapeur trưng bày tại bảo tàng ở Paris. Ảnh: Wikimedia

Nicholas-Joseph Cugnot sinh tại Void-Vacon, Lorraine, năm 1725 và được đào tạo làm kỹ sư quân sự. Được quân đội giao nhiệm vụ phát triển một phương tiện hoạt động bằng hơi nước dùng để kéo súng đại bác, Cugnot tạo ra phiên bản thu nhỏ hoạt động được vào năm 1769. Năm 1770, ông giới thiệu phương tiện chạy bằng hơi nước kích thước thật mà ông gọi là Fardier à vapeur, theo Amusing Planet.

Phương tiện này phỏng theo Fardier, cỗ xe ngựa kéo hai bánh lớn dùng để vận chuyển thiết bị rất nặng như nòng súng. Thay cho ngựa kéo ở mặt trước là bánh xe thứ ba, chống đỡ một nồi hơi bằng đồng lớn và cơ cấu truyền động. Cugnot là một trong những người đầu tiên triển khai thành công thiết bị biến đổi chuyển động tịnh tiến của piston hơi nước thành chuyển động xoay tròn thông qua bố trí bánh cóc, dùng để dẫn động bánh trước.

Fardier à vapeur có thể di chuyển ở tốc độ hơn 3,2 km/h nhưng cần nạp nhiên liệu bằng gỗ và đốt 15 phút một lần, vì vậy phương tiện phải dừng bánh hoàn toàn. Cỗ xe cũng kém ổn định do phân bố trọng lượng kém, một bất lợi nghiêm trọng đối với phương tiện được thiết kế để di chuyển trên địa hình gồ ghề là leo đồi dốc. Ngoài ra, hiệu suất của nồi hơi đặc biệt kém, ngay cả theo tiêu chuẩn thời đó. Năm 1771, trong một lần chạy thử, Cugnot lái cỗ xe của ông đâm thẳng vào một bức tường đá, khiến nhà phát minh trở thành người đầu tiên gặp tai nạn do xe gắn động cơ. Câu chuyện đi xa hơn khi Cugnot bị bắt và buộc tội lái xe nguy hiểm.

Sau vài thử nghiệm, quân đội Pháp từ bỏ dự án. Tuy nhiên, quá trình phát triển ấn tượng đến mức vua Louis XV thưởng cho Cugnot khoản lương hưu 600 livre/năm. Tuy nhiên, Cách mạng Pháp nổ ra khiến tiền lương hưu bị cắt. Nhà phát minh chuyển tới Brussels và sống trong cảnh nghèo túng. Không lâu trước khi Cugnot qua đời, Napoleon Bonaparte khôi phục lương hưu cho ông. Cuối cùng, Cugnot quay lại Paris và mất vào ngày 2/10/1804.

Cỗ xe Fardier à vapeur vẫn tồn tại sau chiến tranh và trưng bày ở Bảo tàng nghệ thuật và thủ công Pháp tại Paris. Năm 2010, một bản sao của chiếc xe được chế tạo bởi các học sinh ở trường ParisTech. Bản sao hoạt động hoàn hảo chứng tỏ giá trị của thiết kế. Hiện nay, bản sao này vẫn đặt ở ngôi làng của Cugnot tại Void-Vacon.

An Khang (Theo Amusing Planet)