Đường dây liên tỉnh in ấn và tiêu thụ sách giáo khoa giả vận hành thế nào?

Đường dây sản xuất, buôn bán sách giáo khoa giả có quy mô đặc biệt lớn tại Đà Nẵng và TP.HCM vừa được triệt phá. Trong hai năm, đường dây này đã tiêu thụ khoảng 4 triệu cuốn sách giả.

Cơ quan chức năng thu giữ nhiều sách giáo khoa giả - Ảnh: K.T.

Cơ quan chức năng thu giữ nhiều sách giáo khoa giả – Ảnh: K.T.

Qua vụ việc trên, nhiều người bày tỏ sự lo ngại về những nguy cơ từ sách giáo khoa lậu, sách giả có thể gây ra và cần phải rà soát, chấn chỉnh, xử lý tình trạng này.

Hai năm, tiêu thụ 4 triệu cuốn sách

Qua công tác nghiệp vụ, Công an Đà Nẵng đã phát hiện đường dây có dấu hiệu sản xuất, buôn bán sách giáo khoa giả hoạt động liên tỉnh với nhiều người tham gia. Lãnh đạo Công an Đà Nẵng chỉ đạo các đơn vị liên quan xác lập chuyên án để tập trung đấu tranh, xóa sổ đường dây sản xuất, buôn bán sách giáo khoa giả này. Áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, ngày 14-6, ban chuyên án bắt quả tang một số nghi phạm cùng trú phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà (Đà Nẵng) về hành vi buôn bán hàng giả. Khám xét nơi ở của nhóm trên, công an phát hiện hàng trăm thùng sách các loại nghi vấn làm giả.

Các thiết bị, máy móc phục vụ việc in sách giả - Ảnh: K.T.

Các thiết bị, máy móc phục vụ việc in sách giả – Ảnh: K.T.

Tiếp tục đấu tranh mở rộng, ban chuyên án phối hợp Công an TP.HCM bắt Nguyễn Trung Luật (43 tuổi, trú quận 12), Phạm Ngọc Quang (47 tuổi, trú quận Gò Vấp) là hai nghi phạm cầm đầu đường dây sản xuất, buôn bán sách giáo khoa giả với quy mô rất lớn tại TP.HCM. Lực lượng công an cũng tiến hành bắt giữ nhiều người khác là quản lý xưởng in, đầu mối chuyên cung cấp cho các tỉnh, nhân viên khảo sát thị trường, nhận và giao sách đi tiêu thụ… Bước đầu xác định khoảng đầu năm 2022, nghi phạm Luật đã trao đổi và thống nhất cùng Quang – giám đốc Công ty quảng cáo Quang Thắng – sản xuất sách giáo khoa giả của Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam và một số nhà xuất bản khác. Từ đó sẽ đưa sách ra thị trường tiêu thụ. Luật cung cấp giấy in, đặt số lượng để Quang tổ chức việc sản xuất sách giả tại hai xưởng in ở TP.HCM. Quang giao Phạm Xuân Năng, quản lý xưởng, thực hiện điều hành toàn bộ hoạt động tại các xưởng in. Năng đặt bản kẽm, trao đổi, thống nhất với Luật về số lượng, nhận tiền thanh toán, sau đó chuyển lại cho Quang. In xong, giấy được để nguyên khổ và vận chuyển về xưởng gia công của Luật để cắt, đóng bìa, dán tem giả, đóng thùng… Sách được đưa đến 3 kho để cất giấu, chờ mang đi tiêu thụ thông qua các đầu nậu. Số sách giáo khoa giả tại Đà Nẵng công an phát hiện, thu giữ là do một số nghi phạm ở đây đặt mua từ đầu nậu để bán lại cho các nhà sách. Theo Công an Đà Nẵng, chỉ tính trong 2 năm, số sách mà đường dây này đã tiêu thụ là khoảng 4 triệu bản.

Nhiều nguy cơ từ sách giả

Trao đổi với Tuổi Trẻ Online, lãnh đạo một công ty sách tại Đà Nẵng cho rằng những sản phẩm không đúng chất lượng, kỹ thuật, màu sắc, mực in, định lượng giấy… khi đến tay người tiêu dùng (là các em học sinh) sẽ rất nguy hại.  Cùng với đó, việc in không đạt tiêu chuẩn khiến sách dễ bị bung bìa, nhòe chữ, mất chữ hoặc sai nội dung, công thức… dẫn tới sai lệch nội dung. Không chỉ vậy, sách lậu, sách giả không được thẩm duyệt của cơ quan chuyên môn, cơ quan chức năng, có thể có những thông tin không tốt, tiềm ẩn các nguy cơ.

Trung tá Nguyễn Kim Trung - trưởng Phòng cảnh sát kinh tế, đại diện ban chuyên án - báo cáo kết quả phá án - Ảnh: Đ.CƯỜNG

Trung tá Nguyễn Kim Trung – trưởng Phòng cảnh sát kinh tế, đại diện ban chuyên án – báo cáo kết quả phá án – Ảnh: Đ.CƯỜNG

Ngoài ra, sách lậu, sách giả còn gây hại cho những nhà xuất bản chân chính, những công ty sách làm ăn đàng hoàng, tử tế, gây thất thu cho Nhà nước… “Cần phải rà soát thường xuyên, liên tục, từ khâu sản xuất, phân phối, tiêu thụ… để kịp thời chấn chỉnh và khi phát hiện vi phạm phải xử lý nghiêm, thậm chí là xử lý hình sự” – vị này nói.

ĐOÀN CƯỜNG

‘Nhiều hóa chất nguy hại trong đồ dùng hàng ngày gây rối loạn nội tiết’

Các chuyên gia chỉ ra nhóm chất ô nhiễm mới nổi sử dụng trong nhiều sản phẩm nhựa, dệt may, mỹ phẩm rình rập sức khỏe con người, gây rối loạn nội tiết, dậy thì sớm.

Thông tin được chia sẻ tại hội thảo quốc tế “Tác động của các chất ô nhiễm hữu cơ đến môi trường và sức khỏe con người”, do Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội và Quỹ VinFuture tổ chức sáng 19/6. Chương trình thuộc chuỗi sự kiện kết nối khoa học công nghệ InnovaConnect năm 2024. Đây là sáng kiến của Quỹ VinFuture nhằm tăng cường giao lưu học thuật, trao đổi chuyên môn và thúc đẩy hợp tác nghiên cứu giữa các nhà khoa học uy tín thế giới với các viện, trường hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực khoa học công nghệ.

Tại hội thảo, GS Ming Hung Wong, Đại học Giáo dục Hong Kong (Trung Quốc) cảnh báo về tác động tiềm ẩn chất hai hóa chất Bisphenol A (BPA) và phthalates trong nhựa dùng hàng ngày gây hại sức khỏe. Ông cho hay, BPA là một thành phần chính trong nhựa, trong khi phthalates được thêm vào để tăng độ bền và tính dẻo. Trước đây BPA thường được tìm thấy trong chai nước, bình sữa em bé (hiện nay đã ít hơn), hộp đựng thực phẩm và lớp lót của lon thực phẩm và đồ uống. Phthalates có trong nhiều sản phẩm như sàn nhựa vinyl, đồ chơi nhựa, các sản phẩm chăm sóc cá nhân (kem dưỡng da, dầu gội, son môi), thậm chí một số đồ uống như chất tạo độ đục.

GS Ming Hung Wong trình bày tại hội thảo sáng 19/6. Ảnh: NQ

GS Ming Hung Wong trình bày tại hội thảo sáng 19/6. Ảnh: NQ

Tại Đài Loan (Trung Quốc) khoảng 15 năm trước, việc có chất phthalates được phát hiện có trong đồ uống từng gây quan ngại lớn. “Chúng từng được cho thêm vào đồ uống như trà sữa vì giá rẻ và tạo ra vẻ ngoài có màu đục hấp dẫn”, ông Ming Hung Wong nói. Phthalates được ưa chuộng vì hiệu quả về chi phí, song điều quan ngại là các hóa chất này có thể ngấm vào đồ uống và thực phẩm con người tiêu thụ. Các hóa chất này đều được phân loại là chất gây rối loạn nội tiết, can thiệp vào chức năng nội tiết tố gây ảnh hưởng khả năng sinh sản ở người và động vật. Chúng cũng đồng thời gây ra các vấn đề về phát triển như dậy thì sớm ở trẻ em gái, chậm lớn ở bé trai. Bên cạnh đó các hóa chất này gây tác động đến sức khỏe như béo phì, bệnh tim mạch, tác động gan, thận, phổi…

Thông qua kết quả từ ba dự án, giáo sư đầu ngành lĩnh vực khoa học môi trường chỉ ra những các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng quá mức và sử dụng sai mục đích nhựa và các hóa chất độc hại. Ông dẫn ví dụ về túi nhựa đi kèm đồ uống và thực phẩm, như túi đựng bánh mì, bánh ngọt và bánh bao, hay việc hâm nóng thức ăn bằng lò vi sóng trong hộp nhựa… có thể làm tăng nguy cơ các hóa chất này “ngấm” vào thức ăn, đồ uống.

GS Ming Hung Wong cho hay cần thực hiện các biện pháp quản lý bền vững nhằm giảm thiểu tác động bất lợi các hóa chất này. Ông gợi ý giảm ô nhiễm công nghiệp bằng cách đặt ra các quy định, áp dụng quy trình sản xuất sạch hơn và cải thiện hệ thống quản lý chất thải.

“Chúng ta nên đặt mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm và tái chế chất thải trong điều kiện an toàn. Đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo và giáo dục công chúng cũng là những bước quan trọng”, ông nhấn mạnh.

PGS. TS Từ Bình Minh, Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội, đồng tình. Ông dẫn kết quả nghiên cứu phát hiện hàm lượng cao của nhóm chất mới nổi EDCs như Phthalates, siloxanes, bisphenols A được sử dụng trong nhiều sản phẩm nhựa, dệt may, mỹ phẩm (dầu gội đầu, chất tạo bóng) hay phụ gia nhiên liệu.

PGS. TS Từ Bình Minh nói về những nguy cơ ô nhiễm từ nhóm chất có trong đồ dùng hàng ngày. Ảnh: NQ

PGS. TS Từ Bình Minh nói về những nguy cơ ô nhiễm từ nhóm chất có trong đồ dùng hàng ngày. Ảnh: NQ

Nhóm nghiên cứu tại Đại học Khoa học tự nhiên thực hiện quan trắc bằng cách thu thập 9 loại mẫu môi trường, thu thập hơn 2.650 mẫu tại điểm nóng ô nhiễm. Nghiên cứu sàng lọc hơn 900 chất ô nhiễm hữu cơ trong mẫu không khí bị động và bụi lắng bằng phương pháp định tính và định lượng tự động dùng có sở dữ liệu khối phổ (GC-MS). Kết quả chỉ ra các hóa chất dân dụng (phthalates, chống oxi hóa…) chiếm hàm lượng cao trong không khí. Nhóm chất phthalates và siloxanes trong không khí trong nhà gấp 2-6 lần so với ngoài trời, đặc biệt cao vượt trội tại các tiệm làm tóc, nhà ở.

“Liều lượng hấp thu của các nhóm chất này đối với trẻ em cao hơn so với người lớn do trọng lượng cơ thể thấp, cho thấy mức rủi ro phơi nhiễm cao hơn đối với nhóm trẻ em”, ông nói.

GS Minh cũng cho hay Việt Nam đặc biệt quan tâm nghiên cứu về hợp chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POPs) và các chất gây rối loạn nội tiết (EDCs). Việt Nam đã huy động thành công hơn 16 triệu USD trong nâng cao năng lực xử lý chất ô nhiễm thông qua hàng loạt dự án. Đặc biệt chương trình nghiên cứu Quan sát Vẹm Xanh trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã giúp làm sáng tỏ bức tranh tổng thể về ô nhiễm POPs, cho thấy hàm lượng thuốc trừ sâu DDTs cao trong hầu hết các mẫu môi trường ở Việt Nam. Các nghiên cứu gần đây còn cho thấy các khu vực thu gom tái chế thủ công chất thải rắn như chất thải điện tử, nhựa và phương tiện giao thông cũ là nguồn phát thải đáng kể của các chất chống cháy PBDEs và nhóm PAHs với hàm lượng cao trong mẫu môi trường và mẫu sinh phẩm người.

Theo ông kinh nghiệm thu được từ chương trình nghiên cứu toàn cầu thành công cho thấy xu hướng cần ưu tiên là tập hợp mạng lưới các phòng thí nghiệm chất lượng cao trong quy mô khu vực và toàn cầu.

GS Kenneth Leung, Đại học Thành phố Hong Kong (Trung Quốc) giới thiệu giải pháp giám sát các chất gây ô nhiễm ưu tiên và các chất gây ô nhiễm hóa học đáng lo ngại mới (CEC). Với nguyên tắc “đo lường để cải thiện”, ông dẫn chứng thành tựu nghiên cứu ô nhiễm biển và độc học sinh thái ở Hong Kong trong 30 năm qua, đồng thời nêu trường hợp thực tế cho thấy cải thiện chất lượng môi trường thành công nhờ các biện pháp can thiệp quản lý đối với các chất gây ô nhiễm ưu tiên (chất ô nhiễm nguy hại) và mới nổi.

GS Kenneth Leung trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh: NQ

GS Kenneth Leung trình bày tham luận tại hội thảo. Ảnh: NQ

Theo Kenneth Leung, ngày nay việc giám sát ô nhiễm và quản lý chất lượng môi trường có tiến bộ đáng kể nhờ thúc đẩy bởi các công nghệ và công cụ mới. “Những tiến bộ này đã cách mạng hóa khả năng phát hiện và định lượng các chất gây ô nhiễm CEC ở nồng độ cực thấp và cho phép phát triển các công cụ để theo dõi nguồn chất gây ô nhiễm và đánh giá rủi ro môi trường”, ông cho hay.

PGS. TS Từ Bình Minh kỳ vọng thông qua sự kết nối của VinFuture, các nhóm nghiên cứu trong nước có cơ hội hợp tác với Giáo sư Kenneth Leung người đứng đầu chương trình Giám sát cửa sông Toàn cầu (GEM). Chương trình này liên quan đến việc thu thập các mẫu trầm tích và nước từ các cửa sông trên toàn thế giới, với hơn 100 quốc gia tham gia.

Như Quỳnh

TP HCM sắp thử nghiệm drone, xe tự hành

Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM đã xây dựng đề án thử nghiệm công nghệ máy bay không người lái (drone) và xe tự hành theo Nghị quyết 98, trình HĐND thành phố tháng 7 tới.

Thông tin được Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM Nguyễn Việt Dũng chia sẻ chiều 19/6.

Theo Nghị quyết 98, hiệu lực từ 1/8/2023, TP HCM được thử nghiệm có kiểm soát các giải pháp công nghệ mới trong phạm vi khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm đổi mới sáng tạo. Theo ông Dũng, việc thử nghiệm công nghệ mới được coi lĩnh vực phức tạp vì chưa có trong các quy định hiện hành. Trong một năm qua, Sở Khoa học và Công nghệ đã triển khai nhiều hội thảo tham vấn các ý kiến chuyên gia về cơ chế thử nghiệm công nghệ. Dựa trên cơ sở này, Sở xây dựng để án thử nghiệm hai công nghệ mới là máy bay không người lái (drone) và xe tự hành.

Máy bay không người lái phun thuốc trừ sâu do giảng viên và sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM chế tạo, tháng 10/2023. Ảnh: Hà An

Máy bay không người lái phun thuốc trừ sâu do giảng viên và sinh viên Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP HCM chế tạo, tháng 10/2023. Ảnh: Hà An

Tuy nhiên, theo ông Dũng, việc thử nghiệm donre cần cấp phép tần số hoạt động, đảm bảo yếu tố về an ninh quốc phòng… Do đó, Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM sẽ tham mưu thành phố trong việc hiệp thương với Bộ Quốc phòng và các cơ quan liên quan trong các thủ tục thử nghiệm drone tại địa phương. Về thử nghiệm xe tự hành, dự kiến sẽ tổ chức thực hiện tại Khu công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo… “Đề án thử nghiệm hai công nghệ này đang được chúng tôi hoàn thiện, kỳ vọng sẽ trình HĐND TP HCM vào kỳ họp tháng 7 tới”, ông Dũng nói.

Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM cho biết, mới đây Ban thường vụ Thành ủy TP HCM và Ban cán sự Đảng Bộ Khoa học và Công nghệ lần đầu tiên ký kết biên bản ghi nhớ để phối hợp xây dựng, thử nghiệm một số cơ chế chính sách thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Hai bên cùng phối hợp thử nghiệm các chính sách mới tại TP HCM. Việc thử nghiệm là cơ sở giúp Bộ trình cấp trung ương hoàn thiện chính sách khoa học công nghệ thời gian tới. Hiện, Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM tham mưu UBND thành phố hoàn thiện kế hoạch thực hiện để triển khai các bước tiếp theo.

Cùng với triển khai cơ chế thử nghiệm công nghệ mới, dự kiến trong kỳ họp HĐND tháng 7, Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM tham mưu UBND thành phố trình chính sách về miễn giảm thuế cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Đây là động thái cụ thể hóa Nghị định 11 của Chính phủ ban hành hồi đầu năm quy định doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, tổ chức khoa học và công nghệ, trung tâm đổi mới sáng tạo và các tổ chức trung gian hỗ trợ khởi nghiệp có thu nhập từ hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại TP HCM được miễn thuế với khoản thu này.

Theo công bố năm 2024 của StatupBlink (tổ chức uy tín chuyên nghiên cứu các hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn cầu), TP HCM xếp thứ 111 trong 1.000 thành phố, có chỉ số hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp tốt nhất. Ông Dũng tin tưởng với các chính sách mới, sự nỗ lực hệ sinh thái, TP HCM sẽ tăng thứ hạng lên 100 trong vài năm tới. Thành phố cũng sắp vận hành Trung tâm đổi mới sáng tạo khởi nghiệp đặt tại số 123 Trương Định, quận 3. Trung tâm đang trong giai đoạn hoàn thiện khung pháp lý, dự kiến hoạt động vào quý 3 hoặc 4 năm nay.

Hà An

Nga hỗ trợ Việt Nam xây dựng lò phản ứng hạt nhân công suất lớn

Việt Nam và Nga hợp tác triển khai Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân với lò phản ứng nghiên cứu mới công suất 10 MW.

Trong khuôn khổ chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir Putin tới Việt Nam ngày 19-20/6, Chủ tịch nước Tô Lâm và Tổng thống Putin đã chứng kiến lễ trao đổi bản ghi nhớ giữa Tổng giám đốc Rosatom Alexey Likhachev và Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt về kế hoạch triển khai Dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học và công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Đây là một trong 11 văn kiện mà hai bên ký kết trong chuyến thăm cấp nhà nước của Tổng thống Putin đến Việt Nam.

“Một trong các chủ đề thuộc chương trình nghị sự là dự án xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân tại Việt Nam do Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) tiến hành, cũng như đào tạo các chuyên gia nguyên tử Việt Nam tại những trường đại học chuyên ngành của Nga”, ông Putin nói.

Tổng giám đốc Rosatom Alexey Likhachev (trái) và Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt trao đổi bản ghi nhớ về kế hoạch triển khai dự án xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Ảnh: Giang Huy

Tổng giám đốc Rosatom Alexey Likhachev (trái) và Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt trao đổi bản ghi nhớ về kế hoạch triển khai Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Ảnh: Giang Huy

Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân (CNST) được thực hiện theo Hiệp định Liên Chính phủ ký năm 2011. Dự án đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt chủ trương đầu tư năm 2018. CNST dự kiến đặt tại TP Long Khánh, Đồng Nai. Trung tâm này sẽ có lò phản ứng hạt nhân dạng bể, công suất 10 MW, sử dụng nhiên liệu độ giàu thấp do Nga chế tạo. CNST tập trung lĩnh vực vật liệu chiếu xạ, khoa học sinh học, đồng vị phóng xạ, kỹ thuật lò phản ứng, an toàn bức xạ; nghiên cứu điều chế dược chất mới trong điều trị ung thư, nghiên cứu chiếu xạ silic – vật liệu bán dẫn, tán xạ góc nhỏ…

Ông Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử (Bộ Khoa học và Công nghệ) cho biết “đây là lần đầu tiên Việt Nam triển khai một dự án về xây dựng lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu công suất lớn”.

Theo ông Thành, để triển khai Dự án CNST, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có những phương án chuẩn bị nguồn nhân lực quản lý và triển khai ở các giai đoạn khác nhau. Bộ cũng đưa ra kế hoạch chuẩn bị nguồn nhân lực cho vận hành đảm bảo an toàn, khai thác hiệu quả Trung tâm sau khi đi vào hoạt động.

Để hỗ trợ thẩm tra, thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi, Báo cáo phân tích an toàn và hồ sơ thiết kế, Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) tạo điều kiện cho một số cán bộ Việt Nam tham gia thực hiện thiết kế cơ sở của lò phản ứng và các tính toán, phân tích an toàn đi kèm. Rosatom cũng giúp Việt Nam trong đào tạo cán bộ vận hành lò phản ứng nghiên cứu.

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cũng xây dựng các nhóm chuyên môn sâu về vật lý lò, thiết kế sử dụng kênh ngang, sản xuất đồng vị phóng xạ trên lò nghiên cứu, nghiên cứu vật liệu, chiếu xạ silic làm bán dẫn, nghiên cứu phân tích kích hoạt, bảo vệ môi trường, an toàn hạt nhân. Điều này nhằm xây dựng nguồn cán bộ nghiên cứu, ứng dụng khai thác hiệu quả lò nghiên cứu mới, đảm bảo an toàn khi CNST đi vào hoạt động

Trước đó tháng 10/2017, Viện ký thỏa thuận hợp tác với Trường Đại học nghiên cứu Bách khoa Tomsk và Đại học Nghiên cứu Hạt nhân Quốc gia Nga (MEPhI) vào tháng 12/2023, về hợp tác nghiên cứu và đào tạo cán bộ trong các lĩnh vực năng lượng nguyên tử có liên quan.

Viện trưởng Trần Chí Thành cho biết thêm, trước mắt Việt Nam và Nga sẽ tập trung đẩy mạnh triển khai thực hiện Dự án đảm bảo đúng tiến độ, hiệu quả, tuân thủ các quy định của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).

Theo Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050, hướng nghiên cứu ứng dụng năng lượng nguyên tử sẽ tập trung cả khoa học cơ bản (vật lý hạt nhân, vật lý lò, an toàn và thủy nhiệt, tự động điều khiển, vật liệu, hóa học …) và ứng dụng trong y tế (y học bức xạ) nông nghiệp; công nghiệp; tài nguyên môi trường (nước ngầm, ô nhiễm, phát tán phóng xạ, xói mòn đất, chất thải phóng xạ, đuôi quặng)…

Ngoài ra, trong quy hoạch phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử giai đoạn tới sẽ nghiên cứu tiền khả thi dự án xây dựng tổ hợp máy gia tốc lớn đặt tại miền Bắc, xây dựng các phòng thí nghiệm công nghệ và an toàn hạt nhân…

Như Quỳnh

“Nút cắm” hỗ trợ phẫu thuật và phục hồi đầu gối

Tổn thương sụn và xương đầu gối hạn chế khả năng vận động và gây đau mãn tính. Giờ đây, các nhà nghiên cứu Mỹ đã tạo tạo loại “nút cắm” tổng hợp để chữa lành khớp và có thể là giải pháp thay thế các phương pháp điều trị hiện có như phẫu thuật thay toàn bộ khớp gối.

Khiếm khuyết xương sụn (OCD) là tổn thương khu trú liên quan đến sụn khớp nằm trên bề mặt xương của khớp và một phần xương bên dưới. OCD ở đầu gối có thể do viêm khớp hoặc chấn thương cấp tính chẳng hạn như va chạm trong bóng đá, gây viêm khớp, dẫn đến đau mãn tính và mất chức năng khớp.

OCD ở đầu gối có thể được điều trị bảo tồn bằng thuốc cố định khớp và thuốc giảm đau, nhưng nếu tình trạng tiến triển hoặc nghiêm trọng hơn thì cần phẫu thuật, có thể phải thay toàn bộ khớp gối. Giờ đây, các nhà nghiên cứu tại Đại học Texas A&M đã tạo ra loại nút xương sụn tái tạo bọc sụn (CC-ROP), một thiết bị tổng hợp có thể được lựa chọn thay vì phải thay toàn bộ khớp gối.

Melissa Grunlan, đồng tác giả nghiên cứu cho rằng: “Đau đầu gối mãn tính và tàn tật là do mất sụn và OCD bắt nguồn từ viêm khớp, bao gồm viêm xương khớp và viêm khớp sau chấn thương, khiến mọi người bị đau đớn làm hạn chế sự thoải mái và khả năng vận động. Thiết bị CC-ROP hỗ trợ tích cực việc chữa lành OCD”.

Ghép tự thân (autograft) thường là một bước trước khi phẫu thuật thay khớp gối hoàn toàn. Nó liên quan đến việc thu thập các nút hình trụ từ những phần không bị hư hỏng của đầu gối bệnh nhân và cấy chúng vào một hoặc nhiều lỗ khoan tại vị trí tổn thương. Theo thời gian, mô cấy giúp xương và sụn phát triển vào vùng tổn thương. Tuy nhiên, hiệu quả của thủ thuật bị hạn chế khi bệnh nhân trên 40 tuổi hoặc có OCD lớn. Khi ghép tự thân được cho là không phù hợp, thì thay toàn bộ khớp gối đôi khi là lựa chọn duy nhất.

Thay khớp gối toàn phần là phẫu thuật mở rộng, mặc dù cách gọi này có phần không đúng lắm bởi chỉ có bề mặt của xương được thay thế. Bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ sụn bị hỏng và một lượng nhỏ xương bên dưới, sau đó thay thế bằng các thành phần kim loại để tái tạo bề mặt khớp. Một miếng đệm bằng nhựa được đặt giữa các thành phần kim loại để tạo ra bề mặt trượt mịn. Khoảng 790.000 ca thay khớp gối được thực hiện tại Mỹ mỗi năm.

CC-ROP bao gồm một nắp hydrogel cực mạnh mô phỏng các đặc tính của sụn tự nhiên và giàn khung polime xốp. Bởi vì chúng giống như các nút cắm hình trụ dùng trong ghép tự thân nên các giao thức và công cụ tương tự có thể được sử dụng. Giống như ghép tự thân, sau khi cấy vào lỗ khoan trước, đế xốp của CC-ROP cho phép mô xương mới phát triển, trong khi nắp cung cấp “sụn” cần thiết cho chức năng khớp. Tuy nhiên, khác với ghép tự thân, CC-ROP không bị giới hạn bởi độ tuổi của bệnh nhân hoặc kích thước khiếm khuyết, ngoài ra còn không cần nạp trước các tế bào hoặc yếu tố tăng trưởng để đẩy nhanh quá trình lành vết thương.

Nhóm nghiên cứu đang nỗ lực tối đa hóa chức năng của CC-ROP để đảm bảo sẵn sàng cho các ứng dụng thực tế. Các nghiên cứu tiền lâm sàng dự kiến sẽ đánh giá hiệu quả của thiết bị.

N.P.D (NASATI)

Nghiên cứu đánh giá sự thay đổi trong cấu trúc bộ khung tế bào cơ thể sống trong điều kiện mô phỏng trạng thái vi trọng lực (simulated microgravity)

Trọng lực là một hằng số ảnh hưởng đến cả hiện tượng vật lý và sinh học trong quá trình phát triển sự sống trên Trái đất. Trọng lực đóng vai trò quan trọng trong sự tiến hóa hình thái của sinh vật. Để chống lại trọng lực, cơ thể sống cần phát triển các hệ thống hỗ trợ như xây dựng cấu trúc phù hợp, củng cố màng tế bào và điều chỉnh dòng chảy của chất lỏng trong cơ thể. Trong không gian, các phi hành gia đã trải qua những thay đổi sinh lý sâu sắc khi cơ thể họ phải điều chỉnh theo môi trường vi trọng lực. Tất cả các quá trình sinh lý trong cơ thể bị chi phối bởi hoạt động của nhiều loại tế bào chuyên biệt trong các mô khác nhau.

Do đó, môi trường vi trọng lực được coi là phát huy tác dụng bất lợi đối với các phi hành gia thông qua những thay đổi trong cấu trúc và chức năng của tế bào. Chính vì những lý do trên, nghiên cứu về những ảnh hưởng của môi trường không gian đến cơ thể sinh vật là rất quan trọng, giúp giảm thiểu những rủi ro cho con người trong quá trình khám phá vũ trụ. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loại tế bào ở những sinh vật khác nhau hoạt động khác nhau trong không gian so với trên Trái đất. Do có sự đa dạng lớn về các loại tế bào trong tự nhiên, ảnh hưởng của vi trọng lực lên các tế bào đó vô cùng đa dạng và thường phức tạp.

Tác động của trọng lực lên nghiên cứu sinh học hiện có thể được thực hiện thông qua các chuyến bay vũ trụ hoặc mô phỏng trên mặt đất. Một số mô hình hệ thống vi trọng lực mô phỏng đã được thiết lập trên mặt đất như các hệ thống clinostat 2D, 3D, RPM (máy định vị ngẫu nhiên), buồng quay và tháp rơi để nghiên cứu tác động của vi trọng lực trên mặt đất. Chính vì vậy, đề tài “Nghiên cứu đánh giá sự thay đổi trong cấu trúc bộ khung tế bào cơ thể sống trong điều kiện mô phỏng trạng thái vi trọng lực (simulated microgravity)” do TS. Lê Thành Long cùng nhóm nghiên cứu tại Viện sinh học nhiệt đới thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá được ảnh hưởng của điều kiện vi trọng lực lên một số thay đổi cấu trúc bộ khung xương tế bào cơ thể sống trên cơ sở sử dụng hệ thống mô phòng vật lý trạng thái vi trọng lực.

Khi sự sống bắt đầu cách đây khoảng 4 tỉ năm, các vector trọng lực của trái đất đã xuất hiện và luôn hiện diện trong môi trường. Vector trọng lực luôn tác động đến sự phát triển phát sinh loài của tất cả các sinh vật tồn tại trên trái đất. Trọng lực đóng vai trò vừa là nhân tố giới hạn vật lý, vừa là nhân tố quan trọng giúp kiểm soát sự định hướng và tư thế của sinh vật. Các nghiên cứu về sự tăng giảm môi trường trọng lực trên các hệ thống sinh học sẽ giúp hiểu rõ hơn vai trò của trọng lực trong quá trình phát triển sinh lý, hình dạng cũng như chức năng của các sinh vật sống.

Ở Việt Nam, các nghiên cứu về tác động của điều kiện không gian (môi trường không trọng lực và vi trọng lực) lên các hệ thống sinh vật sống còn hạn chế bởi nhiều nguyên nhân, trong đó kinh phí thực hiện các thí nghiệm vẫn là nguyên nhân lớn nhất. Đây không chỉ là khó khăn mà chúng ta găp phải, đây cũng là vấn đề khó khăn ở cả các nước có ngành hàng không không gian phát triển như Mỹ, Nhật, châu Âu…Do đó, việc xây dựng, thiết kế các mô hình mô phỏng trạng thái vi trọng lực trong không gian sẽ không chỉ giải quyết vấn đề kinh phí thực hiện thí nghiệm, mà còn tiết kiệm, rút ngắn thời gian nghiên cứu, đánh giá tác động của môi trường vi trọng lực trong không gian lên các hệ thống sinh học.

Nghiên cứu Sinh học không gian là một phần quan trọng các chương trình vũ trụ của các trung tâm vũ trụ trên thế giới như NASA (Cục Hàng không và không gian quốc gia Mỹ), ESA (Cơ quan hàng không châu Âu), JAXA (Cơ quan thám hiểm không gian Nhật Bản). Sinh học không gian đã là một phần của chương trình Khoa học sự sống của NASA từ những năm 1960. NASA ngày càng tập trung vào việc ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến hiện đại của công nghệ sinh học, sinh học phân tử, sinh học tế bào để nghiên cứu, khám phá và đánh giá tác động của các chuyến bay trong không gian lên quá trình sinh học. Với các hệ thống công cụ nghiên cứu mạnh của thế kỉ 21, các nhà khoa học sẽ nghiên cứu sâu hơn các cơ chế thích nghi của vi khuẩn, thực vật và động vật đối với môi trường không trọng lực. Điều này sẽ giúp chúng ta hiểu được những cách cơ bản mà các hệ thống sinh vật sử dụng trọng lực để điều hòa quá trình tăng trưởng, quá trình biến dưỡng, sinh sản và phát triển, cũng như hiểu được cách mà chúng sửa chữa các sai hỏng, bảo vệ chúng khỏi bệnh tật, truyền nhiễm.

Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu được những kết quả như sau:

Hệ thống 3D clinostat đã được thiết kế và chế tạo thành công nhằm tạo điều kiện vi trọng lực mô phỏng cho các thí nghiệm. Hệ thống 3D Clinostat có khả năng tạo điều kiện vi trọng lực mô phỏng từ 10-3 đến 0,9 G, vận hành được trong tủ nuôi cấy tế bào động vật trong thời gian 72 giờ liên tục. Hệ thống này có thể được triển khai ứng dụng không chỉ cho nghiên cứu nuôi cấy tế bào, mà còn có thể triển khai ứng dụng cho các hướng nghiên cứu sinh học khác trên cả đối tượng vi sinh, thực vật, động vật.

Nghiên cứu hiện tại cho thấy vi trọng lực mô phỏng làm giảm các protein điều hòa chu kỳ tế bào, làm tăng tỉ lệ tế bào đi vào pha nghỉ. Vi trọng lực mô phỏng cũng làm giảm sự biểu hiện của các protein cấu trúc chính, dẫn đến sự tái tổ chức bộ khung xương tế bào của các tế bào.

Những kết quả này cho thấy sự tăng sinh bị ức chế của các tế bào tiếp xúc với vi trọng lực mô phỏng có thể liên quan đến sự suy giảm của các chất điều hòa liên quan đến chu kỳ tế bào và các protein cấu trúc nên bộ khung tế bào. Kết quả này cũng tương tự với một số kết quả đã được thực hiện trên trong điều kiện vi trọng lực thực trên trạm không gian ISS. Điều này cho thấy hệ thống 3D Clinostat này có thể được sử dụng để tạo ra các điều kiện vi trọng lực mô phỏng cho các nghiên cứu về sinh học trên mặt đất.

Phát triển giao thông đường bộ xanh hướng đến Net Zero 2050

Các đại biểu cho rằng, ngoài việc khuyến khích phương tiện sử dụng năng lượng xanh, cần phát triển hệ thống giao thông công cộng như tàu điện, xe buýt điện; phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng như trạm sạc, cơ sở bảo dưỡng; có chính sách ưu đãi với cả doanh nghiệp và người tiêu dùng khi sản xuất và sử dụng phương tiện năng lượng xanh. Đặc biệt, cần ứng dụng công nghệ số vào sử dụng và quản lý các phương tiện giao thông…

Ngày 18/6, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức hội thảo “Phát triển giao thông đường bộ xanh hướng đến NetZero 2050”.

Toàn cảnh hội thảo

Phát biểu khai mạc hội thảo, Phó Tổng Biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Lê Thanh Kim cho biết, tháng 11/2021, tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050.

Cam kết mạnh mẽ và có trách nhiệm của Việt Nam tại COP26 được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu đi liền với thời tiết cực đoan đã trở thành xu hướng rõ rệt; nhiều năm đã đánh dấu các sự kiện thời tiết khắc nghiệt, bao gồm các đợt nắng nóng, hạn hán, lũ lụt và cháy rừng… ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Phó Tổng biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Lê Thanh Kim nhấn mạnh: Là một trong những nguồn phát thải lớn, ngành giao thông vận tải không thể đứng ngoài hành trình thực hiện cam kết Net Zero của Việt Nam. Đặc biệt, vận tải đường bộ là nguồn phát thải CO2 cao nhất, chiếm khoảng 80% lượng phát thải toàn ngành. Chính vì vậy, nhiệm vụ phát triển giao thông đường bộ xanh ngày càng trở nên cấp thiết. Điều này không chỉ nhằm góp phần thực hiện cam kết Net Zero mà còn là cơ hội để ngành giao thông vận tải hiện đại hóa, bắt kịp với xu thế và trình độ tiên tiến của thế giới.

Thời gian qua, Chính phủ và Bộ GTVT đã rất quan tâm thúc đẩy các giải pháp nhằm giảm phát thải. Trong đó, Bộ GTVT đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí metan của ngành GTVT (tại Quyết định số 876/QĐ-TTg, ban hành tháng 7/2022) với các mục tiêu, lộ trình thực hiện, nhiệm vụ và giải pháp hết sức rõ ràng, cụ thể.

Tại hội thảo, các đại biểu khẳng định, ngành GTVT là một trong những ngành phát thải carbon và khí metan lớn. Đặc biệt, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của nước ta, ngày càng có nhiều người dân sở hữu các phương tiện cá nhân như xe ô tô, xe máy; điều này đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều lượng khí thải thải ra khiến môi trường trở nên ngột ngạt. Do đó, cắt giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng là nhiệm vụ rất quan trọng trong hành trình tiến đến Net Zero vào năm 2050.


Thảo luận về các giải pháp giúp cắt giảm phát thải hiệu quả trong lĩnh vực giao thông đường bộ, các đại biểu cho rằng, chuyển đổi từ phương tiện sử dụng năng lượng hóa thạch sang phương tiện sử dụng năng lượng sạch như xe điện, xe hybrid; tăng cường sử dụng phương tiện giao thông công cộng, nhất là xe bus điện là những trọng tâm.

Tiến sĩ Khuất Việt Hùng – Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (Bộ GTVT) nhấn mạnh, khái niệm giao thông xanh là hình thức giao thông bền vững, tiêu thụ ít năng lượng. Quyết định số 876 đã đề ra các mục tiêu, lộ trình chuyển đổi năng lượng xanh với những nhiệm vụ và giải pháp hết sức rõ ràng, cụ thể.

Trong giai đoạn thứ nhất (2022-2030): Thúc đẩy sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu và chuyển đổi sử dụng các loại phương tiện giao thông cơ giới đường bộ sử dụng điện; mở rộng phối trộn, sử dụng 100% xăng E5 đối với phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; Phát triển hạ tầng sạc điện đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp; Khuyến khích các bến xe, trạm dừng nghỉ xây dựng mới và hiện hữu chuyển đổi theo tiêu chí xanh.

Trong giai đoạn thứ hai (2031-2050): Đến năm 2040, từng bước hạn chế tiến tới dừng sản xuất, lắp ráp và nhập khẩu xe ô-tô, xe mô-tô, xe gắn máy sử dụng nhiên liệu hóa thạch để sử dụng trong nước.

Đến năm 2050: 100% phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, xe máy thi công tham gia giao thông chuyển đổi sang sử dụng điện, năng lượng xanh, toàn bộ các bến xe, trạm dừng nghỉ đạt tiêu chí xanh; chuyển đổi toàn bộ máy móc, trang thiết bị xếp, dỡ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang sử dụng điện, năng lượng xanh; Hoàn thiện hạ tầng sạc điện, cung cấp năng lượng xanh trên phạm vi toàn quốc đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp.

Hay với lĩnh vực giao thông đô thị, Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí carbon và khí methane của ngành giao thông vận tải trong Quyết định số 876 đã đề ra lộ trình cụ thể.

Trong giai đoạn 2022-2030: Từ năm 2025, 100% xe buýt thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh; Tỷ lệ đảm nhận của vận tải hành khách công cộng tại Hà Nội đạt 45%-50%; Thành phố Hồ Chí Minh đạt 25%; Đà Nẵng đạt 25%-35%; Cần Thơ đạt 20%; Hải Phòng đạt 10%-15%; đô thị loại I đạt ít nhất 5%.

Trong giai đoạn 2031-2050: Từ năm 2030, tỷ lệ phương tiện sử dụng điện, năng lượng xanh đạt tối thiểu 50%; 100% xe taxi thay thế, đầu tư mới sử dụng điện, năng lượng xanh.

Đến năm 2050, 100% xe buýt, xe taxi sử dụng điện, năng lượng xanh. Tỷ lệ đảm nhận của vận tải hành khách công cộng tại các đô thị đặc biệt, đô thị loại I lần lượt đạt ít nhất 40% và 10%.

Với sự phát triển kinh tế-xã hội của nước ta, ngày càng có nhiều người dân sở hữu các phương tiện cá nhân như xe ô-tô, xe máy. Điều này đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều lượng khí thải thải ra khiến môi trường trở nên ô nhiễm. Do đó, cắt giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông đường bộ là nhiệm vụ rất quan trọng trong hành trình tiến đến Net Zero vào năm 2050.

Nguyên Giám đốc Trung tâm quản lý giao thông công cộng TP Hà Nội Nguyễn Hoàng Hải chia sẻ, địa bàn Thủ đô cùng với TP Hồ Chí Minh là hai khu vực thị đang đối mặt nhiều vấn đề về giao thông đô thị. Vấn đề nổi cộm nhất của hai thành phố lớn này là tỷ lệ phương tiện giao thông cơ giới đường bộ tham gia giao thông rất cao.

Hà Nội có khoảng 1,1 triệu ô-tô và hơn 6,6 triệu xe máy, và con số này tăng khoảng trên dưới 10% mỗi năm. Ở đây, chỉ tính con số các xe được đăng ký tại Hà Nội, chưa kể các xe đăng ký vãng lai di chuyển qua địa bàn Thủ đô. Do vậy, phát thải đô thị ở Hà Nội có xu hướng tăng dần hằng năm, ô nhiễm trong giao thông vận tải chiếm khoảng 70% trong đô thị.

Cũng theo ông Nguyễn Hoàng Hải, một yếu tố nữa ảnh hưởng tới ô nhiễm môi trường đô thị là cách sử dụng và thói quen sử dụng phương tiện giao thông. Với xe ô-tô, hiện có thể quản lý việc phát thải qua đăng kiểm. Nhưng quản lý với xe máy là vấn đề rất khó. Chúng ta đã có nhiều chương trình, xây dựng tiêu chuẩn khí thải cho xe máy, nhưng chưa được thực hiện nghiêm chỉnh. Rõ ràng, việc duy trì kiểm tra, kiểm định và vận hành phương tiện xe máy đúng quy định của nhà sản xuất là rất cần thiết.

Thảo luận về các giải pháp giúp cắt giảm phát thải hiệu quả trong lĩnh vực giao thông đường bộ, các đại biểu cho rằng, chuyển đổi từ phương tiện sử dụng năng lượng hóa thạch sang phương tiện sử dụng năng lượng sạch như xe điện, xe hybrid; tăng cường sử dụng phương tiện giao thông công cộng, nhất là xe bus điện, là những giải pháp trọng tâm trong phát triển giao thông đường bộ xanh.

Vấn đề đặt ra ở đây là cần có thêm các biện pháp để thúc đẩy, khuyến khích đưa xe điện, xe hybrid thay thế xe xăng trong hoạt động vận tải đường bộ. Cùng với đó, phải phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ như trạm sạc, cơ sở bảo dưỡng. Đồng thời, bảo đảm an ninh năng lượng để phục vụ xe điện, xe hybrid khi số lượng xe này gia tăng và được sử dụng nhiều hơn.

Các chuyên gia cũng cho rằng, thời đại công nghệ số và trí tuệ nhân tạo đã mang đến các giải pháp mới, giúp lĩnh vực giao thông đường bộ đạt được hiệu quả kép cả về kinh tế và môi trường.

Tiến sĩ Khuất Việt Hùng – Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải (Bộ GTVT) cho biết, đến cuối năm 2023, cả nước có 5,4 triệu xe ô tô; 72 triệu xe máy chạy bằng xăng. Cùng với đó là khoảng 2 triệu xe máy điện, hơn 20 nghìn ô tô điện; hơn 700 xe bus điện.

N.H

Phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng đối với ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ

Theo phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 506/QĐ-TTg ngày 13/06/2024 (Quyết định 506), Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang được phân công theo dõi, chỉ đạo lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN), Bộ KH&CN, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam…

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang được phân công theo dõi, chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ.

Quyết định 506 nêu rõ: Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Lưu Quang theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác: 1) Ngoại giao và quan hệ đối ngoại; 2) Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vận động vốn vay ưu đãi; viện trợ phi Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài; 3) Hội nhập quốc tế; theo dõi, chỉ đạo đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế song phương, đa phương; cơ chế một cửa ASEAN, cơ chế một cửa quốc gia và tạo thuận lợi thương mại; 4) Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; 5) Quan hệ của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và khu vực; công tác biên giới và các vấn đề Biển Đông – hải đảo; 6) Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và các vấn đề người nước ngoài ở Việt Nam; các vấn đề về nhân quyền; 7) Công tác dân tộc, tôn giáo; xóa đói giảm nghèo; những vấn đề thường xuyên về thi đua khen thưởng; 8) Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông; 9) Phòng, chống tội phạm; phòng, chống buôn lậu và gian lận thương mại; 10) Nông nghiệp và phát triển nông thôn; 10) Phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn; 12) KH&CN; 13) Thông tin và truyền thông; 14) Chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo lĩnh vực được phân công.

Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang theo dõi và chỉ đạo: Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ KH&CN, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ủy ban Dân tộc, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.

Đối với Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh (3 trong số các viện nghiên cứu/trường đại học có tiềm năng, thế mạnh lớn về KH&CN của cả nước), Thủ tướng Chính phủ phân công cho Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà theo dõi và phụ trách.

VH

 

Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng mức giới hạn an toàn về chỉ tiêu kỹ thuật, yêu cầu quản lý đối với thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, thuốc nổ nhũ tương đã được nghiên cứu và ứng dụng trong công nghiệp. Sản lượng tiêu thụ thuốc nổ dạng nhũ so với các loại thuốc nổ khác trong ngành công nghiệp khai khoáng của thế giới là rất lớn.

Trong quá trình phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội của đất nước việc sử dụng vật liệu nổ công nghiệp đã trở nên khá phổ biến và gần như không thể thiếu. Lĩnh vực vật liệu nổ công nghiệp phát triển mạnh mẽ từ những năm 1996 trở lại đây với tốc độ tiêu thụ từ 16 nghìn tấn (trong năm 1996) lên khoảng 156 nghìn tấn (trong năm 2019).
Thuốc nổ phổ biến nhất và được sử dụng nhiều nhất cho lộ thiên tại Việt Nam là thuốc nổ nhũ tương và thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao. Các loại thuốc nổ này sử dụng tại các khu vực, khai trường có nước và các khu vực có độ cứng đất đá cao. Vấn đề nổ mìn ngày càng xuống sâu, đặc điểm đất đá cứng thường xuyên gặp phải, nhất là nổ mìn cho việc khai thác quặng như mỏ sắt…cần thiết phải có loại thuốc nổ năng lượng cao.
Vật liệu nổ công nghiệp có vai trò quan trọng quá trình phát triển hạ tầng, kinh tế-xã hội của đất nước (Ảnh minh hoạ – lawnet.vn)
Tuy nhiên, việc ban hành các tiêu chuẩn cơ sở cho từng loại thuốc nổ nhũ tương không bắt buộc nên công tác quản lý về an toàn kỹ thuật chưa được chặt chẽ. Để ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về 02 sản phẩm thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên cần phải xác định mức giới hạn an toàn về chỉ tiêu kỹ thuật, yêu cầu quản lý và các phương pháp thử xác định các chỉ tiêu kỹ thuật đối với thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên và thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên là phù hợp với quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa.
Do đó, các nhà nghiên cứu tại Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường công nghiệp, Bộ Công Thương đã tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây dựng mức giới hạn an toàn về chỉ tiêu kỹ thuật, yêu cầu quản lý đối với thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên”. Đây là đề tài cấp Quốc gia do Ks Trần Đức Thọ làm chủ nhiệm với mục tiêu hoàn thiện các quy định về thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên và thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên.
Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát về hiện trạng các quy định kỹ thuật, yêu cầu quản lý trong thử nghiệm, sản xuất, sử dụng thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên và thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên. Trên cơ sở đó, hoàn thiện các quy định về thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên và thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên.
Cấu tạo thuốc nổ nhũ tương cho lộ thiên (Ảnh: vista)
Cuối cùng, xây dựng mức giới hạn an toàn, yêu cầu quản lý đối với thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên và thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên. Trong đó, đối với thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên phải công bố hợp quy phù hợp quy định kỹ thuật tại Điều 5 của Quy chuẩn kỹ thuật này, gắn dấu hợp quy (dấu CR) và ghi nhãn hàng hóa trước khi lưu thông trên thị trường.
Còn thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên sản xuất trong nước phải thực hiện việc công bố hợp quy theo quy định tại Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12 tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và Thông tư số 02/2017/TT-BKHCN ngày 31 tháng 3 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12 tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Sau một năm nghiên cứu, đề tài đã hoàn chỉnh Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên. Đồng thời, lập hồ sơ gửi xin ý kiến thẩm định của Bộ Khoa học và công nghệ và trình lãnh đạo Bộ Công Thương ký ban hành theo quy định. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về thuốc nổ nhũ tương năng lượng cao dùng cho lộ thiên đã đưa ra được mức giới hạn an toàn về chỉ tiêu kỹ thuật, yêu cầu quản lý đối với thuốc nổ nhũ tương dùng cho lộ thiên.
Minh Khuê

Nhà ga quốc tế Đà Nẵng triển khai hệ thống gửi hành lý tự động

(Chinhphu.vn) – Việc triển khai hệ thống gửi hành lý tự động giúp hành khách rút ngắn thời gian làm thủ tục từ 15 – 20 phút, góp phần giảm tải trong giờ cao điểm, bảo đảm luồng di chuyển thông suốt.

Nhà ga quốc tế Đà Nẵng triển khai hệ thống gửi hành lý tự động- Ảnh 1.

Triển khai hệ thống gửi hành lý tự động giúp hành khách rút ngắn thời gian làm thủ tục từ 15 – 20 phút – Ảnh: VGP/Lưu Hương

Ngày 11/6, Starlux Airlines trở thành hãng hàng không đầu tiên tại Nhà ga quốc tế Đà Nẵng (Nhà ga T2) cung cấp cho hành khách dịch vụ ký gửi hành lý tự động thông qua việc tích hợp hệ thống quầy tự gửi hành lý (self-bag drop) của Nhà ga T2 vào quy trình làm thủ tục bay của hãng.

Theo đó, quầy tự gửi hành lý của Nhà ga T2 cho phép hành khách tự thực hiện thủ tục ký gửi hành lý một cách nhanh chóng và thuận tiện. Hành khách có thể dễ dàng thao tác trên màn hình cảm ứng để in thẻ, sau đó dán thẻ lên hành lý và đặt lên băng chuyền. Hệ thống sẽ tự động vận chuyển hành lý đến khu vực kiểm soát an ninh và chuyển tiếp lên máy bay.

Ông Elvis Chao, Trưởng đại diện hãng Hàng không Starlux tại Đà Nẵng cho hay, Đà Nẵng là thị trường rất tiềm năng, Starlux đưa khoảng 9.000 khách/1 tháng đến địa phương này. Nhờ chính sách thị thực điện tử với thủ tục nhanh gọn, lượng khách vào Đà Nẵng ngày càng tăng.

Việc triển khai hệ thống gửi hành lý tự động sẽ giúp hành khách rút ngắn thời gian làm thủ tục từ 15 – 20 phút, góp phần giảm tải trong giờ cao điểm, bảo đảm luồng di chuyển thông suốt.

Nhà ga quốc tế Đà Nẵng triển khai hệ thống gửi hành lý tự động- Ảnh 2.Đà Nẵng từng bước triển khai nhà ga thông minh – Ảnh: VGP/Lưu Hương

Ngay trong ngày đầu tiên đưa quầy tự gửi hành lý vào phục vụ, nhiều hành khách hài lòng vì việc thực hiện các thủ tục điện tử và gửi hành lý nhanh gọn, không phải chờ đợi lâu.

Được biết trước đó, Nhà ga T2 đã chính thức đưa vào quy trình khai thác hệ thống các thiết bị như quầy tự làm thủ tục (self check-in kiosk), cửa xuất/nhập cảnh tự động (autogate), cửa khởi hành tự động (self boarding gates).

Ngoài ra, việc tích hợp thêm hệ thống self-bag drop của Nhà ga T2 lần này cho phép hành khách sử dụng dịch vụ tự động hoàn toàn từ khâu làm thủ tục bay, gửi hành lý, xuất cảnh và lên tàu bay.

Nhờ đó quá trình làm thủ tục được rút ngắn thời gian đáng kể, trải nghiệm của hành khách được nâng cao, đồng thời hiệu quả phục vụ của nhà ga trong giờ cao điểm cũng được cải thiện, đảm bảo luồng di chuyển thông suốt.

Lưu Hương