Thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp

 
Lễ ký kết Thỏa thuận hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT và một số Sở KH&CN
 
Trong 2 ngày (10 – 11/4/2021), tại Hà Nội, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ (Viện KHSHTT) đã tổ chức Hội nghị tập huấn “Thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp”.
Tham dự Hội nghị có thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc, GS. Hoàng Văn Phong – nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN cùng đại diện lãnh đạo các Sở KH&CN, trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức, đơn vị có liên quan, cán bộ được giao vận hành Trạm IPPlatform hiện có và dự kiến được thiết lập. 
Hội nghị được tổ chức với mục tiêu tiếp tục thực hiện nhiệm vụ duy trì, vận hành, phát triển Nền tảng dữ liệu và dịch vụ sở hữu công nghiệp (IPPlatform) được Bộ Khoa học và Công nghệ giao. Bên cạnh đó, Hội nghị cũng nhằm tăng cường hoạt động thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp (SHCN) bằng công cụ IPPlatform và tăng cường hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT với các Sở KH&CN để phục vụ quản lý nhà nước và phát triển tài sản trí tuệ; huấn luyện kỹ năng tư vấn, hướng dẫn khai thác IPPlatform, tiếp nhận và thực hiện dịch vụ cho các cán bộ vận hành Trạm IPPlatform. 
 
Phát biểu tại Hội nghị tập huấn, Thứ trưởng Phạm Công Tạc nhấn mạnh, việc tổ chức Hội nghị tập huấn lần này là hoạt động hết sức thiết thực, qua đó trang bị kiến thức, huấn luyện kỹ năng cho các cán bộ vận hành các Trạm IPPlatform về khai thác thông tin, tư vấn, tiếp nhận và thực hiện dịch vụ SHCN. 
 
Thứ trưởng đề nghị lãnh đạo Sở, các tổ chức thảo luận, làm rõ hiện trạng, khó khăn và đề ra giải pháp để thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ SHCN, phục vụ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và hỗ trợ phát triển TSTT của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trên địa bàn địa phương.
 
Các đại biểu chụp ảnh tại Hội nghị tập huấn “Thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp”
Trong bối cảnh chưa có tổ chức trung gian nào có cơ sở dữ liệu đầy đủ và thực hiện dịch vụ cung cấp thông tin SHCN theo yêu cầu đa dạng của doanh nghiệp, Viện KHSHTT đã phối hợp với Cục SHTT, Công ty MITEC và các đối tác đề xuất và đã được Bộ KHCN giao thực hiện Dự án “Thiết lập, duy trì và phát triển CSDL thông tin trực tuyến về đối tượng SHCN và công cụ khai thác phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa” thuộc Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020. Đến nay, Dự án đã hoàn thành các nội dung chính của Thuyết minh và xây dựng được Cơ sở dữ liệu về đối tượng SHCN và các công cụ để quản trị, cập nhật và khai thác phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa – được đặt tên là “Nền tảng dữ liệu và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp” – IPPlatform. Nền tảng này đang được chạy thử nghiệm để lấy ý kiến góp ý trên địa chỉ http://ipplatform.vipri.gov.vn. 
 
Được biết, hiện Viện KHSHTT đã phối hợp với 13 đơn vị, thiết lập 13 Trạm IPPlatform (trong đó có 9 Sở KH&CN, 2 Hiệp hội và 2 Viện nghiên cứu), đã tổ chức lớp tập huấn giới thiệu và hướng dẫn khai thác IPPlatform. 
 
Đây là hoạt động cần được tiếp tục triển khai, Bộ KH&CN đã giao Viện trong năm 2021 phối hợp với các Sở KH&CN thiết lập 9 Trạm IPPlatform mới và tổ chức các hoạt động hỗ trợ, hợp tác để các Trạm này hoạt động hiệu quả phục vụ quản lý nhà nước về SHCN và phát triển tài sản trí tuệ của địa phương.
 
 Lễ ký kết Thỏa thuận hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT và một số Sở KH&CN
 
Cũng tại Hội nghị tập huấn, đã diễn ra Lễ ký kết Thỏa thuận hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT và Sở KH&CN Hải Phòng, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Phú Yên, Sóc Trăng, Sơn La. 
 
Tin, ảnh: Minh Châu

Áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: Công cụ hữu hiệu xây dựng nền hành chính hiện đại

 

 
PGS.TS Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN phát biểu tại Hội nghị.
 
Sau hơn 7 năm triển khai, hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008, sau này được nâng cấp thành tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015 đã khẳng định được vai trò là một công cụ quan trọng, hỗ trợ cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chuẩn hóa các quá trình giải quyết công việc, cải tiến phương thức thực thi công vụ với mục tiêu hướng tới sự hài lòng của tổ chức, cá nhân công dân có liên quan; minh bạch hóa các quy trình giải quyết thủ tục hành chính, hướng đến một nền hành chính hiện đại, dân chủ, trong sạch và vững mạnh.
Đó là nhận định của PGS.TS Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tại Hội nghị sơ kết tình hình thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.
 
Hội nghị do Bộ KH&CN tổ chức sáng ngày 9/4/2021, nhằm đánh giá, ghi nhận những kết quả đã đạt được, đồng thời, thảo luận, trao đổi về các khó khăn, vướng mắc, qua đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh hoạt động chuyển đổi số ngày càng được đẩy mạnh.
 
Triển khai hiệu quả trên cả nước
 
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN cho rằng, việc áp dụng HTQLCL nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, góp phần xây dựng Chính phủ “kiến tạo, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, tận tâm, tận lực, phục vụ nhân dân”. Với nhiệm vụ được giao là cơ quan đầu mối theo phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH&CN đã luôn nhận được sự đồng hành của các ban, bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân liên quan trong việc tổ chức triển khai thực hiện Quyết định nói trên một cách mạnh mẽ, quyết liệt, hiệu quả, đồng bộ và thống nhất trên phạm vi cả nước. “Hội nghị là cơ hội để chúng ta chia sẻ, nhân rộng các cách làm tốt và ghi nhận, tôn vinh những cống hiến thầm lặng của những cán bộ trực tiếp triển khai, sự quyết tâm bền bỉ, kiên định của lãnh đạo các cấp trong việc xây dựng và áp dụng HTQLCL vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước. Những nỗ lực đó đã có đóng góp quan trọng vào việc cải tiến các quy trình xử lý công việc, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, đồng thời, góp phần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn cuộc sống”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
 
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất Lượng Nguyễn Hoàng Linh báo cáo sơ kết tình hình triển khai Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg tại Hội nghị.
 
Theo ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, trong 7 năm qua, dưới sự chỉ đạo và quan tâm của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân liên quan đã tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ một cách mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ và thống nhất trên phạm vi cả nước.
 
Theo đó, đã hình thành hệ thống các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL. 91% Bộ, ngành (20/22) đã thực hiện việc xây dựng, áp dụng HTQLCL theo quy định (tất cả các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng của các Bộ, ngành đã xây dựng, công bố HTQLCL phù hợp TCVN ISO 9001 đối với toàn bộ thủ tục hành chính). Các Bộ, ngành cũng đã đẩy mạnh việc triển khai xây dựng, áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng (74/98 cơ quan, tổ chức, tỷ lệ 75,5%).
 
Tại địa phương, 98,4% địa phương (62/63) đã thực hiện việc xây dựng, áp dụng HTQLCL theo quy định (tất cả các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng của địa phương đã xây dựng, công bố HTQLCL phù hợp TCVN ISO 9001 đối với toàn bộ thủ tục hành chính). Các địa phương cũng đã đẩy mạnh việc triển khai xây dựng, áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng, theo đó  có 62/63 địa phương (tỷ lệ 98,4%) đã triển khai việc xây dựng, áp dụng HTQLCL tại các UBND cấp xã, trong đó đã có 5.564/8.910 UBND cấp xã (tỷ lệ 62,5%) đã xây dựng, áp dụng, công bố HTQLCL phù hợp TCVN ISO 9001 theo quy định.
 
Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện cả về chuyên môn, quản lý nhà nước và chế độ tài chính được triển khai hiệu quả; Các Bộ, ngành đã công bố đầy đủ Mô hình khung HTQLCL theo TCVN ISO 9001 cho các cơ quan, tổ chức theo hệ thống ngành dọc trực thuộc đóng tại địa phương; Bộ KH&CN đã công bố Mô hình khung HTQLCL cho các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước tại địa phương; Đã hình thành hệ thống các cơ sở đào tạo kiến thức quản lý hành chính nhà nước đối với chuyên gia tư vấn, chuyên gia đánh giá và hệ thống tổ chức/chuyên gia tư vấn, tổ chức chứng nhận/chuyên gia đánh giá, đáp ứng yêu cầu tư vấn, kiểm tra HTQLCL trong cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.
 
Việc xây dựng, áp dụng HTQLCL vào hoạt động của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước một cách có hiệu lực, hiệu quả là một trong những biện pháp thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính của Chính phủ. Theo đó, đã giúp tìm ra biện pháp để cải cách thủ tục hành chính. HTQLCL yêu cầu cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước khi giải quyết thủ tục hành chính cho người dân/tổ chức phải công khai các yêu cầu về hồ sơ, tài liệu mà người dân phải nộp; nêu rõ quy trình xử lý công việc, kết quả xử lý cuối cùng, thời gian hoàn thành, từ đó có thể đưa ra biện pháp để giúp đơn giản hoá các thủ tục hành chính; Giúp vận hành cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” hiệu quả hơn: HTQLCL giúp thấy rõ trong hoạt động của nội bộ cơ quan khi giải quyết công việc, các khâu trong các phòng, ban phải kết nối với nhau một cách hợp lý, từ đó có thể thấy rõ khâu nào bị chồng chéo, bất hợp lý để liên tục cải tiến các quy trình xử lý công việc cho phù hợp, phục vụ người dân/tổ chức tốt hơn.
 
Đồng thời, thúc đẩy việc nâng cao và hoàn thiện điều kiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị văn phòng cho cán bộ, công chức; đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức để đáp ứng tốt hơn yêu cầu vị trí công tác; tạo điều kiện để người dân cùng giám sát cán bộ, công chức, giám sát các thủ tục hành chính có được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hay không, từ đó kiến nghị sửa đổi, chỉnh lý văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế.
 
Tăng cường Áp dụng ISO điện tử và chuyển đổi số
 
Tại Hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện; trao đổi những khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả Quyết định 19 cũng như đề xuất nội dung sửa đổi Quyết định này trong thời gian tới.
 
Bà Nguyễn Thị Kim Huệ – Phó Giám đốc Sở KH&CN TPHCM cho rằng, việc kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin với xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước tạo ra một phương pháp làm việc khoa học, mang tính hệ thống, tăng cường tính giám sát, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công cho người dân, doanh nghiệp cũng như đáp ứng các yêu cầu của pháp luật. Bà Nguyễn Thị Kim Huệ kiến nghị, mở rộng UBND phường, xã, thị trấn là đối tượng bắt buộc phải xây dựng và áp dụng HTQLCL để thực hiện đồng bộ, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương…
 
Giám đốc Sở KH&CN tỉnh An Giang Tầng Phú An cho rằng, các cơ quan hành chính của tỉnh thực hiện áp dụng HTQLCL đã góp phần tích cực nâng cao chỉ số cạnh tranh, minh bạch trong quản lý hành chính của tỉnh; các cơ quan hành chính nhà nước trong tỉnh đã có nhiều đổi mới trong tác phong và lề lối làm việc, nâng cao chỉ số đánh giá sự hài lòng của người dân khi tiếp xúc giải quyết công việc với cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu quả cải cách hành chính. Sở KH&CN tỉnh An Giang kiến nghị, Bộ KH&CN nghiên cứu, cho thực hiện thí điểm việc xây dựng, áp dụng và duy trì, cải tiến HTQLCL tại một số trường Trung học phổ thông tại các thành phố thuộc tỉnh; tăng cường kiểm tra, đánh giá công tác áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL; sớm sửa đổi Quyết định 19 để các địa phương có căn cứ xây dựng kế hoạch triển khai;…
 
Bên cạnh đó, nhiều đại biểu cho rằng quy định về điểm số cho hoạt động xây dựng áp dụng HTQLCL trong việc chấm điểm chỉ số cải cách hành chính còn thấp, chưa tạo động lực thúc đẩy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này. Do đó, cần tăng điểm chỉ số cải cách hành chính cấp tỉnh đối với tiêu chí này. Nhiều đại biểu đưa ra một số khó khăn trong việc hướng dẫn địa phương chuyển HTQLCL từ bản giấy sang bản điện tử; cán bộ chuyên trách công tác này thường luân chuyển nên việc tập huấn chưa thuận lợi;…
 
Thứ trưởng Lê Xuân Định kết luận Hội nghị.
 
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho rằng, việc áp dụng TCVN ISO 9001 ban đầu khá khó khăn, nhưng đến nay hoạt động này đã trở thành một công cụ hữu hiệu xây dựng nền hành chính hiện đại. Qua công tác sơ kết cho thấy, hầu hết các nội dung và chỉ tiêu quan trọng đặt ra trong Quyết định số 19 đã được triển khai nghiêm túc và hiệu quả. Để tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 19 trong thời gian tới có hiệu lực, hiệu quả cao hơn, Bộ KH&CN đề nghị các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các cơ quan, tổ chức trực thuộc hoàn tất các nội dung theo quy định tại Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg; tăng cường hoạt động kiểm tra việc xây dựng, áp dụng, duy trì, cải tiến tại các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo quy định tối thiểu 1 lần/năm. Tổ chức sơ kết việc xây dựng áp dụng HTQLCL theo TCVN ISO 9001 tại Bộ, ngành, địa phương để nhân rộng các mô hình hay, cách làm tốt.
 
Đồng thời, gắn kết việc triển khai Chính phủ điện tử, chuyển đổi số với hoạt động xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL theo TCVN ISO 9001; nâng điểm đánh giá cho việc áp dụng HTQLCL trong điểm đánh giá cải cách hành chính; mở rộng việc xây dựng, áp dụng HTQLCL cho các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng như UBND cấp xã, các đơn vị sự nghiệp…
 
Thứ trưởng cho biết, Bộ KH&CN đã ghi nhận các ý kiến đóng góp, chia sẻ, trao đổi, thảo luận tại Hội nghị để tiếp tục làm đầu mối phối hợp với các cơ quan liên quan trong quá trình triển khai thực hiện, nghiên cứu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ để sửa đổi, bổ sung Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg cho phù hợp với tình hình thực tế và tiếp tục đẩy mạnh hoạt động áp dụng HTQLCL theo TCVN ISO 9001 trong các cơ quan, hành chính trong thời gian tới. Một trong những nhiệm vụ, đề xuất sửa đổi thời gian tới đó là tăng cường áp dụng ISO điện tử gắn với việc xây dựng chính quyền điện tử và chuyển đổi số. Đây là một nội dung rất quan trọng cần đẩy mạnh trong thời gian tới, Thứ trưởng Lê Xuân Định nhấn mạnh.
 
Thứ trưởng Lê Xuân Định trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.
 
Trong khuôn khổ Hội nghị, Bộ KH&CN đã tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho 16 tập thể và 16 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong việc xây dựng, áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001 giai đoạn 2015 – 2020.
 
Bài, ảnh: Hạnh Nguyên, Ngũ Hiệp
 
 
 

Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN phát triển

 
DNKHCN đã chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN
 
Năm 2020, mặc dù chịu tác động không nhỏ từ đại dịch Covid-19, nhưng doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKHCN) vẫn có những bước phát triển đáng ghi nhận: số lượng doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN cao hơn năm 2019, tổng doanh thu của các DNKHCN chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong GDP cả nước. Nhằm tiếp tục hỗ trợ DNKHCN phát triển, bên cạnh việc tiếp tục tạo hành lang pháp lý thuận lợi, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Đóng góp của doanh nghiệp cho GDP ngày càng cao
 
Theo TS. Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp KH&CN, cả nước hiện có gần 540 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN trên tổng số 3.000 doanh nghiệp đang hoạt động theo mô hình DNKHCN. Trên cơ sở báo cáo của 235 doanh nghiệp cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2019, cho thấy DNKHCN tạo việc làm cho gần 31.270 người lao động với thu nhập bình quân 15 triệu đồng/người/tháng. Tổng doanh thu của 235 doanh nghiệp năm 2019 đạt trên 147.170 tỷ đồng. Trong đó, có 217 doanh nghiệp có doanh thu từ sản phẩm KH&CN với tổng trên 24.123 tỷ đồng (chiếm 16,3% tổng doanh thu). Năm 2019, tổng doanh thu của 235 DNKHCN đạt 2,39 % GDP cả nước
 
Ông Quất cho biết thêm, có 198 doanh nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế đạt trên 5.268 tỷ đồng. Trong đó, tổng lợi nhuận trước thuế của sản phẩm KH&CN đạt gần 1.344 tỷ đồng/183 doanh nghiệp.
 
DNKHCN là nơi nhận chuyển giao các kết quả nghiên cứu từ khu vực viện nghiên cứu, trường đại học và của các nhà khoa học đưa vào sản xuất kinh doanh; nơi các kết quả được chuyển giao, nơi tạo công ăn việc làm cho xã hội, là nơi các nhà khoa học có thể đưa trí tuệ, những ý tưởng của mình để tạo ra những sản phẩm đem lại lợi ích cho xã hội. Tín hiệu đáng mừng đó là, hiện các doanh nghiệp nói chung và các DNKHCN nói riêng đã chú trọng nhiều hơn tới việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Số liệu thống kê cho thấy, có khoảng 7% doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận từ kết quả KH&CN từ nguồn ngân sách nhà nước; hơn 90% doanh nghiệp còn lại tự đầu tư nghiên cứu hoặc nhận chuyển giao kết quả KH&CN bằng toàn bộ nguồn vốn của chính doanh nghiệp. Hiện nhiều doanh nghiệp và DNKHCN đã hình thành trung tâm hoặc viện nghiên cứu và trích một phần lợi nhuận để hình thành quỹ phát triển KH&CN nhằm tạo nguồn tài chính chủ động đầu tư cho hoạt động KH&CN, giúp đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp như Viettel, Phenikaa, Vingroup,…
 
Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng, đây là hướng đi đúng và giống thông lệ của các nước. Chúng ta đã và đang từng bước đưa KH, CN và đổi mới sáng tạo (ĐMST) vào doanh nghiệp và tập trung cho nghiên cứu KH, CN & ĐMST tại doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển một cách bền vững và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
 
DNKHCN đã chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN và sản phẩm được tạo ra. Có 138 doanh nghiệp được cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và 9 doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ và đang chờ kết quả. Ví dụ: Công ty Cổ phần Robot Tosy đăng ký bảo hộ tại 21 nước trên thế giới; Công ty TNHH Thiết bị Y tế Bắc Việt sở hữu hơn 15 bằng độc quyền sáng chế và bằng kiểu dáng công nghiệp; Công ty Cổ phần Công nghiệp và thiết bị chiếu sáng Duhal sở hữu 15 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp;…
 
Số lượng DNKH&CN không nhiều nhưng các doanh nghiệp đó tồn tại, phát triển một cách bền vững. Đặc biệt, qua những giai đoạn khó khăn, chúng ta đều nhìn thấy sự phát triển vượt bậc của DNKH&CN. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, nhiều DNKHCN đã kịp thời điều chỉnh chiến lược kinh doanh, tập trung phát triển sản phẩm mới, tìm kiếm đối tác hợp tác mới và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường trong nước. Một số doanh nghiệp đã nghiên cứu và triển khai nhiều ứng dụng công nghệ để tăng khả năng tiếp cận khách hàng, thay đổi phương thức kinh doanh từ trực tiếp truyền thống sang kinh doanh online, giao hàng và thanh toán tận nhà, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong đó nghiên cứu và sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết yếu có nhu cầu cao, nội địa hóa nguồn cung nguyên vật liệu. Một số doanh nghiệp đã nghiên cứu đầu tư dây chuyền sản xuất các thiết bị y tế, các sản phẩm chế phẩm sinh học phục vụ cho công tác phòng, chống dịch. Công ty Cổ phần Sao Thái Dương đã hợp tác với các nhà khoa học để chế tạo thành công hai bộ kit phát hiện virus SARS-CoV-2; Công ty Cổ phần Công nghệ mới Nhật Hải nghiên cứu chế tạo thử nghiệm một số hợp chất nano từ thiên nhiên có khả năng ức chế SARS-CoV-2, ngăn bão hòa Cytokine và giảm khả năng đông máu, hỗ trợ điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19; Công ty TNHH Châu Đà sản xuất sản phẩm máy sản xuất khẩu trang tự động đáp ứng nhu cầu sản xuất khẩu trang y tế trong mùa dịch bệnh,…
 
Tiếp tục hoàn thiện chính sách về DNKHCN 
 
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KH&CN nói chung trong đó có DNKHCN và được cụ thể hoá thông qua các Nghị định, thông tư, nhiệm vụ KH&CN, chương trình KH&CN, dự án cụ thể như: Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ về DNKHCN, Chương trình Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Chương trình 592), Dự án Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ (FIRST), Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN,…
 
 
 
 
 
Tiếp tục thúc đẩy liên kết viện – trường – doanh nghiệp nhằm hỗ trợ hình thành và phát triển DNKHCN
 
Năm 2020, một số văn bản pháp quy mới được ban hành, trong đó có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thúc đẩy sự phát triển DNKHCN như Luật Đầu tư 2020, Luật Doanh nghiệp 2020 và một số văn bản dưới luật khác. So với Luật Đầu tư 2014 thì Luật Đầu tư 2020 đã bổ sung quy định về cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo DNKHCN là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư (Điều 15) và bổ sung quy định về ngành nghề ưu đãi đầu tư đối với hoạt động sản xuất các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của DNKHCN (Điều 16). Khi các quy định này có hiệu lực thì hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của DNKHCN sẽ được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước dành cho dự án đầu tư thuộc danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư. 
Tháng 3/2021, Thông tư 03/2021/TT-BTC ngày 11/01/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp KH&CN quy định tại Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN bắt đầu có hiệu lực. 
 
Tại cuộc Họp báo thường kỳ của Bộ KH&CN diễn ra mới đây, ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và DNKHCN cho biết, sắp tới, Bộ KH&CN sẽ ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 13 về DNKHCN để làm rõ hơn những vấn đề liên quan đến thủ tục công nhận, cấp giấy chứng nhận DNKHCN. Trong định hướng tái cấu trúc các chương trình KH&CN Quốc gia, Chương trình 592 cũng được đưa vào tái cấu trúc ở phần thương mại hóa, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thị trường KH&CN, sau chuỗi nghiên cứu và phát triển. Định hướng này sẽ được tăng cường trong giai đoạn tới.
 
“Trong đại dịch Covid-19, chúng tôi đã triển khai nhiều hành động hỗ trợ, ví dụ như chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp có sản phẩm test Covid – 19, các sản phẩm hỗ trợ sức khỏe người tiêu dùng, thiết bị y tế phòng chống dịch,… phát triển thị trường trong nước cũng như kết nối với thị trường nước ngoài. Đó cũng là định hướng chúng tôi sẽ đưa vào chương trình hỗ trợ trong giai đoạn tới”, ông Phạm Hồng Quất cho biết thêm.
 
DNKHCN đang được hưởng nhiều hỗ trợ của Nhà nước như hỗ trợ về đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị thương hiệu của doanh nghiệp; được giới thiệu quảng bá sản phẩm thông qua các hội thảo, triển lãm; kết nối cung – cầu, chợ công nghệ và thiết bị… Nhờ được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, vay vốn tín dụng đầu tư, thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước, doanh nghiệp tập trung được nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho KH&CN, đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực, không ngừng tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh. 
 
Theo TS. Phạm Hồng Quất, để tiếp tục phát triển DNKHCN trong giai đoạn tới, cần tập trung hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về DNKHCN đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi. Cụ thể, đồng bộ hóa hệ thống cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về KHCN&ĐMST gồm: Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quản lý sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm thực thi các chính sách hỗ trợ phát triển DNKHCN; cơ chế giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước; cơ chế phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu… Thiết kế hệ thống chính sách ưu đãi theo hướng ưu đãi áp dụng đối với sản phẩm mới thay vì áp dụng theo chủ thể đầu tư như hiện nay, nhằm đảm bảo sự phù hợp với quy định của Luật Đầu tư và thúc đẩy doanh nghiệp liên tục thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển, tạo ra các sản phẩm mới cho thị trường. Đề xuất xây dựng chính sách ưu tiên sử dụng các sản phẩm KH&CN của DNKHCN.
 
Thứ hai, thúc đẩy liên kết viện, trường và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ hình thành và phát triển DNKHCN. Theo đó, xây dựng và ban hành cơ chế phù hợp tạo sự gắn kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp nhận kết quả KH&CN mới để hình thành các DNKHCN; Thúc đẩy hỗ trợ phát triển mô hình doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) từ các trường đại học, viện nghiên cứu nhằm thúc đẩy việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được tạo ra từ viện, trường. Thúc đẩy hoạt động của các cơ sở ươm tạo tại trường, viện và thu hút sự đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, DNKHCN dẫn dắt các lĩnh vực.
 
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động truyền thông về sản phẩm KH&CN, DNKHCN để nâng cao giá trị thương hiệu, tạo uy tín đối với người tiêu dùng, giúp thương hiệu “doanh nghiệp khoa học và công nghệ” trở thành thương hiệu mạnh, nâng cao lợi thế cạnh tranh cho DNKHCN. Các hoạt động truyền thông về sản phẩm KH&CN, DNKHCN được đẩy mạnh cả về tần suất thực hiện, hình thức đa dạng, lựa chọn những doanh nghiệp điển hình, tiêu biểu với các sản phẩm chất lượng.
 
Thứ tư, chuyển đổi, cơ cấu lại các chương trình có nội dung hỗ trợ phát triển DNKHCN theo hướng đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ thương mại hóa, phát triển thị trường cho những sản phẩm KH&CN chất lượng nhằm chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu.
 
Cuối cùng, tăng cường hỗ trợ hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là Hiệp hội DNKHCN Việt Nam. Thực hiện hỗ trợ các DNKHCN thông qua Hiệp hội để tạo tác động lan tỏa và thúc đẩy sự liên kết giữa các DNKHCN.
 
Bài, ảnh: Hạnh Nguyên
 

Bộ Khoa học và Công nghệ: Nhiều kết quả ấn tượng trong Quý I năm 2021

 
Ngày 31/3, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Họp báo thường kỳ Quý I/2021. Tại buổi Họp báo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy và Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ đã trả lời trực tiếp nhiều vấn đề báo chí và dư luận quan tâm như: kết quả một số đề tài do Bộ KH&CN phê duyệt triển khai liên quan đến phòng, chống dịch Covid 19; thanh tra, kiểm tra chất lượng xăng dầu; vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn;…
Tham dự buổi họp báo có đại diện lãnh đạo một số đơn vị chức năng của Bộ; các đơn vị báo chí thuộc Bộ KH&CN cùng đại diện gần 60 cơ quan thông tấn, báo chí.
Tập trung xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách
 
Tại buổi họp báo, ông Nguyễn Mai Dương – Chánh Văn phòng Bộ KH&CN đã thông tin về các kết quả hoạt động của Bộ trong Quý I cũng như kế hoạch hoạt động trong Quý II. Theo đó, Bộ KH&CN đã tập trung hoàn thiện và trình Chính phủ ban hành một số chính sách, pháp luật về KH&CN; xây dựng Chương trình hành động của Bộ thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện các chương trình/chiến lược/nhiệm vụ trong lĩnh vực KH&CN giai đoạn 2021-2030; tập trung hoàn thiện hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ gửi Bộ Tư pháp để thẩm định theo quy định,…
 
Bộ chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành theo thẩm quyền: Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2021 về Kế hoạch tổng thể nâng cao năng suất dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030; Quyết định số 108/2021/QĐ-TTg ngày 22/01/2021 phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 118/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030; Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030; Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 27/01/2021 ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030; Quyết định số 157/QĐ-TTg ngày 01/02/2021 ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030; Quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 04/02/2021 ban hành Chiến lược phát triển và ứng dụng KH&CN vũ trụ đến năm 2030; Quyết định số 188/QĐ-TTg ngày 09/02/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025; Nghị định số 19/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia ban hành kèm theo Nghị định số 23/2014/NĐ-CP ngày 03/4/2014;…
 
Bên cạnh đó, Bộ KH&CN đã ban hành Chương trình hành động của Bộ thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; Kế hoạch thực hiện Nghị định số 142/2020/NĐ-CP ngày 09/12/2020 của Chính phủ quy định việc tiến hành công việc bức xạ và hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử; Kế hoạch tổng kết Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Bộ KH&CN; Kế hoạch tổ chức thực hiện Quyết định số 108/QĐ-TTg ngày 22/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 04/2021/QĐ-TTg ngày 29/01/2021 của Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia;…
 
Triển khai thành công nhiều hoạt động lớn
 
Theo ông Nguyễn Mai Dương, Bộ KH&CN đang tiếp tục triển khai đề án “Phát triển Hệ tri thức Việt số hóa”: Hoàn thiện platform nền tảng, đang cập nhật dữ liệu cho các dự án: Nhân đạo số (inhandao.vn), Bản đồ số Việt Nam (vmap.vn), Bách khoa toàn thư mở (bktt.vn), Bản đồ an toàn covid (antoancovid.vn), Giáo dục số (igiaoduc.vn); hiện đang hoàn thiện platform các dự án: Dinh dưỡng số, Văn hóa số, Dược thư số, Công nghệ tiếng nói…. Bộ KH&CN đang phối hợp với VinBigData, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và một số đơn vị liên quan, nghiên cứu xây dựng hệ thống Dữ liệu mở về KH&CN ứng dụng công nghệ BigData phục vụ cộng đồng nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; tận dụng nền tảng công nghệ, dữ liệu và nguồn nhân lực hỗ trợ Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19.
 
Đồng thời tích cực, chủ động tham gia đóng góp và nâng cao hơn nữa vai trò của Việt Nam về KHCN&ĐMST trong các tổ chức, diễn đàn song phương và đa phương như ASEAN, APEC, APO, ASEM, IAEA, UNESCO, WIPO, hợp tác khu vực và tiểu vùng Mê Công; tổ chức các buổi làm việc trực tuyến và trực tiếp với các đối tác nước ngoài: tổ chức họp định kỳ trực tuyến về đối thoại chính sách giữa Bộ KH&CN và Bộ Nghiên cứu và Giáo dục Cộng hòa Liên bang Đức (BMBF); làm việc với Đại sứ quán Italy chuẩn bị nội dung cho sự kiện Springer Publication Event.
 
Bộ đã ban hành Công văn số 133/BKHCN-TĐC ngày 23/01/2021 hướng dẫn Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác định nguồn gốc, truy xuất nguồn gốc cây đào, cây mai theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng (Công văn số 529/VPCP-NN ngày 21/01/2021). Trước đó, Bộ KH&CN đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cung cấp nền tảng kỹ thuật truy xuất nguồn gốc, hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ kỹ thuật truy xuất nguồn gốc trong trường hợp địa phương có nhu cầu xác định nguồn gốc của cây đào, cây mai.
 
Hỗ trợ tỉnh Bắc Giang đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn ở Nhật Bản. Đây là sản phẩm đầu tiên của Việt Nam được chính thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản; là sự kiện đánh dấu mốc quan trọng, mở ra nhiều cơ hội mới cho việc xuất khẩu, tiêu thụ vải thiều Việt Nam ở nhiều thị trường khác nhau. Để kịp đưa vải thiều sang Nhật Bản, Cục Sở hữu trí tuệ đã phối hợp với Sở KH&CN tỉnh Bắc Giang và Công ty Concetti tìm kiếm các phòng thí nghiệm đủ khả năng phân tích các chỉ tiêu và đánh giá các chỉ tiêu này theo yêu cầu của phía Nhật Bản để chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn có thể được bảo hộ tại Nhật Bản trong vụ vải 2021.
 
Trong Quý I/2021, Bộ KH&CN đã công bố 34 TCVN; hướng dẫn doanh nghiệp, tiếp nhận hồ sơ và xử lý cấp 701 mã doanh nghiệp; xử lý 69 hồ sơ xác nhận mã nước ngoài và ủy quyền sử dụng mã số, mã vạch. Công tác đo lường đã giải quyết các thủ tục hành chính và các công việc liên quan đến đo lường được xử lý nhanh chóng, kịp thời góp phần nâng cao chất lượng phục vụ hành chính công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo cho các tổ chức, cá nhân trên phạm vi cả nước góp phần phát triển kinh tế – xã hội.
 
Đồng thời, đã cấp 11.787 văn bằng bảo hộ, trong đó có 869 Bằng độc quyền sáng chế, 403 Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, 8.320 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu quốc gia, 2.132 Đăng ký nhãn hiệu quốc tế,…
 
Cùng với đó, Bộ KH&CN đã tổ chức nhiều sự kiện quan trọng được các cơ quan thông tấn báo chí quan tâm như: Tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2020 và triển khai công tác năm 2021; Hội thảo Tham vấn về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ; Tổ chức các hội thảo xin ý kiến các chuyên gia quản lý và nhà khoa học đầu ngành về xây dựng Chiến lược phát triển KH, CN, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030; Hội nghị chuyên đề quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo; Hội nghị triển khai Chương trình Phát triển Vật lý giai đoạn 2021 – 2025; Hội thảo “Nâng cao năng lực đo lường để triển khai Đề án 996/QĐ-TTg” và Kỷ niệm ngày Đo lường Việt Nam 20/01; Hội thảo “Ứng dụng công nghệ để tối ưu hiệu quả sản xuất – Tương lai của nguồn cung ứng toàn cầu”; Tổ chức “Chương trình kết nối công nghệ trực tuyến lĩnh vực công nghiệp phụ trợ” với các đối tác thành phố Changwon, Hàn Quốc;…
 
Hỗ trợ các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng vắc xin COVID-19
 
Tại buổi họp báo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy cùng Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ đã trả lời nhiều vấn đề các nhà báo đưa ra như: kết quả một số đề tài do Bộ KH&CN phê duyệt triển khai liên quan đến phòng, chống dịch Covid -19; hỗ trợ của Bộ trong việc thương mại hóa sản phẩm vắc xin phòng Covid-19; thanh tra, kiểm tra chất lượng xăng dầu; vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn; kế hoạch của Bộ KH&CN để các doanh nghiệp có thể tiếp cận với nguồn vốn của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia; hỗ trợ của Bộ đối với các doanh nghiệp KH&CN tham gia Đề án 844; hệ thống quan trắc và cảnh báo phóng xạ của Việt Nam;…
 
 
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy chủ trì buổi Họp báo.
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy nhận định: Một trong những điểm nhấn trong thời gian qua là tiến độ nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng các vắc xin Covid-19 đã tiến triển tương đối tốt. Bộ KH&CN và Bộ Y tế đã thúc đẩy cơ chế nhanh và kịp thời để hỗ trợ các nghiên cứu đó.
 
Ông Trịnh Thanh Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ KHCN các ngành kinh tế – kỹ thuật cho biết, ngay từ khi dịch COVID-19 bùng phát, vấn đề nghiên cứu vaccine phòng chống COVID-19 được đặt ra. Bộ KH&CN đã phê duyệt nhiệm vụ nghiên cứu vaccine, giao cho Công ty cổ phần công nghệ sinh học dược Nanogen nghiên cứu sản xuất.
 
Trong thời gian ngắn, công ty đã hoàn thiện quy trình công nghệ và các quy định về việc thực hiện thử nghiệm tiền lâm sàng trên động vật để bảo đảm tính an toàn, hiệu quả. Sau đó vaccine đã được Bộ Y tế cho phép thử nghiệm lâm sàng. Đến thời điểm hiện nay đã hoàn thành thử nghiệm giai đoạn 1, giai đoạn 2 đang tiến hành tiêm cho 560 người, mỗi người tiêm 2 mũi. Dự kiến ngày thứ 35 sau khi tiêm mũi thứ 2, các tình nguyện viên sẽ được lấy máu xét nghiệm để đánh giá hiệu qủa vaccine.
 
Kết quả bước đầu cho thấy khi vaccine sử dụng trên người bảo đảm tính an toàn cao, đồng thời cũng có sinh kháng thể khá mạnh, tỷ lệ tăng kháng thể cao, có người tăng 200-300 lần so với trước khi tiêm.
 
Theo kế hoạch, hết tháng 4 sẽ hoàn thành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 và đầu tháng 5 sẽ tiến hành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3, trong đó giai đoạn 3B sẽ tiếp tục tiêm cho khoảng 10.000-15.000 người ở trong nước cũng như một số nước khác. Bộ KH&CN phối hợp với một số bộ, đơn vị đang hỗ trợ công ty tiến hành tìm kiếm đối tác nước ngoài để tham gia thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3.
 
Dự kiến trong Quý II/2021, bên cạnh việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách pháp luật về KH&CN, Bộ KH&CN sẽ tổ chức các sự kiện: Chuỗi sự kiện kỷ niệm hoạt động ngày KH&CN Việt Nam 18/5 (các sự kiện, hoạt động về KH&CN do Bộ KH&CN, các bộ, ngành, địa phương, Viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp,…tổ chức); Lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu; Lễ trao Giải thưởng Báo chí về KH&CN; Lễ trao Giải thưởng Chất lượng Quốc gia năm 2019 – 2020; Hội nghị sơ kết kết quả thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước; tổ chức các Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN đợt 6; tổ chức các Khóa họp Uỷ ban/Tiểu ban/Tổ công tác hợp tác về KH&CN với các đối tác như: Lào, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, CHLB Đức, Úc;…
 
Bài, ảnh: Nhóm PV
 
 
 

Gắn kết nhiệm vụ KHCN và đổi mới sáng tạo với các nhiệm vụ phát triển KT – XH

 
 
Sản xuất điện thoại thông minh tại Nhà máy của VinSmart giai đoạn 1 tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc
 
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ với phương châm hành động "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển", Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai chương trình hành động gắn kết nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo với các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, triển khai Nghị quyết số 01 và Nghị quyết số 02 của Chính phủ, năm 2021, Bộ phối hợp sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo với các quy định khác có liên quan như thuế, đầu tư, đất đai… tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo định hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Bộ xây dựng các chính sách và thể chế đột phá cho việc thí điểm triển khai các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao. Bộ hoàn thiện quy định pháp luật, đẩy nhanh tiến độ thực hiện cơ chế tự chủ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển thị trường các sản phẩm, dịch vụ ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, kinh tế chia sẻ, kinh tế số… theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
 
Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ để trình Chính phủ, Quốc hội nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển và khai thác tài sản trí tuệ phục vụ phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, triển khai có hiệu quả Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030. Bên cạnh đó, Bộ nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính để phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 
 
Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2025. Việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của ngành trong năm 2021 sẽ tạo tiền đề và khích lệ mạnh mẽ cho các năm tiếp theo. Vì vậy, Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
 
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, tập trung triển khai các hướng nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, nhất là các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bộ thực thi có hiệu quả chính sách đào tạo, thu hút và trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ từ các nguồn sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học uy tín ở nước ngoài. Đồng thời, Bộ thực hiện tái cơ cấu và tổ chức triển khai các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia giai đoạn mới theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, hướng tới các chuẩn mực phù hợp với thông lệ quốc tế, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
 
Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia và tăng cường sự gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong sản xuất, kinh doanh; Kết nối các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước, phát huy vai trò của hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, gắn kết với các địa phương thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo mang lại hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế – xã hội các địa phương.
 
Đặc biệt, Bộ chú trọng thúc đẩy các giải pháp nhằm tăng cường xã hội hóa đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là từ doanh nghiệp. Bộ tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp về kinh tế, thương mại, đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh để kích cầu công nghệ và nhu cầu đổi mới sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp, phát huy Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp để hỗ trợ đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.
 
Năm 2021, Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tập trung ứng dụng khoa học và công nghệ phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ… Bộ tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến, chế tạo gắn với công nghệ thông minh, chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bộ hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo nhu cầu thị trường, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ứng dụng công nghệ cao gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị; phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái số Việt với các nền tảng dùng chung, các dịch vụ, mô hình kinh doanh mới; từng bước chuyển đổi sang nền kinh tế số.
 
Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
 
Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung tuyên truyền, cung cấp thông tin về hệ thống đổi mới sáng tạo; kết quả đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo, hệ thống đổi mới sáng tạo theo các bộ chỉ số của quốc tế do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thực hiện. Năm 2021, Bộ phấn đấu chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam nằm trong nhóm 3 quốc gia dẫn đầu ASEAN.
 
Để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, Bộ tiếp tục thực hiện rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, không hợp pháp, gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của người dân và doanh nghiệp (gồm quy định về thủ tục hành chính bao gồm cả quy định về báo cáo; quy định về yêu cầu, điều kiện trong hoạt động kinh doanh; quy định về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp) theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025.
 
Đồng thời, Bộ đẩy mạnh thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính tại Bộ; Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và tạo thuận lợi thương mại, chú trọng công tác thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, vấn đề gây bức xúc trong đời sống xã hội; Thực thi đầy đủ trách nhiệm được phân công về kiểm tra chuyên ngành theo quy định tại Nghị định số 85/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 của Chính phủ quy định thực hiện thủ tục hành chính theo Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
 
Bên cạnh đó, Bộ tăng cường thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 trên Cổng  dịch vụ công của Bộ Khoa học và Công nghệ và Cổng Dịch vụ công quốc gia; đẩy mạnh tiến độ thanh toán điện tử; ứng dụng công nghệ thông tin để minh bạch hóa quy trình, thủ tục giải quyết hồ sơ. 
 
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh: Năm 2021, Bộ sẽ đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước phù hợp với lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương. Đồng thời, Bộ thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành, chú trọng bồi dưỡng công chức, viên chức theo các ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh.
 
Bộ Khoa học- Công nghệ Đẩy mạnh, triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; bảo vệ người phát hiện, tố giác, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, đơn vị; cơ chế kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền…; đổi mới hình thức, cách thức tuyên truyền, phổ biến về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, Bộ thực hiện có hiệu quả Luật tiếp công dân, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18/2/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.
 
Nguồn: Báo Tin tức

Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế

 
 
Đồng chí Huỳnh Thành Đạt – UVTW Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN phát biểu tại ĐH
 
Trong giai đoạn tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã trở thành một trong những xu hướng phát triển của thời đại, Việt Nam cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng hiện nay sang mô hình dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), qua đó mới có thể nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để phát triển đất nước nhanh, bền vững, độc lập, tự chủ, sớm đạt ngang tầm với các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Đó là một trong những nội dung quan trọng được nhấn mạnh trong bài tham luận của đồng chí Huỳnh Thành Đạt – Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ với chủ đề “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”, tại phiên thảo luận của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng ngày 28/01/2021.  
 
Nhiều thành tựu ấn tượng
 
Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, năm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị cũng như của các cấp, các ngành và toàn xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện. Trong thành tựu chung này có sự đóng góp quan trọng của KHCN&ĐMST ở tất cả các ngành, lĩnh vực, các địa phương trong cả nước.
 
 
Việt Nam đã thử nghiệm vắc xin Nano Covax phòng Covid-19 "made in Việt Nam”
 
 
Bộ trưởng cho biết, KH&CN Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và thành tựu nổi bật, đóng góp thiết thực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống người dân, góp phần phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp – TFP giai đoạn 2016 – 2020 đã tăng lên 45,2% so với mức 33,58% của giai đoạn 2011 – 2015 là 33,6%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đã tăng lên 5,8%/năm so với giai đoạn 2011 – 2015 là 4,3%/năm; Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020.
 
Những đóng góp về KH,CN&ĐMST trong phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận. Trong bảng xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2020, Việt Nam xếp hạng 42/131 quốc gia/nền kinh tế. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí đầu trong nhóm 29 quốc gia có thu nhập trung bình thấp được xếp hạng GII năm 2020; trong 10 nước khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 3, sau Singapore và Malaysia.
 
Trong các kết quả nổi bật của các ngành, lĩnh vực, có thể thấy có sự đóng góp của ngành KH,CN&ĐMST, Bộ trưởng khẳng định.
 
Theo đó, khoa học chính trị và kinh tế đã và đang cung cấp các luận cứ sâu sắc và kịp thời trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống chính trị; bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, khẳng định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của đất nước; đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế, chính trị và xã hội; có nhiều đóng góp thiết thực trong việc bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện mới và đề xuất các chủ trương, chính sách lớn về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
 
Khoa học xã hội và nhân văn đã phát triển hệ thống lý luận mới về vai trò của văn hóa, lịch sử, con người và các nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững, tác động vào quá trình thay đổi nhận thức và hành vi, bồi đắp trí tuệ của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc, góp phần xây dựng các nền tảng của một xã hội văn minh và hội nhập với thế giới.
 
Khoa học tự nhiên đã có tiến bộ vượt bậc về lượng và chất trong những năm gần đây. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam tăng gần gấp ba lần so với đầu nhiệm kỳ, bình quân hằng năm tăng trên 20%. Các nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng đã tạo ra nhiều kết quả nổi bật trong lĩnh vực hóa học, cơ học, khoa học thông tin và máy tính, sinh học nông nghiệp, y sinh dược học; nhiều nhà khoa học trẻ Việt Nam đã nhận được các giải thưởng khoa học danh giá trong nước và quốc tế. Các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học trái đất và môi trường đã góp phần nâng cao năng lực dự báo, phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên có đóng góp rất quan trọng trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, đặc biệt là bậc sau đại học; gia cố nền tảng, năng lực nghiên cứu và đội ngũ cán bộ khoa học tài năng trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Một số trường đại học của Việt Nam đã đứng trong tốp 1.000 trường đại học xếp hạng cao trên thế giới. Với sự đầu tư đúng hướng của Nhà nước, chúng ta đã dần tạo lập được môi trường học thuật tiên tiến và lành mạnh trong nước, thu hút nhiều nhà khoa học trẻ được đào tạo ở nước ngoài về nước tiếp tục phát triển các trường phái nghiên cứu tiên phong, hình thành được một số tập thể khoa học mạnh có trình độ quốc tế. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.
 
Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã phát triển lên một tầm cao mới về năng lực và trình độ nghiên cứu, đóng góp ngày càng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế – xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Các công nghệ chủ chốt của Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhanh chóng tiếp thu, thúc đẩy ứng dụng trong các chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trình độ công nghệ của nền sản xuất được cải thiện và nâng cao đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá phục vụ trong nước và xuất khẩu.
 
Cũng theo Bộ trưởng, trong lĩnh vực nông nghiệp, các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được các giống cây trồng mới có năng suất và chất lượng vượt trội so với khu vực và thế giới. Nhiều tiến bộ kỹ thuật và quy trình công nghệ mới được ứng dụng rộng rãi trong trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản sau thu hoạch và chế biến, mang lại hiệu quả kinh tế cao. KH&CN đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, điều nhân.
 
Cùng với đó, trong công nghiệp và dịch vụ, các chuyên gia công nghệ trong nước đã đủ năng lực thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng, giàn khoan dầu khí tự nâng ở vùng nước sâu; thiết kế, thi công các loại cầu vượt sông khẩu độ lớn, hầm đường bộ, nhà cao tầng, nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn. Công nghệ thông tin và truyền thông thế hệ mới, công nghệ số được ứng dụng rộng trong các ngành dịch vụ ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông. Nhiều công nghệ cao như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, mạng di động 5G đã và đang được phát triển. Hệ tri thức Việt số hóa – hệ sinh thái số do người Việt làm chủ, có năng lực tích hợp mọi tri thức, thông tin, dữ liệu công cộng, tài nguyên số của Việt Nam, sẽ được đưa vào sử dụng, phục vụ người dân và doanh nghiệp trong thời gian tới.
 
Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao rõ rệt chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí cho người dân và xã hội. Việt Nam nằm trong tốp 3 nước ASEAN và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc xin, rất thành công trong công tác phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao như ghép tạng và đa tạng, thụ tinh nhân tạo, ứng dụng tế bào gốc và kỹ thuật sinh học phân tử,… Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên cứu, phát triển kit xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất robot, máy thở, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị Covid-19. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu giúp Việt Nam kiểm soát và khống chế dịch bệnh, là minh chứng rõ nhất cho hiệu quả của sự đầu tư kiên trì và chiến lược cho tiềm lực KH&CN nước nhà trong nhiều năm qua.
 
 
Đầu tư cho KH&CN những năm qua đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp KH&CN
 
 
Trong quốc phòng và an ninh quốc gia, đã thiết kế, chế tạo mới và cải tiến được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. 85% vũ khí trang bị kỹ thuật của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng là kết quả nghiên cứu trong nước, đáp ứng các yêu cầu tác chiến.
 
Tạo bứt phá về năng suất, chất lượng từ KHCN và đổi mới sáng tạo
 
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng, thành tựu về KH,CN&ĐMST trong năm năm qua đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển KH,CN&ĐMST và là kết quả của sự nỗ lực chung của toàn hệ thống chính trị với sự tham gia và phối hợp tích cực, chủ động của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Vai trò, sứ mệnh của KH,CN&ĐMST đã được khẳng định là động lực phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều văn kiện quan trọng như Cương lĩnh phát triển đất nước, các văn kiện, nghị quyết của Đảng, các đạo luật.
 
Theo mục tiêu đề ra, đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Với mục tiêu này thì việc tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động như trước đây sẽ không còn phù hợp bởi mô hình này còn rất ít dư địa, có xu hướng chững lại và có nguy cơ đưa nước ta rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các quốc gia trên thế giới.
 
“Bởi vậy, trong giai đoạn tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã trở thành một trong những xu hướng phát triển của thời đại, Việt Nam cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng hiện nay sang mô hình dựa trên KH,CN&ĐMST, qua đó mới có thể nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để phát triển đất nước nhanh, bền vững, độc lập, tự chủ, sớm đạt ngang tầm với các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới”, đồng chí Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh.
 
Trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021 – 2030, các nội dung KH,CN&ĐMST được thể hiện đậm nét, đồng bộ, hệ thống, xuyên suốt từ chủ đề của Chiến lược, đến quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển, đột phá chiến lược và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển, đảm bảo được tính kế thừa, phát triển từ các thành công và cả từ các hạn chế trong giai đoạn trước đây và có tính đến các bối cảnh mới ở trong nước và quốc tế. Theo Bộ trưởng, quán triệt các nội dung KH,CN&ĐMST đã được nêu trong dự thảo Chiến lược phát triển KT – XH 10 năm 2021 – 2030, trong thời gian tới, ngành KH&CN sẽ tập trung làm tốt các công việc sau:
 
Thứ nhất, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động ĐMST như là cầu nối để KH&CN phục vụ trực tiếp phát triển kinh tế – xã hội, qua đó tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh;
 
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về KH,CN&ĐMST, trong đó chú trọng đến việc xây dựng thể chế vượt trội và chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH,CN&ĐMST; cần có nỗ lực toàn diện và đồng bộ để tháo gỡ các rào cản trong hệ thống luật pháp và chính sách để KH,CN&ĐMST phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là các rào cản, vướng mắc từ các cơ chế, chính sách kinh tế, đầu tư, thương mại; Tăng cường nguồn lực xã hội đầu tư cho KH,CN&ĐMST nhất là từ doanh nghiệp;
 
Thứ ba, đặc biệt chú trọng phát triển khoa học xã hội và nhân văn; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước; Tiếp tục đầu tư để phát triển, hiện đại hoá hạ tầng và tiềm lực KH,CN&ĐMST;
 
Thứ tư, thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng lực đổi mới, hấp thụ và làm chủ công nghệ của doanh nghiệp; tập trung phát triển công nghệ cao, công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng lần thứ tư có khả năng ứng dụng cao;
 
Thứ năm, thực hiện tái cơ cấu các chương trình, nhiệm vụ KH&CN gắn với nhu cầu xã hội, chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng; Đẩy mạnh phát triển thị trường KH&CN gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về KH&CN. Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về KH,CN&ĐMST nhằm phát huy thế mạnh của Việt Nam và huy động tối đa nguồn lực quốc tế;
 
Thứ sáu, chủ động, tích cực phối hợp để phát huy vai trò quan trọng của các ngành, các cấp, các địa phương trong việc thúc đẩy ứng dụng và phát triển KH,CN&ĐMST đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội ở các ngành các cấp, các địa phương.
 
 
 
“Để KH,CN&ĐMST thật sự là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực nâng cao năng suất lao động chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển KT-XH thì không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của ngành KH,CN&ĐMST mà còn cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với sự chung tay, góp sức của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương, doanh nghiệp và toàn xã hội trong ứng dụng và phát triển KH,CN&ĐMST”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu.
 
Bộ trưởng gửi lời cảm ơn và kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, sự hỗ trợ, hợp tác của các bộ, ngành, các địa phương, các Viện nghiên cứu, các Trường đại học, các doanh nghiệp và của toàn xã hội để giúp cho ngành hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.  
 
“Với những thành tựu đạt được của đất nước trong những năm qua, với thế và lực cũng như vị thế mới của Việt Nam, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và bản lĩnh của Đảng ta, chúng ta hoàn toàn tin tưởng đất nước chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh", Bộ trưởng khẳng định.
 
 Bài, ảnh: Hạnh Nguyên

Nền tảng thương mại điện tử Nông sản đoạt giải nhất cuộc thi khởi nghiệp sáng tạo Startup Hunt 2020

 
"Nền tảng thương mại điện tử Nông sản" nhận giải Nhất cuộc thi Startup Hunt 2020
 
Vượt qua 300 ý tưởng và dự án, nền tảng thương mại điện tử nông sản FoodMap.Asia giành giải Nhất cuộc thi khởi nghiệp sáng tạo Startup Hunt 2020, nhận giải thưởng 100 triệu đồng.
Sáng 27/11, chung kết cuộc thi khởi nghiệp Startup Hunt 2020 với chủ đề “Chuyển đổi số nông nghiệp” được diễn ra tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội trong khuôn khổ chương trình Techfest VietNam 2020. Cuộc thi do Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam phối hợp cùng với Văn phòng Đề án 844 (Bộ Khoa học và Công nghệ), Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức. 
Năm dự án được lọt vào vòng chung kết và có màn thuyết trình trực tiếp về sản phẩm dự án và thuyết trình. Kết quả chung cuộc, dự án nền tảng thương mại điện tử nông sản FoodMap.Asia giành giải Nhất cuộc thi, nhận giải thưởng 100 triệu đồng. Đây là nền tảng giúp kết nối hộ nông dân nhỏ và vừa đến khách sạn và khu dân cư để cung cấp các thực phẩm nông nghiệp, giải quyết được bài toán đầu ra sản phẩm cho người sản xuất một cách chắc chắn và ổn định. 
 
Dự án đi sâu vào hỗ trợ nhà sản xuất, người nông dân xây dựng câu chuyện và quy trình sản xuất, giúp các sản phẩm ổn định về chất lượng, nâng cao giá trị nông sản Việt. Tính tới thời điểm hiện tại, FoodMap.Asia đã liên kết và bán hàng cho hơn 300 nhà sản xuất, hộ nông dân với gần 1.000 loại nông sản đến từ hơn 40 tỉnh thành khắp cả nước. 
 
Giải Nhì được trao cho dự án Digital Kingdom với giải pháp truy xuất nguồn gốc chất lượng chuỗi cung ứng áp dụng công nghệ Blockchain, nhận giải thưởng 50 triệu đồng. Dự án NATA với giải pháp xử lý bùn thải chế biến thuỷ sản trồng dưa lưới và dâu tây hiệu quả, giành giải Ba trị giá 20 triệu đồng. 
 
Giải Triển Vọng được trao cho dự án FAGO với nhật ký điện tử trang trại hỗ trợ chăn nuôi và dự án An Nhàn với ứng dụng quản lý nông nghiệp, tiết kiệm thời gian quản lý hàng hóa trong các đại lý vật tư phục vụ nông nghiệp. Hai dự án Triển Vọng nhận giải thưởng 10 triệu đồng. 
 
Phát biểu tại chung kết, ông Nguyễn Đức Tùng, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ Thanh niên Khởi nghiệp cho biết, với chủ đề chuyển đổi số ngành nông nghiệp năm nay, những dự án xuất sắc tại cuộc thi được kỳ vọng sẽ truyền cảm hứng khởi nghiệp tới thanh niên Việt Nam, tạo ra những giải pháp và giá trị mới, đóng góp chung cho việc tái cấu trúc ngành nông nghiệp Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư, quảng bá và tìm kiếm đối tác. Truyền cảm hứng khởi nghiệp, 
 
Startup Hunt là chương trình do Trung ương Hội Liên hiệp Thanh Niên Việt Nam tổ chức với mục đích khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong thanh niên đã và đang có nhu cầu khởi nghiệp, tạo cơ hội thanh niên Việt Nam phát huy tinh thần sáng tạo, áp dụng những kiến thức đã lĩnh hội để đưa ra những giải pháp hợp lý và những ý tưởng sáng tạo cho nền nông nghiệp Việt Nam trong công cuộc chuyển đổi số. 
 
Tin, ảnh: Hà Chi

Thúc đẩy chuyển giao và đổi mới công nghệ

 
Tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ
 
Năm 2030, số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 20%/1 năm. 100% các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm hình thành tổ chức nghiên cứu và phát triển.
Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 118/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 (Chương trình).
 
Sẽ tăng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ
Mục tiêu của Chương trình nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ, tạo ra các sản phẩm có chất lượng, có giá trị gia tăng cao; thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp ở vùng nông thôn, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ.
 
Theo đó, mục tiêu đến năm 2025 số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/1 năm. 100% các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm trực tiếp tham gia Chương trình hình thành các tổ chức nghiên cứu và phát triển; có từ 3 đến 5 ngành sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm làm chủ hoặc tạo ra được công nghệ tiên tiến trong chuỗi giá trị để sản xuất ra các sản phẩm, có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường. 
 
Thúc đẩy tăng năng suất lao động trên cơ sở đổi mới công nghệ, đặc biệt trong các ngành, lĩnh vực sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ cao; các doanh nghiệp trực tiếp tham gia Chương trình có năng suất lao động cao hơn ít nhất 1,5 lần năng suất lao động khi chưa đổi mới công nghệ.
 
Khoảng 5.000 kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp được tập huấn, đào tạo về quản lý công nghệ, quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ mới ở 10 lĩnh vực chủ lực, trọng điểm thông qua hình thức tại chỗ và trực tuyến.
 
Hình thành tại mỗi vùng kinh tế ít nhất một mô hình nghiên cứu ứng dụng chuyển giao công nghệ điển hình phù hợp với điều kiện đặc thù của địa bàn để triển khai nhân rộng.
 
Đến năm 2030, số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 20%/1 năm. 100% các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm hình thành tổ chức nghiên cứu và phát triển; có từ 8 đến 10 ngành sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm làm chủ hoặc tạo ra được công nghệ tiên tiến trong chuỗi giá trị để sản xuất ra các sản phẩm, có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường. 
 
Các doanh nghiệp trực tiếp tham gia Chương trình có năng suất lao động cao hơn ít nhất hai lần năng suất lao động khi chưa đổi mới công nghệ.
 
Khoảng 1.000 kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp được tập huấn, đào tạo về quản lý công nghệ, quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ mới ở 15 lĩnh vực chủ lực, trọng điểm thông qua hình thức tại chỗ và trực tuyến.
 
Hình thành tại mỗi vùng kinh tế ít nhất hai mô hình nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ điển hình phù hợp với điều kiện đặc thù của địa bàn để triển khai nhân rộng.
 
Giải pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ
 
Quyết định nêu rõ có 7 nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện Chương trình gồm: Hoàn thiện thể chế pháp lý thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ; Xây dựng, triển khai lộ trình nâng cao năng lực công nghệ quốc gia; Nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ công nghệ tiên tiến trong việc sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị và có tính cạnh tranh cao trên thị trường; Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ; Đẩy mạnh hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; Tăng cường nguồn lực tài chính thực hiện Chương trình; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
 
 
 
Doanh nghiệp cần đổi mới thiết bị, dây chuyền, quy trình công nghệ tạo ra các sản phẩm chủ lực
 
Cụ thể, hoàn thiện thể chế pháp lý thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ gồm: Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và thúc đẩy hình thành các tổ chức nghiên cứu và phát triển trong các doanh nghiệp; Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn để đánh giá việc thực hiện đổi mới công nghệ và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp: bổ sung các hệ thống thống kê, chỉ tiêu đánh giá hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
 
Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức của xã hội, tổ chức và doanh nghiệp đối với hoạt động đổi mới công nghệ; triển khai các hoạt động tôn vinh, khen thưởng các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động đổi mới công nghệ là một trong những nội dung để xây dựng, triển khai lộ trình nâng cao năng lực công nghệ quốc gia. Cùng với đó là: xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu hiện trạng, trình độ và năng lực công nghệ trong các ngành, lĩnh vực; xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu về công nghệ mới, công nghệ tiên tiến và lực lượng chuyên gia công nghệ phục vụ doanh nghiệp khai thác sử dụng và đổi mới công nghệ…
 
Để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao tính năng, chất lượng sản phẩm, đổi mới thiết bị, dây chuyền, quy trình công nghệ tạo ra các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm cần thực hiện các nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ các công nghệ tiên tiến.
 
Tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, sẽ ứng dụng công nghệ tiên tiến, tự động hóa các mô hình công tác nông nghiệp thông minh trong các lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch và chế biến sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó là cải tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao và cạnh tranh được với giống nhập khẩu; nâng cao công nghệ tạo giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng và kiểm soát dịch bệnh ở quy mô lớn… 
 
Bài, ảnh: Lê Hà

Kết nối cung cầu công nghệ 4.0 – Nhà khoa học và doanh nghiệp

 
TS. Nguyễn Trường Thắng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin phát biểu khai mạc
 
Đó là chủ đề Tọa đàm do Viện Công Nghệ Thông tin, Viện Vật lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã phối hợp với một số đơn vị tổ chức diễn ra ngày 16/12/2020.
Tham gia tọa đàm có các nhà nghiên cứu, đại diện các doanh nghiệp sinh viên các trường Đại học. Tọa đàm “Kết nối cung cầu công nghệ 4.0 – Nhà khoa học và doanh nghiệp” được tổ chức nhằm tạo cầu nối giữa đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học và doanh nghiệp. Tạo cơ hội để các nhà khoa học chia sẻ với các nhà quản lý doanh nghiệp để đặt ra những vấn đề, xu thế và tìm giải pháp thúc đẩy sự phát triển, cùng nhau tìm kiếm những cơ hội hợp tác.
 
Các chủ đề xoay quanh buổi tọa đàm gồm: Phát triển nền tảng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) cho hệ sinh thái ngành Fintech; Giải pháp ứng dụng Machine Vision với công nghệ Deep Learning cho công nghiệp sản xuất màn hình hiển thị; Ứng dụng công nghệ xử lý ảnh trong Smart City; Giám sát điều khiển hệ thống chiếu sáng công cộng trong đô thị tại Việt Nam; Phát triển robot tự hành thông minh ứng dụng trí tuệ nhân tạo và định hướng ứng dụng; Phát triển hệ thống quan trắc tự động trên nền IoT và định hướng ứng dụng.
 
Phát biểu khai mạc buổi Tọa đàm, TS. Nguyễn Trường Thắng, Viện Trưởng Viện Công nghệ Thông tin cho biết, 3 chủ thể chính để tạo sự phát triển gồm Nhà nước – Doanh nghiệp – Đơn vị nghiên cứu. Trong đó Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều hành; 2 chủ thể còn lại tạo ra động lực phát triển. Nếu các đơn vị nghiên cứu (bao gồm cả các trường đại học) có nhiệm vụ tìm tòi, sáng tạo, đặt ra các vấn đề có tính đột phát thì doanh nghiệp sẽ sử dụng các kết quả nghiên cứu đó để hiện thực hóa, tạo ra sản phẩm cho xã hội. TS. Thắng cũng đặt ra vấn đề trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0, áp lực chuyển đổi số tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đó công nghệ thông tin là lĩnh vực phải đi tiên phong. TS. Thắng đặt kỳ vọng các đại biểu tham gia buổi buổi Tọa đàm sẽ cùng nhau đặt và giải đáp các bài toán về ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp để thúc đẩy sự phát triển.
 
 
PGS.TS. Hà Quý Quỳnh, Trưởng Ban Ứng dụng và Triển khai Công nghệ, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
 
PGS.TS. Hà Quý Quỳnh, Trưởng Ban Ứng dụng và Triển khai Công nghệ, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam cho biết, Ban Ứng dụng và triển khai công nghệ có 4 hướng nhiệm vụ chính, trong đó có 2 nhiệm vụ có sự tham gia của doanh nghiệp. Nhiệm vụ chính của Ban là đưa kết quả nghiên cứu vào doanh nghiệp, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp. PGS.TS. Hà Quý Quỳnh hi vọng thời gian tới các kết quả nghiên cứu của các đơn vị trong Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam được đưa ra ứng dụng thực tiễn tại các doanh nghiệp.
 
Trình bày báo cáo về “Phát triển nền tảng công nghệ AI cho hệ sinh thái ngành tài chính – Ngân hàng (Fintech)” TS. Nguyễn Việt Anh, Viện Công nghệ Thông tin nhận định, Tài chính – Ngân hàng là lĩnh vực có nhu cầu ứng dụng công nghệ sớm và lớn nhất. Tất cả các giao dịch của Tài chính – Ngân hàng đều cần ứng dụng công nghệ. Với sự phát triển của công nghệ, có những doanh nghiệp hoạt động tài chính tuy mới ra đời nhưng đã có số vốn lớn hơn cả những doanh nghiệp có tuổi đời hàng trăm năm. Việc ứng dụng công nghệ vào ngành Tài chính – Ngân hàng đã và đang được tự động hóa ở mức cao nhất và xu thế ứng dụng AI đang được đẩy mạnh.
 
Giới thiệu về “Giải pháp ứng dụng Machine Vision với công nghệ Deep Learning cho công nghiệp sản xuất màn hình hiển thị”. KS. Nguyễn Anh Sơn, Công ty Cognex (Mỹ) cho biết, trên một thiết bị điện thoại thông minh thì màn hình chính là linh kiện có giá thành cao nhất, chiếm 40-50% giá trị sản phẩm. Cấu trúc của màn hình gồm nhiều lớp ghép lại với nhau với độ chính xác cao, trong quá trình sản xuất nếu xảy ra sai sót trong việc ghép các lớp này sẽ gây thiệt hại rất lớn. Do vậy, việc kiểm soát và cân chỉnh để tránh sai sót là việc bắt buộc phải làm. Hiện tại, các hãng sản xuất lớn mỗi ngày sản xuất hàng triệu sản phẩm với độ chính xác cỡ nano mét thì việc kiểm soát bằng mắt thường là không thể. Công ty Cognex là doanh nghiệp chuyên nghiên cứu việc phát triển ứng dụng Machine Vision để giám sát, cân chỉnh sai số trong quá trình sản xuất màn hình và đã được một số công ty lớn như Apple, Samsung… ứng dụng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, gần đây Cognex đã tích cực áp dụng AI Deep Learning để nâng cao độ chính xác trong việc nhận dạng từ đó tăng hiệu quả giám sát.
 
Công nghệ xử lý ảnh đã và đang được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực, một trong số đó là để xây dựng SmartCity. TS. Ngô Ngọc Thành, Công ty Cổ phần Beet Innovators giới thiệu công nghệ nhận diện khuôn mặt phục vụ các công tác như: giám sát an ninh, chấm công, điểm danh… Một trong số vấn đề rủi do trong công nghệ nhận diện khuôn mặt là bị “fake” tức là phải phân biệt được giữa khuôn mặt của người thật với ảnh hoặc tượng. Sản phẩm do nhóm TS. Thành nghiên cứu đã khắc phục được nhược điểm này, bên cạnh đó Hệ thống phần mềm, thiết bị do Công ty cổ phần Beet Inovators xây dựng còn có khả năng chia sẻ tránh việc phải tạo lập hồ sơ nhiều lần cho cùng một người. Ngoài công nghệ nhận diện khuôn mặt, TS. Thành cũng giới thiệu công nghệ nhận diện biển số xe và một số công nghệ nhận diện khác ứng phục vụ công tác giám sát, an ninh cũng như xác thực thông tin.
 
 
Các đại biểu tham dự tọa đàm chụp ảnh lưu niệm
 
ThS. Ngô Minh Luân giới thiệu hệ thống “Giám sát điều khiển hệ thống chiếu sáng công cộng trong đô thị tại Việt Nam” của Công ty Cổ phần kỹ thuật công nghệ Ecotek. Đây là một hệ thống bao gồm nhiều thành phần như thiết bị chiếu sáng,dây dẫn, tủ điều khiển và phần mềm điều khiển trung tâm. Hệ thống gồm các chức năng, đặc điểm nổi bật như: Công nghệ, thiết bị hiện tại, thông minh; Quản lý vận hành thông minh, tiết kiệm; Có khả năng mở rộng một cách linh hoạt; Hoàn toàn chủ động về công nghệ, thiết bị; Giám sát, cảnh báo trực quan, kịp thời, chính xác; hỗ trợ tổng hợp, phân tích đánh giá một cách toàn diện. Hiện tại, hệ thống đang được ứng dụng tại rất nhiều đơn vị như các Trung tâm sát hạch lái xe, Trung tâm điều khiển hệ thống chiếu sáng tại một số thành phố lớn,…
 
Ngoài các báo cáo đến từ các doanh nghiệp đã ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, Viện Công nghệ thông tin cũng giới thiệu sản phẩm “Robot tự hành thông minh ứng dụng trí tuệ nhân tạo” và “Hệ thống quan trắc tự động trên nền IoT”.
 
Tại mỗi chủ đề, các đại biểu tham gia Tọa đàm đều đặt câu hỏi thảo luận, trao đổi như: Khả năng ứng dụng thực tế, sản xuất tại Việt Nam ra sao; giá thành sản phẩm khi hoàn thiện; tính bảo mật thông tin, dữ liệu; khả năng và chi phí nâng cấp.
 
Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất luôn là vấn đề khiến nhà khoa học trăn trở. Kết quả nghiên cứu khoa học dù có tốt đến đâu nhưng nếu không ứng dụng được vào thực tế thì cũng không có nhiều ý nghĩa.
 
Buổi tọa đàm được tổ chức đã tháo gỡ được phần nào đó những vướng mắc trong việc đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Với kỳ vọng những kết quả nghiên cứu sẽ ngày càng được ứng dụng một cách rộng rãi hơn nữa, tạo ra nhiều sản phẩm “Made in Vietnam”, giảm giá thành sản xuất để từ đó khẳng định vị thế của nền khoa học, công nghệ nước nhà trên trường quốc tế và khu vực.
 
Bài, ảnh: PV