Bộ KH&CN ban hành Kế hoạch cải cách hành chính giai đoạn 2016 – 2020

CCHC tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực KH&CN
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) vừa ký Quyết định 837/QĐ-BKHCN ngày 12/4/2016 ban hành Kế hoạch cải cách hành chính (CCHC) của Bộ giai đoạn 2016 – 2020. Theo đó, Bộ sẽ tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật (VBQPPL) theo hướng minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực KH&CN, phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết của Việt Nam.
 
 
Theo Kế hoạch, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện chương trình CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020 và Kế hoạch CCHC giai đoạn 2016-2020 của Thủ tướng Chính phủ. Kế hoạch hướng đến mục tiêu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống VBQPPL theo hướng minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực KH&CN, phù hợp với thông lệ quốc tế và cam kết của Việt Nam; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính (TTHC) theo hướng đơn giản, dễ tiếp cận và dễ thực hiện nhằm tạo sự bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, minh bạch hướng tới nền hành chính phục vụ tổ chức, cá nhân góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; cải cách TTHC giữa các đơn vị thuộc Bộ và trong nội bộ từng đơn vị thuộc Bộ;
 
Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy của Bộ; tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt KH&CN và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH&CN công lập; tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, quản lý và triển khai thực hiện có hiệu quả Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo điều hành, triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ cao;…
 
Về cải cách thể chế, Bộ sẽ xây dựng, ban hành kế hoạch xây dựng VBQPPL hàng năm; nâng cao chất lượng xây dựng VBQPPL, đảm bảo đúng tiến độ theo kế hoạch đã được Bộ phê duyệt. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống VBQPPL trong lĩnh vực KH&CN góp phần tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu CCHC. 
 
Đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đa dạng hóa các phương pháp tuyên truyền; lồng ghép công tác thông tin, tuyên truyền cải cách hành chính với công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về KH&CN. 
 
Trong công tác CCTTHC, thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, rà soát, đánh giá, công bố, công khai TTHC theo quy định; kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các TTHC trong các VBQPPL, sửa đổi, bổ sung các TTHC, bảo đảm theo hướng đơn giản, minh bạch; đẩy nhanh việc thống kê, công bố, công khai các TTHC mới ban hành, TTHC được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bị bãi bỏ, hủy bỏ thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ; tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính và giám sát thực hiện các TTHC của các đơn vị thuộc Bộ;…
 
Về cải cách tài chính công, Bộ sẽ xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước trung hạn và hằng năm; phân bổ, cân đối ngân sách nhà nước, quản lý chi tiêu hiệu quả. Tiếp tục cải tiến công tác dự toán, phân bổ, cân đối ngân sách nhà nước và quản lý chi tiêu để tạo sự chủ động và tăng cường trách nhiệm của các đơn vị, bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, chống lãng phí; thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, cụ thể về công tác kế hoạch, tài chính. Đẩy mạnh cải cách các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công theo hướng tăng cường giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về mọi mặt hoạt động của đơn vị thay cho việc hỗ trợ kinh phí hoạt động thường xuyên cho đơn vị.
 
Đặc biệt, để hiện đại hóa nền hành chính, Bộ tiếp tục tổ chức thực hiện triển khai các chủ trương, chiến lược, cơ chế, chính sách, chương trình, kế hoạch, đề án về phát triển ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý của Bộ; xây dựng, hoàn thành hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin của ngành bao gồm hệ thống mạng thông tin, trang thiết bị máy tính, hệ thống thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về KH&CN; đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ và các dịch vụ về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, công tác nghiên cứu, ứng dụng KH&CN và hợp tác quốc tế về lĩnh vực công nghệ thông tin; công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên mạng thông tin điện tử của Bộ và các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ;…
 
Tin, ảnh: Hạnh Nguyên

Tổ chức lại Ban chỉ đạo các Chương trình KH&CN quốc gia

 
Các chương trình KH&CN quốc gia được tổ chức lại BCĐ
 
Thủ tướng Chính phủ vừa có Quyết định 1325/QĐ-TTg về việc tổ chức lại Ban Chỉ đạo các Chương trình khoa học và công nghệ (KH&CN) quốc gia.
Cụ thể, tổ chức lại 3 Ban Chỉ đạo của các Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 và Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, thành một Ban Chỉ đạo các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia (Ban Chỉ đạo).
 
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam làm Trưởng Ban Chỉ đạo. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ làm Phó trưởng Ban Chỉ đạo.
 
Các Ủy viên Ban Chỉ đạo gồm đại diện lãnh đạo các bộ, cơ quan: Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính; Bộ Y tế; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Công Thương; Bộ Quốc phòng; Văn phòng Chính phủ.
 
Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối hoạt động giữa các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc triển khai thực hiện các nội dung nhiệm vụ của Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2020, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020 và Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 (các Chương trình).
 
Bên cạnh đó, nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ về phương hướng, cơ chế, chính sách và các giải pháp để thực hiện các Chương trình cho từng thời kỳ, từng giai đoạn.
 
Đồng thời, giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương rà soát, xây dựng các cơ chế chính sách và giải pháp về tài chính, thuế, thị trường, đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực và các cơ chế, chính sách khác cho các Chương trình.
 
Thành viên Ban Chỉ đạo hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm. Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo, có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện hoạt động của Ban Chỉ đạo và sử dụng bộ máy của mình để tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo. Cơ quan chuyên trách giúp việc Ban Chỉ đạo là Văn phòng các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ.
 
Tin, ảnh: Đăng Minh

Hội thảo khu vực về xây dựng các quy định an toàn hạt nhân

 
Các đại biểu tham dự Hội thảo (Ảnh: Cục ATBXHN)
 
Từ ngày 27/6-01/7, trong khuôn khổ Dự án hỗ trợ kỹ thuật RAS/9/061 của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) đã phối hợp với IAEA tổ chức Hội thảo khu vực về Xây dựng các quy định an toàn hạt nhân.
Tham dự Hội thảo có chuyên gia IAEA và đại biểu đến từ các nước: Brazil, Pakistan, Bangladesh, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.
 
Mục đích của Hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm của các chuyên gia quốc tế trong việc giúp các quốc gia thành viên nâng cao năng lực xây dựng, soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về an toàn hạt nhân theo các yêu cầu, hướng dẫn của IAEA.
 
Tại Hội thảo, Phó Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân Lê Quang Hiệp đã nhận định sự cần thiết của việc xây dựng các quy định an toàn hạt nhân và Hội thảo này là cơ hội tốt cho Việt Nam trong trao đổi thông tin cũng như nhận được nhiều chia sẻ kinh nghiệm từ các nước trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về an toàn hạt nhân.
 
Dự án RAS/9/061 về “Tăng cường năng lực các cơ quan pháp quy hạt nhân trong khu vực và văn hóa an toàn” nhằm hỗ trợ các quốc gia thành viên tăng cường năng lực cho cơ quan pháp quy và nâng cao văn hóa an toàn.
 
PV
 
 

Thứ trưởng Phạm Công Tạc tiếp Đoàn công tác liên ngành của Hoa Kỳ

 
Chiều ngày 23/6/2016, Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc đã tiếp Đoàn công tác liên ngành của Hoa Kỳ, trong khuôn khổ chương trình làm việc của Đoàn tại Việt Nam.
 
 
Đoàn công tác liên ngành của Hoa Kỳ đến Việt Nam lần này bao gồm các quan chức của Bộ Ngoại giao, Bộ Năng lượng và Hội đồng An ninh quốc gia của Nhà Trắng, do ông Eliot Kang, Phó Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách về các vấn đề liên quan đến hạt nhân, làm trưởng đoàn.
Tham dự buổi tiếp, về phía Bộ KH&CN, còn có đại diện Lãnh đạo của Vụ Hợp tác quốc tế, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Cục Năng lượng nguyên tử và Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Mục đích của buổi làm việc này nhằm thảo luận về hợp tác song phương trong năng lượng dân sự cũng như tạo cơ hội để thúc đẩy, xác định những lĩnh vực hợp tác mới trong hợp tác hạt nhân dân sự giữa 2 nước, như được đề cập trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Barack Obama vào tháng 5/2016 vừa qua.
Tại buổi làm việc, 2 bên đã trao đổi về thành lập Ủy ban hỗn hợp hợp tác về hạt nhân dân sự, thành lập Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật về an ninh và an toàn hạt nhân, các hoạt động hợp tác khác trong bản Tuyên bố, Việt Nam tham gia Công ước về bồi thường thiệt hại hạt nhân và Công ước quốc tế về ngăn chặn khủng bố hạt nhân, đề xuất về Đối thoại về không phổ biến hạt nhân giữa Việt Nam và Hoa Kỳ,…
 
Nguồn:  LA, Cục ATBXHN

Sản xuất thành công chủng khởi động ứng dụng trong sản xuất sữa chua và phomat

 
Toàn cảnh buổi nghiệm thu
 
Chiều 23/6, tại Hà Nội, Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đã tiến hành nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu sản xuất chủng khởi động và ứng dụng trong sản xuất sữa chua và phomat”. Đề tài mang mã số KC.07.12/11-15 do Ths Đặng Thu Hương – Viện Công nghệ thực phẩm (Bộ Công thương) làm chủ nhiệm. Đề tài thuộc Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước “Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sau thu hoạch” KC07/11-15.
Thị trường các sản phẩm sữa tại Việt Nam được đánh giá còn rất nhiều tiềm năng. Cơ cấu thị trường tỷ lệ giữa sữa nước và sữa chua ở Việt Nam là 80/20. Các nước càng phát triển thì nhu cầu sử dụng sữa càng tăng dần. Dự đoán công nghiệp sản xuất sữa chua ở Việt Nam còn tăng trưởng 20 % trong 10 năm nữa và sau 5 năm sẽ đuổi kịp Thái Lan. Thị trường phomat được đánh giá còn rất nhiều tiềm năng, đặc biệt là phomat chế biến hợp với khẩu vị và sở thích của người Việt Nam.
 
Tại buổi nghiệm thu, Ths Đặng Thu Hương cho biết: Mục tiêu của đề tài có được bộ chủng giống vi khuẩn làm giống khởi động cho sản xuất sữa chua và phomat; Xây dựng được quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị để sản xuất giống khởi động cho sản xuất sữa chua và phomat; Tạo ra được các chế phẩm giống khởi động phục vụ sản xuất sữa chua và phomat; Xây dựng được quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị sản xuất phomat dạng mềm có sử dụng giống khởi động; Tạo ra được các sản phẩm sữa chua, phomat dạng mền có sử dụng giống khởi động của đề tài.
 
Theo đó, đề tài tập trung vào nghiên cứu: Tổng quan về sản xuất, sử dụng chế phẩm khởi động cho sữa chua và phomat; Nghiên cứu tuyển chọn chủng giống khởi động cho lên men sữa chua và phomat và xây dựng hồ sơ chủng giống; Nghiên cứu công nghệ sản xuất chế phẩm giống khởi động cho sản xuất sữa chua, phomat; Xây dựng mô hình dây chuyền thiết bị sản xuất chế phẩm giống khởi động cho lên men sữa chua và phomat quy mô; Nghiên cứu công nghệ và xây dựng mô hình dây chuyền thiết bị sản xuất phomat mền có sử dụng giống khởi động; Nghiên cứu sản xuất thử nghiệm chế phẩm giống khởi động và ứng dụng giống khởi động để sản xuất sữa chua và phomat; Tiến hành sản xuất thử nghiệm sữa chua và phomat.
 
Sau 1 thời gian nghiên cứu, nhóm thực hiện đề tài đã chuyển chọn được các bộ chủng giống cho lên men sữa chua và phomat, đã xác định được các đặc điểm chủng giống, định tên chủng giống và các yếu tố công nghệ để lên men sữa chua và phomat có hương vị; xây dựng công nghệ sản xuất giống khởi động với mật độ tế bào sống cao.
 
Bên cạnh đó, đề tài đã xây dựng được mô hình thiết bị sản xuất giống khởi động cho lên men sữa chua và phomat có thể được sử dụng để sản xuất các chế phẩm sinh khối vi sinh vật khác có yêu cầu chất lượng cao và xây dựng được quy trình công nghệ và mô hình thiết bị sản xuất phomat dạng mền quy mô nhỏ.
 
Đặc biệt, đề tài đã sản xuất được giống khởi động cho sản xuất sữa chua và phomat với mật độ tế bào sống cao; được ứng dụng ở quy mô nhà máy tại Công ty cổ phần sữa Ba Vì. Các sản phẩm sữa chua và phomat được sản xuất bằng chủng khởi động của đề tài đều đạt chất lượng ổn định và có hương vị.
 
Sản phẩm của đề tài là giống khởi động cho sản xuất sữa chua và phomat có thể được sử dụng thay thế các loại giống khởi động của nước ngoài, chất lượng tương đương với sản phẩm nhập ngoại. Việc sản xuất giống khởi động trong nước trong tương lai sẽ giúp tiết kiệm ngoại tệ, giảm chi phí cho nhập khẩu.
 
Ngoài ra, giống khởi động của phomat cùng công nghệ và mô hình thiết bị sản xuất phomat sẽ giúp cho các công ty chế biến sữa, đặc biệt là các công ty có quy mô vừa và nhỏ có thể đa dạng hóa sản phẩm, tận dụng nguồn sữa tươi địa phương để chế biến các sản phẩm phomat, có giá trị dinh dưỡng và có thời gian bảo quản lâu dài hơn, đặc biệt trong những thời điểm sữa tươi, sữa chua tiêu thụ chậm.
 
Với những kết quả đã được, đề tài được Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá cao và đạt loại xuất sắc.
 
Tin, ảnh: Ánh Tuyết

Điểm tin KH&CN từ ngày 11-17/6

 
Xe lăn sáng chế vượt địa hình cầu thang bằng bánh mô phỏng xích xe tăng.
 
Xây dựng thành công quy trình sàng lọc ung thư phế quản; Bình Định – điểm đến của các nhà khoa học đỉnh cao quốc tế; Học sinh Sài Gòn chế xe lăn vượt địa hình được giải quốc tế;…là những thông tin KH&CN đáng chú ý trong tuần qua.
 
Xây dựng thành công quy trình sàng lọc ung thư phế quản
 
Nhóm nghiên cứu của Bệnh viện Phổi Trung ương do PGS.TS. Đinh Ngọc Sỹ đứng đầu mới đây đã xây dựng thành công quy trình sàng lọc ung thư phế quản (UTPQ) sử dụng ánh sáng huỳnh quang qua nội soi phế quản, quy trình chẩn đoán gen VGFR trong ung thư phế quản và quy trình điều trị đích ung thư phế quản bằng Bevacizumab phù hợp và khả thi tại Việt Nam
 
Kết quả, nhóm nghiên cứu đã xây dựng thành công quy trình sàng lọc ung thư phế quản sử dụng ánh sáng huỳnh quang qua nội soi phế quản. Quy trình đơn giản, có thể áp dụng tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh. Đồng thời, xây dựng thành công quy trình chẩn đoán gen VGFR trong ung thư phế quản. Quy trình phát hiện bộc lộ gene VEGF mRNA và kiểu gene VEGF đã được xây dựng với các yêu cầu kỹ thuật bảo đảm và cho kết quả xét nghiệm gen chính xác. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng sinh phẩm chế tạo tại đơn vị nghiên cứu, giá thành rẻ hơn của nước ngoài nhưng kết quả tương tự. Quy trình này có thể ứng dụng rộng rãi tại bất kỳ phòng xét nghiệm sinh học phân tử nào. (Theo Dân trí 16/6).
 
 
Gặp gỡ Việt Nam cùng với sự ra đời của Trung tâm nghiên cứu khoa học giáo dục, Bình Định sẽ là "điểm hẹn" hấp dẫn cho các nhà khoa học trong và ngoài nước.
 
Năm ngoái, Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trao Huân chương hữu nghị cho Giáo sư Lê Kim Ngọc và Giáo sư Trần Thanh Vân (bên phải ngoài cùng), ghi nhận cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc trẻ em hơn 40 năm qua của hai người.
 
Chương trình "Gặp gỡ Việt Nam" diễn ra tại Trung tâm quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành (ICISE) thành phố Quy Nhơn, Bình Định, từ 26/6 đến 17/12, với sự tham gia của hơn 1.600 đại biểu, trong đó có 6 giáo sư đạt giải Nobel, một giáo sư đạt huy chương Fields cùng nhiều nhà khoa học danh tiếng. 
 
Với tâm huyết của giáo sư Vân và sự ủng hộ của lãnh đạo địa phương, Bình Định hứa hẹn trở thành điểm gặp gỡ và giao lưu khoa học chất lượng cao không chỉ cho Việt Nam mà còn cho khu vực. (Theo vnexpress.net 16/6).
 
Học sinh Sài Gòn chế xe lăn vượt địa hình được giải quốc tế
 
Hai học sinh trường THPT chuyên Lê Hồng Phong vừa trở về từ Mỹ với giải ba tại cuộc thi khoa học và kỹ thuật quốc tế (Intel ISEF) do Tập đoàn Intel tổ chức. Sản phẩm đoạt giải là chiếc xe lăn sáng chế có thể vượt mọi địa hình – TN98.
 
Vinh dự hơn, Ngân – Trúc được mời đến giao lưu với tổng thống Mỹ Obama khi ông đến Sài Gòn. “Mình rất vui khi được tiếp xúc với tổng thống Mỹ. 
 
Cái tên TN98 được hai bạn ghép từ chữ cái đầu của Trúc – Ngân và năm sinh 1998. Xe dài 1,27 m; rộng 65 cm; cao 1,52 m; chạy bằng điện được sáng chế dựa trên ý tưởng ứng dụng hệ thống cân bằng động hoàn toàn mới.
 
Xe lăn được trang bị bộ điều khiển để có thể tiến, lùi, dừng, rẽ trái, phải và cảm biến tự điều chỉnh độ nghiêng của ghế. TN98 có kích thước nhỏ gọn, dễ dàng di chuyển qua các khu vực hẹp như cửa ra vào, hành lang, thang máy, bậc tam cấp…(Theo vnexpress.net 16/6).
 
Giám đốc Sở KH-CN TPHCM Nguyễn Việt Dũng: Đổi mới sáng tạo bắt đầu từ đổi mới quản lý ngành
 
Một hệ sinh thái khởi nghiệp như thế sẽ là một phần trong kế hoạch 5 năm (2015 – 2020) Sở Khoa học và Công nghệ (KH-CN) TPHCM đang bắt tay xây dựng, với mục tiêu giúp TPHCM trở thành thành phố khởi nghiệp sáng tạo. Đó là chia sẻ của ông Nguyễn Việt Dũng , Giám đốc Sở KH-CN TPHCM với phóng viên Báo SGGP trong thời điểm dòng chảy khởi nghiệp đang cuồn cuộn trong lòng thành phố.
 
Ông Nguyễn Việt Dũng cho biết: “Theo khảo sát gần đây do chúng tôi thực hiện cho thấy, TPHCM đang hình thành một cộng đồng khởi nghiệp đông đảo nhưng còn rời rạc và thiếu đi những mắc xích cần thiết. Để cộng đồng khởi nghiệp mạnh và bền vững, phải có hệ sinh thái khởi nghiệp đi kèm, với sự tham gia của Nhà nước, viện – trường, doanh nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm, các tổ chức trung gian như vườn ươm,… Trong đó, Nhà nước cần có chính sách về hỗ trợ cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực cho đội ngũ khởi nghiệp, kể cả hỗ trợ đào tạo và phát triển các tổ chức trung gian, chính sách hỗ trợ thuế, chính sách hỗ trợ tài chính…
 
Cũng theo ông Nguyễn Việt Dũng “KH-CN và đổi mới sáng tạo đang lan tỏa mọi ngóc ngách của cuộc sống. Bất kỳ một vị trí nào, lĩnh vực nào cũng liên quan đến đổi mới sáng tạo cả. Phát triển KH-CN và đổi mới sáng tạo không phải chỉ là chế tạo một cái máy, nghiên cứu một công thức khoa học, mà còn là những ý tưởng, mô hình, giải pháp sáng tạo để làm cho công việc hàng ngày của mỗi người, mỗi đơn vị nhanh hơn, hiệu quả hơn, năng suất hơn. Chỉ khi nào từ cấp lãnh đạo đến mỗi cá nhân nhận thức đầy đủ đổi mới sáng tạo là trách nhiệm và là việc làm thường xuyên, thì lúc đó KH-CN mới thực sự trở thành động lực phát triển” (Theo Sài gòn giải phóng 16/6).
 
Sử dụng ứng dụng điện thoại di động phát hiện rò rỉ trên hệ thống cấp nước
 
Ý tưởng sử dụng ứng dụng của điện thoại di động phát hiện rò rỉ trên hệ thống cấp nước của ba sinh viên Trường đại học (ĐH) Bách khoa TP Hồ Chí Minh đã giành chiến thắng trong cuộc thi Sáng kiến thông minh về nước năm 2016 do Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam phối hợp Tổng cục Tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức.
 
 
Là sinh viên năm thứ tư của Trường ĐH Bách khoa TP Hồ Chí Minh, nhóm tác giả gồm: Trịnh Quốc Anh, Nguyễn Trần Quang Khải và Võ Phi Long đã dựa trên góc nhìn của các kỹ sư tương lai để tìm ra giải pháp giải quyết thách thức vì một nguồn nước bền vững. Trịnh Quốc Anh, một thành viên của nhóm cho biết, theo số liệu thống kê của TP Hồ Chí Minh, khoảng 30% số lượng nước bị hao tổn trong quá trình phân phối nước. So với tỷ lệ thất thoát nước ở Tô-ky-ô là 3% và ở Xin-ga-po là 4% thì đây là một con số khổng lồ. Nhận thấy điện thoại di động đang được sử dụng rộng rãi với nhiều tính năng thông minh, nhóm sinh viên nói trên đã quyết định đưa ra cách giải quyết vấn đề rò rỉ nước bằng ứng dụng của điện thoại di động. Ứng dụng này sẽ cho phép người dùng có thể chủ động cung cấp thông tin về khu vực đường ống bị rò rỉ để kịp thời sửa chữa, ngăn chặn việc thất thoát nước. (Theo Nhân Dân 11/6).
 
 
 
 Hà Trang (Tổng hợp)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

Phát triển vật liệu địa chất ổn định đất cho gia cố đê điều và nền đất

 
Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế Phùng Bảo Thạch phát biểu tại Hội thảo (Ảnh: Ngũ Hiệp)
 
Sáng 22/6, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Hội Doanh nghiệp quận Long Biên và Viện Nghiên cứu xây dựng và ứng dụng Weimar (CHLB Đức) tổ chức Hội thảo quốc tế tổng kết Dự án hợp tác Việt Nam – CHLB Đức Đề tài “Nghiên cứu phát triển hệ thống vật liệu từ tro than và phế thải khoáng sản để cải tạo đê đập, san lấp mương rãnh và ổn định đất ở Việt Nam”.
Tham dự Hội thảo về phía Việt Nam có đại diện lãnh đạo và chuyên viên một số đơn vị chức năng của Bộ KH&CN, cùng đại diện viện nghiên cứu, trường đại học. Về phía Đức có đại diện lãnh đạo Viện Nghiên cứu xây dựng ứng dụng Weimar và một số Công ty của Đức.
 
Hội thảo được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho các nhà quản lý, các nhà khoa học và doanh nghiệp Việt Nam và Đức gặp gỡ, trao đổi kết quả nghiên cứu sản xuất vật liệu, kết quả thử nghiệm vật liệu gia cường đê, đập có thành phần hữu cơ cao trong thân đê, đập tại tỉnh An Giang. Các Công ty của Đức giới thiệu về công nghệ và máy thi công vật liệu ổn định và cải tạo đê đập. Hội thảo cũng là dịp để đối tác hai bên cùng trao đổi để đưa ra định hướng chuyển giao công nghệ sản xuất vật liệu và chế tạo thiết bị để trong tương lai, các doanh nghiệp Việt Nam có thể làm chủ được công nghệ này.
 
Đề tài “Nghiên cứu phát triển hệ thống vật liệu từ tro than và phế thải khoáng sản để cải tạo đê đập, san lấp mương rãnh và ổn định đất ở Việt Nam” được phối hợp triển khai giữa Hội doanh nghiệp quận Long Biên và Viện Nghiên cứu xây dựng ứng dụng Weimar là một trong các đề tài được triển khai trong Chương trình hợp tác lần thứ nhất trong khuôn khổ Ý định thư hợp tác song phương trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai và đổi mới sáng tạo.
 
 
Toàn cảnh Hội thảo (Ảnh: Ngũ Hiệp)
 
Dự án được thực hiện từ 9/2013 đến 5/2016 với mục tiêu phát triển được một hệ thống vật liệu phục vụ cho việc gia cố đê dễ bị sạt lở ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung, trên cơ sở áp dụng công nghệ sử dụng vật liệu ổn định đất được phát triển bởi vật liệu và công nghệ cao của CHLB Đức. Định hướng nghiên cứu của Dự án phù hợp với yêu cầu thực tế phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ sản xuất, nâng cao hiệu quả quản lý và khai thác hệ thống công trình thủy lợi, góp phần tích cực vào việc phòng chống thiên tai trước tình hình biến đổi khí hậu, nước biển dâng đang diễn biến ngày một phức tạp ở Việt Nam hiện nay. Vật liệu gia cố là kết quả nghiên cứu của Đề tài đã được thử nghiệm tại tỉnh An Giang, được tỉnh đánh giá cao và mong muốn được thử nghiệm trong việc gia cố đê đập của tỉnh.
 
Phát biểu tại Hội thảo, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế Phùng Bảo Thạch cho biết, hợp tác KH&CN giữa Việt Nam và CHLB Đức được hình thành và phát triển gần 40 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước và được đẩy mạnh kể từ khi Bản ghi nhớ về hợp tác KH&CN giữa Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Nghiên cứu và Giáo dục Đức BMBF được ký kết năm 1997. Từ những hoạt động hợp tác trao đổi thông tin ban đầu, quan hệ hợp tác giữa hai nước đã dần dần đi vào chiều sâu, nhiều chương trình hợp tác lớn đã được mở ra, tạo cơ hội cho các nhà khoa học hai nước cùng thực hiện các dự án nghiên cứu chung, cùng trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu, chia sẻ tri thức, đào tạo chuyên sâu và cùng công bố các công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế. 
 
“Từ chỗ Dự án chỉ được thực hiện bởi các nhà khoa học, đến nay các chương trình, Dự án hợp tác đã thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp hai nước. Điều đó cho thấy các Đề tài, Dự án hợp tác ngày càng có định hướng ứng dụng cao”, ông Phùng Bảo Thạch cho hay.
 
TS. Ulrich Wilhelm Palzer, Viện trưởng Viện Nghiên cứu xây dựng ứng dụng Weimar đã bày tỏ vui mừng trước những kết quả Dự án đạt được trong thời gian qua và nhấn mạnh đây là một trong những Dự án điển hình thí điểm để hai bên tiếp tục hợp tác, triển khai trong thời gian tới.
 
Trong khuôn khổ diễn ra Hội thảo, các đại biểu cũng đã trao đổi, thảo luận về khả năng ứng dụng kết quả của dự án trong thực tế để gia cố đê đập, ổn định đất cho các công trình thủy lợi tại Việt Nam. 
 
Bảo Chi
 
 
 
 

Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo

     
Chia sẻ trang trên FBChia sẻ trang trên Google+Chia sẻ trang trên LinkedinChia sẻ trang trên TwitterChia sẻ trang trên WordPress
(Mic.gov.vn) – 
91 năm qua, Báo chí Cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, đã luôn đồng hành cùng những chặng đường đấu tranh kiên cường của Đảng ta, nhân dân ta, vì độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội; đã có đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc.
 
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ báo chí trong và ngoài nước tại Thủ đô Hà Nội (5-1968)
 
Đến nay, báo chí nước ta đã có bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ về nhiều mặt. Diện mạo, số lượng, chất lượng các ấn phẩm, các chương trình phát thanh, truyền hình và công nghệ làm báo… đã đạt được những bước tiến lớn. Chất lượng chính trị, chất lượng văn hóa và kỹ thuật – nghiệp vụ của báo chí ngày càng được cải thiện. Đội ngũ những người làm báo tăng nhanh, mặt bằng trình độ được nâng cao.
 
Xu thế toàn cầu hóa truyền thông, thông tin vừa là cơ hội, vừa là thách thức lớn đối với hoạt động báo chí và công tác quản lý báo chí. Bên cạnh những thành tựu, hoạt động báo chí còn bộc lộ không ít hạn chế, khuyết điểm. Còn có biểu hiện thiếu nhạy bén chính trị; chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận, phát hiện, tuyên truyền các điển hình tiên tiến, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước; chưa thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; còn để lọt thông tin không trung thực, thiếu chính xác, giật gân, câu khách, lộ bí mật, xâm phạm đời tư; tình trạng xào xáo tin bài diễn ra thường xuyên… Còn có cán bộ, phóng viên vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thậm chí vi phạm pháp luật.
 
Kỷ niệm 91 năm Ngày Báo chí Cách mạng, Hội Nhà báo Việt Nam phát động đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn thể hội viên và các cấp hội về việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người làm báo; đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh – nhà báo cách mạng bậc thầy; thảo luận, sửa đổi, bổ sung Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam được thông qua tại Đại hội lần thứ VIII – Hội Nhà báo Việt Nam (năm 2005). Đợt sinh hoạt chính trị gắn với yêu cầu các cấp hội và toàn thể hội viên quán triệt sâu sắc, triển khai thực hiện và tuyên truyền có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội X Hội Nhà báo Việt Nam, Luật Báo chí (sửa đổi) và Quy hoạch và phát triển báo chí đến năm 2025.
 
Yêu cầu và nhiệm vụ thời gian tới đặt ra cho báo chí hết sức nặng nề nhưng cũng thật vẻ vang. Muốn hoàn thành sứ mệnh của mình, người làm báo cách mạng bên cạnh vững vàng về tư tưởng chính trị, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ còn phải gương mẫu về đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, xứng đáng là đội quân xung kích trên mặt trận tư tưởng – văn hóa của Đảng, xứng đáng với sự tin yêu, đùm bọc của nhân dân.
Theo Nhân Dân

Sản xuất polymaltose từ tinh bột và tạo các phức hợp sắt và canxi

 
Nhóm chuyên gia kiểm tra quá trình bổ sung enzym đường hóa và kiểm tra quá trình đường hóa
 
Ngày 17/6, tại Hà Nội đã diễn ra phiên họp nghiệm thu cấp Nhà nước Đề tài “Nghiên cứu sản xuất polymaltose từ tinh bột và tạo các phức hợp sắt-polymaltose (IPC) và canxi hydroxyapatite-polymaltose (HAP) ứng dụng trong dược phẩm” mã số KC.07.14/11-15 do PGS.TS. Phan Thị Ngọc Bích, Viện Hóa học – Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam làm Chủ nhiệm Đề tài.
Sau gần 2 năm thực hiện, Đề tài đã xây dựng được quy trình công nghệ xử lý tinh bột sắn và tiêu chuẩn chất lượng tinh bột sắn dùng làm nguyên liệu để sản xuất polymaltose; xác định được các điều kiện dịch hóa tinh bột để làm nguyên liệu để làm nguyên liệu phù hợp cho quá trình đường hóa tạo polymaltose. 
 
Đặc biệt, nhóm nghiên cứu đã xây dựng được qui trình công nghệ sản xuất polymaltose từ tinh bột qui mô công nghiệp 1000 kg/mẻ, triển khai sản xuất được 1100 kg polymaltose; xây dựng được tiêu chuẩn cơ sở cho sản phẩm polymaltose dùng trong tạo phức IPC và HAP, đạt các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm;  và xây dựng được quy trình công nghệ sản xuất IPC quy mô 50 kg/mẻ.  
 
Đến nay, Đề tài đã triển khai sản xuất được 400 kg sản phẩm IPC và 400 kg HAP chuyển giao cho Công ty Mê Linh làm nguyên liệu sản xuất được 4000 hộp Fecafovit, 3000 hộp Fe-Nana và 3000 hộp ColosMax Q10. Ngoài ra, Đề tài đã hoàn thành các nội dung khác về công trình nghiên cứu khoa học, đào tạo và đăng ký bảo hộ độc quyền giải pháp hữu ích.
 
Nhóm nghiên cứu Đề tài đề xuất được triển khai dự án sản xuất thử nghiệm trong thời gian tới nhằm sản xuất rộng rãi và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
 
Tin, ảnh: Hoàng Anh

Hoàn thiện quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị nuôi cá lồng vùng biển mở và ứng dụng nuôi cá giò thương phẩm

 
Lắp đặt lồng nuôi cá vùng biển mở
 
Ngày 15/6, tại Hà Nội, Hội đồng Nghiệm thu cấp Nhà nước đã đánh giá nghiệm thu Dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị nuôi cá lồng vùng biển mở và ứng dụng nuôi cá giò thương phẩm” mã số KC.07.DA07/11 – 15 do ThS. Chu Chí Thiết, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I làm Chủ nhiệm.
Việt Nam có tiềm năng to lớn để phát triển nuôi biển, với hơn 3600 km đường biển và nhiều hòn đảo lớn nhỏ, tạo ra nhiều vùng mặt nước có điều kiện phù hợp để phát triển nuôi trồng thủy sản. Thực tế cho thấy, nghề nuôi trồng thủy sản đã và đang đóng góp vai trò lớn vào hoạt động sinh kế, tạo việc làm và cải thiện đời sống cho ngư dân và các nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc nuôi cá ở các vùng ven bờ, vịnh kín sóng gió đang chịu ảnh hưởng do ô nhiễm môi trường, dịch bệnh bùng phát đã gây thiệt hại cho người nuôi. Mặt khác, nuôi cá biển tại các eo, vịnh thường xung đột lợi ích với các hoạt động khác như giao thông vận tải, du lịch và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên
 
Đó chính là lý do Dự án trên được thực hiện, nhằm hoàn thiện quy trình công nghệ và hệ thống thiết bị tiên tiến phục vụ nuôi cá lồng vùng biển mở với quy mô 4 lồng trắng tròn bằng vật liệu nhựa HDPE, mỗi lồng có dung tích 1.200m3 chịu được gió đến cấp 12. Đồng thời xây dựng mô hình nuôi cá giò (Rachycentron canadum) trong lồng ở vùng biển mở, năng suất 15 tấn/ lồng, sản lượng đạt 60 tấn/chu kỳ 12 tháng.
 
Sau hơn 3 năm thực hiện, Dự án đã hoàn thiện được thiết kế, lắp đặt và vận hành hệ thống 04 lồng cá biển mở dung tích 1.200m3, đường kính 15m, có khả năng điều khiển chìm, nổi tới độ sâu 10m. Nhóm thực hiện Dự án cũng đã xây dựng được mô hình trang trại nuôi thương phẩm cá giò, cá chim vây vàng quy mô công nghiệp tại Vịnh Vân Phong, tỉnh Khánh Hòa với Tổng sản phẩm thu hoạch được là 65,1 tấn cá thương phẩm trong đó cá giò đạt được 30 tấn, năng suất 12,6 kg/ m3, cỡ 4,2-4,5kg/con, cỡ tỷ lệ sống 74%, hệ số thức ăn 2,6; cá chim vây vàng tiến hành 2 vụ nuôi, thu được 34,9 tấn, cỡ trung bình 0,6 kg/con, tỷ lệ sống đạt 82%. Hệ số thức ăn 2,2. Trong quá trình nuôi, cá chim không xuất hiện dịch bệnh gây chết cá.
 
 
Toàn cảnh buổi nghiệm thu
 
 Đồng thời, nhóm thực hiện Dự án đã xác định được 5 loài sinh vật bám vào các bộ phận của hệ thống lồng nuôi, gồm: Sun thuộc giống Balanus sp, thuộc lớp Maxillopoda, ngành Athropoda. Ngoài ra còn xuất hiện một số loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ gồm 3 giống Perna viridis, Pinctada và Ostrea; định kỳ 30 ngày kéo lưới giặt từng phần bằng máy bơm cao áp hoặc định kỳ 60 ngày thay lưới lồng nuôi để hạn chế sự tăng lên của sinh vật bám vào lưới lồng…
 
Kết quả đạt được của Dự án là cơ sở để mở rộng nghề nuôi cá vùng biển mở ở nước ta, góp phần thực hiện Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 theo Quyết định 1690/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và khẳng định chủ quyền biển đảo của nước ta trong bối cảnh hiện nay.
 
Nhóm thực hiện Dự án đề xuất tiếp tục nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng và sản xuất thức ăn công nghiệp cho cá giò nhằm giảm ảnh hưởng của việc sử dụng cá tạp trong nuôi thương phẩm cá giò ở Việt Nam. Nhóm cũng đã kiến nghị Bộ Khoa học và Công nghệ tiếp tục hỗ trợ về vốn và các chính sách nhằm khuyến khích để Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I và các doanh nghiệp tham gia mở rộng, phát triển nghề nuôi cá biển nhằm góp phần phát triển kinh tế biển, hải đảo ở nước ta trong thời gian tới.
 
Tin, ảnh: Phương Nga