Chế độ tự chủ tài chính của tổ chức KH&CN công lập

 
 
 
Theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP tổ chức KH&CN công lập sẽ tự chủ về tài chính trong hoạt động
 
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 54/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ (KH&CN) công lập thay thế Nghị định số 115/2005/NĐ-CP và Điều 1 Nghị định số 96/2010/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP.
Sau 10 năm triển khai Nghị định số 115/2005/NĐ-CP với tinh thần đổi mới và giao quyền tự chủ mạnh mẽ cho tổ chức KH&CN công lập, nhất là các quyền về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tài sản, tổ chức bộ máy và nhân lực, nhiều tổ chức KH&CN đã chuyển đổi thành công, khẳng định được vị thế, thương hiệu của đơn vị trên thị trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ khoa học. 
 
Tuy nhiên việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định 115/2005/NĐ-CP đến nay chưa có nhiều kết quả, các đơn vị chưa tự chủ được nguồn kinh phí bảo đảm tiền lương, kết quả nghiên cứu về cơ bản chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội…
 
Chính vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2016/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập. Nghị định này quy định quyền tự chủ của tổ chức KH&CN công lập bao gồm quyền tự chủ về tài chính, thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự, quản lý và sử dụng tài sản.
 
Theo Nghị định, tổ chức KH&CN công lập được phân loại theo mức độ tự bảo đảm về chi thường xuyên và chi đầu tư gồm: Tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; tổ chức KH&CN công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
 
Nghị định 54/2016/NĐ-CP quy định rõ tự chủ về tài chính của các tổ chức KH&CN công lập trên. Cụ thể, nguồn tài chính của tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư và tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm chi thường xuyên gồm nguồn thu từ hoạt động KH&CN, sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết và nguồn thu hợp pháp khác; nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại để chi hoạt động thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí; nguồn thu từ ngân sách nhà nước nếu được cơ quan có thẩm quyền giao để thực hiện nhiệm vụ KH&CN, nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, dịch vụ sự nghiệp công; nguồn thu từ ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ không thường xuyên nếu được cơ quan có thẩm quyền giao; nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định hiện hành.
 
Nguồn tài chính đối với tổ chức KH&CN công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên và tổ chức KH&CN công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên gồm: nguồn thu từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ KH&CN, nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng, dịch vụ sự nghiệp công; nguồn thu từ ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ không thường xuyên; nguồn thu phí theo pháp luật về phí, lệ phí được để lại để chi hoạt động thường xuyên và chi mua sắm, sửa chữa lớn trang thiết bị, tài sản phục vụ công tác thu phí; nguồn vốn vay, viện trợ, tài trợ theo quy định hiện hành; nguồn thu từ hoạt động KH&CN, hoạt động sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết và nguồn thu khác theo quy định hiện hành.
 
Nghị định cũng quy định chính sách ưu đãi đối với tổ chức KH&CN công lập. Theo đó, tổ chức KH&CN công lập được hưởng chính sách ưu đãi về thuế theo quy định hiện hành. Cụ thể, tổ chức KH&CN công lập được vận dụng cơ chế tài chính như doanh nghiệp thì được hưởng ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp như đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cụ thể được áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười lăm năm, được miễn thuế tối đa không quá bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp tối đa không quá chín năm tiếp theo.
 
Ngoài ra, tổ chức KH&CN công lập còn được hưởng chính sách ưu đãi về tín dụng và các ưu đãi khác theo quy định hiện hành.
 
Tin, ảnh: Đăng Minh

Đại học Bách khoa Hà Nội tổ chức Hội thảo về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin

Từ ngày 12- 13/5 tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã diễn ra Hội thảo về “Future Electronics Technology day – Internet of Things”. Đây là Chương trình hợp tác giữa Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng và Sáng tạo Công nghệ (CTI) – Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội và Công ty Future Electronics.
Mục đích của Hội thảo là giới thiệu các sản phẩm và giải pháp kỹ thuật của các đối tác của công ty Future Electronics như STM, Rohm, Littelfuse, Exar, TE Connectivity, NXP, Sierra Wireless, Cypress, ON-Semi, Diode Inc. cho các khách hàng, các cán bộ nghiên cứu và các sinh viên.
 
Tại Hội thảo, PGS.TS. Tạ Cao Minh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng và Sáng tạo Công nghệ (CTI) và Ông TEO Yew Meng, Phó chủ tịch khu vực ASEAN của công ty Future Electronics đã ký thoả thuận hợp tác (MOU) về nghiên cứu chung, đào tạo và hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học.
 
Các bài trình bày và sản phẩm trưng bày về các giải pháp, công nghệ cho các ứng dụng trong lĩnh vực truyền thông, năng lượng, đo lường, điều khiển của các công ty đối tác đã thu hút được sự quan tâm của hơn 200 đại biểu từ các doanh nghiệp, các trường đại học, viện nghiên cứu.
 
 
Ông Tạ Cao Minh, Giám đốc CTI phát biểu tại hội thảo
 

 

Với xu hướng hội nhập toàn cầu trong thời đại ngày nay, đặc biệt là gần đây Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), thì đây là cơ hội tốt để các nhà nghiên cứu và các doanh nghiệp trong nước có cơ hội để tiếp cận trực tiếp với các hãng sản xuất và cung cấp thiết bị, công nghệ uy tín thế giới.
 
Được thành lập năm 1968, Future Electronics là công ty cung cấp linh kiện bán dẫn  hàng đầu trên thế giới. Công ty có trụ sở chính tại Canada, với các chi nhánh tại 42 quốc gia, trong đó có Singapore và văn phòng đại diện mới mở tại Việt Nam.
 
Tin, ảnh: P.H

19 doanh nghiệp được hỗ trợ khởi nghiệp ứng phó biến đổi khí hậu

 
 
 
Các doanh nghiệp sẽ được tài trợ về vốn, kỹ năng để triển khai dự án của mình. (Ảnh: T.L/Vietnam+)
 
Ngày 14/6, Dự án Hỗ trợ kỹ thuật Trung tâm Đổi mới Sáng tạo Ứng phó với Biến đổi khí hậu Việt Nam (VCIC) đã tổ chức lễ trao giải “Khởi nghiệp sáng tạo ứng phó với biến đổi khí hậu” cho 19 doanh nghiệp tại Hà Nội.
Trong 19 doanh nghiệp này, có đơn vị làm “Dây chuyền máy đúc gạch không nung tự động,” “Hệ thống chiếu sáng tiết kiệm năng lượng dẫn dụ cá sử dụng đèn LED” hoặc có những công nghệ hiện đại như “Lưới điện mặt rời mini,” “Trạm thời tiết khí hậu tự động công nghệ iMetos và phần mềm kết nối thông tin, dự báo và cảnh báo tự động thời tiết, sâu bệnh”…
 
Theo đại diện ban tổ chức, tùy từng quy mô, mỗi dự án sẽ được hỗ trợ khoản tiền tương ứng và cao nhất là 75.000 USD để phát triển sản phẩm.
 
Phát biểu tại sự kiện, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chu Ngọc Anh cho hay, năm 2015, thông qua tài trợ không hoàn lại của Ngân hàng Thế giới từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Bộ Phát triển quốc tế Vương quốc Anh (DFID) và Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia (DFAT), Bộ Khoa học và Công nghệ đã hoàn thiện và trình Chính phủ phê duyệt Danh mục VCIC.
 
Hiện tại, VCIC đang triển khai những hoạt động ban đầu để tìm kiếm, lựa chọn và hỗ trợ ươm tạo các ý tưởng sáng tạo công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua tổ chức Cuộc thi chứng minh ý tưởng. 
 
Trải qua quá trình lựa chọn, đánh giá đối với hơn 300 ý tưởng dự án đăng ký tham gia, Bộ Khoa học và Công nghệ kết hợp với các chuyên gia độc lập của WorldBank đã lựa chọn ra 19 doanh nghiệp có ý tưởng xuất sắc, chứng minh được tác động tích cực của công nghệ đối với tăng trưởng xanh và xây dựng nền kinh tế cacbon thấp ở Việt Nam để nhận được tài trợ trong đợt này.
 
Mục tiêu của VCIC trong 3 năm đầu hoạt động sẽ hỗ trợ 48 doanh nghiệp địa phương tiếp cận với đổi mới sáng tạo và công nghệ sạch, giúp cung cấp sản phẩm, dịch vụ tới 1.700 hộ gia đình./.
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết VCIC sẽ tiếp tục lựa chọn và ươm tạo những ý tưởng sáng tạo về công nghệ ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua nhiều cuộc thi hơn nữa.
 
YÊN THỦY (VIETNAM+) 

Giáo dục giới tính cho trẻ: bí mật cần được bật mí

TTO – Cậu bé Alfred có một bí mật cực kỳ khó chịu về người chủ nhà đang thuê mẹ cậu dọn dẹp. Nếu nói ra, mẹ cậu sẽ mất việc; nếu không nói, cậu sẽ phải tiếp tục sự chịu đựng kinh khủng. 
 
 
Bộ sách Giáo dục giới tính toàn diện dành cho trẻ – Ảnh: Nhã Nam
 
Sự kinh khủng đó có lẽ nhiều trẻ em cũng đang phải chịu đựng…
 
Đó là một trong những câu chuyện nhỏ nằm trong bộ sách Giáo dục giới tính toàn diện dành cho trẻ em và phụ huynh do Công ty Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn giới thiệu, sẽ ra mắt trong tháng sách mừng Tết thiếu nhi (1-6).
 
Nỗ lực trong việc xây dựng một môi trường an toàn, lành mạnh cho trẻ, bộ sách gồm bốn cuốn: Không là không, Bí mật rất cần bật mí, An toàn cho con yêu, Thuyền 
trưởng cướp biển.
 
Tác giả kể nhiều câu chuyện thú vị kèm theo những câu hỏi để cha mẹ tương tác với con, đề xuất cách giải quyết những tình huống khó mà bất kỳ cô, cậu bé nào 3 tuổi trở lên cũng từng gặp phải.
 
Thậm chí trong sách còn có kèm thông tin về đường dây nóng và các tổ chức bảo trợ trẻ em trong trường hợp cấp thiết. Đây là bộ sách của tác giả Jayneen Sanders – giáo viên tiểu học có kinh nghiệm, cũng là tác giả có nhiều năm viết sách trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em tại Úc.
 
Trong tháng 6, kèm theo việc phát hành bộ sách, Nhã Nam sẽ tổ chức các tọa đàm về giáo dục giới tính cho trẻ nhỏ với sự tham gia của những chuyên gia tâm lý và các bậc phụ huynh quan tâm.
 
MINH TRANG
 

Nhiều cuốn sách hướng dẫn sáng tạo cho trẻ em ra mắt dịp hè

Sách chú trọng thực hành, giúp trẻ tự tạo được những món đồ chơi từ vật dụng đơn giản như giấy, bìa carton…
 
Đinh Tị Books mới phát hành loạt sách sáng tạo mua bản quyền từ nhà xuất bản Usborne của Anh. Các đầu sách phong phú về nội dung như 365 ý tưởng sáng tạo – biến giấy báo, bìa carton bỏ đi thành các vật dụng có giá trị, 365 trò chơi khoa học khó mà dễ, dễ mà khó, 1000 ý tưởng sáng tạo, bộ sách dành cho các bé gái – Thế giới các nàng tiên xinh đẹp và Nông trại siêu vui nhộn hay Tự thiết kế thiệp đẹp với phương pháp siêu đơn giản…
 
 
Nhiều sách sáng tạo ra mắt dịp hè.
Đặc điểm chung của những cuốn sách này là nhiều hình ảnh, ít chữ. Sách cung cấp cho trẻ hàng trăm ý tưởng để tạo ra các vật dụng như đồ trang trí trong phòng, thiệp mừng sinh nhật, đèn ngủ hay làm váy từ áo cũ… Thực hành chính là cách những cuốn sách này "đối thoại" với độc giả.
 
 
Sách hướng dẫn tỉ mỉ từng bước thực hiện một sản phẩm.
 
Các cuốn sách giúp trẻ tự rèn sự khéo léo, tỉ mỉ của đôi tay, sự nhanh nhạy, thông minh khi biết tận dụng các đồ vật trong nhà và tư duy logic khi biết kết hợp nhiều vật dụng khác nhau để tạo nên một sản phẩm có ý nghĩa.
 
Loạt sách phát hành đúng dịp hè, phù hợp để trẻ vừa thực hành vừa vui chơi trong những ngày nghỉ.
 
Di Ca

Cuộc thi ‘Đại sứ Văn hóa đọc Thủ đô 2016’ khởi động

Cuộc thi viết dành cho học sinh Tiểu học và Trung học cơ sở say mê đọc sách và muốn chia sẻ đến cộng đồng.
Cuộc thi "Đại sứ Văn hóa đọc thủ đô 2016" do Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, Trung tâm Hợp tác Trí tuệ Việt Nam (VICC) và Hội Truyền thông thành phố Hà Nội phối hợp tổ chức. Cuộc thi nằm trong khuôn khổ dự án Cùng đọc sách – Let's Read của VICC.
 
Cuộc thi được phát động tại Hội sách Thiếu nhi 1/6 – hội sách lần đầu tiên được tổ chức tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
 
 
Cuộc thi hướng đến lứa tuổi thiếu nhiên và nhi đồng (tương ứng với bậc học Tiểu học và Trung học cơ sở).
Bài dự thi là một bài viết bằng tiếng Việt (dài không quá 800 từ) hoặc tiếng Anh (khoảng 500 từ), trong đó thể hiện hai nội dung: viết về một quyển sách có ý nghĩa nhất và chia sẻ ý tưởng để khuyến khích mọi người đọc sách nhiều hơn cũng như lan tỏa tình yêu sách trong cộng đồng nếu được chọn là đại sứ.
 
Danh hiệu "Đại sứ Văn hóa đọc Thủ đô" sẽ được trao tặng cho 32 học sinh tại Hà Nội, những em có bài viết hay nhất về cuốn sách tâm đắc. Trong đó, có hai "Đại sứ Văn hóa đọc Thủ đô tiêu biểu" và 30 "Đại sứ Văn hóa đọc Thủ đô". Tổng giá trị giải thưởng là 50 triệu đồng.
 
Ban tổ chức nhận bài dự thi đến hết 15/9, tổng kết, trao giải trong Hội sách Hà Nội 2016 tại Hoàng Thành – Thăng Long dịp 10/10.
 
Theo : vnexpress.net

6 tỷ đồng đào tạo một thạc sĩ công nghệ vũ trụ

6 tỷ đồng là con số phải chi cho đào tạo một thạc sĩ công nghệ vũ trụ tại Nhật Bản, cho thấy mức đầu tư bài bản, chịu chi của chúng ta nhằm thực hiện quyết tâm đến năm 2020 sẽ làm chủ công nghệ chế tạo vệ tinh.
 
6 tỷ đồng, liệu có quá đắt?
 
Tư duy đào tạo nguồn nhân lực công nghệ vũ trụ hiện nay là không chỉ đào tạo cho cán bộ của mình mà cho đội ngũ thế hệ những người hoạt động trong ngành vũ trụ tại Việt Nam. Ví von một cách hình ảnh, PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Giám đốc Trung tâm vệ tinh quốc gia (VNSC) cho biết sẽ đào tạo và giữ người tài như mô hình một đội bóng. Không có tư duy cá nhân trong phát triển ngành công nghệ vũ trụ. Một người giỏi không thể làm nên một tập thể giỏi.
 
 
Lễ tốt nghiệp của khóa 1 trong chương trình đào tạo thạc sĩ công nghệ vũ trụ tại Đại học Keio, Nhật Bản (16/9/2015)
Xác định rõ nguồn nhân lực là vô cùng quan trọng, trong thời gian qua, VNSC đã có kế hoạch phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành công nghệ vũ trụ. Hiện tại VNSC đã cử nhiều cán bộ trẻ sang Nhật Bản tham gia các khóa đào tạo Thạc sĩ về công nghệ vũ trụ tại 5 trường Đại học hàng đầu quốc gia này. Đến năm 2018, khóa đào tạo cuối cùng mới kết thúc.
 
Về lý do Nhật Bản là quốc gia được lựa chọn để đưa cán bộ đi đào tạo mà không phải là Nga, Mỹ- những cường quốc về công nghệ vũ trụ, PGS.TS Phạm Anh Tuấn cho biết,hiện dự án được đánh giá quan trọng nhất của ngành vũ trụ đó là xây dựng Trung tâm vũ trụ quốc gia mà một trong những hợp phần quan trọng là xây dựng nguồn nhân lực.
 
Đây là nguồn vốn ODA của Nhật và các học viên được cử đi học được cấp kinh phí từ nguồn này. Tất nhiên, bên cạnh việc cử người sang Nhật Bản thì Trung tâm còn có các học viên đang theo học tại Châu Âu, Mỹ, Đài Loan… Song, tổng thể số lượng cán bộ đi học ở Nhật vẫn là lớn nhất.
 
PGS.TS Phạm Anh Tuấn cũng tiết lộ,kinh phí đào tạo một thạc sỹ công nghệ vũ trụ tại Nhật Bản là 6 tỷ đồng/người. Tất nhiên, con số đó không chỉ có tiền học mà còn là tiền ăn ở, tiền tham gia chế tạo vệ tinh… Chương trình đào tạo thạc sĩ công nghệ vũ trụ tại Nhật là một chương trình toàn diện thông qua thiết kế, chế tạo và thử nghiệm vệ tinh.
 
Với chương trình đào tạo này cho thấy suất đầu tư trên một thạc sĩ lại có hiệu quả. Con số 6 tỷ lúc này lại không quá lớn. Những con người này sẽ là những người làm chủ công nghệ sản xuất vệ tinh. Việt Nam sản xuất vệ tinh cho riêng mình và xuất khẩu cho các quốc gia khác là điều nằm trong tầm tay.
 
"Còn chỉ nhìn việc đi mua vệ tinh thì mãi mãi, cũng chỉ dừng lại ở đó chứ không thể phát triển hơn được". Vậy nên, câu chuyện đào tạo nhân lực luôn luôn đặt lên hàng đầu cho bất kể lĩnh vực nào, đặc biệt là ngành công nghệ vũ trụ. Vấn đề đặt ra là,không chỉ đào tạo mà còn phải nuôi dưỡng, giữ được đội ngũ này phục vụ đất nước mới là bài toán lâu dài.
 
 
Học viên tham gia thử nghiệm vệ tinh cỡ micro tại Học viện kỹ thuật Kuyshu, Nhật Bản
 
Khó khăn giờ đây, là tiền đầu tư đào tạo cao như vậy nhưng với cơ chế đãi ngộ như hiện nay, trả lương theo hệ số Nhà nước, một thạc sĩ mức lương khoảng 3 triệu thì làm sao giữ được chân người tài?“Hiện nay, chúng tôi đang làm tờ trình để có một cơ chế đặc thù cho đãi ngộ những người làm trong ngành vũ trụ” – PGS.TS Phạm Anh Tuấn cho biết.
 
Chủ động liên kết đào tạo – đa dạng hóa các lĩnh vực
 
Theo kế hoạch dự kiến, khi Trung tâm vũ trụ đi vào hoạt động thì số nhân sự cần là 300 – 350 người. Hiện trạng đào tạo tại Việt Nam cho thấy, với năng lực của các trường đại học tại Việt Nam thì một năm cho ra trường khoảng 15- 20 cán bộ. Và nếu chỉ trong chờ vào các trường này thì chắc chắn không thể có nhân sự vận hành theo đúng kế hoạch.
 
Nhận thức được điều này, bên cạnh các dự án ODA vay vốn nước ngoài có gói đào tạo, hoặc cử người đi đào tạo ngắn hạn tại nước ngoài thì Trung tâm vệ tinh quốc gia cũng chủ động liên kết với một số trường đại học trong nước để mở các ngành đào tạo về công nghệ vũ trụ.
 
Hiện nay, VNSC đã hợp tác đào tạo với trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, trường Đại học Công nghệ – Đại học quốc gia Hà Nội và trường Đại học quốc tế – Đại học quốc gia TP HCM.
 
Những hợp tác này đã bắt đầu cho ra kết quả như hình thành Chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ vũ trụ và ứng dụng với trường Đại học Công nghệ – Đại học quốc gia Hà Nội. Thành lập Khoa Hàng không và Vũ trụ tại trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Đào tạo cử nhân Khoa học và Kỹ thuật Không gian với trường Đại học quốc tế – Đại học quốc gia TP HCM.
 
Bên cạnh đó, ngành công nghệ vũ trụ là một lĩnh vực đa ngành, thì không chỉ cần kỹ sư công nghệ vũ trụ mà cần cả kỹ sư viễn thông, điện tử tin học, công nghệ thông tin, cơ điện tử…
 
Trả lời thẳng thắnvề câu hỏitại sao chúng ta đặt quyết tâm phải chế tạo vệ tinh, điều này khá tốn kém từ nhân lực đến đầu tư chứ không phải là chuyển giao công nghệ từ những quốc gia có công nghệ tương đồng, PGS.TS Phạm Anh Tuấn khẳng định: "Chúng ta đang trong lộ trình xây dựng ngành công nghệ vũ trụ.
 
Xác định tâm thế vừa học vừa làm, trải qua từng bước thì mới bền vững, chính vì vậy chúng tôi coi vệ tinh đầu, PicoDragon như vừa tốt nghiệp tiểu học, nhưng với con vệ tinh thứ 2, NanoDragon đã là bậc học trung học cơ sở… nhưng trình độ quốc tế. Nếu chúng ta không chế tạo vệ tinh thì không thể chủ động lắp những thiết bị quan sát như mong muốn”.
 
Hướng phát triển sắp tới của Trung tâm Vệ tinh quốc gia là mở rộng nhiều lĩnh vực, thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học đầu ngành đến giảng dạy, bước đầu hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh như lĩnh vực thiên văn, viễn thám…
 
Công nghệ vũ trụ không chỉ có mỗi vệ tinh mà còn nhiều lĩnh vực liên quan, và các nhánh này càng mạnh sẽ tạo thế trận vững chắc cho ngành. PGS.TS Phạm Anh Tuấn khẳng định, với nỗ lực của Trung tâm vệ tinh quốc gia, việc đáp ứng con số nhân lực này là hoàn toàn có thể.
 
Theo Khám Phá
 

Việt Nam, Hàn Quốc hợp tác chuyển giao công nghệ chiết xuất siêu tới hạn

Tại buổi làm việc giữa Cục Công tác phía Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ) và Trường Đại học Ajou (Hàn Quốc) ngày 1/6/2016, Giáo sư Sang Yo Byun đã giới thiệu về công nghệ chiết xuất siêu tới hạn và mong muốn được hợp tác chuyển giao công nghệ này cho phía Việt Nam.
 
Giáo sư Sang Yo Byun – Đại học Ajou – cho biết: "Trường ĐH Ajou có các nghiên cứu ứng dụng liên quan đến lĩnh vực công nghệ chiết suất siêu tới hạn nhằm sản xuất các hợp chất dùng cho dược phẩm, mỹ phẩm. Tôi mong muốn hợp tác phát triển công nghệ này tại Việt Nam".
 
Theo ông Phạm Xuân Đà, Cục trưởng Cục Công tác phía Nam , đây là công nghệ cần thiết và nên được chuyển giao, ứng dụng tại Việt Nam bởi mang lại nhiều lợi ích về kinh tế. Việc áp dụng công nghệ chiết suất siêu tới hạn không những phục vụ cho nghiên cứu về y, dược học mà còn có thể giúp chiết xuất ra nhiều loại hợp chất dùng cho dược phẩm chức năng và thuốc.
 
Ông Đà cho biết thêm, Cục Công tác phía Nam và trường Đại học Ajou có thể hợp tác nghiên cứu, chuyển giao áp dụng công nghệ chiết suất siêu tới hạn tại Việt Nam thông qua việc xây dựng nghị định thư giữa hai quốc gia về phát triển KH&CN, kịp thời đưa vào nội dung thảo luận tại buổi họp thường niên về KH&CN giữa Việt Nam – Hàn Quốc đề nhận được sự ủng hộ.
 
 
Ký ý định thư hợp tác chuyển giao công nghệ chiết suất siêu tới hạn tại Việt Nam.
Thông qua các nội dung trao đổi, Cục Công tác phía Nam và Giáo sư Sang Yo Byun đãký ý định thư nhằm hợp tác, xây dựng nghị định thư chuyển giao và áp dụng công nghệ chiết suất siêu tới hạn tại Việt Nam. Theo đó, Đại học Ajou (Hàn Quốc) và Cục Công tác phía Nam cam kết hợp tác thông qua Dự án chuyển giao công nghệ nêu trên. Sản phẩm cuối cùng sẽ được xuất khẩu cho các công ty thực phẩm và mỹ phẩm tại Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ.
 
Hàn Quốc sẽ phụ trách chuyển giao công nghệ và giới thiệu nguồn cung cấp máy móc thiết bị phù hợp để triển khai dự án này tại Việt Nam. Việt Nam sẽ chuẩn bị đất đai, cơ sở vật chất, nguồn lực để tiếp nhận công nghệ, nguồn tài chính đầu tư hệ thống máy móc.
 
Kiều Anh
 

Thứ trưởng Trần Việt Thanh: Nhu cầu khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ ngày càng tăng

Phát biểu tại Diễn đàn quốc tế về kinh doanh sáng tạo (IIBF) tổ chức ngày 2/6/2016 tại TP.HCM, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Việt Thanh cho rằng nhu cầu khai thác và sử dụng tài sản trí tuệ của Việt Nam là hiện thực và có xu hướng ngày càng gia tăng.
 
IIBF là diễn đàn quốc tế thường niên được tổ chức nhằm đem lại cơ hội giao lưu và học hỏi thiết thực cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Đổi mới sáng tạo (ĐMST) trong kinh doanh là con đường duy nhất để doanh nghiệp Việt Nam có thể bắt kịp và phát triển trong giai đoạn hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng hiện nay. 
 
“Nhận diện cơ hội mới trong môi trường biến động toàn cầu” là chủ đề của Diễn đàn quốc tế về kinh doanh sáng tạo lần 3 được Hội Doanh nghiệp Hàng Việt Nam chất lượng cao phối hợp với Bộ KH&CN tổ chức ngày 2/6/2016 tại TP.HCM.
 
Tại diễn đàn, các diễn giả đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm thiết thực cho doanh nghiệp như định giá và kinh doanh tài sản trí tuệ (TSTT) trong nền kinh tế hội nhập; Hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam; mô hình doanh nghiệp sáng tạo để thích ứng thời đại số; phát triển kinh doanh từ nền nông nghiệp thông minh; cái giá của chất lượng trong giai đoạn hội nhập mới;… 
 
 
Thứ trưởng Trần Việt Thanh phát biểu khai mạc IIBF lần 3
Các diễn giả cho rằng, ĐMST là một tính từ không thể thiếu trong khởi nghiệp, tạo nên sự đột phá cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp không ĐMST sẽ không phát triển bền vững. Trong khi đó, không khí khởi nghiệp ở Việt Nam đang khá sôi nổi nhưng kết quả mang lại chưa khả quan như mong đợi. 
 
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, cần có nhiều thời gian để ươm mầm, nuôi dưỡng và phát triển kéo dài nhiều năm, thậm chí mấy chục năm hoạt động khởi nghiệp mới có thể thành công. Để tạo ra hệ sinh thái khởi nghiệp, cần sự tham sâu rộng hơn của các doanh nghiệp Việt Nam. Khi các doanh nghiệp quan tâm đến hệ sinh thái khởi nghiệp bên ngoài thì cũng vô tình tạo ra được văn hóa khởi nghiệp ngay bên trong chính doanh nghiệp của mình. Đây cũng là cơ hội đem lại lợi ích kinh doanh lớn hơn cho doanh nghiệp.
 
Phát biểu tại diễn đàn, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Việt Thanh cho biết, số lượng tài sản trí tuệ được Li-xăng (chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp) giữa các doanh nghiệp ở Việt Nam và chuyển nhượng cho nước ngoài ngày càng tăng ở những năm gần đây. Điều đó cho thấy nhu cầu khai thác và sử dụng tài sản trí tuệ của Việt Nam là hiện thực và có xu hướng ngày càng gia tăng. 
 
Theo Thứ trưởng, để kinh doanh TSTT có hiệu quả, trước hết doanh nghiệp cần hiểu biết về loại tài sản này và có chiến lược quản trị thích hợp. Doanh nghiệp không chỉ phải dành khoản đầu tư cho hoạt động tạo dựng, phát triển, đăng ký TSTT mà còn phải có kiến thức về khả năng khai thác, sử dụng tài sản đó. 
 
Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh TSTT chỉ thực sự phát huy vai trò nếu thể chế bảo hộ quyền SHTT thực sự mang tính đầy đủ và có hiệu quả. Để đảm bảo điều đó, hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật về SHTT cần thiết lập những nguyên tắc bảo hộ rõ ràng, dành độc quyền cho SHTT thực sự xứng đáng, có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa các hành vi cố ý xâm phạm quyền tài sản, chú trọng cơ chế dân sự trong giải quyết tranh chấp.
 
KA

Nâng cao an toàn thông tin mạng quy mô quốc gia

Mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ thoát khỏi danh sách 20 quốc gia có tỷ lệ lây nhiễm phần mềm độc hại và phát tán thư rác cao nhất trên thế giới.
 
Đây là nội dung tại Quyết định phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin mạng giai đoạn 2016 – 2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành.
 
Bên cạnh các mục tiêu trong Quy hoạch phát triển an toàn thông tin số quốc gia đến năm 2020, mục tiêu cụ thể giai đoạn 2016 – 2020 là tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức về an toàn thông tin, tỷ lệ các sự cố mất an toàn thông tin mạng xảy ra do nhận thức yếu kém, chủ quan, bất cẩn của con người ở dưới mức 50%; nâng cao uy tín giao dịch điện tử của Việt Nam, đưa Việt Nam ra khỏi danh sách 20 quốc gia có tỷ lệ lây nhiễm phần mềm độc hại và phát tán thư rác cao nhất trên thế giới theo xếp hạng của các tổ chức quốc tế.
 
 
(Ảnh minh họa)
Hình thành cơ bản hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và hệ thống kiểm định, đánh giá về an toàn thông tin; phát triển tối thiểu 5 sản phẩm an toàn thông tin thương hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến tại thị trường trong nước. Doanh nghiệp Việt Nam đóng vai trò chủ đạo tại thị trường dịch vụ an toàn thông tin trong nước.
 
Bảo đảm an toàn thông tin mạng quy mô quốc gia
 
Một trong những nhiệm vụ đặt ra là bảo đảm an toàn thông tin mạng quy mô quốc gia. Cụ thể, xây dựng yêu cầu bảo đảm an toàn thông tin mạng tối thiểu đối với hệ thống thông tin quan trọng quốc gia; tăng cường đầu tư bảo đảm an toàn thông tin mạng; định kỳ kiểm tra, đánh giá về an toàn thông tin mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng quốc gia; xây dựng, cập nhật hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn thông tin mạng; xây dựng và hướng dẫn mô hình khung hệ thống quản lý an toàn thông tin mạng phù hợp với thông lệ quốc tế.
 
Bên cạnh đó, đầu tư xây dựng các hệ thống nền tảng để nâng cao năng lực kỹ thuật bảo đảm an toàn thông tin mạng, bao gồm: Hệ thống xử lý tấn công mạng Internet Việt Nam; hệ thống đánh giá, kiểm định an toàn thông tin; hệ thống xác thực điện tử quốc gia; nâng cao năng lực và tổ chức vận hành hiệu quả mạng lưới điều phối ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng trên phạm vi toàn quốc.
 
Đồng thời, định kỳ tổ chức triển khai diễn tập bảo đảm an toàn thông tin mạng quốc gia, tham gia phối hợp diễn tập quốc tế; nâng cao năng lực phòng, chống phần mềm độc hại, cải thiện mức độ tin cậy của quốc gia trong hoạt động giao dịch điện tử theo hướng xã hội hóa.
 
Bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức
 
Nhiệm vụ tiếp theo là bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, trong đó, xây dựng, ban hành và thường xuyên cập nhật quy chế, chính sách bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức; triển khai áp dụng hệ thống quản lý an toàn thông tin mạng theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vào hoạt động của cơ quan, tổ chức; phân công lãnh đạo phụ trách và thành lập hoặc chỉ định bộ phận đầu mối chịu trách nhiệm về an toàn thông tin mạng.
 
Nâng cao nhận thức về an toàn thông tin cho lãnh đạo và cán bộ; tổ chức đào tạo, tập huấn về kiến thức, kỹ năng an toàn thông tin cho cán bộ có trách nhiệm liên quan; đầu tư nâng cao năng lực kỹ thuật bảo đảm an toàn thông tin mạng cho các hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý; xây dựng kế hoạch ứng phó sự cố an toàn thông tin mạng; định kỳ hàng năm thực hiện kiểm tra, đánh giá, diễn tập về an toàn thông tin mạng đối với các hệ thống thông tin thuộc phạm vi quản lý; tham gia, phối hợp trong các chương trình huấn luyện, diễn tập quốc gia; xây dựng và triển khai kế hoạch dự phòng, sao lưu dữ liệu, bảo đảm hoạt động liên tục của cơ quan, tổ chức; sẵn sàng khôi phục hoạt động bình thường của hệ thống sau khi gặp sự cố mất an toàn thông tin mạng.
 
Ngoài ra, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ an toàn thông tin mạng. Cụ thể, thực hiện đặt hàng nghiên cứu, phát triển, sản xuất thử nghiệm và sản xuất sản phẩm an toàn thông tin nội địa từ ngân sách khoa học và công nghệ; hỗ trợ xúc tiến đầu tư, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực an toàn thông tin mạng; hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, phát triển thương hiệu, thúc đẩy việc sử dụng các sản phẩm, giải pháp an toàn thông tin mạng thương hiệu Việt Nam; hỗ trợ phát triển một số sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng nội địa; thúc đẩy ứng dụng chữ ký số công cộng trong các hoạt động kinh tế – xã hội; tăng cường thuê ngoài dịch vụ bảo đảm an toàn thông tin mạng do doanh nghiệp cung cấp.
 
Theo Khám Phá