Không ra sản phẩm, nhà khoa học phải hoàn trả 100% kinh phí

 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân. Ảnh: TTXVN
 
Thông tư liên tịch 27 vừa được liên Bộ Tài chính, KH&CN ký ngày 30/12 được xem là chìa khóa, "cởi trói" cho các nhà khoa học khỏi “mớ bòng bong” chứng từ, hóa đơn thanh quyết toán-thứ mà nhiều nhà khoa học còn ngại hơn là việc nghiên cứu. Thế nhưng, đi cùng những thuận lợi vốn được mong mỏi bấy lâu, giới khoa học cũng sẽ phải chịu những chế tài khắt khe để bảo đảm không gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước.
 
Bên lề lễ ký ban hành Thông tư liên tịch 27, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã thẳng thắn trao đổi với báo chí về vấn đề này.
 
– Thưa Bộ trưởng Nguyễn Quân, xin ông cho biết những điểm khác biệt của cơ chế khoán chi theo Thông tư 27 so với cơ chế tài chính trước đây được áp dụng cho nhà khoa học?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Cơ chế khoán chi theo Thông tư 27 khác với Thông tư 93 trước đây. Nếu như Thông tư 93 chỉ khoán chi một phần, tức là những gì chi cho con người [tiền công, hội thảo, công tác trong nước…-pv] thì được khoán. Còn những nội dung như chi phí mua sắm, mua nguyên nhiên vật liệu, trang thiết bị… thì không được khoán mà phải thực hiện đúng quy định của nhà nước, qua đấu thầu…
 
Còn với Thông tư 27 thì có hai phương thức, một là khoán chi từng phần giống với trước đây, hai là khoán chi tới sản phẩm cuối cùng.
 
Từ trước tới nay, nhiều đề tài dự án xuất sắc được nghiệm thu nhưng không có sản phẩm, sản phẩm không ứng dụng được vào thực tiễn vì chúng ta kiểm soát đầu vào rất chặt ở chứng từ và các phụ lục nhưng sản phẩm cuối cùng thì lại ít được quan tâm. Giờ đây, với Thông tư 27, cái được quan tâm là sản phẩm cuối cùng của đề tài dự án có đáp ứng được cái tiêu chí đặt ra không?
 
Chế tài của Thông tư này là nếu đề tài đã nhận khoán chi đến sản phẩm cuối cùng thì trong quá trình tổ chức thực hiện sẽ không được điều chỉnh mục tiêu sản phẩm và kinh phí. Nếu nhà khoa học không bàn giao, không hoàn thành đề tài dự án theo cam kết thì họ phải chịu hình thức xử lý và hoàn trả tiền cho ngân sách nhà nước các kinh phí họ đã sử dụng.
 
Mức hoàn trả tối thiểu là 40% kinh phí của đề tài, thậm chí nếu là lỗi chủ quan thì phải hoàn trả 100% kinh phí. Như vậy, các nhà khoa học phải hết sức cân nhắc khi nhận các hình thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng.
 
Việc thực hiện hình thức khoán chi này, tôi tin này là sẽ có hiệu quả xứng đáng. Vì bản thân nhà khoa học nhận khoán chi đến sản phẩm cuối cùng thì trách nhiệm của họ rất lớn và bằng mọi phương thức phải hoàn thành sản phẩm như trong hợp đồng. Bên cạnh đó, họ sẽ huy động nguồn lực để làm thực sự và điều này sẽ khắc phục được một số đề tài dự án lợi dụng cơ chế quản lý còn sơ hở, chưa làm được sản phẩm mà vẫn được nghiệm thu.
 
– Có ý kiến cho rằng, tâm lý của nhiều nhà khoa học Việt Nam vẫn trong bao cấp. Vậy, nếu trường hợp các nhà khoa học ngại khoán chi tới sản phẩm cuối cùng bởi lo sợ độ rủi ro trong nghiên cứu thì phải làm thế nào?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Thông tư này áp dụng cho tất cả nhiệm vụ  KH&CN thuộc quản lý Nhà nước. Chúng tôi hiểu các đề tài, dự án khoa học luôn có độ rủi ro nên việc khoán chi luôn để các nhà khoa học có sự chọn lựa [khoán chi từng phần và khoán chi tới sản phẩm cuối cùng-pv].
 
Khi nhận khoán chi toàn bộ, Nhà nước đã giao cho nhà khoa học toàn quyền thì họ không thể làm nửa chừng rồi lại xin áp dụng cơ chế khoán chi từng phần được. Nếu không hoàn thành, họ sẽ chịu chế tài xử lý rất nghiêm khắc nên đòi hỏi họ phải có trách nhiệm cao với việc đăng ký khoán chi theo kiểu này.
 
– Thông tư 27 không quy định thời gian để cho nhà khoa học thực hiện đề tài nhận theo phương thức khoán chi tới sản phẩm cuối cùng. Điều này liệu có gây ra việc đề tài kéo dài nhiều năm không kết thúc không?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Có hơn 10 Thông tư về quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ và trong đó có quy định về thời gian hợp đồng.
 
Hơn nữa, khi các nhà khoa học được phê duyệt dự án ký hợp đồng thì trong hợp đồng đã quy định đề tài làm trong bao lâu. Hiện nay quy định được gia hạn một lần với thời gian không quá 12 tháng cho các đề tài khi gặp khó khăn và không hoàn thành đúng hạn. Khi hết thời hạn, buộc phải xử lý theo quy định: Nếu hoàn thành thì được nghiệm thu, quyết toán còn ngược lại sẽ có quyết định dừng thực hiện và xử lý về tài chính cũng như chuyên môn.
 
Như vậy, Thông tư 27 chỉ quy định phương thức khoán chi còn công việc khác đã có quy định từ các Thông tư khác.
 
– Vấn đề ứng dụng các sản phẩm đầu ra sẽ được thực hiện như thế nào, thưa Bộ trưởng?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Luật KH&CN đã có cơ chế buộc các nhà khoa học khi đã nghiên cứu xong thì phải cung cấp được sản phẩm cho xã hội. Nếu như trước đây, các nhà khoa học khi nhận đề tài làm theo ý muốn chủ quan của mình thì bây giờ buộc phải có 1 cơ quan thẩm định, đề xuất đặt hàng với Bộ  KH&CN hoặc các bộ ngành. Khi đã đề xuất đặt hàng thì cơ quan đó phải cam kết chịu trách nhiệm tổ chức ứng dụng kết quả nghiên cứu sau khi nghiệm thu.
 
Ví dụ như Bộ Y tế muốn tổ chức nghiên cứu vắcxin thì có thể đặt hàng Bộ KH&CN nhưng phải cam kết sau khi nghiên cứu thành công thì phải chấp nhận kết quả, tổ chức ứng dụng để ra được vắcxin chứ không phải nghiên cứu xong thì không tìm được nơi ứng dụng, không có nguồn lực để thương mại hóa, đưa kết quả đó vào sản xuất.
 
Đương nhiên, trong  KH&CN có các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ở lĩnh vực cơ bản thì sản phẩm nghiên cứu là sản phẩm đi trước, đặt tiền đề cho nghiên cứu ứng dụng.
 
Thậm chí, nghiên cứu ứng dụng cũng không phải nhiệm vụ nào cũng có thể ứng dụng ngay mà nó còn chờ đợi nhà đầu tư, cơ hội và quan trọng là chờ đợi thị trường. Ngay cả các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản, tỷ lệ ứng dụng cũng chỉ trên dưới 30%…
 
– Xin cảm ơn Bộ trưởng!
 
Nguồn: http://www.vietnamplus.vn/khong-ra-san-pham-nha-khoa-hoc-phai-hoan-tra-toi-100-kinh-phi/363784.vnp
 

Tiếp cận thị trường và phù hợp thông lệ quốc tế

 
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân. 
Ảnh: Hảo Linh
Đúng như tên gọi của nó, Đề án Tái cơ cấu ngành Khoa học và Công nghệ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng góp phần phát triển kinh tế, do Thủ tướng Chính Phủ ký quyết định ban hành ngày 11/12/2015, được kỳ vọng sẽ giúp ngành KH&CN có nhiều đóng góp thiết thực hơn cho nền kinh tế và sự nghiệp phát triển đất nước. Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã có cuộc trao đổi với Tia Sáng về ý nghĩa và một số điểm nhấn quan trọng của đề án này.
 
PV: Những năm qua, Bộ KH&CN đã chủ động xây dựng nhiều chính sách nhằm đổi mới căn bản và toàn diện ngành KH&CN, và đó cũng là những nỗ lực nhằm tái cơ cấu ngành KH&CN. Do đó, có thể nói tiến trình tái cơ cấu ngành KH&CN thực ra đã bắt đầu từ trước khi có Đề án tái cơ cấu. Như vậy, ý nghĩa thực chất của Đề án lần này là gì?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Đúng là không cần chờ đến bây giờ mà từ nhiều năm qua, Bộ KH&CN đã chủ động tìm cách tiến hành tái cơ cấu lại toàn bộ hệ thống quản lý và tổ chức KH&CN cũng như hoạt động KH&CN, đặc biệt là trong quá trình thực hiện Nghị quyết 20 của TW năm 2012 về phát triển KH&CN và Luật KH&CN 2013. Như vậy, ý nghĩa thực chất của Đề án lần này chính là sự tổng hợp những quan điểm, giải pháp mang tính đột phá mà Bộ KH&CN đã và đang triển khai, đồng thời đề xuất thêm những giải pháp mới để khắc phục, giải quyết một cách hiệu quả hơn các khó khăn, vướng mắc còn đang tồn tại.
 
Từ những kinh nghiệm thực hiện tái cơ cấu ngành KH&CN mà Bộ KH&CN đã tiến hành từ nhiều năm qua, chúng ta có thể thấy đâu là những giải pháp quan trọng cần được đẩy mạnh trong thời gian tới?
 
Trước hết chúng ta phải quy hoạch lại mạng lưới các tổ chức KH&CN trong cả nước theo vùng miền, lĩnh vực để đáp ứng được yêu cầu xã hội, nhu cầu phát triển của đất nước trong năm năm tới sao cho việc đầu tư có trọng điểm hơn, không dàn trải, qua đó tạo điều kiện để hình thành được nhiều hơn những tổ chức đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Thứ hai cần tái cơ cấu lại hoạt động KH&CN tức là hoạt động R&D với tư duy là tiếp cận với kinh tế thị trường và phù hợp theo thông lệ quốc tế, theo đó, các nhiệm vụ KH&CN, các đề tài dự án KH&CN phải dựa trên cơ chế đặt hàng, cơ chế quỹ, và cơ chế khoán chi. Thứ ba là tái cơ cấu về đầu tư cho KH&CN, với điểm đột phá là có chế tài dành cho doanh nghiệp nhà nước (theo Nghị định 95), bắt buộc họ phải trích ít nhất 3% lợi nhuận trước thuế để thành lập quỹ phát triển KH&CN. Như vậy, cùng với nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước và khu vực tư nhân, họ sẽ giúp tổng mức đầu tư từ xã hội cho KH&CN gấp từ 2-3 lần so với từ nguồn ngân sách nhà nước, nguồn lực phát triển KH&CN của quốc gia sẽ dồi dào hơn và tốc độ đổi mới công nghệ của doanh nghiệp sẽ nhanh hơn. Thứ tư là tiếp tục đổi mới chế độ chính sách cho cán bộ khoa học, bên cạnh việc tinh giản biên chế theo chủ trương chung của chính phủ thì phải có chế độ đãi ngộ tốt hơn cho các nhà khoa học đầu ngành, các nhà khoa học chủ trì các nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, và các nhà khoa học trẻ tài năng, trên nguyên tắc họ vừa có chế độ phụ cấp ưu đãi, vừa được giao quyền tự chủ toàn diện, kể cả tự chủ một khoản kinh phí ngân sách theo phương thức khoán hằng năm. 
 
Trong những giải pháp đó, có những giải pháp đã được Bộ KH&CN đề ra từ lâu, vậy vì sao đến nay chúng vẫn chưa thực sự được triển khai mạnh mẽ và đi vào đời sống?  
 
Nguyên nhân quan trọng nhất là sự hạn chế về nhận thức, quyết tâm và ý thức phối hợp triển khai ở nhiều cấp quản lý thuộc các bộ, ngành, và địa phương. Ví dụ trong công tác quy hoạch lại tổ chức KH&CN công lập và chuyển đổi chúng sang cơ chế tự chủ, vấn đề được coi là thách thức lớn nhất của đề án tái cơ cấu lần này, khó khăn vướng mắc chủ yếu là người đứng đầu các tổ chức KH&CN cũng như các nhà lãnh đạo quản lý các cấp không thấy hết sự cần thiết của việc trao quyền tự chủ cho các tổ chức và cá nhân nhà khoa học, khiến tinh thần tự chủ hóa dù đã được chính phủ đề ra trong Nghị định 115 sau 10 năm triển khai đến nay vẫn chưa thể thực sự đi vào đời sống.
 
Phải chăng chậm trễ trong việc triển khai Viện Khoa học Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) cũng là một ví dụ về sự hạn chế trong nhận thức của các nhà quản lý các cấp…
 
Đúng như vậy, việc thành lập viện VKIST theo mô hình viện KIST của Hàn Quốc đã được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ, và nằm trong quyết tâm của Bộ KH&CN hướng tới hình thành hệ thống tổ chức KH&CN có điều kiện làm việc tương tự như các nước tiên tiến. Nhưng khó khăn vẫn bắt đầu từ quan điểm của một số cơ quan quản lí, khi nhiều người cho rằng làm như thế là mất bình đẳng trong hệ thống của chúng ta: “Tại sao cùng là viện của nhà nước, lại có những viện được chế độ ưu đãi đặc thù rất cao còn các viện khác không được?” Họ không thấy thực chất kinh phí dành cho tất cả các cơ chế ưu đãi vẫn nằm trong khuôn khổ 2% tổng chi ngân sách thôi chứ không đòi hỏi nhà nước đầu tư nhiều hơn; đồng thời đây mới chỉ là dự án thí điểm đầu tiên để kiểm chứng hiệu quả của việc đầu tư đúng người, đúng địa chỉ theo thông lệ quốc tế.
 
 
Ảnh: Phối cảnh VKIST ở khu Công nghệ cao Hòa Lạc
 
Nếu VKIST thành công thì sẽ nhân rộng mô hình này cho toàn bộ hệ thống. Và khi cả hệ thống được thay đổi theo xu hướng mới này thì chúng ta sẽ tinh giản được bộ máy theo quy hoạch, tập trung đầu tư để tất cả các viện có cơ chế tự chủ tốt hơn, tăng cường hiệu quả hoạt động R&D hướng tới đạt trình độ tương tự như các viện tiên tiến của khu vực và thế giới. 
 
Nhưng để điều ấy trở thành hiện thực, trước mắt chúng ta phải thành công với dự án VKIST, mà muốn thế thì các bộ ngành cần thống nhất quan điểm để tạo điều kiện cho viện, hỗ trợ tối đa thời gian đầu khi viện mới thành lập: đầu tư cơ sở vật chất, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. Sau đó thì viện sẽ tự chủ hoàn toàn và hoạt động theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
 
Như Bộ trưởng đã đề cập, việc tái cơ cấu đầu tư cho KH&CN cũng là một trong những nội dung quan trọng khác của Đề án Tái cơ cấu ngành KH&CN. Vậy Đề án đã đưa ra giải pháp nào cho vấn đề này?
 
Theo tôi giải pháp quan trọng nhất là thực hiện các chế tài. Chế tài trước đây chúng ta đã có nhưng không đủ mạnh. Ví dụ như các doanh nghiệp nhà nước không trích lập quỹ phát triển KH&CN thì cũng không có chế tài nào để xử lý họ. Nhưng bây giờ thì yêu cầu trích lập là bắt buộc với các doanh nghiệp nhà nước. Nếu không trích lập là vi phạm pháp luật. Các doanh nghiệp chủ động sử dụng phần trích của quỹ và nếu không dùng hết hoặc chưa sử dụng đến thì phải đóng góp cho các quỹ của nhà nước. Sau đó, khi nào có nhu cầu thì nhà nước sẽ tài trợ trở lại. Như vậy thì lúc nào cũng có dòng tiền đủ lớn cho KH&CN. 
 
“Bộ KH&CN hiện đang tích cực xây dựng các chính sách cần thiết cho phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, một biến thể của thị trường KH&CN nhưng ở trình độ cao hơn. Hi vọng là tới đây khi hệ sinh thái khởi nghiệp hoàn thiện hơn cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều các quỹ đầu tư mạo hiểm và doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ tạo ra những thay đổi mang tính đột phá cho thị trường KH&CN.”
 
Song song với đó là chế tài gắn với việc sắp xếp các tổ chức KH&CN theo quy hoạch Thủ tướng phê duyệt: tổ chức nào làm tốt mà nằm trong quy hoạch sẽ được nhà nước đầu tư, tổ chức nào mà không tuân thủ quy hoạch hoặc hoạt động không hiệu quả thì nhà nước sẽ giảm đầu tư. Như vậy đến lúc nào đó họ sẽ phải sáp nhập hay giải thể. Với đội ngũ cán bộ KH&CN cũng như vậy, ai làm tốt sẽ được tạo điều kiện tốt hơn, còn những người không làm việc hoặc làm không tốt thì sẽ bị đào thải khỏi hệ thống KH&CN của nhà nước thông qua việc tinh giản biên chế hoặc cơ chế “không làm việc thì không được hưởng lương”. 
 
Đối với nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước thì vướng mắc cơ bản lâu nay là hạn chế trong tiến trình phát triển thị trường công nghệ. Vì sao tiến trình này diễn ra chậm trễ và không như chúng ta mong đợi?
 
Việc phát triển thị trường KH&CN đòi hỏi bốn thành phần quan trọng: nguồn cung, nguồn cầu, các định chế trung gian và hành lang pháp lý. Về nguồn cung thì rất dồi dào, ngoài kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước, chúng ta còn có nguồn công nghệ nhập khẩu. Nguồn cầu cũng phong phú, do trình độ công nghệ của nhiều trong số khoảng 600.000 doanh nghiệp Việt Nam còn rất lạc hậu nên nhu cầu đổi mới công nghệ là rất lớn, đặc biệt trước sức ép cạnh tranh quốc tế sắp tới từ TPP. Về môi trường pháp lý ở Việt Nam thì về cơ bản đã tương đối đầy đủ cho thị trường KH&CN phát triển, với những nền tảng là luật đầu tư, luật ngân sách, luật doanh nghiệp rồi luật chứng khoán, luật đầu tư công; kèm theo đó là các nghị định hướng dẫn, thông tư – ngay cả việc đánh giá, định giá công nghệ cũng đều đã có văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, đối với các định chế trung gian thì chúng ta còn rất thiếu các tổ chức đảm nhiệm chức năng đánh giá, định giá, kiểm nghiệm, kiểm định, giám định, v.v, khiến các kết quả nghiên cứu khó đến được với doanh nghiệp, buộc họ phải đi mua công nghệ với giá đắt, chưa kể nhiều khi công nghệ không phù hợp với trình độ của doanh nghiệp. Đây chính là nguyên nhân khiến tiến trình phát triển thị trường KH&CN còn nhiều hạn chế.
 
Vậy chúng ta sẽ làm gì để phát triển các định chế trung gian?
 
Nếu chỉ dựa vào nguồn lực của nhà nước thì không đủ, bởi vậy chúng ta phải có chính sách khuyến khích đầu tư từ xã hội. Nhưng khó khăn cho khu vực tư nhân là việc xây dựng các trung tâm kiểm định, kiểm nghiệm chất lượng sản phẩm đòi hỏi trang thiết bị hiện đại, nhân lực bài bản, vốn đầu tư rất lớn. Đồng thời để có nguồn thu thì họ còn phải được các bộ ngành tin tưởng giao việc, và xây dựng được thương hiệu có uy tín đối với thị trường. Vì vậy ở đây phải có vai trò hỗ trợ của nhà nước: thứ nhất là thường xuyên kiểm tra đảm bảo doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện, quy định cần thiết; thứ hai là nhà nước giúp họ xây dựng thương hiệu uy tín; và thứ ba là nhà nước ban hành định mức phí dịch vụ đủ để họ có thể tồn tại bằng hoạt động của mình. 
 
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này! 
 
Nhóm PV thực hiện
 
Thực tế là lâu nay trong nghiên cứu ứng dụng, tính hiệu quả của nhiều dự án còn thấp, ví dụ như nhiều nơi đầu tư nghiên cứu làm ra các giống lúa mới nhưng đến nay các giống lúa có giá trị thực sự cho người nông dân thì không nhiều. Để khắc phục tình trạng này, Bộ trưởng Nguyễn Quân nêu ra ba giải pháp cơ bản: 
“Đầu tiên phải áp dụng triệt để cơ chế đặt hàng, tức là khi chúng ta giao đề tài nghiên cứu phải xác định rõ người đề xuất đặt hàng phải chịu trách nhiệm tiếp nhận kết quả của đề tài đó khi nó thành công, đồng thời cũng chính người đó phải có nguồn lực đầu tư để tiếp tục hoàn thiện, đưa vào đời sống. 
Chính vì vậy, cơ quan đề xuất đặt hàng phải là các bộ và UBND các tỉnh, thành phố chứ không phải là cá nhân các nhà khoa học hay là đơn vị sự nghiệp. Vì họ mới biết rõ những sản phẩm nào là thiết thực, phù hợp với chiến lược phát triển của ngành, lĩnh vực, địa phương của mình; đồng thời họ cũng là nơi huy động được nguồn lực để thực hiện đề tài. 
Thứ hai, các đề tài, dự án phải xác định rõ ai sử dụng, sử dụng cho lĩnh vực nào, ở đâu, với những thông số, yêu cầu cụ thể về chủng loại, chất lượng, có triển vọng cao về tính khả thi và khả năng thương mại hóa.
Thứ ba là phải có nguồn lực. Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu thành công, có sản phẩm tốt nhưng không hề có nguồn lực đầu tư, hoặc phải mất rất nhiều thời gian chờ đợi nhà đầu tư, cơ hội đầu tư. Vì thế, các cơ quan đề xuất đặt hàng phải chỉ rõ nguồn lực của họ như thế nào, trên cơ sở đó các hội đồng khoa học mới có thể xét duyệt được.”
 
Nguồn: tiasang.com.vn

Tiến hoá hay tạo hoá

 
Mặc dù khoa học đã đạt được những thành tựu vô cùng vĩ đại, các quy luật của thế giới tự nhiên cứ lần lượt được phơi bày, sân chơi của Chúa tưởng chừng ngày càng hẹp lại; nhưng cứ mỗi lần các nhà khoa học vén được một bức màn đen do Chúa dựng nên này thì lại thấy một bức màn đen khác sừng sững trước mặt.  Và cho đến tận ngày nay hai câu hỏi nguyên thủy “ Vũ trụ được hình thành thế nào?” và “Loài người xuất hiện từ đâu? Từ loài  khỉ lớn (vượn hay tinh tinh) tiến hóa lên, hay do Chúa tạo ra ?”, xem ra vẫn chưa  có câu trả lời cuối cùng; và liệu có thể có câu trả lời cuối cùng hay không? lại là một câu hỏi hóc búa khác.
 
Sai lầm của Thuyết Tiến hóa
 
Thuyết Big Bang hầu như đã được kiểm chứng. Ngày càng có nhiều bằng chứng khách quan cho thấy Vũ trụ, mà chúng ta đang ở trong, được sinh ra từ một vụ nổ lớn trong hư không khoảng 14 tỷ năm trước rồi dãn nở không ngừng, đồng đều theo mọi hướng, chứa hàng trăm tỷ thiên hà có kích thước khoảng 100.000 năm ánh sáng (một giây ánh sáng là 30 vạn km); mỗi thiên hà lại chứa hàng trăm tỷ ngôi sao; mỗi sao lại có một hệ thống hành tinh quay quanh như kiểu hệ Mặt trời của chúng ta. Khoảng hơn mười tỷ năm nữa Vũ trụ sẽ dừng dãn nở, co sụp lại thành một điểm như lúc ban đầu..
 
Nếu thuyết này là đúng thì vẫn còn những câu hỏi chưa thể có câu trả lời: Thế trước Big Bang là cái gì? Vì sao nó lại vận hành một cách trơn tru, hoàn hảo như thế? Vì sao các hằng số vật lý của Vũ trụ (tốc độ ánh sáng, điện tích của điện tử, hằng số Plank…) lại được gán cho những giá trị chính xác đến nỗi chỉ cần một trong các hằng số ấy thay đổi đi một phần triệu giá trị vốn có thì thế giới này không có sự sống, không có chúng ta – con người có khả năng tìm hiểu Vũ trụ?
 
 
Mặc dù vậy, các bằng chứng thực nghiệm về sự hình thành và tiến hoá của Vũ trụ cho đến nay vẫn ủng hộ thuyết Big Bang. Điều này khác hẳn với sự đáng ngờ của thuyết Tiến hóa về nguồn gốc của Loài người, rộ lên trong vài chục năm gần đây. Số người ủng hộ thuyết Tiến hóa còn rất nhiều (xem Nguyễn Văn Tuấn, Ykhoa.net/binhluan/), nhưng những người phản đối càng ngày càng làm tôi “nao núng”. Xin chia sẻ với bạn đọc những gì tôi thu nhận được từ lập luận của những người “phủ nhận sạch trơn” Darwin (xem Viethungpham.com).
Chúng ta đều biết Darwin (1809 – 1882) đã công bố Thuyết Tiến hoá của mình trong hai cuốn sách kinh điển: “Nguồn gốc các loài” ( 1859 ) và “Nguồn gốc con người” (1871). Trong đó ông đã khẳng định: 1) Các loài động vật tiến hoá từ bậc thấp lên bậc cao hơn theo quy luật chọn lọc tự nhiên những biến dị nhỏ ngẫu nhiên có lợi trong quá trình cạnh tranh sinh tồn, được tích tụ dần. 2) Sự sống được hình thành một cách tự phát ngẫu nhiên từ một tập hợp các nguyên tố hoá học. 3) Loài khỉ lớn (tinh tinh) là tổ tiên trực tiếp của Loài người.
 
Vào thời điểm ấy học thuyết này đã được hưởng ứng một cách cuồng nhiệt và tiếp tục mê hoặc  các thế hệ sau cho đến tận cuối Thế kỷ 20. Ngày nay trong các trường học trên toàn thế giới, người ta vẫn vô tư rao giảng những quan điểm phi khoa học của Darwin. Sự “ngộ nhận thế kỷ” này có thể do hai nguyên nhân chính sau đây. Một là, công trình của Darwin ra đời vào đúng lúc xu thế vô thần và duy vật của Thế kỷ Khai minh đang nở rộ; nó đánh trúng vào tâm lý khoa học thời đại: sự sống và con người không phải do Chúa tạo ra. Hai là, cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất đạt được những thành công rực rỡ với sự ra đời của Vật lý học Newton, đã làm cho cộng đồng khoa học ngây ngất với ý tưởng “sân chơi” của Chúa đang thu hẹp lại và một ngày không xa khoa học sẽ trả lời được mọi câu hỏi về vạn vật. Thế nhưng, như bạn đọc sẽ thấy, đấy là một sự ngộ nhận tai hại.
 
Thuyết Tạo hoá
 
Sự sai lầm của thuyết Tiến hoá và sự ngộ nhận về nó sẽ không xảy ra nếu Darwin được biết đến công trình khoa học vĩ đại về Di truyền học của Gregor Mendel (1822-1884) ra đời chỉ sau cuốn “Nguồn gốc các loài” có bảy năm, 1866. Giá ông biết thì chắc ông đã buộc phải xem xét lại các luận điểm của mình. Không những chỉ Darwin không được biết mà cả thế giới cũng hầu như không biết tới công trình khoa học của Mendel vì nó đã bị rơi vào quên lãng. Ba mươi năm sau, vào năm 1900, lý thuyết di truyền của ngài Linh mục người Áo ấy mới được các nhà khoa học Đức và Hà Lan phát hiện. Từ đó di truyền học mới thực sự chào đời, và ngày càng được khẳng định đóng vai trò quan trọng trong Sinh học như thuyết Lượng tử trong Vật lý học. Di truyền học khẳng định những điều ngược lại hẳn với học thuyết Tiến hoá. Cụ thể là: 1) Phân tử ADN (vật liệu di truyền ở cấp độ phân tử quyết định các tính trạng của động vật) của mỗi loài là cố định, không biến đổi trong quá trình chọn lọc tự nhiên để thích nghi với môi trường sinh sống. Như vậy loài này không thể “tiến hoá” lên loài khác được. 2) Phân tử tế bào sống đơn giản nhất cũng không thể hình thành từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử hoá học. Xác suất của quá trình ấy có thể coi là bằng không như đã được chứng minh bằng toán học cũng như mô phỏng trên các “siêu máy tính”. 3) Khỉ là khỉ, người là người. Bộ gene của khỉ dù có giống của người đến hơn 95%  thì vẫn còn đó, một sự khác biệt về chất rất lớn nằm trong số vài phần trăm chứa trong ADN cấu tạo nên các gene. ADN của người có 46 nhiễm sắc thể, của tinh tinh là 48 nằm trong nhân mỗi tế bào, và hoàn toàn cố định.
 
Nhận được sự chào đón hồ hởi ngay từ khi mới ra đời, thuyết Tiến hóa đã “bùng nổ” sau “vụ án thế kỷ”, trong đó một giáo viên trung học người Mỹ là Scopes bị buộc tội rao giảng thuyết Tiến hóa tại một trường phổ thông ở Tiểu bang Tennesse đã thắng kiện. Người ta đồng nhất thắng lợi của Scopes với thắng lợi của thuyết Tiến hóa. Thế nhưng cũng bắt đầu từ đó các bằng chứng khách quan ngày càng chống lại Darwin về giả thuyết loài tinh tinh là tổ tiên trực tiếp của loài người.
 
Bằng chứng quan trọng nhất là suốt từ khi giả thuyết “khỉ biến thành người” ra đời cho đến nay, đã hơn một thế kỷ rưỡi trôi qua, không có một hóa thạch trung gian nào giữa khỉ và người được phát hiện. Chỉ có một bằng chứng “ngụy khoa học” được tạo dựng nên vào năm 1912. Lúc đó có người đã cả gan ghép hóa thạch hộp sọ của người cổ đại với hóa thạch xương hàm của một con tinh tinh cùng thời để “chứng minh” rằng đã tìm thấy một loài trung gian giữa khỉ và người, đúng như sự mong đợi của những người hâm mộ thuyết Tiến hóa. Thế nhưng trò lừa đảo đó mau chóng bị lật tẩy, và công việc tìm kiếm hóa thạch trung gian vẫn cứ được miệt mài… Ngoài ra, phái phản đối thuyết Tiến hóa khẳng định một cách không hề thiếu sức thuyết phục rằng: Nếu Mendel đúng thì Darwin phải sai, chứ không thể dung hòa. 
 
Tôi e còn ít người biết được rằng sinh thời chính Darwin đã tuyên bố: “Nếu có bằng chứng cho thấy sự tiến hóa từ loài thấp hơn lên loài cao hơn mà không do sự tích tụ các biến đổi nhỏ liên tục thì lý thuyết của tôi là sai!”. Đúng như sự nghi ngại của ông, những phát hiện mới nhất của Di truyền học và Khảo cổ học nhiều lắm cũng chỉ chứng minh được rằng tinh tinh và người cùng phát sinh từ vùng Nam châu Phi cách đây khoảng 200.000 năm rồi lan tỏa đi khắp địa cầu. Thế thôi, vẫn không có một hóa thạch trung gian nào được phát hiện.
 
Cho nên ở nơi chín suối ông không thể không ân hận khi được biết chiến dịch tàn sát người da đỏ (bị coi là giống “nửa khỉ nửa người”) ở Úc cuối Thế kỷ 19, và tội ác diệt chủng của Hitler gây ra đối với người Do Thái trong Thế chiến thứ hai. Bởi không ai khác ngoài ông đã vạch đường cho quỷ dữ hoành hành khi tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó, có thể tính bằng thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ”. 
 
Nếu thuyết Tiến hóa là sai thì thuyết Tạo hóa có nhiều cơ hội là đúng?
 
Không đơn giản như vậy! Chỉ có điều càng ngày càng nhiều nhà khoa học lỗi lạc tin rằng có một lực lượng siêu nhiên nào đấy đã lập trình sự sống và cài đặt nó vào các phân tử ADN dưới dạng các mã thông tin, như một bản thiết kế cực kỳ linh diệu. Đáng kinh ngạc thay, từ Thế kỷ 13 Thánh Thomas Aquine đã phán: “Bất cứ ở đâu tồn tại những thiết kế phức tạp, ở đó ắt phải có nhà thiết kế thông minh”. Nhà thiết kế thông minh ấy đã được nhân loại gán cho các tên: Đấng sáng tạo, Tạo hóa, Chúa trời của các tôn giáo; hay “Chúa phiếm thần” của các nhà khoa học. 
 
Nếu bạn đọc còn do dự tin hay không tin vào một trong hai giả thuyết nói trên thì hãy nghe lời khuyên của Einstein mà vui sống. Ông nói thế này: “Có hai cách để sống: bạn chẳng tin vào phép màu nào cả, hoặc tin rằng mọi thứ đều là một phép màu”. Há chẳng thanh thản sao!
 
Chu Hảo

Theo đuổi sự khác biệt

 
Nguồn ảnh: Traphaco
 
Bước vào khuôn viên của Traphaco, người ta sẽ nhìn thấy ngay bức tượng của danh y Tuệ Tĩnh bằng đồng, dáng ngồi khoan thai đang đọc sách giữa mặt nước phẳng lặng. Dưới chân tượng là bốn chữ: “Nam dược trị nam nhân”. Đó cũng chính là chiến lược mà Traphaco kiên trì theo đuổi từ ngày đầu thành lập: “Chính sách của chúng tôi nhìn chung là cố gắng tạo ra sự khác biệt, chiến thắng trong sự khác biệt. Muốn vậy thì đi vào thuốc dược liệu” – Ông Nguyễn Huy Văn, Phó Tổng Giám đốc Traphaco, phụ trách R&D của công ty cho biết.
 
Sao lại là đông dược?
 
Traphaco “xuất thân” từ Tổ sản xuất thuốc thuộc Ty Y tế Đường Sắt, cung ứng thuốc cho hơn 60.000 công nhân ngành Đường Sắt với nguồn lực vỏn vẹn 16 người và 300 m2 đất. Với hạn chế tiếp cận các nguyên liệu tân dược, họ tập trung chủ yếu vào sản xuất thuốc từ nguồn dược liệu với một trong những sản phẩm đầu tiên là Viên Sáng Mắt – công cụ đắc lực cho dân lái tàu. Thời điểm đó, sản phẩm của họ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu của ngành đường sắt và khoảng 70% thuốc do Traphaco sản xuất sử dụng dược liệu1.
 
Đầu những năm 1990, sau thời kỳ Đổi mới, phần lớn các đơn vị sản xuất thuốc ở Việt Nam đều trở thành doanh nghiệp nhà nước và chuyển sang sản xuất thuốc tân dược. “Thậm chí là Xí nghiệp Dược phẩm TW3 ở Hải Phòng vốn được phân công sản xuất đông dược cũng chuyển sang sản xuất thuốc tân dược, cứ nhập tân dược là chiến thắng vì thời đó thiếu thuốc. Nhưng công ty không có lợi thế đó nên bắt buộc phải tìm nền tảng riêng để hi vọng tồn tại được” – Ông Huy Văn chia sẻ. Traphaco vì thế vẫn “trung thành” với thuốc dược liệu. Đến nay, trong 200 sản phẩm thuốc đã đăng ký, 70% sản phẩm của Traphaco là thuốc đông dược. Trung bình trong một viên thuốc, 90% khối lượng là từ nguồn dược liệu Việt Nam. 
 
Traphaco và các công ty trực thuộc được Giải Vàng Chất lượng Quốc gia năm 2012, 2014, 2015 và đươc Giải thưởng Chất lượng châu Á-Thái Bình Dương (GPEA) năm 2013.
 
Từ nhiều năm qua, thị trường dược Việt Nam bị áp đảo bởi thuốc hóa dược, tân dược. Các hãng dược nước ngoài đang chiếm 60% thị trường dược Việt Nam và các công ty dược lớn nhất Việt Nam như Dược Hậu Giang, Domesco và Imexpharm dành hơn 80% sản phẩm cho thuốc tân dược. Bên cạnh đó, thời gian nghiên cứu để cho ra một sản phẩm dược liệu mất từ 5-10 năm trong khi nếu sản xuất thuốc generic (như hầu hết các công ty sản xuất thuốc hóa dược, tân dược ở Việt Nam đang làm) thì ngắn hơn rất nhiều do không phải trải qua quá trình thử nghiệm lâm sàng; đồng thời mặt hàng thế mạnh của Traphaco cũng không có chỗ đứng an toàn nữa do Dược Hậu Giang và Imexpharm cũng phát triển dòng sản phẩm thuốc đông dược riêng của họ. Doanh thu từ dòng sản phẩm đông dược lần lượt chiếm 13% và 3% vào năm 2014 trên tổng doanh thu hai công ty này và đang có xu hướng tăng. Một trong những sản phẩm mà Traphaco tự hào – Cebraton từng chiếm 100% thị phần hoạt huyết dưỡng não cách đây 10 năm, giờ giảm xuống chỉ còn 30% do phải chia sẻ thị phần với tận 40 công ty khác.1 
 
Tuy nhiên, Traphaco luôn tự tin về mảng thuốc đông dược của mình. Ông Huy Văn tự tin lí giải điều này là do tận dụng nền tảng lý luận của người đi trước (như Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh, Hải Thượng y tông tâm lĩnh của Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác…). Ông cho rằng, những sản phẩm của Traphaco chưa “sáng tạo nhiều lắm” mà chính là sản phẩm được kế thừa từ xa xưa, công ty chỉ “lắp ghép” các nghiên cứu hiện đại để làm sáng tỏ những ứng dụng của thuốc và phát hiện những công dụng mới. Bên cạnh đó, phát triển thuốc từ dược liệu cũng phát huy lợi thế đa dạng sinh học của Việt Nam (4.000 cây thuộc trong số khoảng 12.000 loài thực vật). Trong giai đoạn hiện nay, chiến lược này lại phù hợp với quan điểm bảo vệ môi trường vì chỉ sử dụng những nguyên liệu tự nhiên và góp phần công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp khi Traphaco triển khai xây dựng vùng dược liệu nên công ty sẽ nhận được ủng hộ nhất định về mặt chính sách của nhà nước.
 
 
Vùng trồng dược liệu Actiso của Traphaco ở Sapa, Lào Cai. 
Nguồn ảnh: Traphaco
 
“Hào phóng” cho R&D
 
Trong một buổi tọa đàm cuối năm ngoái về đầu tư R&D trong doanh nghiệp, bà Vũ Thị Thuận, Chủ tịch HĐQT của Traphaco cũng từng thể hiện quan điểm của Traphaco trong đầu tư cho KH&CN: “Quan điểm của chúng tôi là tốn kém bao nhiêu cũng được, miễn là ra được kết quả”. Mỗi năm, Traphaco danh từ 3-5% doanh thu (gần 100 tỷ đồng) cho hoạt động R&D.
 
Traphaco khá “hào phóng” trong việc đầu tư cho nghiên cứu, đặc biệt thể hiện ở việc bảo hộ vĩnh viễn bản quyền của tác giả. Bất cứ ai chuyển giao công thức, bí quyết thực sự đem lại hiệu quả (tức là tạo ra sản phẩm) cho Traphaco thì mỗi năm, công ty sẽ trả phí bản quyền tương ứng với 3% doanh thu, chừng nào sản phẩm còn tồn tại trên thị trường. Chẳng hạn, một trong những sản phẩm bán chạy nhất của Traphaco hiện nay trên thị trường là Hoạt huyết dưỡng não Cebraton, đem lại cho công ty khoảng 200 tỷ đồng/năm, tác giả của công thức này – GS. Nguyễn Khắc Viện sẽ nhận được khoảng 6 tỷ đồng/năm. “Đây cũng là cơ hội để tác giả tiếp tục suy nghĩ, cải tiến, hoàn thiện công thức tốt hơn. Người ta sẽ yên tâm chuyển giao hết bí quyết cho mình” – Ông Huy Văn cho biết.
 
Hiện nay, Traphaco hợp tác nghiên cứu với nhiều viện/trường, trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Không chỉ giới hạn trong nghiên cứu về bào chế, dược lý, độc tính, lâm sàng với các Đại học Dược, Đại học Y Hà Nội, Học viện Quân Y, họ còn nghiên cứu về hóa học (ví dụ đưa ra chất chuẩn để chiết xuất các thành phần từ dược liệu), bảo tồn nguồn gene, thậm chí còn nghiên cứu về phương pháp trồng dược liệu.
 
Tuy nhiên, khi được hỏi, vậy trí tuệ của đội ngũ R&D của Traphaco đóng góp bao nhiêu % trong việc hình thành sản phẩm? Ông Huy Văn trả lời không ngần ngại: “Linh hồn [sản phẩm] là của lực lượng bên trong, chiếm 90%, còn bên ngoài thực ra chỉ là 10%. Thực ra, các nhà khoa học chỉ làm thí nghiệm, ý tưởng ban đầu còn công nghệ để đưa kết quả nghiên cứu thành sản phẩm thực tiễn, sản xuất ở quy mô công nghiệp là lực lượng R&D ở công ty làm hết.” 
 
Traphaco tập trung đầu tư vào con người từ những ngày đầu thành lập. Họ nhận bất kì sinh viên nào tốt nghiệp Đại học Dược xin vào công ty và sắp xếp cho họ làm việc tại các quầy thuốc của mình. Đến đầu những năm 1990, Traphaco là công ty dược có số lượng dược sĩ tốt nghiệp đại học và sau đại học lớn nhất cả nước. “Có những năm cả Đại học Dược có bốn người tốt nghiệp loại giỏi thì ba người về Traphaco” – Ông Huy Văn cho biết. 
Đội ngũ ban đầu tạo nền tảng hình thành phòng R&D – ra đời năm 1996. Vào thời kỳ này mà ông Huy Văn gọi là “khó khăn” vì trong ngành dược người ta có câu “chuột chạy cùng sào mới vào nghiên cứu” do tất cả các phòng nghiên cứu tại Xí nghiệp Dược phẩm TW1, TW2 đều không có “vai vế” gì và bị giải thể, ông đề xuất hỗ trợ thêm cho mỗi nhân viên R&D thêm 500 nghìn mỗi tháng để họ yên tâm làm việc. Bộ phận R&D của Traphaco ngay lập tức tập trung triển khai các kết quả nghiên cứu khoa học của công ty và của các nhà khoa học chuyển giao cho, hợp tác với các viện/trường như công thức điều trị ung thư của GS. Đái Duy Ban (sau này trở thành sản phẩm CADEF), công thức làm tăng sinh lực từ hải sâm của GS. Nguyễn Tài Lương (sau này trở thành sản phẩm Amorvita Hải sâm). Bộ phận R&D của Traphaco hiện nay vẫn có lương trung bình (gần 20 triệu đồng/người) nhiều hơn các bộ phận khác trong toàn công ty (gần 15 triệu đồng/người), và được đầu tư một nhà máy riêng đặt tại Hưng Yên mà theo lời ông Huy Văn “có công suất lớn hơn cả của một công ty trách nhiệm hữu hạn dược thông thường” để triển khai trên quy mô pilot.  
 
Theo ông Nguyễn Huy Văn, lực lượng R&D của Traphaco rất “thiện chiến”. Một trong những lí do quan trọng là họ liên kết tương đối chặt chẽ với bộ phận marketing nên rất hiểu thị trường. Có năm, họ nghiên cứu 20 sản phẩm và cho ra thị trường sáu sản phẩm. Một trong hai sản phẩm bán chạy nhất của Traphaco hiện giờ – Boganic là do công ty hoàn toàn tự nghiên cứu và phát triển. 
 
Traphaco nói gì về Giải thưởng “Chất lượng Quốc gia”?
 
Ông Nguyễn Huy Văn cho biết, Giải thưởng Chất lượng Quốc gia với 7 tiêu chí đánh giá là giải thưởng toàn diện nhất, khái quát nhất hoạt động của doanh nghiệp: “Vấn đề chất lượng không phải là một cái đích, nó là phương tiện để một tổ chức hướng đến thành công. Và chất lượng thì cần cải tiến liên tục. Ví dụ, Giải thưởng Chất lượng Châu Á – Thái Bình Dương (Traphaco đạt Giải Vàng năm 2014), có những doanh nghiệp năm nào cũng nộp để cải tiến, hoàn thiện tổ chức, còn việc nhận giải chỉ mang tính động viên. Nếu làm đúng theo những tiêu chí của giải thưởng thì sức khỏe của doanh nghiệp sẽ tăng lên rất nhiều”. 
Ông cũng cho biết Hội đồng Giải thưởng Chất lượng Quốc gia đánh giá kỹ lưỡng nhất trong các giải thưởng và ông cần những khuyến cáo để hoàn thiện việc quản lý: “Có một cái hay là trong quá trình thẩm định giải thưởng, chúng tôi học được rất nhiều thứ, ví dụ như về bảo mật thông tin, xử lý sự cố khi máy chủ bị mất điện khi sử dụng phần mềm DMS để quản lí bán hàng chẳng hạn. Hoặc thực ra bọn tôi vào hiệp hội mã số mã vạch lâu lắm rồi nhưng chưa ứng dụng được trong quản lý bán hàng, quản lý kho…Bọn tôi quan niệm mỗi lần đánh giá như vậy mình học được rất nhiều.”   
Tuy nhiên, ông cho rằng giải thưởng cần được quảng bá sâu rộng hơn để các doanh nghiệp hiểu và thực hiện, nâng cao chất lượng của mình. Bên cạnh đó, các đơn vị đạt giải cần được ghi nhận thực sự, thậm chí là ưu tiên để tạo thành lợi thế của họ khi giao dịch với khách hàng: “Chỉ nhận giải thưởng không mà bán hàng thì vẫn không đấu thầu được (vào các nhà thuốc bệnh viện), chẳng có gì khác thì rất là khó. Còn với khách hàng, chờ người ta cảm nhận cũng lâu lắm”.
 
Traphaco chi mạnh tay cho nghiên cứu thị trường. Họ đã thuê Nielsen đánh giá thị trường, dù với một dòng sản phẩm nhỏ như nước súc miệng T-B và nhận thấy lợi nhuận có thể tăng gấp nhiều lần. Hằng năm, họ bỏ ra từ 30.000 – 50.000 USD để mua các kết quả nghiên cứu thị trường của BMI và IMS Heath để xem xét về nhu cầu người dùng và đối thủ cạnh tranh. 
 
Một trong những dự án mà Traphaco tự hào là Greenplan – tự nghiên cứu và xây dựng vùng nguyên liệu. Ông Huy Văn chia sẻ: “Hơn hai thập niên qua, không có một trường đại học nào còn dạy phương pháp trồng dược liệu”. Tuy nhiên, hợp tác nghiên cứu với một số nhà khoa học ở Học viện Nông nghiệp, họ là một trong số những doanh nghiệp đầu tiên ở Việt Nam đạt tiêu chuẩn GACP (Good Agricultural and Collection Practices – Thực hành tốt trồng trọt và thu hái). “Nhưng những người đi đầu rất vất vả, khó khăn vì dược liệu thì gắn với nông nghiệp, nông thôn miền núi. Ví dụ khi đoàn đánh giá của Bộ Y tế về tiêu chuẩn GACP lên xã Sa pả, thị trấn Sapa, nơi có đối tác của Traphaco đang triển khai trồng cây artiso. Để triển khai được dự án trồng cây tại đây phải có nghị quyết của huyện ủy, sau đó đưa các bí thư, chủ tịch, trưởng công an xã làm trước, rồi bà con làm theo. Trong quản lý đồng ruộng, đoàn cán bộ Bộ Y tế yêu cầu phải ghi chép hằng ngày, bón phân gì, tưới nước bao nhiêu, cũng làm thành bảng cho bà con điền vào nhưng họ cũng không điền vì nhiều gia đình không biết chữ, không biết tiếng Kinh luôn” – Ông Huy Văn chia sẻ. Khi đó, cách giải quyết duy nhất là cử một đội trưởng đội sản xuất…điền hộ. Hiện nay, Traphaco có bốn vùng trồng dược liệu đạt tiêu chuẩn GACP bao gồm: Actiso tại Sapa, Rau đắng đất tại Phú Yên, Bìm bìm biếc tại Hòa Bình, Đinh lăng tại Nam Định. Bốn loại cây này là nguyên liệu đầu vào cho hai sản phẩm bán chạy nhất của Traphaco hiện nay, chiếm hơn 50% doanh thu của doanh nghiệp này từ thuốc đông dược là Cebraton và Boganic.
 
Những rào cản từ chính sách
 
Traphaco được lựa chọn làm một ví dụ về một công ty đổi mới sáng tạo ở Việt Nam dạy trong chương trình của Đại học Quản lý Singapore (Singapore Management University – SMU). Mats Lingbad, tác giả viết và nghiên cứu về ví dụ này đã làm một phép thử: Ông tới bốn nhà thuốc ở phố Quán Sứ, Hà Nội và hỏi mua thuốc hoạt huyết dưỡng não. Trong bốn nhà thuốc thì chỉ có duy nhất một nơi giới thiệu Traphaco cho ông. Còn lại, dù gợi ý thế nào, họ vẫn giới thiệu các hãng khác. 
 
Sản phẩm hoạt huyết dưỡng não của Traphaco, bây giờ có tên là Cebraton là nghiên cứu của GS. Nguyễn Khắc Viện chuyển giao cho Traphaco năm 1995 (ra thị trường năm 1999) nhưng ông Nguyễn Huy Văn thú thực là lúc đó chưa quan tâm đến bản quyền. Chính vì vậy, đến năm 2003, một loạt các công ty nhái công thức và thậm chí cả bao bì của Cebraton và tung ra thị trường. Dĩ nhiên, điều này làm sụt giảm thị phần của Traphaco nghiêm trọng trong 10 năm qua, mặc dù sản phẩm này vẫn được Nielsen đánh giá là dẫn đầu (về mặt chất lượng) dòng sản phẩm về hoạt huyết dưỡng não.
 
Sau sự kiện đó, mặc dù bị thiệt nhưng Traphaco vẫn e ngại việc đăng ký sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm của mình, lí do đưa ra là…quá khó: “Như đăng ký sáng chế Cebraton về chế tạo ra công thức viên nang mềm, sản phẩm mình đưa đầu tiên ra thị trường và là sáng tạo của mình. Nhưng xét duyệt một sáng chế cực kỳ khó, đã đăng ký tới hai năm nay rồi chưa biết đến bao giờ mới được mà khả năng được cũng rất khó”
 
Tại sao lại khó như vậy? “Tôi nghĩ là do hội đồng xét duyệt và nhà khoa học không nhìn về một hướng. Nhà khoa học nghĩ là nó có tính mới, có thể bảo vệ được còn hội đồng thì lại không”. – Ông Huy Văn cho biết. Theo nghiên cứu của TS. Trần Văn Hải, Đại học KHXH&NV nghiên cứu về tính mới trong việc bảo hộ sáng chế đối với các bài thuốc cổ truyền thì ở Mỹ, nếu một bài thuốc được sử dụng rộng rãi nhưng chưa công bố ở các tạp chí nước ngoài thì vẫn được coi là có tính mới. Nhưng với Việt Nam, các bài thuốc gia truyền không được bảo hộ vì “đã được sử dụng rộng rãi ở trong nước”2.    
 
Một hiện tượng khác, cũng “oái oăm” không kém với Traphaco đó là, Traphaco không thể bán thuốc trong các bệnh viện, dù sản phẩm được giải “Ngôi sao thuốc Việt” (giải thưởng do Cục Quản lý Dược Bộ Y tế bình chọn). “Mặc dù hoạt huyết dưỡng não Cebraton, Boganic nổi tiếng như thế nhưng khi đi đấu thầu toàn bị “out”, toàn ở ngoài cổng bệnh viện, chẳng thể vào nổi bệnh viện mà đơn vị nhái sản phẩm lại vào được. Lí do là vì thông tư liên tịch hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở y tế lại yêu cầu đấu giá (tức là giá rẻ nhất thì được bán). Trước đó là vòng một chấm điểm kĩ thuật thì sản phẩm nào cũng qua hết” – Ông Huy Văn nói.
 
Vì thế, khi được hỏi về vấn đề nào khó nhất, không ngạc nhiên khi ông Huy Văn trả lời phóng viên Tia Sáng, “Mình cho vấn đề lớn nhất là vấn đề cơ chế, cạnh tranh thị trường, là cái khó khăn lớn nhất hiện nay. Làm thế nào để cạnh tranh bình đẳng?”
———
1 Mats Lingbad, Traphaco: Choices for the future, http://www.thecasecentre.org/educators/products/view?id=119730
2http://tapchi.vnu.edu.vn/upload/2014/01/1063/2.pdf
 
Hảo Linh

Samsung đầu tư 6.750 tỷ cho Trung tâm R&D tại Hà Nội

Thủ tướng Chính phủ vừa chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Samsung của Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam (SEV).
 
Dự án nhằm tổ chức triển khai các hoạt động nghiên cứu và phát triển các sản phẩm điện, điện tử và viễn thông công nghệ cao với tổng vốn đầu tư 300 triệu USD, tương đương 6.750 tỷ đồng.
 
Địa điểm thực hiện Dự án tại ô đất ký hiệu 12-CCV, Khu chức năng đô thị Nam đường vành đai 3, đường Nguyễn Xiển, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.
 
Thời hạn hoạt động của Dự án 50 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Dự án được miễn tiền thuê đất trong vòng 50 năm kể từ ngày được bàn giao đất theo quy định Luật Công nghệ cao, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành.
 
 
Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam.
 
Thủ tướng Chính phủ giao Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội chỉ đạo các cơ quan chức năng thuộc thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho dự án; kiểm tra, giám sát các điều kiện hưởng ưu đãi theo quy định.
 
Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm giám sát SEV về tổ chức cơ cấu nhân sự, chức năng hoạt động Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Samsung để đảm bảo đáp ứng các điều kiện về nhân lực bố trí cho hoạt động nghiên cứu và phát triển.
 
Theo Khám Phá
 

“Chương trình KC.10 là niềm tự hào của khoa học Việt Nam”

Đó là nhận định của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Quân khi đánh giá về những thành tựu mà Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước lĩnh vực y dược (mã số KC.10 giai đoạn 2011-2015) đã đạt được.
 
 
Sáng 26/3/2016, Hội nghị Tổng kết Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp nhà nước lĩnh vực y dược (mã số KC.10 giai đoạn 2011-2015) đã diễn ra tại Hội trường A, Học viện Quân y (Hà Đông, Hà Nội). 
 
Tham dự Hội nghị Tổng kết Chương trình KC.10 có Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân; GS.TS Lê Bộ Lĩnh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội; Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc; Thứ trưởng Bộ Y tế Lê Quang Cường; PGS.TS Nguyễn Quốc Trung, Vụ trưởng Vụ các vấn đề xã hội Ban tuyên giáo Trung ương, đại diện Bộ Quốc phòng cùng đông đảo các nhà quản lý, nhà khoa học.
 
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Quân đánh giá rất cao những thành tựu mà Chương trình KC.10 đã đạt được. "Chúng tôi tự hào vì Bộ KH&CN đã có Chương trình KC.10 và một số chương trình KC khác thành công. Mong rằng giai đoạn 2016-2020 chương trình sẽ có những thành tựu mới quan trọng mang tầm quốc tế để ngành y tế, hóa dược của Việt Nam đáp ứng được nhu cầu thực tế" – Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân nói.
 
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Lê Quang Cường, đại diện Bộ Quốc phòng, Học viện Quân y… cũng chia sẻ về thành công, ghi nhận sự nỗ lực của các nhà khoa học thuộc chương trình. 
 
Trong khi đó, GS.TS Phạm Gia Khánh – Chủ nghiệm Chương trình KC.10 và đại diện các đề tài bày tỏ sự cảm kích về sự quan tâm, đầu tư của cơ quan quản lý, các nhà lãnh đạo của Bộ KH&CN, Bộ Tài chính, Bộ Y tế… về tài chính và tinh thần cho Chương trình KC.10 trong 5 năm qua để chương trình có được những thành công như ngày hôm nay.
 
Các nhà khoa học mong muốn chương trình sẽ tiếp tục được đầu tư đúng mức để khoa học y dược của Việt Nam ngày càng tiếp cận được các công nghệ, kỹ thuật phức tạp, tiên tiến hơn nữa góp phần tích cực vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
 
Sau hơn 2 giờ đồng hồ, Hội nghị Tổng kết Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước lĩnh vực y dược mã số KC.10/11-15 đã kết thúc tốt đẹp.
 
Mời quý độc giả click và đường link dưới đây để xem chi tiết buổi tường thuật trực tuyến Hội nghị Tổng kết Chương trình KC.10.
 
http://khoahocphattrien.vn/chinh-sach/truc-tuyen-bo-truong-nguyen-quan-thanh-cong-cua-kc10-la-niem-tu-hao-cua-khoa-hoc-viet-nam/20160325064137202p1c785.htm
 
 
Nguồn:  Báo Khoa học và Phát triển
 

Phó Chủ tịch Frankfurt Book Fair đến gặp gỡ Hội xuất bản VN và tham gia Hội sách TPHCM 2016

Từ ngày 24/03 đến 29/03/2015, Bà Claudia Kaiser – Phó Chủ tịch của Frankfurt Book Fair sẽ đến gặp gỡ,  giao lưu cùng độc giả và làm việc với lãnh đạo Hội xuất bản tại Việt Nam.
 
 
 
Bà Claudia Kaiser đến Việt Nam để tìm hiểu và mong muốn được giúp đỡ Việt Nam – một đất nước có nhiều tiềm năng trong ngành xuất bản nhưng chưa thực sự tham gia sâu trong môi trường quốc tế. Mục đích chuyến thăm của bà Claudia Kaiser là thúc đẩy hợp tác giữa tổ chức hội chợ lớn nhất thế giới với Việt Nam, với mong muốn tạo mọi điều kiện kết nối với các chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực xuất bản để giúp Việt Nam phát triển hơn.
 
Với vai trò là người kết nối, Thái Hà Books sẽ tổ chức chương trình hội thảo “Toàn cảnh ngành xuất bản thế giới và Việt Nam, thách thức và cơ hội” với bà Claudia là diễn giả tại Hội sách TP.HCM; cùng bà đến gặp gỡ và làm việc lãnh đạo Hội xuất bản và các đơn vị xuất bản tại TP.HCM, TP Đà Nẵng và TP Hà Nội.
 
 
Lịch thời gian của bà Claudia tại Việt Nam trong thời gian tới:
 
 
18h00 – 24/03: Bà là khách mời hội thảo “Toàn cảnh ngành xuất bản thế giới và Việt Nam, thách thức và cơ hội” tại Sân khấu chính  Hội sách TPHCM – CV Lê Văn Tám – Quận 1.
 
Từ 24/03 – 26/03/2016: Tham quan Hội sách TPHCM; Tham quan mô hình Đường sách TPHCM; Gặp gỡ lãnh đạo Hội xuất bản và lãnh đạo các đơn vị xuất bản tại TPHCM.
 
 
28/03/2016: Gặp gỡ và làm việc với Lãnh đạo TP Đà Nẵng.
 
 
29/03/2016: Gặp gỡ và làm việc với Lãnh đạo TP Hà Nội. Gặp gỡ lãnh đạo Hội xuất bản và lãnh đạo các đơn vị xuất bản tại Hà Nội.
 
Thông tin về Bà Claudia Kaiser:
 
Bà Claudia Kaiser – Phó Chủ tịch của Fankfurt Book Fair và đồng sự bà Ursula Holpp – phụ trách khu vực Châu Á, Châu Phi và Iran đã giới thiệu về Hội sách Frankfurt Book Fair với các lãnh đạo Việt Nam. Đây là một Hội sách được tổ chức hàng năm vào giữa tháng 10 tại Frankfurt (Đức). Hội sách quy tụ đại diện tất cả các nhà xuất bản, đơn vị xuất bản sách và các công ty đa phương tiện từ khắp nơi trên thế giới đến để đàm phán quốc tế về vấn đề xuất bản, bản quyền… Hội chợ được tổ chức do các nhà xuất bản các đơn vị thuộc Hiệp hội xuất bản  Đức, thu hút hơn 7.000 nhà xuất bản đến từ hơn 140 quốc gia với gần 300.000 lượt khách tham quan và đây được xem là hội sách lớn nhất trên thế giới. Điểm đặc biệt nhất chính là mỗi năm, Hội chợ sách sẽ mời 1 quốc gia làm khách mời danh dự, quốc gia đó sẽ là điểm nhấn cho hội chợ, được sự hỗ trợ tối đa từ ban tổ chức và được giới thiệu hình ảnh về văn hóa, xã hội, con người, giáo dục, du lịch…và qua đó, thị trường xuất bản của nước đó sẽ được tập trung khai thác và bán được bản quyền ra toàn thế giới.
 
Nguồn: thaihabooks.com

Hội sách TP HCM 2016 thu 50 tỷ đồng sau 7 ngày

 Khép lại một tuần tấp nập tại công viên Lê Văn Tám, Hội sách TP HCM đạt được những con số ấn tượng.
Tổ chức hai năm/lần, Hội sách TP HCM trở thành ngày hội của các nhà xuất bản và người yêu sách. Đây cũng là kênh thông tin hữu ích để các đơn vị xuất bản, phát hành lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của bạn đọc. 
 
 
Hội sách thu hút số lượng lớn bạn đọc trong 7 ngày diễn ra. Ảnh: Bá Ngọc
Năm nay gia, hội sách gia tăng về quy mô và tính chuyên nghiệp. Điều này thể hiện qua những con số ấn tượng như: 710 gian hàng, tăng khoảng gần 40% so với Hội sách 2014. Trong đó, có sự tham gia của gần 200 nhà xuất bản, công ty phát hành trong và ngoài nước với 300 nghìn tựa sách và hơn 30 triệu bản được trưng bày.
 
Phát biểu tại buổi tổng kết, ông Trương Văn Hiền, Trưởng ban tổ chức hội sách cho biết: "Trong 7 ngày diễn ra, hội sách đã thu hút hơn 1 triệu lượt bạn đọc, tăng hơn 20% so với Hội sách lần 2014. Tổng doanh thu của Hội sách đạt hơn 50 tỷ đồng, tăng hơn 30% so với doanh thu năm trước"…
 
 
Hoi sach TP HCM 2016 thu 50 ty dong sau 7 ngay hinh anh
Ông Trương Văn Hiền, trưởng ban tổ chức hội sách. Ảnh: Bá Ngọc
 
Ông nhấn mạnh: "Trong Top 10 cuốn bán chạy nhất hội sách thì có đến 8 cuốn của tác giả Việt Nam, đặc biệt là các tác giả trẻ. Đây là tín hiệu đáng mừng với giới văn chương".
 
Tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh – Con chó nhỏ mang giỏi hoa hồng dẫn đầu trong danh sách tựa sách được yêu thích nhất.
 
Danh sách Top 10 tựa sách bán chạy nhất tại Hội sách TP HCM 2016.
 
1.     Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng 
 
2.     Thương mấy cũng là người dưng
 
3.     Trên đường băng – Tony buổi sáng
 
4.     Madam Nhu – Trần Lệ Xuân – Quyền lực bà rồng
 
5.     Nhà giả kim
 
6.     Sẽ có cách đừng
 
7.     12 cách yêu
 
8.     Thỏ bảy màu – Timeline của tui có gì
 
9.     Cà phê cùng Tony.
 
10. Đắc nhân tâm
 
Hằng Nguyễn
 

Hướng dẫn bạn cách đọc mã vạch sản phẩm để biết ngay đó là hàng Mỹ, Nhật hay Trung Quốc

Mã sản phẩm hay còn được gọi là UPC là cách duy nhất bạn có thể dùng để xác định xuất xứ của mặt hàng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ hướng dẫn bạn cách tìm ra xuất xứ của các mặt hàng dựa trên mã vạch mà không cần phải sử dụng bất kỳ thiết bị điện tử nào.
Phía sau các hãng di động giá rẻ Trung Quốc
Chất gây quái thai đang hàng ngày tuồn vào bữa ăn của người Việt
Những ai đang dùng loại bình Trung Quốc này để uống nước, hãy vứt ngay
Gần đây, Trung Quốc bị cộng đồng quốc tế chỉ trích nặng nề vì chất lượng các sản phẩm xuất xứ từ quốc gia này không được đảm bảo. Do vậy, xác định được nguồn gốc, xuất xứ của các sản phẩm sẽ giúp bạn yên tâm hơn trong việc sử dụng các sản phẩm hay các loại thực phẩm trên cơ thể mình.
 
 
Nhìn ba con số đầu của mã vạch (khoanh tròn đỏ trong ảnh) để xác định xuất xứ của mặt hàng

 

Ba con số đầu tiên của mã vạch UPC là những con số dùng để xác định nhà máy và quốc gia xuất khẩu sản phẩm. Ví dụ, nếu ba chữ số đầu tiên trên mã vạch của một sản phẩm nằm trong khoảng từ 690 tới 695 thì mặt hàng này có xuất xứ từ Trung Quốc.
Nhưng trong một số trường hợp, rất khó xác định xuất xứ của một mặt hàng. Ví dụ, một công ty Ấn Độ nhập khẩu hoa quả từ Trung Quốc sau đó xuất khẩu ra các nước khác thì mã vạch sẽ hiển thị xuất xứ của hoa quả là từ Ấn Độ chứ không phải Trung Quốc. Trong trường hợp này, nếu cần thiết, bạn nên kiểm tra thêm thông tin về doanh nghiệp.
 
 
Hiểu rõ nguồn gốc, xuất xứ của các sản phẩm giúp người tiêu dùng tránh được những mối nguy hiểm tiềm tàng từ hóa chất hoặc thực phẩm không đảm bảo vệ sinh.
 
Tham khảo HumannHealth

Người Sài Gòn mê sách

Người Việt mê và yêu sách. Tuy nhiên, chỉ có ở Sài Gòn, thiên hạ mới hào phóng, dễ dàng móc tiền ra mua sách. Suy nghĩ này, thoạt nghe có thể nhiều người cho rằng chủ quan nhưng đây không phải ý kiến của tôi. Nhiều anh em làm sách tại Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ… đã có kết luận ấy.
 
Thật vậy, Hội sách TP HCM đã trải qua 9 lần nhưng doanh thu về sách lên đến nhiều tỉ đồng là điều có thật. Khi tận mắt chứng kiến cả hàng ngàn lượt người đến Công viên Lê Văn Tám trong những ngày này, ta mới cảm nhận hết được ma lực quyến rũ, sức hấp dẫn ghê gớm của thế giới sách. Và không phải ngẫu nhiên, Sài Gòn đang là địa bàn “đứng chân” của giới làm sách trong cả nước.
 
 
 
Hội sách TP HCM 2016 luôn đông khách Ảnh: AN NHIÊN
Cầm quyển sách trên tay, người ta đang sở hữu một sức mạnh nhằm nuôi dưỡng tâm hồn, làm giàu tri thức. Ấn phẩm ấy, tất nhiên không chỉ tốt về nội dung mà còn phải đẹp, sang trọng về hình thức. Trước đây, các nhà xuất bản ở Sài Gòn có một “thú chơi” nho nhỏ: ngoài số lượng phát hành trên thị trường, họ còn in thêm vài chục quyển, có đánh số hẳn hoi, in trên các loại giấy hoa tiên, giấy lụa hoặc giấy quý… chỉ dành cho chính họ và tác giả quyển sách đó.
 
Ấn phẩm ít ỏi này thật sự là một tác phẩm mỹ thuật và bao giờ cũng thuộc loại “hàng độc” mà người chơi sách, sưu tập sách luôn săn lùng ráo riết. Giữ được loại sách đặc biệt đó, nếu có thêm chữ ký, triện son của tác giả và của nhà xuất bản thì lập tức giá của nó cao ngất ngưởng và cũng là niềm tự hào của người sở hữu.
 
Chưa hết, với một quyển sách mà mình yêu thích, người Sài Gòn còn có thói quen đóng bìa cứng, mạ chữ vàng trên bìa và gáy sách; rồi vào trang đầu tiên, ta đã thấy có đóng dấu đỏ tươi như: “Tủ sách gia đình của…”. Dù là sách phát hành rộng rãi nhưng qua tay người yêu sách ắt nó có thêm một diện mạo khác nữa. Cần nhấn mạnh thêm rằng với người “có ăn có học”, họ quan niệm rạch ròi, vị trí đẹp nhất ở trong nhà, nơi phòng khách chẳng hạn, không phải là tủ rượu mà chính là sách được xếp ngăn nắp, đâu ra đó bởi nhìn các gáy sách khi xếp trang trọng trên kệ, tự nó đã là một sự mỹ thuật khó gì có thể sánh nổi.
 
Thêm một điều này nữa, mà theo tôi, nó hình thành từ tính cách “chịu chơi” của người Sài Gòn: Khi bạn bè ra mắt sách, tổ chức giao lưu cùng bạn đọc thì các thân hữu luôn có mặt chung vui và tặng hoa. Họ tự nguyện mua sách và xin chữ ký của bạn làm kỷ niệm. Lại có người mua với giá cao hơn nhiều lần, như một cách bồi dưỡng thêm phần “nhuận bút” cho tác giả. Thái độ ấy đã có từ lâu, nay vẫn tồn tại. Qua đó, ta còn có thể nhìn ra một nét văn hóa trong phép ứng xử về sách từ độc giả của vùng đất phương Nam giàu nghĩa nặng tình.
 
“Lê Minh Quốc – Yêu và viết” là chủ đề cuộc giao lưu, trò chuyện cùng bạn đọc được tổ chức lúc 9 giờ ngày 26-3 tại gian hàng sách của Công ty Văn hóa Phương Nam, thuộc Hội sách TP HCM ở Công viên Lê Văn Tám. Dịp này, 2 tập sách mới của nhà thơ Lê Minh Quốc chính thức phát hành: “Ngày viết mỗi ngày”, “Có một mầm hoa đã nhú dưới tro tàn” (NXB Hội Nhà văn).
 
Tại buổi giao lưu, nhà thơ Lê Minh Quốc “bật mí” những vấn đề liên quan đến tình yêu, sáng tác và tặng chữ ký trên 2 tập sách mới dành cho bạn đọc. P.V
 
 
 
Lê Minh Quốc