Hotline 1: 0898275999
GrabTaxi là một startup thành công ở Kuala Lumpur. Nguồn: Scmp.com
Gần đây Compass, một hãng nghiên cứu có trụ sở tại San Francisco, đã công bố báo cáo xếp loại top 20 hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu, dựa trên kinh nghiệm khởi nghiệp, số lượng các cuộc thoái vốn thành công, giá trị đầu tư mạo hiểm nhận được, tầm với thị trường, và nguồn nhân lực.
Dưới đây là các hub khởi nghiệp được xếp hạng cao nhất trong danh sách trên:
1. Singapore
Singapore được đánh giá là hệ sinh thái khởi nghiệp tốt nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Hiện quốc gia này có khoảng 3.600 startup đang hoạt động, trong đó lĩnh vực phát triển nhất là thương mại điện tử, game và truyền thông xã hội. Khi Compass bắt đầu công bố danh sách này từ năm 2012, Singapore xếp thứ 17 trên toàn cầu, và hiện nay đã vươn tới vị trí thứ 10.
Từ lâu Singapore đã là một trung tâm kinh doanh phát triển và là nơi đặt trụ sở chính của nhiều công ty lớn của Mỹ như Google, Uber và Facebook. Nằm trên tuyến đường biển lớn giữa Ấn Độ và Trung Quốc, Singapore cũng có tiềm năng lớn để phát triển tầm với thị trường bởi gần một nửa (49%) khách hàng của các startup sở tại đang sinh sống tại nước ngoài.
Cũng cần nêu ra một điểm đáng lưu ý là Singapore có tỉ lệ sử dụng điện thoại di động cao nhất toàn cầu. Theo một nghiên cứu gần đây của Deloitte (một trong bốn hãng kiểm toán lớn nhất thế giới), trong 10 người dân Singapore thì có tới chín người sử dụng smartphone. Thực tế này đã mang đến những cơ hội mới đầy hứa hẹn trong lĩnh vực thương mại điện tử.
2. Bangalore
Với 4.900 startup đang hoạt động và 2,3 tỉ giá trị đầu tư mạo hiểm, thành phố Bangalore của Ấn Độ là địa điểm kinh doanh tốt thứ hai ở châu Á.
Niềm tự hào của Bangalore là website thương mại điện tử Flipkart, công ty “unicorn” trị giá nhiều tỉ USD do Sachin và Binny Bansal thành lập năm 2007. Hiện nay, sau khi thu về 550 triệu USD trong vòng gọi vốn hồi tháng Năm vừa qua do Tiger Global Management thực hiện, giá trị định giá của Flipkart là 15 tỉ USD.
“Khác với Thung lũng Silicon, Bangalore có mật độ dân cư, kỹ sư, nhà đầu tư cao hơn, đồng thời sự đa dạng về văn hóa ở đây cũng khiến cho việc chia sẻ thông tin được thực hiện dễ dàng hơn so với các khu vực khác trong nước,” Dev Khare, giám đốc điều hành hãng đầu tư mạo hiểm Lightspeed Venture Partners tại Ấn Độ, cho biết.
Tỉ lệ thâm nhập internet cao của Bangalore cũng là một lợi thế. Theo Hiệp hội Internet và Di động Ấn Độ, tới năm 2017 ước tính Ấn Độ sẽ có khoảng 500 triệu người sử dụng internet.
Các startup đặc biệt phát triển ở khu vực Koramangala, nằm ở phía đông nam thành phố Bangalore. Ở đây hiện có một số vườn ươm khởi nghiệp và các không gian làm việc chung cho các startup mới.
Tuy vậy, giống như hầu hết mọi khu vực khác ở Ấn Độ, thành phố này cũng vẫn đang ở mức cực nghèo, dẫu nền văn hóa công nghệ ở đây đang hết sức phát triển. Hiện vẫn có khoảng 22% dân số Ấn Độ có thu nhập dưới 1,25USD/ngày.
3. Hong Kong
Nằm về phía đông nam Trung Quốc, Hong Kong là thành phố tiếp theo trong danh sách của Compass. Với khoảng 2.000 startup, sự gần gũi về địa lý với đại lục và sự hỗ trợ từ các vườn ươm khởi nghiệp lớn như Công viên Khoa học và Công nghệ Hong Kong và Cyberport (khu vực tập trung cộng đồng phát triển công nghệ thông tin sở hữu và quản lý bởi chính quyền Hong Kong) đã mang lại một lợi thế cạnh tranh đáng kể cho các doanh nghiệp ở đây.
Hong Kong là một trung tâm tài chính quốc tế lớn với GDP chiếm khoảng 0,47% nền kinh tế toàn cầu nên số lượng các công ty công nghệ tài chính ở đây gia tăng đáng kể (tổng số khoảng 52 công ty tính tới năm 2015).
Giáo sư Richard Wong thuộc Trường Đại học Hong Kong, viết trong bản báo cáo của Compass: “ Trong lịch sử, Hong Kong đã và vẫn luôn thành công khi nắm bắt các cơ hội kinh doanh bằng cách thu hút nhân tài và các nguồn lực trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất, thương mại và dịch vụ.”
Theo lưu ý của các nhà phân tích, tuy Hong Kong dồi dào nguồn vốn song giới đầu tư vẫn rất thận trọng khi cân nhắc hỗ trợ cho các startup công nghệ bởi tính đến nay vẫn có tương đối ít các cuộc thoái vốn diễn ra trên thị trường này.
4. Kuala Lumpur
Thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia với dân số vẻn vẹn dưới hai triệu người là thành phố tiếp theo có tên trong danh sách của Compass. Dù nền kinh tế của thành phố này có thể nhỏ hơn so với các thành phố khác, chẳng hạn như Delhi, nhưng sự gần gũi về mặt địa lý với các thị trường Đông Nam Á rộng lớn đã khiến Kuala Lumpur trở thành một điểm hẹn khởi nghiệp hấp dẫn.
Kuala Lumpur cũng có một chính quyền đặc biệt ủng hộ khởi nghiệp. Chẳng hạn, vào năm 2013, thủ tướng Najib Razak của nước này đã lập nên MaGIC, một trong những quỹ tăng tốc khởi nghiệp lớn nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
GrabTaxi là một startup thành công ở đây. Hãng cung cấp dịch vụ đi nhờ xe này đã chính thức ra mắt tại Malaysia vào năm 2011 (và sau đó chuyển trụ sở chính sang Singapore). Hiện nay, GrabTaxi hoạt động trên sáu quốc gia với hơn 3,8 triệu người sử dụng và được định giá là 1,5 tỉ USD.
Hugh Batley, đối tác quản lý của hãng marketing số Lion & Lion tại Kuala Lumpur, viết trong bản báo cáo của Compass: “Malaysia là địa điểm thuận lợi để phát triển các doanh nghiệp có quy mô khu vực. Với các quy định và luật lệ ở đây, các doanh nghiệp dễ dàng tuyển dụng các nhân tài ngoại quốc tại Malaysia. Đặc biệt, sự ra đời của MSC Status1 mới đây đã cho phép các startup có thể tuyển dụng tới 20 nhân viên ngoại quốc.
Bùi Thu Trang lược dịch
Nguồn: http://www.inc.com/zoe-henry/top-4-cities-in-asia-to-start-a-business.html
——–
1 MSC Status: là chứng chỉ thể hiện sự công nhận của chính phủ Malaysia dành cho các doanh nghiệp ICT tham gia phát triển hay sử dụng công nghệ đa phương tiện để sản xuất hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm/dịch vụ của mình. Chứng chỉ này cũng là biểu tượng cho chất lượng dịch vụ ngang tầm quốc tế, đồng thời là tấm “vé vào cửa” để các doanh nghiệp được hưởng rất nhiều ưu đãi mà Chính phủ Malaysia dành cho cộng đồng doanh nghiệp.
Trang trại bò sữa trên mặt nước sẽ đi vào sản xuất từ năm 2016
Một trang trại nuôi bò sữa trên mặt nước đầu tiên trên thế giới không lâu nữa sẽ xuất hiện tại thành phố Rotterdam Hà Lan.
Peter van Wingerden, nhà sáng lập đồng thời là CEO của Start-up Floating Farm nói: “Mặt nước biển dâng cao, đất nông nghiệp ngày càng khan hiếm. Trong khi đó người dân lại tiếp tục đổ về các thành phố lớn nằm ven biển”. Vì vậy các trang trại buộc phải dịch chuyển tới các nơi đó để hạn chế vận chuyển đưa thực phẩm tươi ngon đến người tiêu dùng. Nhưng do đất đai vừa hiếm vừa đắt nên chỉ còn một giải pháp là tận dụng những con sông hay mặt biển”.
Tại Floating Farm, Van Wingerden cùng hai chiến hữu làm việc tại Beladon, việc doanh nghiệp nhiều năm nay đã phát triển một loạt nhà nổi. Việc xây dựng nông trại trên mặt nước là một ý tưởng nghiêm túc của doanh nghiệp này.
Trang trại nổi có diện tích 1200 m2, có thể tự động sản xuất thực phẩm phục vụ cư dân quanh khu vực – và chỉ cần hai lao động. Tầng trên có mái bằng thủy tinh và nuôi 60 bò sữa. Nền nhà bằng cỏ nhân tạo và có những cây thật giúp cho các con vật sinh sống tại đây chí ít cũng gần với thiên nhiên hơn. Bãi cỏ nổi được cấu tạo để nước tiểu của bò ngấm và chảy vào thùng chứa. Robot vệ sinh thu gom rồi chuyển phân bò vào hệ thống tạo khí sinh học từ đó tạo ra điện và nhiệt. Ngoài ra trên mái nhà nổi là hệ thống tế bào quang điện để sản xuất điện mặt trời. Cạnh đó còn có hệ thống thu gom nước mưa để làm nước uống cho đàn bò.
Dòng nước trên sông Maas có nhiệm vụ làm mát xưởng chế biến sữa nằm ở phía dưới trại nổi, mỗi ngày sản xuất khoảng 1.500 kg sữa và người tiêu dùng chính là các hộ ở gần trang trại. Ông van Wingerden tin chắc rằng có thể xây dựng các trang trại nổi lớn nuôi tới 200 bò. Chỉ cần có 40 trại bò nổi như vậy là có thể đáp ứng về nhu cầu sữa tươi cho 620.000 cư dân ở thành phố này.
Nuôi bò sữa trên biển, thoạt nghe tưởng như đây là ý tưởng của những người suy nghĩ viển vông nhưng dường như việc này không có gì là phi thực tế và nay mai sẽ trở thành hiện thực. Theo Roel Jongeneel, nhà kinh tế nông nghiệp và chuyên gia về sữa thuộc đại học Wageningen (Hà lan), trang trại nổi hoạt động với các robot không khó về mặt kỹ thuật, công nghệ mà khó vì xa lạ với thói quen thông thường của người dân „nói đến sữa người ta nghĩ ngay đến khung cảnh thiên nhiên thanh bình với những con bò ung dung gặm cỏ“. Tuy nhiên nhà sáng lập trại bò nổi van Wingerden không quan tâm đến điều đó. Việc chăn nuôi bò sữa kiểu này mới chỉ là bước đi ban đầu, tiếp đến có thể áp dụng vào nuôi gia cầm và trồng rau xanh. Ông nói: “Chúng ta có thể xây dựng các trang trại nổi ở khắp mọi nơi trên thế giới này, nơi nào có diện tích mặt nước thích hợp đều có thể áp dụng”. Trong điều kiện mặt nước biển dâng lên thì diện tích mặt nước sẽ không bao giờ khan hiếm.
Xuân Hoài dịch theo “Tuần kinh tế” 19. 11. 2015
Ảnh: Các huấn luyện viên khởi nghiệp trong chương trình ToT (Training of Trainers) do IPP tổ chức học và làm việc tại không gian làm việc chung của HATCH – Tổ 14. Ảnh: IPP
Doanh nghiệp xã hội (DNXH), mặc dù vẫn là một khái niệm gây tranh cãi, không ai phủ nhận rằng DNXH là câu chuyện làm doanh nghiệp và hướng tới giải quyết vấn đề xã hội. Hai nội dung này hài hòa lẫn nhau và cùng mang lại giá trị cho doanh nghiệp và cộng đồng. Dù vậy, là doanh nghiệp thông thường khởi nghiệp vốn đã vất vả tồn tại, là DNXH còn khó khăn gấp trăm lần vì bạn phải dung hòa lợi ích giữa các bên, nỗ lực để sống sót và bền vững đồng thời không quên đi những cam kết với cộng đồng của mình.
Một trong những lý do quan trọng dẫn đến sự thất bại của nhiều DNXH là thiếu đi một mô hình kinh doanh bền vững cho dù khởi nguồn của đa số những doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực này đều xuất phát từ những mục tiêu tốt đẹp, vì cộng đồng và vì những nhóm thiểu số, gặp nhiều bất lợi trong xã hội. Làm thế nào để có những bước đi vững chắc trước khi quyết định làm DNXH mà cụ thể là mình sẽ kiếm tiền như thế nào, tác động đến ai? Làm thế nào để có bức tranh toàn cảnh về chính DNXH bạn đang xây dựng? Làm thế nào để nói chuyện với các nhà tài trợ, các quỹ một cách tự tin?
Một trong những câu trả lời chính là xây dựng một mô hình kinh doanh xã hội bền vững, điều cần thiết đầu tiên trước khi bắt đầu kinh doanh và vẽ lên giấy một cách rõ ràng thông qua mô hình kinh doanh canvas cho doanh nghiệp xã hội.
Phải bắt đầu từ mô hình kinh doanh thông thường
Ra đời cách đây tám năm, mô hình kinh doanh canvas truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ doanh nhân, doanh nghiệp vì sự đơn giản và trực quan của nó. Mô hình này chỉ ra những vấn đề quan trọng, trực tiếp liên quan đến hoạt động kinh doanh và giá trị mà doanh nghiệp mang lại. Với một bản mô hình kinh doanh canvas, toàn bộ nhân viên của công ty và nhà đầu tư sẽ nắm được rất nhanh cách thức kinh doanh và mô hình kinh doanh của doanh nghiệp. Một DNXH không thể sống hoàn toàn dựa vào tài trợ, DNXH cũng cần có câu chuyện kinh doanh rõ ràng của mình dựa trên chín cấu phần chính sau đây:
Tuyên bố giá trị: Có thể coi là phần quan trọng nhất vì nó giúp bạn trả lời câu hỏi: bạn khác biệt gì với đối thủ cạnh tranh và khách hàng cảm nhận được giá trị gì từ những sản phẩm, dịch vụ bạn mang lại? Để kiểm định giá trị của mình, bạn có thể lựa chọn một trong số 11 tiêu chí sau đây:Tính mới; Hiệu quả; Khả năng tùy biến; Giải quyết vấn đề; Thiết kế; Thương hiệu/ Địa vị; Giá cả; Tiết kiệm chi phí; Giảm thiểu rủi ro; Khả năng tiếp cận; Tiện ích/Khả dụng.
Phân khúc khách hàng: bạn cần xác định rõ loại phân khúc khách hàng nào mà bạn đang nhắm tới trong những loại phân khúc khách hàng này: Thị trường đại trà; Thị trường khe; Thị trường phân khúc; Nền tảng đa diện (ví dụ Google cung cấp dịch vụ tìm kiếm thông tin miễn phí cho mọi người dùng internet nhưng lại kiếm tiền từ các công ty, doanh nghiệp, tổ chức muốn quảng cáo để có thứ hạng tìm kiếm tốt trên Google). Đi kèm với việc xác định phân khúc, bạn nên trả lời câu hỏi mỗi phân khúc khách hàng đang có khoảng bao nhiêu khách hàng.
Kênh tiếp cận khách hàng: Có nhiều loại kênh khác nhau với chức năng khác nhau, vì vậy bạn cần chỉ rõ bạn đã, đang và sẽ dùng kênh nào để: Nâng cao nhận thức của khách hàng (ví dụ các kênh quảng cáo: facebook, qua nhóm khách hàng); Giúp khách hàng đánh giá giá trị (ví dụ: mời dùng thử trực tiếp); Cho phép khách hàng mua (trực tuyến hay tại cửa hàng v..v); Mang giá trị đến cho khách hàng (thông qua các dịch vụ cung cấp, dịch vụ bổ trợ v..v); Hỗ trợ sau bán hàng (dịch vụ hậu mãi). Khi xây dựng danh mục các kênh của mình bạn cần cân nhắc, đó là kênh bạn đang sở hữu hay đang hợp tác với người khác, đó là kênh bạn tiếp cận trực tiếp hay gián tiếp (thuê qua đối tác).
Nguồn doanh thu: là điều quan trọng tiếp theo bạn phải làm rõ để đảm bảo tính bền vững của mô hình kinh doanh. Với DNXH, ngoài nguồn doanh thu bán sản phẩm dịch vụ, doanh nghiệp còn có thể có nguồn tài trợ, hỗ trợ, đây cũng có thể là nguồn thu quan trọng của doanh nghiệp. Điều quan trọng là doanh nghiệp cần chỉ rõ, các nguồn doanh thu đó đến từ đâu, là bao nhiêu và chiếm tỉ trọng như thế nào trong từng doanh thu.
Quan hệ khách hàng: Đây là lúc DNXH chỉ rõ mình duy trì quan hệ với khách hàng như thế nào? Thông qua hỗ trợ trực tiếp cá nhân, hay hỗ trợ đặc biệt, để khách hàng tự phục vụ, dịch vụ tự động hóa, duy trì cộng đồng hay cùng nhau tạo ra giá trị mới
Hoạt động chính: Bạn chỉ ra những hoạt động chính để vận hành mô hình kinh doanh của mình. Những tuyên bố giá trị của bạn, kênh để truyền tải giá trị, quan hệ khách hàng và những nhân tố thuộc dòng doanh thu đang tác động đến hoạt động chính của doanh nghiệp như thế nào.
Nguồn lực chính: Tài sản con người, giải pháp kỹ thuật, sở hữu trí tuệ, tài chính v..v đều là những nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp.
Cấu trúc chi phí: Sẽ là sai lầm nếu doanh nghiệp không chỉ ra được mình đang tốn chi phí cho những hoạt động, đầu vào gì để cả mô hình vận hành được
Đối tác chính: Đây là lúc bạn chỉ ra đối tác chính cho mô hình kinh doanh của bạn, đó có thể là những cộng đồng, hiệp hội, nhà cung cấp v.v…
Sự khác biệt của Doanh nghiệp xã hội
Với một doanh nghiệp thông thường, việc dừng lại ở chín cấu phần là đủ để tạo một bức tranh đầy đủ về hoạt động kinh doanh của mình. Tuy vậy, để thuyết phục nhà tài trợ, nhà đầu tư và cộng đồng rằng bạn đang mang lại giá trị nhiều hơn giá trị vật chất, bạn cần phải đặc biệt lưu ý hai nội dung chính:
Phân khúc khách hàng: Bạn phải chỉ ra được: Bạn đang tạo ra giá trị cho ai? Ai là khách hàng quan trọng nhất của bạn. Đôi khi người mua hàng khác với người hưởng lợi trực tiếp từ sản phẩm dịch vụ của bạn, vì vậy, bạn cần chỉ rõ người mua hàng là ai? Có một số trường hợp người dùng, người mua là khác nhau.
Ví dụ: một đơn vị sản xuất cặp kiêm áo phao cứu nạn cho trẻ em nhằm giải quyết vấn đề trẻ em bị đuối nước trong mùa mưa lũ. Người hưởng lợi trực tiếp là trẻ em vùng lũ nhưng người trả tiền, người mua có thể là gia đình, có thể là các công ty, đơn vị tài trợ hoặc các tổ chức quốc tế cứu trợ trẻ em.
Ngoài ra bạn cũng cần chỉ ra ai là những bên liên quan đến những giá trị bạn mang lại.
Tác động: Chính là cấu phần thứ 10 trong mô hình kinh doanh. Bạn phải chỉ ra được, những khác biệt mà bạn tạo ra cho mọi người, cho xã hội, cho môi trường. Tác động bạn tạo ra trong nội bộ như thế nào, tác động hướng vào người dùng là gì, tác động mà người tài trợ mong đợi là gì và tác động mà các bên liên quan quan tâm là gì. Mặc dù tác động là khó đo lường, bạn cần suy nghĩ đến những chỉ số đo lường sự thay đổi, hãy đặt cho mình câu hỏi: tại sao bạn biết có sự thay đổi và bạn đo lường sự thay đổi đó như thế nào. Để làm được điều này bạn nên xuất phát từ mục tiêu ban đầu, bạn định thay đổi điều gì? Và ai là nhân vật trung tâm trong câu chuyện thay đổi của bạn.
Vì DNXH có nhiều đối tượng để hướng tới, việc có một mô hình kinh doanh tốt sẽ giúp bạn truyền thông nhanh chóng và hiệu quả đến những bên liên quan trong câu chuyện kinh doanh của bạn. Một nhà đầu tư hay nhà tài trợ, nhân viên trong chính công ty bạn và những đối tác đều có thể hình dung cụ thể bạn đang làm gì. Với một mô hình kinh doanh được vẽ ra, chính bạn sẽ nhìn thấy được những điểm yếu trong mô hình kinh doanh của mình. Với những doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực này, bạn hãy nhớ ba nhân tố: Tuyên bố giá trị, Phân khúc khách hàng, Dòng doanh thu là những điều đầu tiên bạn nên nghĩ đến và hoàn thiện trước khi hiểu và viết lên các cấu phần còn lại.
Cuối cùng, để mô hình kinh doanh ra đời một cách hiệu quả, việc tham gia của lãnh đạo và quản lý cấp cao, cấp trung của doanh nghiệp là quan trọng nhất. Nó không nên là sản phẩm duy nhất của nhà quản lý vì như vậy nó sẽ mất đi tính toàn diện của một mô hình kinh doanh của cả một tổ chức và thiếu sự tham gia của các phòng ban có liên quan, mô hình kinh doanh khó có thể đi vào đời sống của doanh nghiệp như một tầm nhìn chung và khó có thể được thay đổi thường xuyên theo thực tế kinh doanh.
Nguyễn Đặng Tuấn Minh
Một doanh nghiệp khởi nghiệp, nếu ở quy mô nhỏ và số vốn không nhiều, việc đau đầu nhất các nhà quản lý thường gặp phải đó là tìm đâu cho ra người giỏi?
Với một doanh nghiệp khởi nghiệp, nếu ở quy mô nhỏ và số vốn không nhiều, việc đau đầu nhất mà các nhà quản lý thường gặp phải là tìm đâu cho ra người giỏi? Và nếu có người giỏi thì lấy đâu ra ngân sách để giữ họ? Vòng luẩn quẩn con gà quả trứng đó khiến không ít doanh nghiệp khởi nghiệp thất bại, phá sản vì những lý do không mấy liên quan đến sản phẩm dịch vụ tốt hay không, mà vấn đề nằm ở chỗ có người để làm hay không.
Những thế khó và Giải pháp thường gặp
Thế khó thứ nhất: Doanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN) gặp khó lớn nhất ở quy mô nhỏ, môi trường kém chuyên nghiệp. Quy mô nhỏ là một bất lợi bởi lời khuyên mà sinh viên sắp ra trường được nghe chủ yếu là nên bước chân vào những công ty lớn để có cơ hội học tập toàn diện từ môi trường chuyên nghiệp. Thế nên, các DNKN nhỏ thường khó là điểm đến của những sinh viên giỏi, có năng lực tốt.
Giải pháp thường gặp cho khó khăn này là các doanh nghiệp chấp nhận trả mức lương vừa phải để có những nhân lực chất lượng vừa phải, đáp ứng tạm đủ nhu cầu. Doanh nghiệp cũng chấp nhận việc vào ra liên tục của người làm như một lẽ tự nhiên: Sinh viên mới ra trường hay nhảy việc. Chỉ cần lương chênh lệch nhau vài trăm nghìn một tháng là họ sẵn sàng bỏ sang nơi mới.
Sai lầm nằm ở chỗ: Thông thường, ở các DNKN, quản lý nhân sự cũng đồng thời là bộ phận hành chính ở công ty. Bộ phận này vốn đảm nhiệm những công việc không đơn giản do khối lượng công việc khá nhiều và phức tạp, giờ đây lại liên tục phải thay đổi, tuyển dụng, phỏng vấn và làm chế độ cho người lao động. Công việc này càng ngày càng kém hiệu quả do không có cú hích thực sự trong chính sách đãi ngộ và sử dụng người làm. Mặt khác, nó tạo ra thứ văn hóa rất tạm bợ trong tư duy người làm, nay ở mai đi. Về lâu dài, không chỉ hình ảnh công ty bị ảnh hưởng trong con mắt người ứng tuyển, mà còn khó xây dựng được văn hóa thực sự của doanh nghiệp. Đây là điểm trừ trong con mắt nhà đầu tư.
Thế khó thứ hai và giải pháp thường gặp: DNKN không đào tạo nhân sự bài bản. Với một người chủ doanh nghiệp dành khoảng 16h cho việc phát triển sản phẩm và gặp gỡ khách hàng, lo lắng cho sự sống còn của doanh nghiệp, dòng tiền v..v. thì việc dành thời gian đào tạo nhân sự là một thứ xa xỉ. Đó là chưa kể, ngay khi đào tạo xong, nhân sự lại nhảy việc.
Vì vậy, giải pháp thường gặp là Doanh nghiệp để mặc người lao động tự xoay sở với công việc của mình, làm được hay không thì cũng hưởng lương, sau một thời gian quá kém thì mới sa thải. Hoặc đào tạo cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu sơ qua về sản phẩm dịch vụ và cho nhân viên lăn xả ra thị trường, tự xoay sở và bán hàng.
Sai lầm nằm ở chỗ Khi để người lao động tự xoay sở với công việc, ta đã không cho người lao động cơ hội để hiểu về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, yêu doanh nghiệp mà họ đang làm việc và cống hiến. Việc này dẫn đến thái độ làm việc chống đối, tâm lý bất an, dễ dàng nhảy việc bất kỳ lúc nào. Trường hợp không được đào tạo và kiểm soát tốt, một nhân viên bước ra thị trường có thể gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của doanh nghiệp.
Thế khó thứ ba: DNKN không có thương hiệu, chính sách đãi ngộ không vượt trội nên không tạo được hồ sơ tốt cho ứng viên khi làm việc tại đó. Điều này rõ ràng là bất lợi của DNKN trong con mắt các ứng viên mới ra trường và hoàn toàn không tạo được sức hấp dẫn với những ứng viên có năng lực.
Đối phó với bất lợi này, nhiều DNKN lựa chọn phương án trao cổ phần cho các ứng viên tham gia như một cam kết về sự chia sẻ quyền và lợi ích với ứng viên tiềm năng.
Sai lầm thường gặp với giải pháp này: Cổ phần không phải lúc nào cũng là giải pháp hữu hiệu nếu doanh nghiệp không tìm được thành viên có cùng tầm nhìn. Việc giao cổ phần cho một người mà mình không hiểu rõ có thể tạo ra những rắc rối về pháp lý sau này. Điều quan trọng nhất là các doanh nghiệp lựa chọn cổ đông dựa trên những giá trị lâu dài và bền vững mà cổ đông đó có thể mang lại chứ không phải là những giá trị trước mắt mà doanh nghiệp đang cần trong ngắn hạn.
Thế khó thứ tư và giải pháp thường gặp: Cơ cấu của DNKN đơn giản, khó tạo cơ hội thăng tiến cho ứng viên nên các ứng viên bước chân vào DNKN thường gặp một trong các tình huống sau: Đảm nhiệm quá nhiều nhiệm vụ hoặc mất động lực do không thấy khả năng thăng tiến hoặc không được đào tạo nên người lao động cảm thấy mình không có những chuyển biến trong chuyên môn nghiệp vụ. Việc rời bỏ doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi. Trước bất lợi này, ít doanh nghiệp tìm giải pháp mà thường đợi đến khi lớn mạnh mới hoàn thiện cơ cấu tổ chức.
Những giải pháp lật ngược tình thế
Các chương trình tập sự: Nhiều doanh nghiệp nghĩ việc tổ chức một chương trình tập sự và quản trị viên tập sự sẽ rất tốn kém nhưng thực tế, nếu biết cách làm, chương trình sẽ không chỉ có lợi cho nhiều bên mà lại còn rất tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Đây là giải pháp đã được chứng minh thành công với nhiều DNKN.
Một trong những giải pháp là đăng tuyển tập sự part-time (bán thời gian) cho các vị trí như marketing, sale, kỹ thuật, chăm sóc khách hàng. Chương trình sẽ bắt đầu với việc đăng tuyển dụng, chuẩn bị nội dung đào tạo và tự đào tạo và hướng dẫn đào tạo lại. Những chương trình này rất phù hợp với sinh viên từ năm thứ hai trở đi vì không đòi hỏi phải dạy nhiều kỹ năng. Các em cũng mong muốn được đào tạo và có khả năng thu xếp thời gian tốt.
Các chương trình này không chỉ tạo cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn nhân lực với chi phí chấp nhận được mà còn tạo cơ hội cho sinh viên tham gia sớm môi trường làm việc thực tế, giúp họ có cái nhìn cụ thể về môi trường làm việc và được đào tạo, tự đào tạo những kỹ năng mà không phải trường đại học nào cũng trang bị cho sinh viên của mình.
Tuy nhiên, nên có những cam kết thành biên bản với thực tập sinh với thời gian tập sự tối thiểu ba tháng. Doanh nghiệp cũng nên có sự chuẩn bị cho những bước phát triển rõ ràng của thực tập viên cùng với chỉ số đánh giá minh bạch để tạo động lực cho người làm việc. Một vài gợi ý với doanh nghiệp khi sử dụng chương trình này: Với người tham gia chương trình thực tập, động lực lớn nhất là được học hỏi, có chứng nhận rõ ràng về thành tích của mình và được tuyển dụng sau khi thực tập (có thể tại chính công ty thực tập hoặc ở những công ty khác sau này). Vì vậy, thư tham chiếu/giới thiệu; chứng nhận thực tập (mô tả rõ chức năng, nhiệm vụ và thành tích đạt được) là những nội dung doanh nghiệp cần chuẩn bị.
Cho phép tự phát triển đội nhóm: Với bất lợi của doanh nghiệp không có cơ cấu đủ lớn giúp người lao động thăng tiến, việc chủ động tạo cho người lao động cơ hội phát triển đội nhóm của mình là một cách tốt để doanh nghiệp nâng cao tính tự chủ của người lao động. Giao quyền quản lý một dự án, một chương trình, quyền chủ động tuyển người và quyền xây dựng chính sách phù hợp với công ty là những lựa chọn tốt để tạo ra đội ngũ lãnh đạo kế cận và giảm bớt khối lượng công việc hàng ngày của lãnh đạo DNKN.
Tạo ra một văn hóa sáng tạo và học hỏi không ngừng:
Phát triển một thư viện và tạp chí chuyên ngành của riêng doanh nghiệp cả online và offline là một cách hay để kết nối các thành viên trong doanh nghiệp.
Tổ chức các buổi seminar nội bộ để chia sẻ kiến thức, khuyến khích nhân viên bằng những cuộc thi sáng tạo nhỏ trong nội bộ công ty. Phần thưởng cho người lao động đôi khi chỉ là đôi vé xem phim, một khóa học nâng cao kỹ năng đã có tính chất ghi nhận và động viên rất lớn với người lao động.
Đào tạo định kỳ cho cả công ty vì ai cũng có nhu cầu học hỏi và phát triển. Một người lãnh đạo tốt là người tạo điều kiện cho nhân viên phát triển cùng công ty. Việc mời chuyên gia đào tạo, nâng cao năng lực của đội ngũ chuyên môn là một cách giữ chân người giỏi và góp phần xây dựng một văn hóa học hỏi trong doanh nghiệp.
Tận dụng triệt để các công cụ mạng xã hội để tìm kiếm nhân sự và xây dựng thương hiệu đến nguồn nhân lực tiềm năng. Bạn không cần có quá nhiều tiền để đăng tuyển trên những kênh tuyển dụng chi phí cao mới tìm được người giỏi. Một profile tốt của CEO hoặc Trưởng phòng Nhân sự của công ty trên LinkedIn, một fanpage đầy hình ảnh sống động của một doanh nghiệp trẻ trung, ham học hỏi và sáng tạo sẽ là một lực hút rất quan trọng với những ứng viên tiềm năng của bạn. Mạng xã hội và truyền miệng sẽ là những cơ chế lan truyền hỗ trợ tốt nhất cho DNKN trong quá trình tìm kiếm và tuyển dụng nhân sự của mình.
Ví dụ: EZCloud Global là một doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cho khách sạn, nhà hàng. Trong ba năm khởi nghiệp, ngay từ những ngày đầu, doanh nghiệp đã phát triển chương trình tập sự cho nhóm kỹ thuật. Với nguồn nhân lực đến từ các trường đại học, công ty đã chủ động phát triển đội kỹ thuật tập sự, kế toán tập sự, và gần đây là marketing và sales tập sự cho hơn 20 nhân viên. Anh Nguyễn Hoàng Dương, CEO của công ty chia sẻ: “Cái khó nhất ban đầu chính là xây dựng chương trình đào tạo với đội kỹ thuật tập sự, vì bạn cần phải có người lãnh đạo cho nhóm này. Chúng tôi giải quyết thế khó này bằng việc chủ động đào tạo trưởng nhóm và yêu cầu trưởng nhóm đào tạo lại thành viên mới. Nhờ vậy, chúng tôi không chỉ tiết kiệm thời gian đào tạo nhân viên mới cho các nhà sáng lập, mà nhân viên cũ cũng được trao quyển tự chủ hơn, rèn được nhiều kỹ năng quản lý nhóm hơn. Trên hết, đó là một văn hóa chủ động trong công ty nên có những bạn sinh viên năm cuối có hai năm kinh nghiệm làm việc với EZCloud nhưng đã có thể quản lý những dự án quan trọng. Dựa trên thành công của những chương trình tập sự, công ty đã tự tin mở rộng những chương trình tập sự cho marketing, sales. Rất nhiều tập sự của EZCloud kết thúc công việc tập sự nhưng vẫn tiếp tục cộng tác với công ty. Đó là cách chúng tôi mang ý nghĩa của công việc mình làm đến cộng đồng tốt nhất”.
——–
Nguyễn Đặng Tuấn Minh*
*Giảng viên Khoa Quốc tế – Đại học Quốc gia Hà Nội, Đồng sáng lập KisStartup
Đổi mới công nghệ là điểm mạnh của Thiên Long
Từ một cơ sở sản xuất bút bi nhỏ được thành lập vào năm 1981, đến nay Thiên Long đã trở thành một tập đoàn lớn nổi tiếng tại Việt Nam. Hiện sản phẩm của Thiên Long không chỉ đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu đến hơn 40 quốc gia khác nhau trên thế giới. Sự thành công của Thiên Long đến từ nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến vai trò của đổi mới sáng tạo.
Tinh thần đổi mới sáng tạo từ người sáng lập
Theo ông Nguyễn Đình Tâm – Phó Tổng Giám đốc thường trực của Tập đoàn Thiên Long, ngay từ những ngày đầu thành lập, Thiên Long đã mang trong mình tinh thần đổi mới sáng tạo của người sáng lập là ông Cổ Gia Thọ.
Ngay từ giai đoạn đầu đất nước mở cửa, vào những năm 1990, ông Thọ đã lặn lội tìm đến những quốc gia nổi tiếng trong lĩnh vực bút bi là Thụy Sĩ và Đức để học hỏi kinh nghiệm và mua công nghệ mới về phục vụ sản xuất. Và với đầu bút nhập từ Thụy Sĩ, mực nhập từ Đức, sản phẩm bút bi TL-07 và TL-08 đã tạo sự đột phá trong thị trường lúc bấy giờ. Những sản phẩm đến ngày hôm nay vẫn được tin dùng đó đã đủ chứng tỏ chất lượng của sản phẩm này.
Tập đoàn Thiên Long được trao Giải Bạc Chất lượng Việt Nam năm 2008, 2009; Giải Vàng Chất lượng Việt Nam năm 2011, năm 2014; Giải Chất lượng quốc tế châu Á – Thái Bình Dương năm 2015.
Ông Tâm cho biết: Nhiều người nghĩ rằng cứ phải tự mình làm tất cả các công việc thì mới gọi là đổi mới sáng tạo. Tôi nghĩ điều này không hẳn đúng, có những công nghệ mình phải nhập từ nước ngoài về vì đó là một bước đi vừa an toàn, vừa giúp chúng ta nhanh chóng tiết kiệm thời gian để bắt kịp nhu cầu của thị trường. Dĩ nhiên, bên cạnh đó cũng phải có những công nghệ, sản phẩm chúng ta tự sản xuất để có sự chủ động và tạo lợi thế cạnh tranh. Khi bạn thay đổi công nghệ cũ bằng một công nghệ mới tiên tiến hơn, cái đó gọi nôm na là đổi mới nhưng đổi mới sẽ không mang lại giá trị nếu thiếu đi sự sáng tạo. Đó là lý do vì sao chúng ta thường dùng chung cụm từ “đổi mới sáng tạo”.
Để tôi dễ hình dung hơn, ông Tâm đưa ra một ví dụ. Với một cây bút bi, bạn thử tháo rời các bộ phận ra, thông thường bạn sẽ thấy trên dưới 10 chi tiết khác nhau, tùy loại bút. Mỗi chi tiết cần một cái khuôn khác nhau để đúc tạo hình. Với công nghệ đúc cũ, bạn phải dùng các thiết bị cơ khí thô sơ mà việc sản xuất tốn nhiều thời gian và độ chính xác không cao. Nhờ đổi mới công nghệ, chúng ta dễ dàng tạo ra các khuôn mới nhanh chóng với độ chính xác cao hơn.
Ông bảo, cái đó gọi là đổi mới công nghệ. Thế nhưng công nghệ cũng chỉ là một công cụ mà thôi. Nó giúp chúng ta hiện thực hóa các ý tưởng một cách hiệu quả. Còn để có những ý tưởng xuất sắc, tạo được một sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, bạn cần phải biết thiết kế cây viết như thế nào, hình dáng, màu sắc, hoa văn ra sao… thì lại phải cần đến sự sáng tạo. Đó chính là điều tạo nên sự khác biệt, là lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp này đối với doanh nghiệp kia và đây chính là điểm mạnh của Thiên Long.
Chính nhờ sáng tạo, Thiên Long liên tục tăng trưởng cao và ổn định qua các năm, từ một công ty chuyên sản xuất bút bi, đến nay công ty đã có năm dòng sản phẩm bao gồm: Bút viết thông dụng TL, Bút viết cao cấp Bizner, Dụng cụ văn phòng FlexOffice, Dụng cụ học sinh Điểm 10 và Dụng cụ Mỹ thuật Colokit, hơn 90 chủng loại sản phẩm đang kinh doanh ở thị trường trong và ngoài nước, trong đó, người viết bất ngờ khi được giới thiệu về cây bút phấn nước CM-01, một sản phẩm mới mà Thiên Long vừa giới thiệu ra thị trường. Có thể nói CM-01 là một sản phẩm rất tiện dụng khi kết hợp giữa phấn và mực nước không bụi để có thể viết trên bảng trắng, bảng đen, kính, nhựa, kim loại, giấy, gốm…
Lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo
Tham quan một vòng các phòng thí nghiệm, nhà máy sản xuất của Thiên Long, ta có thể thấy tinh thần đổi mới sáng tạo hiện diện khắp mọi nơi. Chính với điều đó mà Thiên Long đã chế tạo được một robot tự động lắp ráp các bộ phận khác nhau để hình thành nên một sản phẩm nhanh gấp 20 lần so với lắp ráp thủ công. Với những dây chuyền sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến, đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao, Thiên Long đã được nhiều khách hàng lớn tìm đến hợp tác, trong đó có cả Nhật Bản, Mỹ và châu Âu, là những quốc gia rất mạnh về lĩnh vực văn phòng phẩm.
Khi bạn thay đổi công nghệ cũ bằng một công nghệ mới tiên tiến hơn, cái đó gọi nôm na là đổi mới, nhưng đổi mới sẽ không mang lại giá trị nếu thiếu đi sự sáng tạo.
Dĩ nhiên không ai có được quả ngọt mà không kỳ công chăm sóc. Để có được thành quả này, ngay từ năm 1994, Thiên Long đã có một nhóm kỹ thuật chuyên nghiên cứu thiết kế sản phẩm. Đây là nền tảng hình thành nên phòng Nghiên cứu và Phát triển (R&D) của công ty vào năm 2000 với ngân sách dành cho hoạt động đổi mới sáng tạo mỗi năm từ 3% – 5% tổng doanh thu của Tập đoàn.
Mặc dù R&D là trái tim của đổi mới sáng tạo nhưng sáng tạo là việc của tất cả các phòng ban, của mọi nhân viên chứ không riêng gì bộ phận R&D, ông Tâm nói thêm, nếu như bạn có những thiết kế tốt từ phòng nghiên cứu mà bộ phận sản xuất không đủ đổi mới để theo kịp ý tưởng thì cũng không ổn; rồi khi mọi thứ sản xuất đã ổn mà bộ phận marketing và bán hàng không sáng tạo để đưa sản phẩm ra thị trường đến tận tay người tiêu dùng thì sản phẩm dẫu có sáng tạo cũng chỉ là một sự thành công nửa vời.
Trả lời câu hỏi làm sao để tinh thần sáng tạo lan tỏa đến với tất cả phòng ban của công ty, ông Tâm nói, “Để làm được điều đó, vai trò người lãnh đạo hết sức quan trọng. Đơn giản thế này thôi, khi anh có một ý tưởng mới, trình bày với sếp mà bị gạt ngay thì làm sao có thể có sáng tạo được. Nhưng ngược lại, anh được lắng nghe, được khuyến khích, tôi tin ai cũng sẽ ‘sung’ hơn, không chỉ lần này mà còn nhiều lần khác”.
Một điều các doanh nghiệp đều biết, đó là đổi mới luôn đi kèm với rủi ro bởi là cái mới thì làm sao biết được có thể làm được hay không? Rồi làm được, sản xuất được nhưng thị trường có chấp nhận hay không lại là chuyện khác.
Thế nhưng có một điều chắc chắn là nếu không đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp sẽ rất khó để tồn tại trong môi trường đầy cạnh tranh hiện nay.
Vậy Thiên Long có cách nào để hạn chế rủi ro trong quá trình này?
Dĩ nhiên là có, ông Tâm nói và bổ sung thêm, đổi mới sáng tạo không có nghĩa là không có kỷ luật. Chính kỷ luật, làm theo từng bước, từng bước theo qui trình sẽ giúp công ty hạn chế bớt những rủi ro trong quá trình đổi mới sáng tạo.
Dĩ nhiên không doanh nghiệp nào chia sẻ chi tiết cho doanh nghiệp nào về bí mật quy trình thực hiện đổi mới sáng tạo, thế nhưng khi làm việc cùng với các đối tác lớn, hãy để ý tại sao họ làm thế này mà không phải thế kia, bạn sẽ học được rất nhiều điều hữu ích, ông Tâm bật mí.
Đức Tâm
Báo điện tử Chính phủ vừa giới thiệu toàn văn hai văn kiện Đại hội XII của Đảng: Báo cáo chính trị và Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020. Dưới đây chúng tôi xin trân trọng giới thiệu phần liên quan đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ trong các văn kiện quan trọng này.
I. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: nội dung liên quan đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ
1. Tình hình
Trong những năm qua, khoa học và công nghệ đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam. Lĩnh vực khoa học tự nhiên, các ngành khoa học cơ bản, khoa học và công nghệ liên ngành, khoa học mới tiếp tục phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn đã có đóng góp tích cực phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh. Hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ có chuyển biến; tiềm lực khoa học và công nghệ được nâng lên. Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học và công nghệ đã hình thành và bước đầu phát huy tác dụng.
Tuy nhiên, khoa học và công nghệ chưa thực sự gắn kết, trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội. Việc huy động nguồn lực của xã hội cho khoa học và công nghệ chưa được chú trọng. Không hoàn thành mục tiêu xây dựng các trung tâm khoa học lớn đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Đầu tư cho khoa học và công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm đổi mới. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học và công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ còn thiếu định hướng chiến lược, hiệu quả thấp.
2. Phương hướng, nhiệm vụ
Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.
Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các ngành khoa học và công nghệ có nhiệm vụ cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng và triển khai đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế – xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc. Xác định rõ các giải pháp công nghệ hiện đại phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, công tác xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; phương thức đầu tư, cơ chế tài chính, chính sách cán bộ, cơ chế tự chủ của các tổ chức khoa học và công nghệ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ. Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên đất nước ta. Tăng cường hợp tác về khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ cao, phải là hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.
Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ.
Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học và công nghệ; xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết giữa Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông. Khuyến khích, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, đổi mới công nghệ.
Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học.
Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo hướng hỗ trợ hiệu quả cho việc vận hành thị trường khoa học và công nghệ.
Phát huy và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia. Tập trung đầu tư phát triển một số viện khoa học và công nghệ, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới.
II. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020: một số nội dung liên quan đến khoa học và công nghệ
2.1. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015
Các kết quả đạt được về khoa học và công nghệ
Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt được nâng lên, đóng góp của khoa học và công nghệ tăng; năng suất lao động tăng bình quân 4,2%/năm, cao hơn giai đoạn trước; vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả hơn; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng giai đoạn 2011 – 2015 khoảng 29%.
Phát triển nguồn nhân lực và khoa học và công nghệ đạt được những kết quả tích cực. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách phát triển nguồn nhân lực và khoa học và công nghệ tiếp tục được hoàn thiện.
Tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng cường. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ tăng bình quân 16,5%/năm, đạt khoảng 2% tổng chi ngân sách nhà nước. Đầu tư xã hội cho khoa học và công nghệ tăng nhanh, ước đạt 1,3% GDP vào năm 2015. Khoa học cơ bản đã có bước phát triển. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, xây dựng, y tế, thông tin và truyền thông,… Các quỹ về khoa học và công nghệ được thành lập, bước đầu đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả. Phát triển thị trường khoa học và công nghệ, tăng cường hoạt động kết nối cung – cầu, giá trị giao dịch công nghệ tăng bình quân 13,5%/năm. Hình thành một số mô hình gắn kết hiệu quả giữa viện, trường với doanh nghiệp trong hoạt động khoa học và công nghệ.
Hạ tầng thông tin truyền thông phát triển mạnh, đã phóng thành công và đưa vào sử dụng Vệ tinh Vinasat-2. Hạ tầng giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch,… được quan tâm đầu tư.
Các hạn chế, yếu kém về khoa học và công nghệ
Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học và công nghệ còn chậm. Khoa học và công nghệ chưa thật sự trở thành động lực để nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Chưa có giải pháp đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp và thu hút đầu tư tư nhân cho nghiên cứu, đổi mới và ứng dụng khoa học và công nghệ. Đầu tư cho khoa học và công nghệ hiệu quả chưa cao. Việc xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp khoa học và công nghệ công lập còn chậm. Tiềm lực khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu. Hiệu quả sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và kết quả hoạt động của các khu công nghệ cao còn thấp. Thị trường khoa học và công nghệ phát triển còn chậm, nhất là việc chuyển giao công nghệ. Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, nhất là về tài chính, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, trọng dụng, đãi ngộ nhân tài. Việc sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ còn dàn trải, hiệu quả chưa cao. Năng lực đội ngũ khoa học và công nghệ còn hạn chế, thiếu các nhà khoa học đầu ngành. Số lượng sáng chế, công trình khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế có uy tín còn ít.
Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, cơ giới hóa, công nghiệp chế biến nông sản và dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu.
2.2. Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020
Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu liên quan đến khoa học và công nghệ
Tập trung phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội, nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học và công nghệ.
Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường hàng hóa, dịch vụ, tài chính, tiền tệ, bất động sản, lao động, khoa học và công nghệ,… đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Phát triển đồng bộ thị trường khoa học và công nghệ. Có cơ chế, chính sách phù hợp để đẩy mạnh thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ và phát triển sàn giao dịch. Tăng cường chuyển giao công nghệ, phát triển các tổ chức chuyển giao công nghệ, kết nối cung – cầu, kết nối thị trường trong nước với khu vực và thế giới gắn với bảo hộ sở hữu trí tuệ. Phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ, hình thành hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ.
Đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh.
Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Khuyến khích liên kết giữa hộ nông dân sản xuất với tổ chức tín dụng, tổ chức khoa học và công nghệ và doanh nghiệp.
Có cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý. Áp dụng rộng rãi các loại giống mới và kỹ thuật nuôi trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và thích ứng với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm, nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Đẩy nhanh phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học và công nghệ, có tỉ trọng giá trị quốc gia và giá trị gia tăng cao; có lợi thế cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong việc khai thác hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên biển.
Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học và đổi mới công nghệ, chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao sức cạnh tranh và tham gia hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị trong và ngoài nước.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ. Gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và thu hút các nhà khoa học tham gia giảng dạy.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ và xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Khuyến khích và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ. Tăng cường hoạt động nghiên cứu khoa học trong các trường đại học. Đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tự chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Hoàn thiện thể chế định giá tài sản trí tuệ, tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, xử lý nghiêm các vi phạm. Hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu công nghệ.
Có cơ chế đặc thù để phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ trọng điểm theo mô hình tiên tiến và triển khai những dự án khoa học và công nghệ quan trọng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế đặt hàng, đấu thầu, khoán kinh phí theo kết quả đầu ra và công khai, minh bạch chi phí, kết quả nghiên cứu. Giao quyền sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước cho tổ chức, cá nhân chủ trì nghiên cứu, đồng thời có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý. Nâng cao hiệu quả hoạt động các quỹ về phát triển khoa học và công nghệ; khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá độc lập, tư vấn, phản biện, giám định xã hội đối với hoạt động khoa học và công nghệ.
Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước và có cơ chế, chính sách thu hút các nguồn lực ngoài nhà nước đầu tư nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ. Xây dựng một số viện nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo và vườn ươm công nghệ. Tạo thuận lợi thúc đẩy phát triển mạnh doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Có chính sách đào tạo, phát triển, trọng dụng và tôn vinh đội ngũ khoa học và công nghệ. Khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam./.
Tổng hợp văn kiện Đại hội XII của Đảng (theo Báo Điện tử Chính phủ, 24/3/2016)
Nguồn: Cục Thông tin KH&CN quốc gia
Tỉ mỉ với từng công đoạn để phục chế những quyển sách, suốt 37 năm qua, ông Võ Văn Rạng vẫn trung thành với nghề đóng sách cũ này.
Trong căn nhà nhỏ cuối con hẻm trên đường Lý Chính Thắng, quận 3, TP HCM, người ta thường thấy một người đàn ông trung niên cẩn thận dùng kéo cắt chỉ, tháo rời cuốn sách rồi xếp lại thành từng trang theo số thứ tự. Ông luôn nâng niu và trân trọng từng quyển sách cũ.
Nhiều người ví ông Rạng như bác sĩ của những cuốn sách. Ông tái tạo những quyển sách đã ngả màu, mất bìa, bị mối mọt ăn bằng những công đoạn thủ công tỉ mỉ. Nhiều quyển bị long sờn, gần như mất bìa, từng trang sách bị rời ra nhưng khi qua tay ông nó lại tinh tươm, tươi mới nhưng vẫn giữ được nét tinh nguyên ban đầu.
Để hoàn thành việc “phục chế” một quyển sách, ông Rạng nâng niu và nhẹ nhàng trong từng động tác. “Ông không dám gỡ mạnh vì sợ quyển sách sẽ rách. Có nhiều quyển từ những năm 80, họ quý trọng nên mới nhờ mình đóng lại. Nên mình cũng phải trân quý sách của họ như chính họ vậy”, ông Rạng tâm sự.
Ông bắt đầu làm nghề từ năm 1978 đến nay. Thời trước, rất nhiều người chơi sách cũ nên nghề này khá thịnh vượng. Nhiều khách hàng sưu tầm những quyển sách hơn mấy thập kỷ đến nhờ ông Rạng đóng lại cho mới để họ khoe mấy ông bạn già.
Qua thăng trầm của thời gian, đến nay, chỉ còn những cụ già muốn gìn giữ lại những hoài niệm xưa cũ mới có nhu cầu đóng sách. “Giờ công nghệ phát triển rồi, muốn đọc gì thì người ta lên Internet còn mấy ông già thì cầm mấy tờ báo đọc để cập nhật tin tức, thời sự. Mấy ai còn đọc sách cũ nữa. Có cũng chỉ là số ít, âu là mấy ông già ở tuổi thất thập thôi”, ông Rạng trầm ngâm.
Mỗi ngày, ông Rạng mở rộng cánh cửa sắt hoen rỉ, với tay uống một ngụm nước đựng trong một chiếc cốc không thể cũ hơn rồi ngồi vào chiếc bàn gỗ chắn ngang cửa ra vào. Trên bàn là những chồng sách cũ xếp ngổn ngang, cuốn long gáy, cuốn rách bìa… toàn những sách xuất bản từ những năm 1930 cho đến những năm 1980.
Ông Rạng cẩn thận tháo rời từng trang sách.
Với sách bị long gáy, ông Rạng dùng chỉ nilon (loại chỉ thường dùng để khâu bao bố) khâu gáy chừng 20 trang sách thành một tệp. Cùng đường khâu đó, ông tiếp tục kết nối những trang sách khác theo số thứ tự trang cho đến khi khâu hết cả quyển sách.
Xong công đoạn khâu, người thợ đóng sách dùng một chiếc chổi nhỏ, quệt hồ vào gáy sách.
Để chừng 30 phút chờ hồ khô, ông tiếp tục phết thêm một lớp hồ nữa rồi dán bìa phụ bằng giấy cạc tông mỏng lên.
Tỉ mẩn như một nghệ sĩ điêu khắc, ông Rạng dùng cặp kính lão, soi qua một chiếc kính lúp vào những mảnh vụn của trang sách cũ, cẩn thận dùng nhíp gắp từng mảnh và đính lại với nhau.
Chồng sách cũ đã ngả màu theo năm tháng. Có những cuốn không còn rõ chữ nhưng khách hàng vẫn đem tới cho ông đóng lại.
Mặc dù tuổi đã cao nhưng hằng ngày ông vẫn ngồi đó, cặm cuội phục chế cho từng cuốn sách như cố níu giữ hoài niệm xưa cũ.
Trong góc phòng khách căn nhà, ông đặt chiếc máy nén bìa, cắt bìa thô sơ, hoàn toàn khởi động bằng tay. Sau khi dán bìa, cuốn sách sẽ được đưa vào máy, dùng lực lò xo quay tay để ép cho bìa và các trang sách dính lại với nhau một cách chắc chắn ở phần gáy sách. Chiếc máy này đã theo ông suốt 37 năm qua. Nó như người bạn đồng hành, cùng ông chứng kiến biết bao thăng trầm của nghề đóng sách cũ này.
Có những trang mảnh rách còn dính vào sách nhưng có những trang long khỏi bìa sách thành từng mảnh vụn, ông Rạng cần mẫn vuốt phẳng phiu, hong khô rồi dính từng mảnh vụn đó lại với nhau thành một trang sách hoàn chỉnh.
Ông đang kiểm tra lại những cuốn sách sau khi đóng lại hoàn chỉnh.
Cuộn chỉ để khâu và loại bột dán này được ông làm tại nhà.
Khánh Phương
Có hai câu trắc nghiệm nhỏ dành cho các độc giả.
Câu thứ nhất, khi nhìn hình ảnh con bạn mê mải đọc sách hay nô đùa cùng các bạn với tiếng cười trong trẻo, hồn nhiên, bạn thích hình ảnh nào?
Câu thứ hai, sau những giờ học hành căng thẳng, bạn muốn con bạn thư giãn bằng cách nào: Đọc sách, chơi thể thao hay chơi game?
Ở câu hỏi thứ nhất, tôi tin là không ít người sẽ chọn phương án hai, nghĩa là họ muốn con sống vui vẻ, hồn nhiên đúng với tuổi của mình mà không bị áp lực gì đè nặng lên đôi vai còn quá mảnh. Tất nhiên, cũng có nhiều người cho rằng, đọc sách là cần thiết vì sách mang lại cho con người cả một kho kinh nghiệm và các giá trị văn hóa nhân loại. Đọc sách cùng với các hoạt động thực tiễn sẽ giúp người ta biết những gì nên làm, những gì phải tránh và tất nhiên, người chăm chỉ đọc sách sẽ biết cách nâng cao chất lượng sống cho chính mình, đồng thời góp phần mang lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống.
Với câu hỏi thứ hai, phương án nhiều bậc phụ huynh lựa chọn sẽ là chơi thể thao sau những giờ học căng thẳng, bởi cả ngày cắm mặt vào sách vở, đến lúc cần cho mắt nghỉ thì lại đọc sách thì rõ ràng là không có lợi cho mắt, thậm chí tăng độ cận thị và cơ thể sẽ có những hạn chế về mặt thể chất. Còn chơi thể thao như bơi lội, đi bộ, đá bóng, đánh cầu lông… là cách tốt nhất để người ta xả những áp lực trong ngày, sống vô tư và rõ ràng khi vận động thể chất nhiều, con người sẽ có một sức khỏe tốt, một hình thể cân đối.
Minh họa của Lê Tiến Vượng.
Sở dĩ tôi đưa ra hai câu hỏi trắc nghiệm trên cho các bạn để nói về một vấn đề đang hiện hữu trong cuộc sống chúng ta, đó là văn hóa đọc trong giới trẻ những năm gần đây có thể nói là… quá buồn.
Những con số này khiến chúng ta không khỏi suy nghĩ: Theo số liệu khảo sát của Vụ Thư viện, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công bố mới đây, tỷ lệ người hoàn toàn không đọc sách nước ta chiếm tới 26%, thỉnh thoảng mới cầm một cuốn sách lên đọc chiếm áp đảo tới 44%, còn đọc thường xuyên là 30%. Rõ ràng là ai cũng biết tác dụng của việc đọc sách đối với sự phát triển nhân cách cũng như mang lại những vẻ đẹp cho tâm hồn, nhưng không phải ai cũng có thói quen đọc sách mỗi ngày.
Họ sẽ viện ra đủ lý do để lý giải tình trạng này: Trong thời buổi tràn ngập thông tin, mở tivi hay vào mạng là có thể biết sự chuyển động của cả thế giới. Ngoài ra cũng có vô số các chương trình giải trí sẵn sàng đáp ứng nhu cầu mọi lứa tuổi. Hay cả ngày làm việc, lăn lộn kiếm sống, điều họ cần là tiếng cười, sự giải trí thuần túy. Đọc sách là lại phải suy nghĩ, trăn trở với thân phận này, bi kịch nọ quả là mệt đầu. Đấy là đối với người đi làm. Còn với học sinh, đến lớp từ sáng, chiều học thêm ở trường, tối gia sư kèm cặp. Rồi làm bài tập ở trường các thầy cô giao cho. Kết thúc một ngày và rời khỏi bàn học cũng là 22-23 giờ khuya.
Còn về khách quan, sách giờ đây quá nhiều. Ra hiệu sách sẽ thấy bạt ngàn các loại sách trên kệ. Muốn tìm sách gì cũng có nhưng để tìm một cuốn sách ưng ý, đọc được cũng không phải dễ. Một số nhà xuất bản vì chạy theo thị trường nên chỉ chú ý đến hình thức, những tên sách sao cho giật gân, câu khách mà không tập trung vào chất lượng khiến người đọc như bị lạc vào chốn mê cung.
Tôi thì cho rằng, đó là những lý lẽ thiếu thuyết phục. Khi một người tự ý thức được sự cần thiết của việc đọc, họ sẽ bố trí một khoảng thời gian hợp lý, cần thiết cho việc đọc sách. Bởi đó là một thói quen hữu ích. Thói quen này rất cần thiết được xây dựng từ nhỏ vì những trang sách dù trực tiếp hay gián tiếp sẽ là yếu tố thúc đẩy khả năng tự học, mang đến cho các em những chân trời khát vọng, những hoài bão lớn lao. Cha mẹ có thể cho các con thỏa mãn nhiều nhu cầu vật chất, nhưng sẽ là bi kịch nếu chính các em không tự nuôi dưỡng những ước mơ cho mình.
Hằng ngày trên đường phố, không chỉ tôi mà chắc chắn nhiều bạn sẽ bắt gặp hình ảnh những du khách nước ngoài vai khoác ba lô, tay cầm cuốn sách. Họ có thể đọc sách ở bất cứ chỗ nào dừng chân. Họ không chỉ là thanh niên mà cả những người lớn tuổi, khi đã đi qua nhiều thăng trầm của đời sống. Bởi với họ, lật giở từng trang sách chính là tự cho phép mình sống chậm, tạm quên những mệt mỏi thường ngày và thấy cuộc sống trở nên đẹp đẽ, ấm áp hơn.
Tuấn Nguyễn
Câu chuyện về ông già bán sách ở 180B Bà Triệu có lẽ đã nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài khi một phóng viên của BBC đã có lần “trộm phỏng vấn” ông già khó tính này.
“Hà Nội này giờ nổi tiếng về sách cũ chỉ có tôi với ông Cảnh…”
Câu chuyện về ông già bán sách ở 180B Bà Triệu có lẽ đã nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài khi một phóng viên của BBC đã có lần “trộm phỏng vấn” ông già khó tính này.
Hiệu sách 180B Bà Triệu.
Tọa lạc ngay giữa mặt đường Bà Triệu với chiếc biển sờn cũ kĩ, nếu không để ý chắc chắn bạn sẽ bỏ qua cánh cửa treo dăm ba quyển sách với mấy kệ gỗ khiêm tốn mà chi chít những quyển tạp chí, sách báo ngả màu này. Nhưng khi hỏi đến ông Dư bán sách, hầu như không ai ở cái ngõ này là không biết, ông già gàn dở, khó tính.
Một góc tạp chí trưng bày trong hiệu.
Kẻ bán sách gàn dở
Mở hiệu sách này đã hơn 40 năm, ông được coi là một trong những người gắn bó, tận tụy với sách đến cả cuộc đời. Bước vào hiệu sách nhỏ của ông, tôi như bị choáng ngợp bởi không phải một mô hình sách rộng lớn, khang trang như trong các thư viện mà ở sự heo hút của những chồng sách chót vót chạm đến trần nhà. Từng ngách nhỏ la liệt những cuốn sách đủ loại nhưng phần lớn đã ngả màu xưa cũ.
Ông già cứ ở vậy với đống sách này, ăn uống, ngủ nghỉ với những cuốn sách. Được biết trước kia ông vốn là dân kỹ sư xây dựng, có lần cuộc sống khó khăn, túng thiếu, ông phải bán cả những cuốn sách của mình. Vốn có đầu óc kinh doanh, sau này ông đã mua lại sách để bán cho những người có nhu cầu.
Khác với những hiệu sách cũ ở Hà Nội chuyên biệt từng loại thì sách của ông già Bà Triệu đủ loại, từ Tây, Tàu, đến Ta. Mỗi khi khách hỏi tìm sách, ông già hách dịch thường khinh khỉnh hỏi lĩnh vực mà khách muốn rồi lục tìm đâu đó trong biển sách, phủi bụi và đưa cho khách. Những cuốn sách hay được tìm ông thường bày ngay trước giá dưới, còn có cuốn thiên hạ ít khi dòm ngó thì ông cho nó tọa lạc, cất giấu tít trên tận mái cao.
Thoạt đầu nhìn vào khuôn viên nhỏ bé lộn xộn ấy người ta thấy hoa mắt nhưng đối với ông già hơn 40 năm gắn bó với từng cuốn sách thì nó không hề lộn xộn bởi từng cuốn ở đâu, vị trí nào ông đều nhớ.
Người ta nói ông có một cái đầu như cuốn bách khoa toàn thư bởi nhắc đến bất cứ một vấn đề nào từ khoa học, kỹ thuật, chiến tranh hay văn học ông đều “đối đáp” hầu chuyện được nếu người mua có bất chợt muốn ngồi hàn huyên. Tôi đã từng chứng kiến ông hầu chuyện một vị khách già đam mê âm nhạc, sau hồi nói chuyện ông chủ hiệu sách còn biết vị khách kia thích những tác phẩm trinh thám cổ của Nga. Ông tiết lộ một trong những bí quyết kinh doanh của mình chính là biết người khách của mình muốn gì, chính vì vậy ông đọc rất nhiều, nó là niềm đam mê, sự yêu thích muốn được khám phá, khai sáng trí tuệ.
Một người yêu sách ghé hiệu của ông Dư.
Một ông lão hơn 70 tuổi, hằng ngày ra vào với những cuốn sách đã không còn lạ lẫm với những người yêu thích sách cũ. Người ta tìm đến ông như tìm đến những khung giá trị xưa cũ của sách cổ. Nổi tiếng là bán sách đắt nhưng mỗi cuốn sách đều có giá trị, khi nó được sở hữu bởi một độc giả có giá trị thì bỗng nhiên bao nhiêu tiền cho cuốn sách đó cũng chẳng quan trọng nữa. Ông già cũng chia sẻ có những cuốn sách trở đi trở lại với ông đến mấy lần. Lúc đó ông thực sự vui vì nó tạo ra một vòng tuần hoàn, chứng tỏ cuốn sách có giá trị nên nó được nhiều người sử dụng.
Bể học là vô tận, người ta có thể học ở giữa đời, học từ những con người nhưng đối với sách, nó luôn là một kho tàng khổng lồ. Những con người bán sách như ông Cảnh hay ông Dư vẫn luôn lưu giữ những giá trị muôn đời trong từng cuốn sách bởi họ có một cái “tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến”.
Nguồn: http://hanoiiplus.com/hieu-sach-80b-ba-trieu-bien-sach-co-menh-mong-giua-long-ha-noi/
Từ ngày 20/3 đến ngày 22/3, Nhà xuất bản (NXB) Công an nhân dân phối hợp với Trường Đại học An ninh nhân dân tổ chức “Ngày hội đọc sách". Hơn 1.500 đầu sách được giới thiệu đến sinh viên cùng với nhiều hoạt động giao lưu tác giả, tác phẩm.
Theo Thượng tá Ngô Văn Tần, Phụ trách NXB Công an nhân dân phía Nam, đây là lần đầu tiên hội sách của NXB được tổ chức tại một trường phía Nam của lực lượng Công an nhân dân. “Ngày hội đọc sách” là hoạt động nằm trong khuôn khổ “Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam” của Trường Đại học An ninh nhân dân nhằm chào mừng 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, 70 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam.
Sinh viên Đại học An ninh nhân dân lựa chọn các ấn phẩm sách.
Khuôn viên trường (phường Linh Trung, quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh) chia làm nhiều gian hàng của các đơn vị với đủ loại sách từ văn học, thơ ca, triết đến sách pháp luật, kinh tế, khoa học…, nhộn nhịp người xem, mua. Nhiều sách được giảm giá 10%. Quầy của NXB Công an nhân dân thu hút đông đảo sinh viên. Nơi đây tập trung nhiều đầu sách về trinh thám, điệp viên, truyền thống Công an nhân dân…
Trong khuôn khổ ngày hội, sinh viên còn được gặp gỡ, giao lưu với các nhà văn, tác giả như: Nguyễn Thị Ngọc Hải, Minh Vân, Bùi Anh Tấn, Hoàng Đình Quang, Trần Minh Hợp. Rất nhiều sinh viên đã từng đọc “Thám tử yêu”, “Một thế giới không có đàn bà” của Bùi Anh Tấn hay sách về nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn của nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải… Họ muốn tìm hiểu sâu hơn về cách nhà văn xây dựng nhân vật, tìm tòi tư liệu hoặc nhà văn trăn trở với con chữ, với cái ác, cái thiện trong xã hội ra sao…
Điều đáng mừng khi trong buổi giao lưu, tác phẩm “Không thể mồ côi” của tác giả Minh Vân đều được bán hết. Riêng nhà văn trẻ Trần Minh Hợp, giảng viên Trường ĐH An ninh nhân dân, giới thiệu đến ngày hội truyện dài “Giường tầng”.
Buổi ra mắt, ký tặng tác phẩm này thu hút sự quan tâm của đông đảo sinh viên. Bởi có thể xem đây là tác phẩm đầu tiên viết về đời sống của sinh viên An ninh nhân dân mà tác giả lại là người thầy của họ.
Quỳnh Nga