Phương pháp tưới tiêu tiên tiến của Israel đã biến sa mạc khô cằn thành nơi trồng rau, nuôi cá

Israel là một trong những nước xuất khẩu thực phẩm tươi sống lớn trên thị trường thế giới và là quốc gia đứng đầu về kỹ thuật nông nghiệp dù hơn 50% diện tích đất là sa mạc và khí hậu nơi đây khá khô cằn, thiếu nước.
 
Tại quốc gia Trung Đông này, chỉ có khoảng 20% diện tích đất là đủ điều kiện thích hợp làm nông nghiệp. Bất chấp điều đó, ngành nông nghiệp vẫn chiếm 2,5% GDP và 3,6% kim ngạch xuất khẩu.
 
Dù chỉ có 3,7% tổng lực lượng lao động làm trong ngành nông nghiệp nhưng Israel vẫn có thể cung cấp 95% nhu cầu lương thực trong nước. Hơn nữa, phần lớn những loại thực phẩm phải nhập khẩu là những loại sản phẩm phụ như đường, ca cao, cà phê…
 
Những người Israel, hay người Do Thái hiểu được tầm quan trọng của nông nghiệp và từ khi thành lập đất nước vào năm 1948, chính phủ và người dân quốc gia này đã tăng cường khai hoang, xây dựng ruộng bậc thang, tháo nước vùng đầm lầy, tái trồng rừng và chống sự xói mòn cũng như nhập mặn.
 
Kể từ khi Israel được thành lập, sản lượng nông nghiệp của nước này đã tăng trưởng gấp 15 lần, cao gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng dân số. Đây là một con số đáng ngạc nhiên khi quốc gia này có lượng mưa khá thấp.
 
Số đất làm nông nghiệp của Israe cũng tăng trưởng mạnh từ 30.000 ha năm 1948 lên 190.000 ha hiện tại. Với công nghệ nông nghiệp hiện đại, số lao động trong ngành này và số nước cần dùng cho tưới tiêu ngày một giảm.
 
 
Cánh đồng tại thung lũng Jezreel-Israel.
Một số báo cáo cho thấy nông nghiệp Israel trong khoảng 1999-2009 sử dụng ít hơn 12% lượng nước tưới tiêu nhưng sản lượng lại tăng 26%.
 
Hầu hết ngành nông nghiệp của Israel được xây dựng theo 2 mô hình là hợp tác xã (kibbutz) và làng nông nghiệp (moshav).
 
Theo đó, mô hình kinh doanh hợp tác xã có sở hữu chung về phương tiện sản xuất cũng như sản phẩm. Trong khi đó, mô hình làng nông nghiệp có hoạt động sản xuất riêng từng hộ nhưng lại hợp tác chung về thương hiệu và các hoạt động thu mua nguyên liệu.
 
Với phần lớn diện tích đất là sa mạc hay khô cằn, chênh lệch nhiệt độ ngày – đêm lại khác cao (từ 10-20 độ) nên việc sản xuất nông nghiệp tại Israel là vô cùng khó khăn. Nhưng với những kỹ thuật tiên tiến và chính sách khai hoang, tháo nước đầm lầy khôn ngoan, người dân quốc gia này đã tạo nên điều thần kỳ ở Trung Đông.
 
 
Hệ thống tưới tiêu hiện đại ở Israel.
 
Dưới đây là 8 kỹ thuật tiêu biểu mà nông dân Israel đã áp dụng thành công và được giới thiệu ở nhiều quốc gia trên thế giới:
 
Công nghệ tưới nhỏ giọt
 
 
Tưới nhỏ giọt cho từng gốc cây với liều lượng nhất định.
 
Không giống các công nghệ khác bắt nguồn từ phòng nghiên cứu và cần những phân tích, thử nghiệm cầu kỳ. Công nghệ tưới nhỏ giọt vô cùng đơn giản và được người nông dân Israel sử dụng rộng rãi, qua đó làm nên điều thần kỳ tại Trung Đông.
 
Theo đó, một hệ thống đường ống nước sẽ được kiểm soát để tưới nhỏ giọt cho từng gốc cây trồng với liều lượng nhất định. Hệ thống này chắc chắn sẽ tiết kiệm nước hơn so với việc phun nước tưới thông thường nhưng vẫn đảm bảo lượng nước cần thiết cung cấp cho cây trồng.
 
Lấy nước từ không khí
 
 
Thiết kế hộp nhựa bao quanh từng gốc cây.
 
Israel cũng sử dụng một kỹ thuật có chi phí khá thấp là xây các hộp nhựa được thiết kế bao quanh gốc cây, qua đó hấp thụ những giọt sương ban đêm và làm giảm 50% nhu cầu nước của cây trồng.
 
Vào những ngày mưa, các hộp nhựa này nâng cao 27 lần tác dụng tưới nước trên mỗi milimet nước mưa.
 
Hơn nữa, những hộp nhựa này có thể bảo vệ cây trồng khỏi sự thay đổi nhiệt độ đêm ngày đột ngột tại Israel.
 
Hệ thống trồng cây Runoff Agroforestry Systems
 
 
Trồng cây xen kẽ với cây lương thực.
 
Theo đó, người nông dân sẽ trồng cây xen kẽ với cây lương thực. Như vậy, các rễ cây sẽ giữ được nước cho các hạt giống và những lá cây sẽ trở thành nguồn dinh dưỡng cho hạt giống cây lương thực.
 
Phát triển giống cây trồng mới
 
 
Nhân giống ra nhiều cây trồng mới ưa điều kiện khí hậu khắc nghiệt.
 
Rất nhiều giống cây trồng chỉ cần ít nước và có thể trồng tại những vùng đất khắc nghiệt dưới ánh mặt trời nóng bỏng. Nhiều tổ chức và công ty công nghệ tại Israel đã liên tục nghiên cứu và cho ra đời những giống cây trồng phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng cũng như khí hậu ở đây.
 
Năm 1973, hai nhà khoa học Haim Rabinowitch và Nachum Kedar đã phát triển thành công một giống cây cà chua mới có thể chịu được thời tiết nóng và khô hạn, qua đó tạo nên một cuộc cách mạng trong ngành xuất khẩu rau xanh của Israel.
 
Tiêu chuẩn công nghệ cao
 
 
Nghiên cứu nhiều công nghệ hiện đại để tăng năng suất cây trồng.
 
Bên cạnh việc phát triển những giống cây trồng mới, Israel cũng nghiên cứu các công nghệ thích hợp để tăng năng suất cho cây trồng, như đảm bảo điều kiện ánh sáng, thời điểm thụ phấn…
 
Tích cực trồng cây
 
 
Chủ trương trồng cây gây rừng ở mọi nơi.
 
Việc trồng cây sẽ ngăn chặn được đà sa mạc hóa và cung cấp chất dinh dưỡng cho đất theo một chu kỳ tuần hoàn. Trong 100 năm qua, Israel là quốc gia duy nhất trên thế giới có tốc độ tăng trưởng ròng về diện tích cây trồng.
 
Tái sử dụng nguồn nước
 
 
Tái chế sử dụng lại nguồn nước.
 
Hệ thống tái sử dụng nguồn nước của Israel có chất lượng hàng đầu thế giới và không một quốc gia nào có thể so sánh.
 
Khoảng 50% nguồn nước sử dụng của quốc gia này là được tái chế, cao hơn rất nhiều so với mức 20% của nước đứng thứ 2 trong bảng xếp hạng là Tây Ban Nha.
 
Bảo vệ giống cây trồng
 
 
Bảo quản các giống cây trồng quý hiếm.
 
Việc để các giống cây trồng bị thất thoát, hư hỏng là điều vô cùng lãng phí với người dân Israel và họ luôn bảo quản các giống cây của mình ở điều kiện tốt nhất, tránh xa không khí bẩn và ẩm mốc.
 
Nhiều loại vật liệu và công nghệ đã được phát triển nhằm đảm bảo rằng mỗi hạt giống sẽ được bảo quản tốt nhất và cho ra năng suất cao nhất.
 
genk.vn
 

Các thành viên mới của Chính phủ ra mắt

Sáng 09/4/2016, Quốc hội đã tiến hành bỏ phiếu phê chuẩn việc bổ nhiệm 3 Phó Thủ tướng Chính phủ, 18 Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ theo danh sách đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc trình vào chiều 08/4/2016.
 
Tất cả các nhân sự trong danh sách do Thủ tướng Chính phủ trình đều nhận được đa số phiếu tán thành của Quốc hội để đảm nhận các chức danh theo đề cử.
 
Sau khi kết quả kiểm phiếu được công bố, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc trình hai Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm một số Phó Thủ tướng Chính phủ; bổ nhiệm một số Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
 
Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm một số Phó Thủ tướng Chính phủ với 460/461 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 93,12%.
 
Quốc hội cũng đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm một số Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ với 456/458 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 92,31%.
 
Các thành viên mới của Chính phủ đã ra mắt Quốc hội. Thay mặt Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân chúc mừng và tặng hoa từng thành viên Chính phủ mới được tín nhiệm bầu vào các cương vị trong Chính phủ.
 
Các thành viên mới của Chính phủ được Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm gồm 3 Phó Thủ tướng Chính phủ là các ông: Trương Hoà Bình (Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chánh án TANDTC), Vương Đình Huệ (Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương), Trịnh Đình Dũng (Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Xây dựng).
 
Ba Phó Thủ tướng được phê chuẩn bổ nhiệm để thay thế ông Nguyễn Xuân Phúc (đã được Quốc hội bầu làm Thủ tướng Chính phủ), ông Hoàng Trung Hải ( Ủy viên Bộ Chính trị, hiện đảm nhận cương vị Bí thư Thành uỷ Hà Nội) và ông Vũ Văn Ninh (đã miễn nhiệm).
 
18 thành viên mới của Chính phủ giữ cương vị Bộ trưởng, trưởng ngành là các ông:
 
1. Ông Ngô Xuân Lịch – Ủy viên Bộ Chính trị, Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
 
2. Ông Tô Lâm – Ủy viên Bộ Chính trị, Thượng tướng, Bộ trưởng Bộ Công an.
 
3. Ông Lê Vĩnh Tân – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
 
4. Ông Lê Thành Long – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
 
5. Ông Nguyễn Chí Dũng – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
 
6. Ông Trần Tuấn Anh – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương.
 
7. Ông Phạm Hồng Hà – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
 
8. Ông Trần Hồng Hà – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
 
9. Ông Trương Minh Tuấn – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
 
10. Ông Nguyễn Ngọc Thiện – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch.
 
11. Ông Chu Ngọc Anh – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ.
 
12. Ông Phùng Xuân Nhạ – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
 
13. Ông Đỗ Văn Chiến – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc.
 
14. Ông Trương Quang Nghĩa – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải.
 
15. Ông Đào Ngọc Dung – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
 
16. Ông Mai Tiến Dũng – Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ.
 
17. Ông Phan Văn Sáu – Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Thanh tra Chính phủ.
 
18. Ông Lê Minh Hưng – Ủy viên Trung ương Đảng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
 
Nguồn:  http://www.chinhphu.vn/
 

CDIO và tinh thần cộng sự trong giáo dục Việt Nam – quốc tế

Trình bày hai vấn đề hoàn toàn khác nhau nhưng cả GS. Salmiah Kasolang – Trưởng khoa Cơ học Kỹ thuật – ĐH Công nghệ MARA (Maylaysia) và TS. Phạm Thị Ly – ĐH QG TP. HCM, ĐH Nguyễn Tất Thành đều chia sẻ những thực tế nhận thấy được ở nền giáo dục nước ngoài với mong muốn áp dụng ưu điểm của nó tại Việt Nam.
 
Hành trình CDIO: Kỳ vọng lan tỏa và ứng dụng
 
Với vai trò trưởng khoa tại khoa Cơ học Kỹ thuật – Đại học Công nghệ MARA (Maylaysia), GS. Salmiah Kasolang luôn trăn trở với việc làm sao để khơi nguồn cảm hứng trong đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục đại học từ đó phát triển nguồn nhân lực của quốc gia một cách chiến lược và bền vững. Bà là một trong những người tham gia khởi xướng CDIO tại Đại học Công nghệ MARA– một giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội trên cơ sở xác định chuẩn đầu ra để thiết kế chương trình, phương pháp giảng dạy và đánh giá theo một quy trình khoa học tại MARA.
 
 
 
GS. Salmiah Kasolang chia sẻ về hành trình CDIO tại ĐH Công nghệ MARA – nơi mình đang công tác. Ảnh: Anh Khoa và Tuấn Duy.
CDIO là viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Conceive – Design – Implement – Operate, nghĩa là: Hình thành ý tưởng, thiết kế ý tưởng, thực hiện và vận hành.
 
“Tại ĐH MARA, từ năm 2012, CDIO đã từng bước được triển khai tại các chuyên ngành: Cơ học kỹ thuật, Kỹ thuật hóa học, Kỹ thuật xây dựng, Kỹ thuật điện (điện tử).Từ 2012 ĐH, Công nghệ MARA lên kế hoạch tập huấn CDIO, tiếp đến thiết kế lại chương trình, đánh giá lại các tiêu chuẩn, siết chặt kế hoạch hành động, hướng đến sự khởi nghiệp trong chương trình đào tạo. Dự kiến, những kết quả đầu tiên của chương trình triển khai CDIO sẽ được phân tích và đánh giá vào năm sau, tạo tiền đề cho những thay đổi và cải tiến vào năm 2018”, GS. Salmiah Kasolang chia sẻ về hành trình CDIO tại nơi mình đang công tác.
 
Mặc dù CDIO đang tiến những bước đáng kể nhưng không phải là không có thách thức. Nữ diễn giả cho rằng khó khăn lớn nhất mà bà và các đồng sự đang gặp phải đó là sự thiếu cam kết trong việc thực thi CDIO, bởi nhiều giáo viên, sinh viên còn chưa thấu hiểu những lợi ích mà CDIO mang lại cho quá trình học tập trong nhà trường cũng như tương lai nghề nghiệp sau này.
 
 
GS. Salmiah Kasolang cho rằng sinh viên FPT cũng như mô hình giáo dục tại FPT hoàn toàn có thể áp dụng CDIO. Ảnh: Anh Khoa và Tuấn Duy.
 
Giải pháp mà giáo sư đưa ra để lan tỏa CDIO đó là: Đầu tư thích hợp, tiếp tục thực hiện các chiến dịch nâng cao nhận thức, nghiên cứu các chương trình giảng dạy và tích hợp các khóa học. Đến với Educamp lần này là một hành động rất thiết thực trong chiến dịch tuyên truyền, nâng cao hiểu biết về CDIO trong cộng đồng các trường đại học.
 
Hơn thế nữa, GS. Salmiah Kasolang còn cho rằng sinh viên FPT cũng như mô hình giáo dục tại FPT hoàn toàn có thể áp dụng CDIO. “Tôi nhận thấy rất nhiều tiềm năng ở Đại học FPT, các bạn còn rất trẻ nhưng năng động và có lợi thế là trường đại học của doanh nghiệp, tự chủ về nguồn tài chính, điều này có thể giúp các bạn thuận lợi khi triển khai CDIO”, bà chia sẻ.
 
Đến với Educamp với mục đích chia sẻ và sau hội thảo, những gì vị giáo sư nhận được còn là có rất nhiều điều mới mẻ, đáng để học hỏi và ứng dụng vào công việc thực tiễn và tạo network mới từ Trường Đại học FPT. Đối với bà, Educamp đã hoàn toàn thành công với những tiêu chí đặt ra: “Connect – Share – Transform”.
 
Cơ chế bình đẳng là mấu chốt xây dựng tinh thần cộng sự
 
“Một người Việt Nam làm việc bằng 3 người Nhật nhưng 3 người Việt Nam lại làm việc không bằng 1 người Nhật”,  TS. Phạm Thị Ly đã so sánh như vậy khi nói về “Tinh thần cộng sự” và vai trò của nó đối với việc vận hành tổ chức giáo dục.
 
Đây là đề tài mà đại diện Đại học Nguyễn Tất Thành hết sức tâm đắc nhưng phải đến Educamp 2015 mới có cơ hội bày tỏ và chia sẻ quan điểm của mình. Từng có thời gian làm việc tại Mỹ, TS. Phạm Thị Ly có cơ hội nhìn nhận về tinh thần cộng sự trong nền giáo dục Hoa Kỳ và so sánh nó với Việt Nam. Theo diễn giả, tại Mỹ, từ “collegiality” được sử dụng diễn tả ý về “tinh thần cộng sự”. Đó là “Những người thống nhất rõ ràng về một lý tưởng chung, tôn trọng nhau vì mục đích thực hiện lý tưởng chung ấy”, diễn giả chia sẻ.
 
 
Ở tầm vĩ mô, các trường đại học tư nhân dường như vẫn chịu “lép vế” hơn so với các trường công lập. Điều này đi ngược với “tinh thần cộng sự” nhưng đang diễn ra phổ biến ở Việt Nam. Ảnh: Anh Khoa và Tuấn Duy.
 
Theo TS. Phạm Thị Ly, ở tầm vĩ mô, các trường đại học tư nhân dường như vẫn chịu “lép vế” hơn so với các trường công lập. Điều này đi ngược với “tinh thần cộng sự” nhưng đang diễn ra phổ biến ở Việt Nam. Ảnh: Anh Khoa và Tuấn Duy.
Trong một tổ chức, mỗi người không chỉ làm nhiệm vụ của mình mà còn tôn trọng người khác trong việc thực hiện phần việc của họ. Dù trình độ khác nhau nhưng một khi đã là “cộng sự”, họ bình đẳng với nhau trong môi trường chung là công việc. Nữ tiến sĩ dẫn ví dụ, tại các trường Đại học ở Mỹ, trưởng khoa không phải là “sếp”, là cấp trên mà vị trí này luân phiên được giao cho từng người trong khoa, đảm trách trong một thời gian nhất định. Trách nhiệm đối với công việc của “trưởng khoa đương thời” cao hơn so với các cán bộ khác nhưng xét về vai vế, quan hệ xã hội, họ bình đẳng với nhau.
 
So sánh với Việt Nam, hiện tại đa phần các mô hình giáo dục trong nước vẫn vận hành theo phương thức truyền thống. Đồng nghiệp gắn bó với nhau nhiều khi không trên tinh thần “cộng sự” mà bị chi phối bởi cảm xúc riêng, quan hệ thân tình, bạn bè rất nhiều. Chính vì vậy, sự tôn trọng, bình đẳng trong công việc không đạt đến chuẩn mực.
 
Tiến sĩ Phạm Thị Ly chứng minh bằng việc tại nhiều trường học, các giáo viên hợp đồng không được nằm trong bộ máy ra quyết định. Ở tầm vĩ mô, các trường đại học tư nhân dường như vẫn chịu “lép vế” hơn so với các trường công lập. Điều này đi ngược với “tinh thần cộng sự” nhưng đang diễn ra phổ biến ở Việt Nam.
 
TS. Phạm Thị Ly chia sẻ đã từng có “1 năm làm việc tại trung tâm chỉ với 6 đồng nghiệp, xây dựng tinh thần cộng sự cùng vì 1 sản phẩm, hiểu thành công hoặc thất bại của sản phẩm đó là của mình, nôm na không kiếm ra tiền thì mình sẽ bị đói. Trao quyền, hiểu vai trò của mọi người, phần việc của mình và của mọi người, cơ chế ra quyết định bình đẳng dựa trên sự đồng thuận cao là bí quyết xây dựng nên tinh thần cộng sự”, điều cần thiết ở mọi môi trường trong đó ngành giáo dục nói riêng và tổ chức khác nói chung.
 
Ngày 29/11, Educamp 2015 đã diễn ra tại campus Hòa Lạc, Trường Đại học FPT với sự tham gia của 150 Lãnh đạo, cán bộ, giảng viên Việt Nam và quốc tế.
Với tổng cộng 42 bài tham luận được chia sẻ, Hội thảo hướng đến chia sẻ và thảo luận xung quanh những vấn đề: Xây dựng tổ chức học tập tại FPT, thực tế của FE nói riêng và các cơ sở giáo dục đào tạo ở Việt Nam nói chung như: tuyển sinh, giảng dạy, nghiên cứu, quản trị, truyền thông… qua đó thúc đẩy cải tiến công việc hiện tại của người tham gia.
 
Ba keynote của Educamp 2015 gồm: “Quản trị Đại học như Tổ chức Dịch vụ” của TS. Lê Trường Tùng – Chủ tịch HĐQT Trường Đại học FPT; “Hành trình CDIO tại Đại học Công nghệ MARA” – Giáo sư Salmiah Kasolang – Trưởng Khoa Cơ học Kỹ thuật – ĐH Công nghệ MARA (Malaysia); “Tinh thần cộng sự – một so sánh bước đầu trong môi trường học thuật Hoa Kỳ và Việt Nam” của – TS. Phạm Thị Ly – ĐH QG TP. HCM, ĐH Nguyễn Tất Thành.
 
Ngọc Trâm
 

Khơi nguồn cảm hứng để trẻ yêu thích khám phá khoa học

 
Cô Phượng cùng các em học sinh trong giờ học làm quen với thiên nhiên
 
 Ở trường mầm non trẻ không chỉ được chăm sóc mà trẻ còn được làm quen nhiều hoạt động khác nhau, trong đó hoạt động: “ Khám phá khoa học” có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển nhận thức cho trẻ.
Trẻ khám phá khoa học bằng những câu hỏi cắc cớ
 
 Đối với trẻ mầm non việc cho trẻ “khám phá khoa học” là tạo điều kiện hình thành và phát triển ở trẻ tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lòng nhân ái, tình cảm yêu thương với người thân, với cuộc sống xung quanh trẻ, biết yêu quí bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ những truyền thống của quê hương đất nước, trân trọng và giữ gìn sản phẩm lao động tự làm ra.
 
 Theo cô Ngô Ái Phượng – Giáo viên Trường mầm non 10/3 Thành phố Buôn Ma Thuột (Đăc Lăk), giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh chia sẻ: 
 
Thực ra, trẻ em có nhu cầu rất lớn trong việc tiếp xúc và nhận thức thế giới xung quanh.Trẻ nhỏ nào cũng rất say mê với những trò đuổi bướm, bắt ve, hái hoa… Trẻ thích ngắm nhìn trời đất, nhìn mây bay, nhìn những giọt mưa rơi tí tách ngoài mái hiên. 
 
Những lúc ấy trong đầu trẻ có bao nhiêu điều thắc mắc đại loại như: Tại sao lại có mưa? Mưa từ đâu rơi xuống? Cây xanh có từ đâu? Vì sao nó sống được? Mây từ đâu bay đến và sẽ bay về đâu? Tối nó có đi ngũ không như mình không?
 
Tử trước đến nay, trong trường mầm non vẫn dạy trẻ “ Tìm hiểu môi trường xung quanh” “ Hoặc làm quen với môi trường xung quanh”. Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều giáo viên thường chú trọng cho trẻ tìm hiểu bề ngoài của các đối tượng, đa số trẻ chỉ được hỏi và trả lời, ít khi cho trẻ sờ, mó, nếm các đồ vật mà trẻ được thí nghiệm.
 
giáo viên ít đưa ra câu hỏi mở khích thích sự tìm tòi, khám phá của trẻ, chính vì vậy trẻ có ít trải nghiệm, ít có điều kiện để giải quyết vấn đề mà trẻ dự đoán.
 
Học bằng trực quan sinh động
 
 Đối với trẻ mẫu giáo, phạm vi hiểu biết và học hỏi, tìm tòi rộng hơn do đó cô giáo cần tạo điều kiện cho trẻ tiếp cận với các vật có thật để cho trẻ được hoạt động tìm tòi, khám phá và phát hiện. 
 
Theo kinh nghiệm của cô Phượng, cho trẻ tận mắt nhìn thấy các đối tượng xung quanh, điều đó có tác dụng làm chính xác những biểu tượng đã được hình thành trong đầu óc trẻ.
 
Nhờ có trực quan, trẻ nhận biết đối tượng hứng thú hơn, dễ dàng hơn, chính hơn, trực quan cần phải đảm bảo tính thẩm mỹ, đẹp, rõ ràng, không gây nguy hiểm đối với trẻ…
 
Bằng những dụng cụ trực quan thật hấp dẫn của giáo viên, quá trình tri giác của các đối tượng sẽ làm nảy sinh tính ham hiểu biết, khám phá và phát hiện đối tượng của trẻ.
 
Cũng theo cô Phượng, việc lựa chọn đồ dùng trực quan phải phù hợp và phải tuân theo qui luật của tự nhiên của chính bản thân đối tượng.
 
 Cô Ngô Ái Phượng
 
Cô Phượng dẫn giải: Ví dụ trong chủ đề “một số động vật sống trong rừng”, cô sẽ phát cho mỗi trẻ một biểu tượng 1 con vật (tranh hoặc tượng). 
 
Sau khi cô hát hoặc đặt câu đố liên quan đến động vật, trẻ có con vật nào cầm trên tay, trẻ sẽ đưa con vật đó ra và tự giới thiệu tên, thức ăn, vận động, cách sinh sống của chúng. (Trẻ dễ dàng hành động và hoạt động với đối tượng).
 
Cô cũng cần cho trẻ biết sự phát triển của động vật là từ trứng – nở ra con (hoặc con mẹ) – con con – con trưởng thành – con mẹ…
 
Tuy nhiên, lưu ý là giáo viên phải hình dung trước những tình huống bất lợi có thể xảy ra khi cho trẻ xem những trực quan thật nhỏ: con chim, con mèo, con gà, con vịt…
 
Để giờ quan sát với giáo cụ trực quan thêm sinh động và gây hứng thú nhiều hơn (nếu có điều kiện), cô cho sử dụng các phim tài liệu hoặc phóng sự ngắn về thế giới động vật (có thể lấy từ trên mạng hoặc các loại băng đĩa).
 
Khi sử dụng các loại phim tài liệu này thì nội dung phim phải phục vụ một chủ đề nào đó cho hợp lý đối với trẻ. Những hình ảnh diễn ra trên màn hình vi tính có sức hấp dẫn, lôi cuốn trẻ mạnh mẽ và nhất định sẽ có sự đóng góp đáng kể vào hiệu quả giáo dục ở mầm non (nhưng giáo viên không nên phụ thuộc quá nhiều vào máy vi tính, mà phải có sự chuẩn bị của mình về cách dẫn dắt bằng lời nói cho xuyên suốt và logic)
 
Hoặc cô sẽ tạo cho trẻ sự hứng thú trong việc cho trẻ gieo trồng, theo dõi, chăm sóc sự phát triển của cây.
 
Cùng trẻ làm đất cho vào chậu cây, cho trẻ gieo hạt, tìm nơi có ánh sáng, hướng dẫn trẻ tưới nước và cho trẻ theo dõi hàng ngày để trẻ cảm nhận sâu sắc hơn về sự phát triển của cây, sau đó cô hướng dẫn trẻ đánh dấu theo hình ảnh đẻ trẻ nói lên được cảm nghĩ của mình.
 
Gia sư bảo anh(theo giaoducthoidai.vn)

Năm 2015 đánh dấu mức tăng kỷ lục của năng lượng tái tạo

 
Ảnh minh họa. (Nguồn: AFP/TTXVN)
 
Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA) ngày 7/4 thông báo công suất năng lượng tái tạo toàn cầu trong năm 2015 đạt 1.985 gigawatts (GW), tăng 152 GW (khoảng 8,3%). 
 
Đây là mức tăng hàng năm cao nhất từ trước tới nay.
 
Theo báo cáo của IRENA, công suất năng lượng gió trong năm 2015 đã tăng 17% do giá turbine giảm 45% kể từ năm 2010 và công suất năng lượng Mặt Trời tăng 37% nhờ giá thành của các module quang điện Mặt Trời giảm tới 80%. 
 
Trong khi đó, công suất thủy điện cũng tăng 3%, còn công suất năng lượng sinh học và địa nhiệt tăng 5%.
 
Tổng Giám đốc IRENA Adnan Z.Amin nhấn mạnh phát triển năng lượng tái tạo tiếp tục tăng ở các thị trường trên toàn cầu, thậm chí ngay cả khi giá dầu và giá khí đốt thấp. 
 
Theo ông, chi phí cho công nghệ năng lượng tái tạo giảm cùng các hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường đang tạo điều kiện cho năng lượng tái tạo phát triển.
 
Ước tính, trong năm 2015, đầu tư vào năng lượng tái tạo đã đạt mức kỷ lục là 286 tỷ USD.
 
Công suất năng lượng tái tạo tăng nhanh nhất ở các nước đang phát triển. 
 
Theo đó, công suất năng lượng tái tạo trong năm 2015 tại Trung Mỹ và Caribe là 14,5%, châu Á là 12,4%, chiếm 58% công suất năng lượng tái tạo toàn cầu. 
 
IRENA khẳng định điều này cho thấy năng lượng tái tạo "đang lên ngôi" so với năng lượng truyền thống và đang tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất./.

Khai mạc Diễn đàn khoa học sinh viên quốc tế T​P. Hồ Chí Minh

 
Ảnh minh họa. (Ảnh: Dương Ngọc/TTXVN)
 
 
Ngày 7/4, Hội Sinh viên Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức khai mạc Diễn đàn khoa học sinh viên quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh năm 2016 với chủ đề "Sinh viên hội nhập."
 
Tham dự diễn đàn có 100 đại biểu là sinh viên đến từ 8 quốc gia trong khu vực, trong đó có 35 đại biểu đến từ Campuchia, Indonesia, Lào, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc và 65 đại biểu của Việt Nam. 
 
Bên cạnh các đại biểu chính thức, khoảng 1.000 sinh viên tại thành phố sẽ cùng tham gia các hoạt động giao lưu, trao đổi tại diễn đàn. 
 
Diễn đàn bao gồm phiên toàn thể và các diễn đàn theo từng chủ đề. Tại phiên toàn thể, các nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội trong và ngoài nước đã chia sẻ, báo cáo tham luận về các chủ đề của diễn đàn. 
 
Các phiên chuyên đề xoay quanh những nội dung: Sáng tạo và nghiên cứu khoa học của sinh viên; hoạt động tình nguyện của sinh viên; khởi nghiệp và việc làm của sinh viên; biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường. 
 
Ở chuyên đề sáng tạo và nghiên cứu khoa học, các đại biểu cùng chia sẻ hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên các nước; những cơ chế khuyến khích hỗ trợ hoạt động nghiên cứu của sinh viên; giới thiệu những sản phẩm, công trình và gương mặt nghiên cứu khoa học tiêu biểu của sinh viên các nước. 
 
Chuyên đề hoạt động tình nguyện, các đại biểu cùng chia sẻ về phương thức tổ chức hoạt động tình nguyện của sinh viên các nước; các cơ chế hỗ trợ và vận động nguồn lực cho hoạt động tình nguyện; kết nối các hoạt động tình nguyện sinh viên quốc tế. 
 
Chuyên đề khởi nghiệp và việc làm của sinh viên, chia sẻ kinh nghiệm, cách thức khởi nghiệp của sinh viên các nước; các cơ chế hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp của sinh viên. 
 
Đặc biệt, chuyên đề biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường nhận được nhiều sự quan tâm của sinh viên các nước, các đại biểu cùng trao đổi những hoạt động chung tay bảo vệ môi trường, nâng cao nhận thức về ứng phó với biến đổi khí hậu; góp nhiều ý tưởng, đề tài nghiên cứu khoa học theo góc nhìn của riêng mình, góp phần giải quyết các vấn đề chung của khu vực. 
 
Anh Lâm Đình Thắng, Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Diễn đàn nhằm tạo sân chơi khoa học, chuyên sâu về học thuật cho sinh viên, thúc đẩy quá trình hội nhập cho sinh viên thành phố cũng như cả nước, tăng cường sự đoàn kết giữa sinh viên các nước ASEAN và các nước châu Á, qua đó tạo cơ hội cho sinh viên Việt Nam, các nhà khoa học trẻ có cơ hội giao lưu, học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của bạn bè quốc tế. 
 
Bên cạnh hoạt động trao đổi tại diễn đàn, đại biểu các nước sẽ cùng tham gia các hoạt động giao lưu cùng sinh viên thành phố, tham quan các công trình trọng điểm, các trung tâm khoa học công nghệ, khu di tích lịch sử tại thành phố./.

Chiết xuất thành công tinh dầu tỏi thành dạng viên nang

 
Tiến sỹ Võ Thị Việt Dung. (Nguồn: quangngai.gov.vn)
 
Tỏi không chỉ là gia vị mà còn là một vị thuốc chữa bệnh kỳ diệu của thiên nhiên.
 
Ngoài một số công dụng chung của tỏi như thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, chữa bệnh lỵ ra máu, tiêu đờm… củ tỏi ở Lý Sơn (Quảng Ngãi) còn có tác dụng chống lại tiến trình phát triển của một số loại ung thư.
 
Với mong muốn khai thác tối đa công dụng của tỏi trong chế biến dược phẩm, mỹ phẩm, tiến sỹ Võ Thị Việt Dung, giảng viên Đại học Phạm Văn Đồng (Quảng Ngãi), đã thực hiện thành công đề tài “Tối ưu hóa hiệu suất chiết xuất tinh dầu tỏi bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước.”
 
Đề tài này của tiến sỹ Võ Thị Việt Dung đã được tuyên dương tại Festival sáng tạo trẻ toàn quốc lần thứ 8 năm 2015.
 
Với phương pháp của tiến sỹ Võ Thị Việt Dung, tỏi được bóc sạch vỏ, xay nhuyễn. Với nồi chưng và hệ thống làm lạnh, tiến sỹ Dung sử dụng phương pháp chiết xuất truyền thống để tách tinh dầu tỏi. Tỏi được ngâm trong dung dịch NaCl sau đó thực hiện chưng cất đến khi thu được tinh dầu.
 
 
Bộ chưng cất lôi cuốn hơi nước tinh dầu tỏi. (Nguồn: quangngai.gov.vn)
 
Tiến sỹ Võ Thị Việt Dung cho biết: "Tôi biết là một số nhà nghiên cứu đã có những công trình nghiên cứu chiết xuất tinh dầu tỏi bằng phương pháp lôi cuốn hơi nước, nhưng độ chính xác chưa được cao. Tôi chọn cách sử dụng quy hoạch hóa thực nghiệm, từ đó xây dựng được quy trình sản xuất tinh dầu tỏi đạt hiệu suất thu tinh dầu cao nhất, rút ngắn thời gian và chi phí sản xuất. Phương pháp này dễ thực hiện, rẻ tiền và thuận lợi, phù hợp với gia đình và hộ kinh doanh nhỏ. Việc chuyển giao công nghệ cho nông dân cũng không khó."
 
Năm 2012, giảng viên Võ Thị Việt Dung hoàn thành luận án tiến sỹ khi mới 29 tuổi. Trong một lần đến đảo Lý Sơn, thấy người dân thu hoạch tỏi xong, bán không hết lại phải mang về nhà phơi cất, tiến sỹ Dung đã suy nghĩ nếu người dân bảo quản sơ sài thì tỏi sẽ bị giảm chất lượng và biến đổi thành phần. Vì thế, tiến sỹ Dung ấp ủ ý tưởng rất đơn giản là chiết xuất tỏi để lấy tinh dầu.
 
Khi chiết xuất tinh dầu rồi, tiến sỹ Dung nhận thấy do mùi nên một số người không sử dụng được trực tiếp dưới dạng tinh dầu tỏi, hoặc cần sử dụng một lượng lớn cho phòng chữa bệnh thì tinh dầu dưới dạng viên nang sẽ phù hợp hơn. Vì vậy, tiến sỹ Dung đã quyết định chế tinh dầu tỏi thành dạng viên nang.
 
Bằng niềm say mê, nỗ lực nghiên cứu khoa học, sau hai năm ấp ủ, nghiên cứu, đề tài chiết xuất tinh dầu tỏi bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước của tiến sỹ Võ Thị Việt Dung đã được vinh danh là một trong 36 công trình tiêu biểu tại Festival sáng tạo trẻ toàn quốc lần thứ 8 năm 2015. Trước đó, công trình này cũng đã đoạt giải Nhất trong cuộc thi Sáng tạo trẻ của tỉnh Quảng Ngãi. Đề tài chiết xuất tinh dầu từ tỏi Lý Sơn còn góp phần giúp nông dân nâng cao hiệu quả kinh tế từ loại cây trồng này.
 
Tiến sỹ Võ Thị Việt Dung cho biết chị đang tiếp tục nghiên cứu, chuyển giao từ phòng thí nghiệm ra thực tiễn quy trình chiết xuất, nghiên cứu để chiết xuất với công nghệ hiện đại hơn; tìm các điều kiện chiết xuất để thu được lợi ích kinh tế lớn nhất từ cây tỏi cho người nông dân.
 
Sau thành công bước đầu của đề tài chiết xuất tinh dầu tỏi, tiến sỹ Võ Thị Việt Dung đang tìm hướng hợp tác với các công ty mỹ phẩm, dược phẩm để công trình nhanh chóng được ứng dụng vào thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của cây tỏi Lý Sơn./.
 

Việt Nam mong muốn Nhật Bản hỗ trợ phát triển công nghệ phụ trợ

 
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp ông Hayashi Motoo, Bộ trưởng Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản. (Ảnh: An Đăng/TTXVN)
Chiều 19/3, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp ngài Hayashi Motoo, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản đang thăm làm việc tại Việt Nam.
 
Tại buổi tiếp, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chào mừng ngài Bộ trưởng Hayashi Motoo và Đoàn đại biểu Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản sang thăm và tham dự Kỳ họp lần thứ nhất của Ủy ban hỗn hợp Việt Nam-Nhật Bản về hợp tác công nghiệp, thương mại và năng lượng với Bộ Công thương Việt Nam. 
 
Phó Thủ tướng tin tưởng, kỳ họp lần thứ nhất của Ủy ban hỗ hợp Việt Nam-Nhật Bản sẽ thành công tốt đẹp, đóng góp thiết thực vào sự phát triển của mối quan hệ hợp tác kinh tế và thương mại giữa hai quốc gia.
 
Vui mừng nhận thấy quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam -Nhật Bản đã và đang có những bước phát triển toàn diện những năm qua, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị thời gian tới, hai nước tập trung xử lý các vướng mắc đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu hàng nông thủy sản Việt Nam sang Nhật Bản, hỗ trợ Việt Nam phát triển công nghiệp phụ trợ, xây dựng Nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận và phát triển nguồn nhân lực…
 
Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Hayashi Motoo cảm ơn Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã dành thời gian tiếp đoàn, bày tỏ ấn tượng tốt đẹp về đất nước và con người Việt Nam.
 
Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản mong muốn hai bên tiếp tục tăng cường quan hệ giao lưu kinh tế, thương mại, năng lượng. Hai bên sớm triển khai đối thoại chính sách liên quan đến dệt may, giới thiệu công nghệ đảm bảo an toàn cho nhà máy điện hạt nhân, phát triển nguồn nhân lực…/.

Việt Nam và Nhật Bản thúc đẩy hợp tác về khoa học-công nghệ

 
(Ảnh minh họa: Anh Tuấn/TTXVN)
 
Ngày 5/4 tại Osaka của Nhật Bản, Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Osaka đã phối hợp với Trung tâm Khoa học và Công nghệ Osaka, Câu lạc bộ Khoa học Quốc tế Osaka, tổ chức Hội thảo về hợp tác khoa học và công nghệ giữa Việt Nam và khu vực Osaka-Kansai nhằm giới thiệu về năng lực, hệ thống và hợp tác quốc tế của Việt Nam trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ.
 
Tại hội thảo, đại diện Tổng Lãnh sự quán trình bày định hướng và chính sách quốc gia của Việt Nam về ưu tiên phát triển khoa học và công nghệ, tăng cường triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, đưa vào hoạt động Quỹ Đổi mới Công nghệ Quốc gia-(NATIF), và nhấn mạnh các khung chính sách trên sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tìm kiếm và đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời gian tới.
 
Tổng Lãnh sự quán tại Osaka đánh giá cao hợp tác hiệu quả của Nhật Bản trong các dự án hợp tác và hỗ trợ Việt Nam như xây dựng Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Trung tâm Vũ trụ, Đại học Việt-Nhật, và khẳng định tiếp tục đẩy mạnh hợp tác với các cơ sở nghiên cứu và các viện đại học Nhật Bản tại khu vực Osaka-Kansai trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, kết nối các cơ sở nghiên cứu, đào tạo nhân lực… trên cơ sở Hiệp định Hợp tác Khoa học và Kỹ thuật năm 2006 giữa Việt Nam và Nhật Bản.
 
Tại hội thảo, các đại biểu bày tỏ quan tâm và mong muốn hợp tác với Việt Nam trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực thế mạnh của khu vực Osaka-Kansai về y tế, công nghệ sinh học, nông nghiệp, thủy sản, môi trường, nhiên liệu mới sạch…
 
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản nhấn mạnh việc Chính phủ Việt Nam, đặc biệt các doanh nghiệp Việt Nam, cần dành nhiều ngân sách và ưu tiên cao cho việc nghiên cứu và phát triển công nghệ, nắm bắt và làm chủ công nghệ mới để tăng năng suất, tạo ra các sản phẩm chất lượng, cạnh tranh cao và đạt mục tiêu về công nghiệp hóa và hiện đại hóa./.

Nhiên liệu sạch dạng lỏng giúp giảm phụ thuộc năng lượng hóa thạch

 
Ảnh chỉ có tính minh họa. (Nguồn: news360.com)
 
Lần đầu tiên các nhà khoa học đã vượt qua được khó khăn của việc phân tách nhiên liệu sinh khối thô mà không cần dùng đến chất hóa học, và đã sản xuất được lượng nhiên liệu hydrocarbon sạch dạng lỏng cao kỷ lục.
Thành công này giúp tiến thêm một bước trong việc bớt phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, và là một bước phát triển quan trọng trong bước chuyển sang sử dụng năng lượng tái sinh.
 
Trong bối cảnh thế giới đang cố giảm sự phụ thuộc vào nhiêu liệu rắn hóa thạch, khả năng sản xuất nhiên liệu bền vững từ nguyên liệu sinh khối có khả năng tái tạo đang trở nên ngày càng quan trọng.
 
Sản xuất và tận dụng nhiên liệu sinh khối mở ra một cách mới đế sản xuất năng lượng gần như không có carbon, bởi khí CO2 sẽ được tái chế trong quá trình quang hợp.
 
Ở thực vật, phần gỗ được dùng làm nhiên liệu bao gồm ba thành phần: cellulose, hemicellulose và lignin. Lignin là một thử thách trong điều chế năng lượng sinh học bởi có cấu trúc khó bẻ ãy và khó chuyển hóa thành nhiên liệu có ích nếu không có những hóa chất mạnh hay nguồn năn lượng lớn. Vì thế, có tới 1/3 số nhiên liệu thực vật có nguy cơ bị lãng phí khi chỉ được coi là những nguyên liệu cháy rẻ tiền.
 
Một nhóm các nhà khoa học thuộc Đại học Manchester và Đại học Khoa học Kỹ thuật Đông Trung Quốc đã hầm một chất xúc tác có nguồn gốc từ hợp chất kim loại niobium phosphate với các phân tử platinum nhỏ bám trên bề mặt và có rắc bụi mạt gỗ tươi trong 20 tiếng đồng hồ ở nhiệt độ 190 độ C, áp suất 50 atmosphere.
 
Kết quả là chất xúc tác này có khả năng trực tiếp bẻ gãy và chuyển hóa lignin. Đây sẽ là căn cứ để phát triển chất xúc tác có khả năng chuyển hóa nguyên liệu sinh khối thành chất đốt.
 
Tiến sỹ Sihai Yang, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết: “Việc chuyển hóa nguyên liệu sinh khối thành chất đốt cần sự phân tách và xử lý sinh khối thô trước, do đó dễ gặp phải nguy cơ tiêu tốn năng lượng. Chất xúc tác mới cho thấy khả năng bẻ gãy liên kết carbon-oxy rất mạnh, do đó có thể trực tiếp chuyển hóa sinh khối thô thành chất đốt dạng lỏng mà không cần dùng đến hóa chất. Nhờ đó, chúng ta sẽ tiết kiệm được rất nhiều năng lượng” ./.
 
Theo Vietnamplus