Hội nghị phát triển doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ năm 2016

 
Trong khuôn khổ các hoạt động thường niên nhằm tổng kết, đánh giá thực tiễn hoạt động xúc tiến phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN, sáng nay (21/12) tại tỉnh Kiên Giang, Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN (Bộ KH&CN) phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu – Ứng dụng – Phát triển thương hiệu Việt (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) tổ chức Hội nghị doanh nghiệp KH&CN năm 2016.
 
Đây là Hội nghị thường niên được tổ chức nhằm tạo diễn đàn trao đổi giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các doanh nghiệp KH&CN để tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN, tìm ra các giải pháp hiệu quả thúc đẩy sự phát triển hệ thống doanh nghiệp KH&CN.
 
Hội nghị doanh nghiệp KH&CN năm 2014 được tổ chức tại Phú Thọ và năm 2015 ở TP Hồ Chí Minh đã thu hút hơn 200 doanh nghiệp KH&CN và doanh nghiệp tiềm năng tham gia. Sự kiện đã trở thành diễn đàn đối thoại giữa các doanh nghiệp, các tổ chức KH&CN và các cơ quan quản lý nhà nước nhằm trao đổi về những vướng mắc, bất cập trong quá trình thực thi chính sách về doanh nghiệp KH&CN, tạo cơ hội kết nối các doanh nghiệp để chia sẻ kinh nghiệm phát triển và tìm kiếm cơ hội hợp tác.
 
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng Phát biểu khai mạc Hội nghị 
 
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng khẳng định: Hội nghị phát triển doanh nghiệp KH&CN năm 2016 được tổ chức trong một bối cảnh đặc biệt. Đây là năm được xác định là năm khởi nghiệp quốc gia, hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng. Hội nghị không chỉ nhằm đánh giá về tình hình phát triển doanh nghiệp KH&CN toàn quốc năm 2016, chia sẻ kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp KH&CN ở một số địa phương tiêu biểu mà còn giới thiệu về các chính sách mới nổi bật về doanh nghiệp KH&CN, trao đổi về dự thảo Nghị định mới về phát triển doanh nghiệp KH&CN. Đồng thời, Thứ trưởng Trần Văn Tùng cũng bày tỏ mong muốn qua Hội nghị này, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ đề xuất được các giải pháp khả thi và hiệu quả nhằm tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại trong hoạt động phát triển doanh nghiệp KH&CN, các doanh nghiệp sẽ tiếp cận được những chính sách hỗ trợ mới của Nhà nước, tăng cường sự hợp tác với các tổ chức KH&CN và giữa các doanh nghiệp để cùng phát triển.
 
Hiện nay, việc phát triển hệ thống doanh nghiệp KH&CN được khẳng định là một trong những mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011 – 2020 của Đảng và Nhà nước. Theo Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ đến năm 2020 sẽ hình thành 5000 doanh nghiệp KH&CN. Với tiềm lực của các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực KH&CN hiện nay, mục tiêu này là hoàn toàn có khả năng đạt được. Tuy nhiên, tính đến tháng 6/2016 số lượng doanh nghiệp KH&CN được cấp giấy chứng nhận còn rất khiêm tốn so với tiềm năng hình thành hệ thống doanh nghiệp KH&CN ở Việt Nam. Theo báo cáo của Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN, tính đến tháng 6/2016 cả nước có 234 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận Doanh nghiệp KH&CN và nhiều hồ sơ đăng ký chứng nhận đang trong quá trình thẩm định, họp hội đồng đánh giá. 
 
 
Toàn cảnh Hội nghị phát triển Doanh nghiệp KH&CN năm 2016
 
Ông Trần Xuân Đích – Phó Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và doanh nghiệp KH&CN cho biết: Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, doanh nghiệp trong nước gặp nhiều khó khăn, nhưng một số doanh nghiệp KH&CN vẫn đạt được doanh thu, lợi nhuận cao tiêu biểu như: Tổng Công ty thiết bị Điện Đông Anh đạt doanh thu 1808 tỷ đồng, Xí nghiệp cơ khí Quang Trung đạt doanh thu 1493 tỷ đồng,… Bên cạnh đó, các doanh nghiệp KH&CN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm số lượng lớn, sử dụng nhiều kết quả KH&CN đều kinh doanh hiệu quả, có doanh thu và lợi nhuận cao như Công ty Cổ phần Giống cây trồng trung ương đạt doanh thu 772 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 156,5 tỷ đồng.
 
Để thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp KH&CN trong thời gian tới, cần tập trung vào các định hướng và giải pháp cơ bản như: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về KH&CN nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN; Tăng cường trách nhiệm của các Bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố đối với việc phát triển doanh nghiệp KH&CN; Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến thông tin về doanh nghiệp KH&CN; Tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường công nghệ, trong đó chú trọng đẩy mạnh việc giao các kết quả nghiên cứu có nguồn gốc từ NSNN để thành lập doanh nghiệp KH&CN tham gia chương trình phát triển thị trường KH&CN để thương mại hóa kết quả nghiên cứu. 
 
Nguồn:  Ánh Tuyết, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 5: Phát triển bền vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu

 
Là chủ đề chính của Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 5 do Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) chủ trì tổ chức trong hai ngày 15 – 16/12/2016 tại Hà Nội. Đây là Hội thảo tiếp nối 4 kỳ hội thảo được tổ chức thành công tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh vào các năm 1998, 2002, 2008 và 2012.
 
Hội thảo còn có sự phối hợp tổ chức của các đơn vị, gồm Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh và các bộ ngành liên quan.
 
Tham dự Hội thảo có ông Vũ Đức Đam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ; ông Phùng Xuân Nhạ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; ông Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Ông Nguyễn Kim Sơn, Giám đốc ĐHQGHN; ông Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ KH&CN; ông Huỳnh Thành Đạt, Phó Giám đốc ĐHQG TP.HCM; ông Nguyễn Quang Thuấn, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; ông Phan Văn Kiệm, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam; ông Vũ Minh Giang, Chuyên gia cao cấp, ĐHQGHN; ông Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc ĐHQGHN.
 
 
Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam phát biểu tại lễ khai mạc
 
Tham dự Hội thảo còn có gần 150 khách quốc tế là các học giả, các nhà hoạch định chính sách, đại sứ quán, tổ chức phi chính phủ đến từ hơn 30 quốc gia khác nhau như Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Philipin, Nhật Bản, Malaysia,…
 
Phát biểu tại lễ khai mạc, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam đánh giá cao ĐHQGHN và các đơn vị phối hợp đã tổ chức Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 5. Phó Thủ tướng cho rằng, là người Việt Nam dù ở lứa tuổi nào, vùng miền nào hay đang công tác ở quốc gia nào cũng có quyền tự hào về lịch sử đấu tranh, nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam. Niềm tự hào đó đã trở thành động lực, sức mạnh để dân tộc Việt Nam vượt qua bao khó khăn thử thách. Từ xa xưa người Việt Nam, văn hóa Việt Nam luôn gắn liền với sự sáng tạo, giao lưu học hỏi bàn bè quốc tế và ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của KH&CN thì sự sáng tạo ấy càng mạnh mẽ.
 
Hội thảo là diễn đàn để các nhà khoa học trong và ngoài nước trao đổi kinh nghiệm nghiên cứu, tăng cường kết nối, xây dựng mạng lưới các nhà nghiên cứu về Việt Nam, phục vụ cho sự phát triển của Việt Nam, có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng. Qua 4 kỳ hội thảo, các khuyến nghị, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học đã đóng góp trực tiếp đến việc hoạch định ra các chủ trương, chính sách cho các cấp lãnh đạo, quản lý của Việt Nam. KH&CN ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
 
Phát biểu tại lễ khai mạc, ông Nguyễn Kim Sơn cũng cho biết, mục đích của của Hội thảo là tạo ra diễn đàn học thuật và đề xuất giải pháp góp phần giải quyết các vấn đề đương đại của Việt Nam. Đẩy mạnh sự phát triển mạng lưới Việt Nam học toàn cầu, quy tụ đội ngũ chuyên gia nghiên cứu về Việt Nam thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Cũng qua Hội thảo này tiến tới hình thành một số tổ chức quốc tế về Việt Nam học.
 
Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được hơn 700 báo cáo tóm tắt và gần 500 báo cáo toàn văn do các học giả trong nước và quốc tế gửi đến. Các báo cáo tại Hội thảo đã tập trung 6 nội dung chuyên môn như: Ngoại giao, hợp tác và hội nhập quốc tế; Nguồn lực văn hóa; Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực; Chuyển giao tri thức và công nghệ; Kinh tế và sinh kế và Biến đổi khí hậu.
 
 
Hội thảo đã thu hút hàng nghìn đại biểu trong và ngoài nước tham dự
 
Nếu các hội thảo trước đây chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn với nội dung Việt Nam học “truyền thống” thì hội thảo lần này đã đề cập đến nội dung nghiên cứu Việt Nam rộng hơn, quan tâm đến cả vấn đề giáo dục – đào tạo, chuyển giao công nghệ và biến đổi khí hậu.
 
“Càng ngày chúng ta càng ta nhận rõ vai trò của KH&CN hiện đại với sự phát triển của Việt Nam. Cùng với đó, để phát triển bền vững thì không thể tách khỏi yếu tố môi trường và biến đổi khí hậu”, ông Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh.
 
Ông Nguyễn Hữu Đức, Phó Giám đốc ĐHQGHN, Trưởng ban Tổ chức Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ 5 cũng cho biết, trên thế giới số bài báo khoa học quốc tế nghiên cứu về Việt Nam đã lên tới 40 nghìn bài, trong đó các bài của các tác giả nước ngoài chiếm hơn 50%. Điều đó cho thấy các nhà khoa học trên thế giới đã dành sự quan tâm lớn đến các vấn đề của Việt Nam.
 
Hội thảo luôn là diễn đàn của các nhà nghiên cứu Việt Nam ở khắp năm châu đến trình bày các nghiên cứu của mình về Việt Nam, là sự kết nối và phát triển mạng lưới các nhà nghiên cứu Việt Nam. 
 
Nguồn:  Hoàn Hiếu, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ: “Không thể tự chủ đại học một cách ào ạt”

   
Dân trí “Tôi đứng trước áp lực, nếu mở rộng quyền tự chủ cho các trường ĐH trên cả nước mà không quản được chẳng khác nào việc ào ạt mở các trường đại học”, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh.
 >> Tự chủ đại học: Từ bỏ nỗi “sợ” để nâng cao chất lượng
 >> Tự chủ đại học: Vì sao nhiều trường ngần ngại xa rời "bầu sữa bao cấp ngân sách"?
 >> Tự chủ Đại học: Cấp bách xây dựng lại niềm tin xã hội
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ dành nhiều thời gian nói về phương hướng, các vấn đề thực tiễn trong triển khai tự chủ các trường đại học tại Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ V diễn ra sáng 15/12 tại Hà Nội.
 
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ khẳng định, tự chủ không thể thực hiện một cách ào ạt.
Tự chủ gắn phải với điều kiện và trách nhiệm giải trình
Hiện nay, hệ thống giáo dục Việt Nam các trường Đại học Công lập chiếm đa số (75%), các trường Đại học dân lập và tư thục chiếm khoảng 25%. Quy mô sinh viên năm học 2015-2016 cả nước có khoảng 78 triệu thì trường công lập chiếm 86%, trường dân lập 14%.
 
Trình bày báo cáo về chủ đề Tự chủ đại học tại hội thảo ngày 15/12, ông Bùi Anh Tuấn – Hiệu trưởng trường ĐH Ngoại thương khẳng định, kết quả từ các trường đang triển khai thí điểm tự chủ đại học cho thấy, tự chủ đại học giúp tăng tính cạnh tranh giữa các trường và nâng cao trách nhiệm của lãnh đạo, cán bộ công chức nhà trường. Điều đáng mừng là các trường tự chủ trong thời gian qua đều hướng đến tăng cường điều kiện đảm bảo chất lượng, đều mong muốn và triển khai đăng ký kiểm định chất lượng giáo dục. Song, mức độ thực hiện quyền tự chủ giữa các trường có sự khác biệt, phụ thuộc vào năng lực tự chủ (đặc biệt là năng lực quản trị, năng lực đội ngũ) của từng trường.
 
Tuy nhiên, việc triển khai tự chủ đại học trong thời gian qua có một số vấn đề đặt ra. Cụ thể là, chúng ta thiếu các văn bản quy định riêng cho các trường đại học (chỉ phụ thuộc vào Nghị định của Chính phủ). Đặc biệt, theo ông Tuấn, các trường đại học ở Việt Nam hiện nay không chỉ phụ thuộc vào Bộ GD&ĐT mà còn phụ thuộc vào các cơ quan chủ quản (các bộ, ngành hoặc UBND các địa phương). Một số các bộ ngành định hướng chiến lược phát triển trường, vô hình chung hạn chế quyền tự chủ của các trường. Mặc khác, một vấn đề là phát sinh quan hệ giữa Chủ tịch và Hội đồng trường với Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu cũng như Đảng ủy nhà trường.
 
Theo đó, Hiệu trưởng ĐH Ngoại thương kiến nghị, nên chăng, đã đến lúc chúng ta có đánh giá tổng kết thí điểm mô hình tự chủ thời gian qua đồng thời tiến hành nhân rộng tự chủ sớm hơn thời hạn.
 
“Đối với thí điểm vừa qua đã rõ ràng rồi, chúng ta có thể nhân rộng trên địa bản cả nước, không cần đợi kết quả tổng kết cuối cùng”, ông Tuấn kiến nghị.
 
Giải đáp về kiến nghị, đề xuất của Hiệu trưởng trường Đại học Ngoại thương, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, ở giai đoạn đầu, các trường đại học Việt Nam triển khai tự chủ còn lúng túng, chính vì vậy phải có thí điểm 3 năm. Hiện nay, Bộ đang chỉ đạo tổng kết dần, nhưng nhìn vào bước đầu có nhiều yếu tố thay đổi và đặt ra nhiều vấn đề.
 
Bộ trưởng khẳng định, không phải trường nào thích tự chủ cũng được, tự chủ phải gắn với điều kiện tự chủ, trách nhiệm giải trình và việc mở rộng tự chủ cũng phải thực hiện cẩn trọng chứ không thể ào ạt.
 
Bộ trưởng Nhạ chia sẻ: “Tôi đứng trước áp lực là nếu mở ra mà không quản được chẳng khác nào việc ào ạt mở mới các trường đại học. Tự chủ mà không gắn với giải trình thì không thể đảm bảo chất lượng, nên chúng ta phải đi dần từng bước”.
 
Tiến tới đưa các trường ra khỏi đơn vị chủ quản
 
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho biết, trong dự thảo quy chế tuyển sinh năm 2017, Bộ xác định tăng cường quyền tự chủ của các trường, điển hình là tự chủ trong tuyển sinh, đồng thời tăng cường "hàng rào kỹ thuật" để các trường đại học phải có trách nhiệm.
 
Các trường đại học khi công bố đề án tuyển sinh thì phải công khai điều kiện đảm bảo chất lượng. Ông Nhạ cho biết, trước đây có yêu cầu công khai nhưng rất "tù mù", thậm chí có hiện kê khai, mượn các hồ sơ kí hợp đồng giáo viên nhưng thực tế giáo viên tham gia giảng dạy rất ít. Hay trong một trường, có những ngành đông giáo viên nhưng có ngành không có là không chấp nhận được.
 
“Bộ GD&ĐT sẽ không giới hạn đầu vào tuyển sinh, nhưng các trường phải công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng để xã hội biết và giám sát. Khi tuyển sinh phải công khai bao nhiêu sinh viên/ 1 giáo viên, để xã hội giám sát”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
 
Năm nay, Bộ sẽ hỗ trợ các trường bằng một cổng thông tin cung cấp tất cả dữ liệu về điểm, nguyện vọng và các trường tự vào chọn. Trường nào làm tốt, chất lượng thì sinh viên sẽ vào học nhiều. Ngược lại, trường nào không có học sinh thì tự phải đóng cửa.
 
Tự chủ gắn với kiểm định chất lượng để tránh tình trạng nhiều trường quảng cáo rất hoành tráng nhưng chất lượng kém khiến học sinh, phụ huynh bị lừa. Ông Phùng Xuân Nhạ khẳng định, chúng ta áp dụng tư duy “quản trị nhà trường” chứ không phải “quản lý nhà trường”.
 
Bộ trưởng cũng chủ trương tiến tới đưa các trường ra ngoài các đơn vị trực thuộc và như vậy, Hội đồng trường sẽ chịu trách nhiệm trước pháp luật. Theo ông Nhạ, hiện nay, hội đồng trường vẫn chưa có thực quyền nhưng tới đây, khi thực hiện tự chủ thì phải tìm ra mô hình để các hội đồng trường có thực quyền, quyết định những vấn đề quan trọng nhất của trường.
 
Lệ Thu

Nâng cao năng lực quản lý phương tiện giao thông vận tải tại Việt Nam

 
Chiều 09/12, Viện Ứng dụng Công nghệ đã phối hợp với Trường Đại học Giao thông Vận tải (GTVT) tổ chức Hội thảo quốc tế “Nâng cao năng lực quản lý phương tiện giao thông vận tải tại Việt Nam”.
 
 
Tham dự Hội thảo có các nhà khoa học, đại diện các Bộ, ngành, trường đại học, các tổ chức nghiên cứu về công nghệ quản lý phương tiện vận tải và đại diện Lãnh đạo một số công ty, tổ chức của Nhật Bản. 
 
Hội thảo là cơ hội tốt để các nhà khoa học, nhà quản lý, các công ty trong lĩnh vực vận tải và các bên liên quan có thể trao đổi về nhu cầu thực tế và các ý kiến để gửi đến cơ quan quản lý nhằm nâng cao cải thiện mô hình quản lý phương tiện vận tải tại Việt Nam hiện nay.
 
Bên cạnh đó, những ứng dụng KH&CN sẽ giúp cho cơ quan quản lý, chủ phương tiện biết tình trạng kỹ thuật vận hành của phương tiện tại mọi thời điểm khác nhau để bảo trì, bảo dưỡng phương tiện. Đồng thời giúp cho cơ quan chức năng biết chính xác được hiện trạng vận hành và điều khiển phương tiện mỗi thời điểm có đúng quy trình trong Luật Giao thông đường bộ hay không, đặc biệt là tại thời điểm xảy ra tai nạn.
 
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Văn Vịnh, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học GTVT cho biết, với sự cố gắng của toàn hệ thống chính trị, xã hội, tai nạn giao thông (TNGT) đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao. Mỗi năm, TNGT vẫn cướp đi sinh mạng của gần 9 ngàn người và làm thiệt hại kinh tế tới 2,5% GDP.
 
“Chúng ta cần xây dựng những giải pháp hữu hiệu để kiểm soát phương tiện giao thông, có những biện pháp răn đe thích đáng đối với người điều khiển nhằm giảm thiểu TNGT. Những nghiên cứu, đóng góp của các nhà khoa học sẽ được áp dụng hiệu quả để giảm thiểu nhanh chóng TNGT ở Việt Nam, đem đến sự bình an, hạnh phúc cho đất nước”, PGS.TS Nguyễn Văn Vịnh chia sẻ.
 
GS. Takashi Oguchi, Đại học Tổng hợp Tokyo chia sẻ, với nền tảng vững chắc của Trường Đại học GTVT và Viện Ứng dụng Công nghệ trong công tác triển khai ứng dụng các công nghệ mới cùng kinh nghiệm và các công nghệ của Công ty TRIC, Công ty Techtom, Nhật Bản sẽ hợp tác nghiên cứu, đưa ra những giải pháp phù hợp với nhằm nâng cao năng lực vận hành và quản lý phương tiện GTVT tại Việt Nam.
 
GS.TS Lê Hùng Lân, Viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ cho biết, thực tiễn việc áp dụng hàng loạt các công nghệ hiện đại trong quản lý lĩnh vực GTVT những năm gần đây đã phát huy được hiệu quả cao. Tuy nhiên, khi khai thác các hệ thống vẫn còn tồn tại những bất cập và các vấn đề khác nhau. Đặc biệt là trong quá trình tích hợp dữ liệu, phân tích dữ liệu và trao đổi giữa các bên trong quá trình vận hành hệ thống. Dữ liệu thu thập được cũng còn nhiều vấn đề cần quan tâm về độ chính xác, tính đầy đủ, tính cập nhật theo đòi hỏi của quy chuẩn và hệ thống quy định pháp luật Việt Nam.
 
 
 
“Viện Ứng dụng Công nghệ là một trong những Viện hàng đầu Việt Nam trong triển khai ứng dụng các công nghệ mới. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Viện Ứng dụng Công nghệ đã có rất nhiều đóng góp với nhiều sản phẩm thương mại và nhiều công nghệ cấu thành nên hệ thống giao thông thông minh. Dựa trên nền tảng vững chắc đó, Viện Ứng dụng Công nghệ tin tưởng rằng có thể hợp tác nghiên cứu với Nhật Bản đưa ra những giải pháp hiện đại, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam nhằm nâng cao năng lực vận hành và quản lý phương tiện GTVT tại Việt Nam. Hội thảo được tổ chức là nền tảng ban đầu, là bước khởi động cụ thể cho quá trình hợp tác về sau. Sự hợp tác này cũng là minh chứng cho tình hữu nghị giữa 2 quốc gia Việt Nam và Nhật Bản”, GS.TS Lê Hùng Lân bày tỏ.
 
Tại Hội thảo, các chuyên gia đã báo cáo tham luận và trao đổi về một số vấn đề chính của GTVT Việt Nam gồm: Thực trạng quản lý phương tiện giao thông tại Việt Nam; hiện trạng sử dụng hộp đen để điều hành phương tiện giao thông tại Việt Nam; phương pháp sử dụng Wifi Scaner theo dấu phương tiện GTVT; báo cáo thử nghiệm thí điểm dịch vụ Telematic giải quyết các vấn đề giao thông còn tồn tại Việt Nam; sử dụng dữ liệu Probe Data trên xe để quản lý phương tiện GTVT; nhu cầu của các đơn vị vận tải tại Việt Nam.
 
Nguồn:  Viện Ứng dụng công nghệ

Việt Nam – Ấn Độ: Ký kết Hiệp định về sử dụng Năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình

 
Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Đối ngoại Quốc hội tại Công văn số 533/UBĐN14 ngày 28/11/2016, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Phạm Công Tạc đã tham gia đoàn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân với tư cách là thành viên chính thức đi thăm nước Cộng hòa Ấn Độ từ ngày 08 – 11/12/2016.
 
Trong thời gian ở Ấn Độ, Thứ trưởng Phạm Công Tạc đã tháp tùng Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tham gia một số hoạt động chính như đặt hoa viếng tại Đài Tưởng niệm Mahatma Gandhi, thăm Tòa nhà Quốc hội Ấn Độ và dự phiên họp của Hạ viện và Thượng viện Ấn Độ; thăm Bảo tàng Quốc hội, hội đàm với Chủ tịch Quốc hội Ấn Độ và ký kết Hiệp định về Hợp tác Sử dụng Năng lượng Nguyên tử (NLNT) vì mục đích hòa bình giữa Việt Nam và Ấn Độ vào tối ngày 09/12/2016 trước sự chứng kiến của hai Chủ tịch Quốc hội và các Lãnh đạo cao cấp của Nhà nước và Chính phủ Việt Nam và Ấn Độ. 
 
Đoàn đã nhận được sự tiếp đón nồng hậu và hết sức nhiệt thành của các Lãnh đạo cấp cao của Quốc hội, Nhà nước và Chính phủ Ấn Độ, khẳng định vị thế của Việt Nam đang vươn tới một tầm cao mới, là Đối tác Chiến lược Toàn diện của Ấn Độ- quốc gia có nhiều thành tựu phát triển về KH&CN trong lĩnh vực NLNT, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và một số công nghệ then chốt khác. Đặc biệt, trong lĩnh vực NLNT, Ấn Độ là quốc gia có ngành NLNT rất phát triển, có nền khoa học công nghệ hạt nhân tiên tiến và có nhiều ứng dụng rộng rãi trong các ngành, đóng góp thực sự cho phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, hiện nay Ấn Độ đang đẩy mạnh phát triển điện hạt nhân để đảm bảo nguồn cung cấp điện năng ổn định và góp phần chống biến đổi khí hậu. Ấn Độ có thể tự thiết kế, xây dựng và vận hành các nhà máy điện hạt nhân, tự chế tạo lò phản ứng và các thiết bị… bằng công nghệ bản địa của mình với hiệu suất sử dụng tốt và độ an toàn cao có thể sánh vai với các cường quốc năng lượng nguyên tử trên thế giới.
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc tại Lễ ký kết
 
Trước Lễ ký kết Hiệp định, Thứ trưởng Phạm Công Tạc cùng các thành viên trong đoàn Bộ KH&CN đã có buổi làm việc với Tiến sĩ Sekhar Basu, Thứ trưởng Bộ Năng lượng Nguyên tử Ấn Độ tại Trụ sở Bộ Ngoại giao Ấn Độ. Hai bên đã trao đổi các định hướng hợp tác về năng lượng nguyên tử giữa Việt Nam và Ấn Độ, trong đó thời gian sắp tới sẽ tập trung thúc đẩy hợp tác trong các hướng chính là: Ấn Độ hỗ trợ, hợp tác với Bộ KH&CN, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam trong việc xây dựng Trung tâm KH&CN hạt nhân, trong đó có lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu mới, triển khai ứng dụng năng lượng nguyên tử trong lĩnh vực y tế (y học hạt nhân), đặc biệt là sản xuất đồng vị phóng xạ và phát triển các phương pháp chữa trị cho bệnh nhân ung thư; ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và công nghệ bức xạ trong công nghiệp, nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu và đào tạo nguồn nhân lực hạt nhân. Đặc biệt, tại buổi làm việc còn có sự hiện diện của Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Ấn Độ tại Việt Nam, Ngài Parvathaneni Harish thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Ấn Độ trong lĩnh vực hợp tác về NLNT với Việt Nam. Hai bên đã trao đổi các định hướng và biện pháp cụ thể để sớm thúc đẩy lĩnh vực hợp tác về NLNT đi vào chiều sâu thông qua các hoạt động nghiên cứu khảo sát cụ thể nhu cầu và tiềm năng của Việt Nam để từ đó Ấn Độ sẽ cử đoàn sang Việt Nam (dự kiến tháng 3/2017) xây dựng các chương trình hợp tác, tư vấn kỹ thuật một cách thấu đáo, trọng tâm và trọng điểm.
 
Với việc ký kết Hiệp định về sử dụng NLNT vì mục đích hòa bình giữa hai nước, hy vọng thời gian tới các hoạt động hợp tác về NLNT sẽ đóng góp thực sự, trở thành một trong các nội dung chính trong hợp tác chung giữa hai nước Việt Nam và Ấn Độ.
 
Nguồn:  Phạm Hoàng Hà- Vụ Hợp tác quốc tế

Hội thảo quốc tế về Khoa học và Kỹ thuật Tính toán lần III

 
Sáng 28.1, Viện Khoa học và Công nghệ Tính toán (Sở Khoa học và Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh) tổ chức khai mạc Hội thảo quốc tế về Khoa học và Kỹ thuật Tính toán lần III. Hội thảo có sự tham dự của gần 200 đại biểu là các chuyên gia, nhà khoa học, nghiên cứu sinh và sinh viên lĩnh vực khoa học liên quan đến tính toán thuộc nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan…
 
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Tp Hồ Chí Minh Nguyễn Việt Dũng phát biểu khai mạc Hội thảo (Ảnh pcworld.com.vn)
Hội thảo là dịp để các nhà khoa học, nhà nghiên cứu tính toán chia sẻ kinh nghiệm và cơ hội nghiên cứu thực tế, mang lại lợi ích cho xã hội và tiếp nối các thành tựu của khoa học – công nghệ tính toán trên toàn thế giới.  
 
Chủ đề năm nay là ứng dụng công nghệ thông tin và công nghệ tính toán vào các lĩnh vực, dựa vào hệ thống máy tính lớn để giải quyết các tính toán, bài toán lớn của xã hội. Các tham luận tại hội thảo tập trung chia sẻ và công bố các nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực Lý sinh học, Y học tính toán, Hóa học tính toán, Vật liệu nano, Toán học ứng dụng và Khoa học tính toán môi trường; qua đó mở ra những cơ hội hợp tác nghiên cứu và phát triển cho những công nghệ mới trong tương lai như thiết kế dược phẩm, pin quang điện, mô hình hóa môi trường, dự báo tác động biến đổi khí hậu… Hội thảo cũng hướng tới đẩy mạnh hợp tác phát triển, thu hút đầu tư khoa học – công nghệ, ứng dụng tính toán trong và ngoài nước, hướng tới một nền khoa học hiện đại, có định hướng ứng dụng cao.  
 
Tiến sĩ Đoàn Xuân Huy Minh (Viện Khoa học và Công nghệ Tính toán Thành phố Hồ Chí Minh) cho biết: Trước đây, Viện chủ yếu nghiên cứu trên dạng mô hình giả lập như trạm quan trắc môi trường (năm 2012), hình mẫu thiết kế tàu lặn hai người ngồi (năm 2014), tuy nhiên đều chưa ra sản phẩm. Từ năm 2015, Viện đã hướng tới lĩnh vực ứng dụng, trong đó hợp tác với đối tác của Australia triển khai đề tài dự đoán và điều khiển giao thông dựa trên dữ liệu từ mạng xã hội và hi vọng đầu năm 2018 sẽ có kết quả giới thiệu sản phẩm.  
 
Theo Tiến sĩ Đoàn Xuân Huy Minh, xu hướng trong khoa học tính toán là hướng tới nghiên cứu ứng dụng; nhiều lĩnh vực đang được Viện chuyển dần sang nghiên cứu ứng dụng. Cụ thể, trong lĩnh vực thuốc, trước đây là nghiên cứu mô hình thì bây giờ hợp tác với một số đơn vị của Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu nghiên cứu trực tiếp ra thuốc chữa bệnh, trước tiên là các bệnh thông thường.  
 
Hội thảo quốc tế về Khoa học và Kỹ thuật Tính toán lần III diễn ra trong hai ngày 28 – 29.1. Hai lần tổ chức trước đó (năm 2011 và 2014), Hội thảo đã giúp kết nối hợp tác nghiên cứu trong một số đề tài giữa Việt Nam và các nước như lĩnh vực Y sinh đã có hợp tác về nghiên cứu chiết xuất các loại cây dược liệu ở Việt Nam hay đề tài triển khai nghiên cứu thuốc về cúm A/H5N1. 
 
Theo TTXVN

Buổi làm việc với Giám đốc Tổ chức Mã số mã vạch quốc tế GS1 Châu Á- Thái Bình Dương

 
Sáng 06/12/2016, tại Trụ sở của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (TCĐLCL), Phó Tổng cục trưởng Tổng cục TCĐLCL Nguyễn Nam Hải cùng đại diện Lãnh đạo một số đơn vị trong Tổng cục đã có buổi tiếp và làm việc với ông Patrik Jonasson – Giám đốc hành chính công khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Tổ chức Mã số mã vạch quốc tế (GS1 Quốc tế) về hợp tác đẩy mạnh hoạt động mã số mã vạch ở Việt Nam.
 
 
 
Tại buổi tiếp, hai bên đã giới thiệu khái quát về các hoat động chính của GS1 Quốc tế cũng như GS1 Việt Nam, trao đổi và chia sẻ kinh nghiệm về hoạt động mã số mã vạch và thảo luận về khả năng hợp tác giữa GS1 Quốc tế và Tổng cục TCĐLCL nhằm giúp GS1 Việt Nam phát triển tốt hơn về lập kế hoạch đề xuất và triển khai chương trình đào tạo về tiêu chuẩn dữ liệu toàn cầu GDS tại Việt Nam; giúp GS1 Việt Nam cơ cấu tại tổ chức; tham gia vào dự án thí điểm liên quan đến GDS do APEC và GS1 chủ trì; áp dụng tiêu chuẩn, giải pháp GS1 vào thành phố thông minh…
 
Tổ chức Mã số mã vạch Việt Nam (GS1 Việt Nam)
 
GS1 Việt Nam là tổ chức Mã số mã vạch (MSMV) quốc gia của Việt Nam, trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, được công nhận là thành viên chính thức của GS1 quốc tế từ tháng 5/1995 và được cấp đầu mã số quốc gia GS1 là 893.
 
GS1 Việt Nam là tổ chức đại diện duy nhất của Việt Nam tại GS1 quốc tế; đại diện cho GS1 để triển khai Hệ thống GS1 tại Việt Nam. GS1 Việt Nam quản lý ngân hàng mã quốc gia 893, cấp mã doanh nghiệp và giúp các nhà sản xuất, phân phối, bán buôn, bán lẻ và các tổ chức quan tâm khác áp dụng công nghệ MSMV trong các hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ của mình, cũng như ứng dụng MSMV cho trao đổi dữ liệu bằng điện tử (EDI).
 
Hiện nay, việc quản lý nhà nước đối với hoạt động MSMV được Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Khoa học và Công nghệ (Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) và nội dung quản lý nhà nước được tuân thủ theo Quyết định số 45/2002/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 27/3/2002 “Về việc quy định nội dung quản lý nhà nước về MSMV và cơ quan quản lý nhà nước về MSMV” và Quyết định số 15/2006/QĐ-BKHCN ngày 23/8/2006 “Quy định về việc cấp, sử dụng và quản lý MSMV”
 
Hệ thống GS1 có thể chia làm năm nhóm tiêu chuẩn chính như sau: Tiêu chuẩn về các loại mã số; Tiêu chuẩn về các loại mã vạch; Tiêu chuẩn về các gói tin điện tử; Tiêu chuẩn về các mạng toàn cầu (global networks); Tiêu chuẩn về thương mại qua điện thoại di động (Mobile Commerce).
 
Nguồn:  Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng

Hội nghị các bên tham gia Công ước đa dạng sinh học lần thứ 13

 
Hội nghị lần thứ 13 của các bên tham gia Công ước đa dạng sinh học (COP13), cuộc họp lần thứ 8 của các bên tham gia Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học (CP-MOP8) và cuộc họp lần thứ 2 của các bên tham gia Nghị định thư Nagoya về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ công bằng, hợp lý lợi ích từ việc sử dụng nguồn gen (NP-MOP2) đang diễn ra từ ngày 04-17/12/2016 tại Cancun, Mê-hi-cô.
 
 
Hội nghị có khoảng mười nghìn người bao gồm đại diện của các nước thành viên, các nước không phải là thành viên, các tổ chức quốc tế và các tổ chức tham gia COP13, CP-MOP8 và NP-MOP2 tham dự để đàm phán các vấn đề trong khuôn khổ của Công ước và các Nghị định thư về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học cũng như việc thực hiện Kế hoạch chiến lược đa dạng sinh học giai đoạn 2011-2020 và mục tiêu Aichi.
 
 
Chủ đề của Hội nghị là “Lồng ghép đa dạng sinh học vì sự thịnh vượng”, nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngành nông nghiệp, du lịch, lâm nghiệp và thuỷ sản trong bảo tồn đa dạng sinh học và sự cần thiết cần lồng ghép các yêu cầu về bảo tồn đa dạng sinh học trong các hoạt động của các ngành này. 
 
Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và du lịch là các ngành dựa vào đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái rất lớn. Tuy nhiên, các ngành này cũng có tác động mạnh mẽ tới đa dạng sinh học, gây nên sự suy giảm đa dạng sinh học trên toàn cầu. Chính sự suy giảm này đã có tác động bất lợi tới sự phát triển của các ngành và gây ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững, bao gồm cả các khía cạnh an ninh lương thực và giảm nghèo. Nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ của các ngành này dự báo tiếp tục tăng trong các thập kỷ tiếp theo nên áp lực tới đa dạng sinh học càng gia tăng. Vì vậy, việc lồng ghép đa dạng sinh học trong các ngành là rất cần thiết cho việc đảm bảo sự phát triển bền vững của các ngành, cũng như ngăn chặn sự mất mát đa dạng sinh học.
 
 
 
Đoàn Việt Nam tham dự cuộc họp cấp cao và COP13 do Tiến sỹ Nguyễn Văn Tài, Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường làm trưởng đoàn, các thành viên của đoàn bao gồm đại diện của các Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam. Tại Hội nghị, đoàn đã chia sẻ các thông tin về lồng ghép các cân nhắc về đa dạng sinh học trong các ngành, cụ thể là những thành tựu trong bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và trong các ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thủy sản nói riêng, đồng thời khẳng định sự ủng hộ của Việt Nam đối với tuyên bố Cancun.
 
 
 
Nguồn:  Vụ Khoa học Xã hội và Tự nhiên

Triển lãm chuyên đề giới thiệu một số thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam

 
Từ ngày 2/12 đến 3/12/2016, Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) thành phố Hải Phòng tổ chức Triển lãm mini chuyên đề “Giới thiệu một số thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam" tại Sàn giao dịch Công nghệ và Thiết bị Hải Phòng. Triển lãm nhằm tạo điều kiện cho các viện nghiên cứu, tổ chức KH&CN, trường đại học ở Trung ương và địa phương trình diễn, giới thiệu sản phẩm, công nghệ mới; đồng thời, khuyến khích, hỗ trợ thương mại hóa các phát minh, sáng chế và các đối tượng sở hữu công nghiệp.
 
 
Phó Giám đốc Sở KH&CN – Bùi Xuân Tuấn phát biểu khai mạc triển lãm
 
Tham gia sự kiện có 12 Viện thành viên trực tiếp trưng bày, giới thiệu công nghệ và giải pháp mới thuộc các lĩnh vực: Vật lý; Hóa học; Cơ học; Công nghệ thông tin; Sinh học; Kỹ thuật nhiệt đới; Môi trường… Những sản phẩm trưng bày, giải pháp KH&CN như: Giải pháp hỗ trị điều trị vết thương bằng tia Plasma lạnh; Máy lọc nước gia đình công nghệ cao GFLife; Các sản phẩm bảo vệ sức khỏe chiết xuất từ nghệ của Viện Hóa học; Robot tay máy 6 bậc tự do, Robot di động thông minh; Một số bộ đèn Led ứng dụng cho nông nghiệp… thu hút sự quan tâm của đông đảo khách tham quan.
 
Một gian hàng trưng bày sản phẩm tại triển lãm
 
Trong khuôn khổ triển lãm, diễn ra hội thảo chuyên đề “Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam”. Tham dự triển lãm, bên cạnh việc được trực tiếp tiếp cận các sản phẩm, mô hình, công nghệ mới, khách thăm quan còn được trao đổi, thảo luận về tính hiệu quả và những ứng dụng thiết thực trong đời sống được sản xuất và thương mại hóa từ kết quả nghiên cứu khoa học của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam./.
 
Nguồn:  Thụy Điển, Sở KH&CN Hải Phòng

Khai mạc Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam – Ấn Độ lần thứ 8.

 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh phát biểu tại buổi Lễ.
 
Sáng ngày 03/12 tại Hà Nội đã diễn ra Lễ khai mạc Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam – Ấn Độ lần thứ 8. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Chu Ngọc Anh đã tham dự và phát biểu tại buổi Lễ.
Phát biểu tại buổi Lễ, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, từ năm 2007 đến nay, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Hữu nghị Việt Nam – Ấn Độ và Tổ chức Hòa bình Đoàn kết toàn Ấn Độ đã phối hợp tổ chức thành công 7 kỳ Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam – Ấn Độ và lần này, Liên hoan lần thứ 8 được tổ chức tại Việt Nam. “Sự kiện có ý nghĩa quan trọng để chuẩn bị bước sang năm 2017 – năm mà Lãnh đạo hai nước xác định là “Năm Hữu nghị Việt Nam – Ấn Độ” nhằm hướng tới kỷ niệm 45 năm quan hệ ngoại giao và 10 năm quan hệ Đối tác chiến lược” Bộ trưởng nhấn mạnh.
 
Bộ trưởng đánh giá cao sự phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ trong những năm qua, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đào tạo và KH&CN; là một trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới với GDP hơn 2000 tỉ USD năm 2015 và đã trở thành một cường quốc có vị trí và tiếng nói ngày càng quan trọng ở khu vực và quốc tế. Đồng thời cho rằng, thành công của các cuộc liên hoan này đã và đang góp phần quan trọng vào việc tăng cường và thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước. Bộ trưởng mong muốn các hoạt động của Liên hoan sẽ tiếp tục củng cố, tăng cường và thúc đẩy mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Ấn Độ phát triển đi vào chiều sâu và thiết thực hơn trong thời gian tới.
 
 
Ngài Kannan Lakshminarayanan phát biểu tại buổi Lễ
 
Phát biểu tại buổi Lễ, Ngài Kannan Lakshminarayanan, Trưởng đoàn Đại biểu nhân dân Ấn Độ nhấn mạnh vai trò quan trọng của các tổ chức nhân dân, Tổ chức Hòa bình và Đoàn kết toàn Ấn Độ, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và Hội hữu nghị Việt Nam – Ấn Độ trong việc tổ chức nhiều hoạt động để thúc đẩy hơn nữa quan hệ hữu nghị giữa hai nước thời gian qua. Và bày tỏ tin tưởng, việc tổ chức thành công Liên hoan hữu nghị nhân dân lần thứ 8 đã thể hiện sự quyết tâm của hai nước nhằm tăng cường hoạt động hữu nghị ở mọi cấp độ với khẩu hiệu “Tên tôi, tên anh Việt Nam, Việt Nam và Hồ Chí Mính – chúng ta cùng chiến đấu và sẽ chiến thắng”.
 
Tin, ảnh: Ngũ Hiệp