Hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam được xếp hạng cao

Trong bảng xếp hạng hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam năm 2014 – 2015 được công bố tại Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2015, tiêu chí năng động của thị trường nội địa Việt Nam ở thứ hạng cao. Năm 2014 là 6/73 nước và năm 2015 là 11/62 nước.
 
 
Toàn cảnh buổi báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2015.
Báo cáo được được Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam công bố sáng 13/4. Tại báo cáo này nêu thông tin về chỉ số Khởi nghiệp toàn cầu (GEM) 2015/2016 cho thấy hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam năm 2015 hầu như không thay đổi nhiều so với năm 2014 và vẫn chưa thực sự hỗ trợ cho phong trào khởi nghiệp và phát triển kinh doanh. Cơ sở hạ tầng là yếu tố được đánh giá cao nhất trong điều kiện kinh doanh ở Việt Nam và yếu tố tiếp theo được các chuyên gia đánh giá cao là sự năng động của thị trường nội địa (3,59/5 điểm).
 
Tuy nhiên, khi so sánh hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam với các nước khác trên thế giới cũng tham gia vào nghiên cứu GEM năm 2015, thứ tự của các yếu tố lại có những khác biệt. Ba chỉ số của Việt Nam có thứ hạng cao nhất là: Năng động của thị trường nội địa (11/62), Văn hóa và chuẩn mực xã hội (14/62) và Quy định của Chính phủ (15/62).
 
 
Thứ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ phát biểu tại buổi báo cáo.
 
Tại buổi báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2015, Thứ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ(KH&CN)- Trần Việt Thanh cũng đã chia sẻ rằng: "Nhận thức sâu sắc vai trò trung tâm của doanh nghiệp trong hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, Bộ KH&CN đã và đang phối hợp với các bộ ngành, địa phương thực hiện các giải pháp chính sách đồng bộ nhằm từng bước nâng cao năng lực và trình độ công nghệ của quốc gia và doanh nghiệp góp phần nâng cao chất lượng của sản phẩm, hàng hóa dịch vụ mang thương hiệu Việt Nam, cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế".
 
Theo ông Trần Việt Thanh, chúng ta cần có những giải pháp trực tiếp để tác động tới doanh nghiệp. Trước hết chúng ta phải có cơ chế buộc doanh nghiệp nhà nước phải trích một tỷ lệ tối thiểu thu nhập tính thuế hàng năm để thành lập quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp. Khuyến khích khởi nghiệp và hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp lành mạnh, thúc đẩy các loại hình đầu tư mạo hiểm, trong đó có đầu tư mạo hiểm phát triển công nghệ mới, công nghệ cao.
 
Phát triển mạnh các kênh tài chính hỗ trợ doanh nghiệp, triển khai đồng bộ các chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển mạnh thị trường công nghệ và các tổ chức trung gian môi giới chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ. Đầu tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại các thành phố lớn, phát triển cốc cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN. Xây dựng quy định và tiêu chí đánh giá, định giá tài sản trí tuệ, chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ. Duy trì và phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, đặc biệt là các tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ.
 
Loan Lê
 

Cơ hội cho startup Việt tại triển lãm hạt nhân lớn nhất Châu Âu

Những sáng tạo, dự án tiên tiến trong lĩnh vực hạt nhân của các startup công nghệ sẽ có cơ hội được vinh danh tại World Nuclear Exhibition, một trong những triển lãm lớn nhất châu Âu về năng lượng hạt nhân.
 
Sau thành công của lần triển lãm đầu tiên năm 2014, World Nuclear Exhibition (WNE) sẽ diễn ra từ ngày 28 đến hết ngày 30 tháng 06 năm 2016 tại Khu triển lãm Paris Le Bourget, Cộng hòa Pháp.
 
Lớn hơn cả về quy mô diện tích và tính chất quốc tế, triển lãm năm nay được mong đợi thu hút trên 10.000 khách tham quan đến từ nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
 
Với tính chất của một diễn đàn thương mại quốc tế, định hướng kinh doanh, sự kiện được tổ chức định kỳ 02 năm một lần này xoay quanh tất cả các vấn đề của ngành hạt nhân dân sự. Đây là sự kiện quy tụ nhiều tổ chức, chuyên gia trong ngành chia sẻ kinh nghiệm, trình bày công nghệ mới, đồng thời mở ra cơ hội giao thương, tìm kiếm đối tác cho hàng trăm doanh nghiệp xuất khẩu.
 
Triển lãm năm 2016 với chủ đề “The civil nuclear industry in the global energy mix” (Công nghiệp hạt nhân dân sự trong phân bổ năng lượng thể giới) xoay quanh các vấn đề quan trọng như: Kéo dài thời gian hoạt động của các nhà máy hạt nhân, cách thức vận hành và bảo dưỡng các nhà máy; các dự án mới về công nghệ năng lượng hạt nhân trong tương lai; vấn đề nhiên liệu hạt nhân; chương trình đào tạo trong ngành hạt nhân…
 
 
Trình diễn công nghệ tại WNE năm 2014. Ảnh: BTC cung cấp.
Công nghiệp hạt nhân là lĩnh vực công nghệ cao đặt các hoạt động nghiên cứu và đổi mới lên hàng đầu. Trong lần triển lãm thứ hai này, WNE sẽ vinh danh các doanh nghiệp, tổ chức có cống hiến xuất sắc cho sự phát triển của ngành hạt nhân, bằng một chuỗi các hoạt động quy mô như:
 
Không gian sáng tạo Innovation Planet, dành cho các doanh nghiệp trẻ về công nghệ (start-up) trong ngành hạt nhân ;
 
Meet the Experts, không gian trao đổi thân thiện giữa khách tham quan và các nhà chuyên môn ;
 
Giải thưởng WNE Awards dành cho những sáng tạo và dự án công nghệ tiên tiến trong ngành hạt nhân.
 
Triển lãm WNE 2016 đặc biệt nhấn mạnh đến yếu tố con người với nhu cầu rất lớn về lao động của ngành hạt nhân dân sự hiện nay; sự khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt với các quốc gia mới bắt đầu phát triển ngành công nghiệp này.
 
Ngoài ra, một hoạt động quan trọng tại Triển lãm WNE, sẽ diễn ra vào buổi tối ngày thứ Ba ngày 28 tháng 06 đó là lễ trao giải WNE Awards và vinh danh các dự án công nghệ tiên tiến trong bốn hạng mục lớn: Đổi mới sản phẩm, an toàn hạt nhân, quản trị tri thức và chuyên môn xuất sắc.
 
Thông tin chi tiết về Triển lãm WNE và Giải thưởng WNE Awards được đăng tải và cập nhật trên website chính thức của Triển lãm www.world-nuclear-exhibition.com.
 
Các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tại Việt Nam có nhu cầu tìm hiểu thông tin và đăng ký tham gia triển lãm có thể liên hệ Phòng Thương mại Công nghiệp Pháp tại Việt Nam (CCIFV), là đại diện của Triển lãm, theo địa chỉ :
 
Phòng Thương mại Công nghiệp Pháp tại Việt Nam5B Tôn Đức Thắng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
 
ĐT : (08) 38 25 86 25 ext 105 – Fax : (08) 38 25 89 15.
 
Theo Khám Phá

Khởi tranh vòng loại Robocon 2016 khu vực phía Bắc

Vòng loại khu vực miền Bắc cuộc thi Robocon 2016 bắt đầu diễn ra từ ngày 11/4 đến hết ngày 16/4/2016 tại Nhà thi đấu quận Tây Hồ, Hà Nội.
 
 
Lễ khai mạc diễn ra sáng ngày 11/4 tại Hà Nội. Ảnh: Phan Minh.
Với chủ đề “Đi tìm năng lượng sạch”, Robocon 2016 hướng tới việc khuyến khích sử dụng các nguồn năng lượng sạch thay thế.
 
Robocon Việt Nam 2016 thu hút sự tham gia của 79 đội tuyển đến từ 20 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên ngành kỹ thuật trên khắp cả nước. Trong đó, có nhiều trường đã gắn bó với cuộc thi trong suốt 14 năm qua.
 
Vòng loại phía Băc của cuộc thi dành cho các đội tuyển từ Trường Đại học Huế trở ra phía Bắc với số lượng 19 đội.
 
Mỗi trận đấu diễn ra giữa 2 đội gồm đội xanh và đội đỏ trong thời gian tối đa 3 phút. Mỗi đội gồm có 2 robot: một Eco Robot và một Hybrid Robot. Eco Robot không có cơ chế để tự chuyển động, sẽ hoạt động gián tiếp nhờ lực tác động từ Hybrid Robot (như bằng sức gió, từ tính hoặc dựa trên chính độ dốc của sân thi đấu).
 
 
Trận đấu giữa Đại học Sư phạm Kỹ thuậtHưng Yên và Đại học Bách khoa Hà Nội. Ảnh: Phan Minh.
 
Eco Robot mang theo 1 cánh quạt gió đi từ khu vực xuất phát của mình qua 3 khu vực: khu vực leo dốc và lên đồi, khu vực vượt sông, khu vực xuống sườn đồi dựa vào nguồn năng lượng do Hybrid Robot cung cấp.Sau khi Eco Robot đến được trạm tua bin gió, Hybrid Robot phải lấy cánh quạt gió từ Eco Robot. Sau đó Hybrid Robot tự động leo lên cột tua bin gió để lắp cánh quạt gió vào động cơ sức gió nằm trên đỉnh cột. Đội nào gắn được cánh quạt gió lên đỉnh cột trước sẽ là đội chiến thắng. Chiến thắng này được gọi là "Chai-Yo!".
 
Có thể nói kỹ thuật điều khiển tự động là vấn đề công nghệ cốt lõi của đề thi năm nay. Một điểm khác với nhiều đề thi trước là robot tự động năm nay không bị giới hạn tối đa kích thước.
 
Theo bà Eriko Watanabe, Phó Giám đốc Khối Bán hàng và Dịch vụ, Toyota Việt Nam, chủ đề "Đi tìm năng lượng sạch" của Robocon Việt Nam 2016 sẽ giúp nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề cạn kiệt nguồn năng lượng hóa thạch trong tương lai, qua đó khuyến khích cộng đồng sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm cũng như tìm kiếm và tối ưu hóa các nguồn năng lượng sạch có thể tái tạo và bù đắp.
 
Cuộc thi Robocon Châu Á Thái Bình Dương 2016 (ABU Robocon 2016) sẽ được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan, quy tụ những đội tuyển xuất sắc nhất đại diện cho các quốc gia tranh tài trên sân chơi quốc tế.
 
Năm nay, công ty ô tô Toyota Việt Nam tiếp tục đồng hành cùng Robocon Việt Nam 2016 lần thứ 15 trong vai trò là nhà tài trợ chính.
 
 
Theo ICTNews
 

Xây dựng mạng lưới trạm định vị toàn cầu bằng vệ tinh trên lãnh thổ Việt Nam

Ngày 8/4, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam (Bộ TN&MT) phối hợp với Công ty cổ phần Thiết bị SISC Việt Nam và Hội Trắc địa bản đồ viễn thám Việt Nam tổ chức giới thiệu dự án trọng điểm "Xây dựng mạng lưới trạm định vị toàn cầu bằng vệ tinh trên lãnh thổ Việt Nam".
 
Dự án “Xây dựng mạng lưới trạm định vị toàn cầu bằng vệ tinh trên lãnh thổ Việt Nam” được xây dựng với 65 trạm CORS (trạm máy tham khảo hoạt động liên tục).
 
Trong đó Trạm Xử lý và Điều khiển trung tâm được đặt tại Hà Nội có chức năng quản lý, giám sát, thu nhận, xử lý và cấp phát số liệu từ các trạm trên.
 
 
Công nghệ định vị toàn cầu dựa trên vệ tinh được xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam
Dự án bắt đầu thực hiện từ năm 2016 đến hết năm 2020 với 5 giai đoạn. Với việc triển khai dự án trọng điểm này, công nghệ và hạ tầng kỹ thuật của ngành đo đạc, bản đồ sẽ có bước ngoặt lớn, góp phần thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tăng năng suất lao động trong lĩnh vực đo đạc, bản đồ; hiện đại hóa cơ sở hạ tầng đo đạc và bản đồ…
 
Dự án sau khi hoàn thành sẽ đáp ứng được tốt hơn yêu cầu về đo bản đồ địa chính, địa hình với độ chính xác cao.
 
Cùng với việc triển khai dự án, Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam sẽ tiếp tục xây dựng các quy định, quy chuẩn kỹ thuật mới trong lĩnh vực đo đạc bản đồ, để phục vụ hiện đại hóa của ngành và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống.
 
Theo Báo Chính phủ
 

Ra mắt phòng thí nghiệm đổi mới sáng tạo tại Khu CNC

Phòng thí nghiệm đổi mới sáng tạo hỗ trợ sinh viên, giảng viên, doanh nghiệp phát triển sản phẩm, hoạt động khởi nghiệp… vừa được Khu Công nghệ cao đưa vào sử dụng.
 
Ngày 8/4, Vườn ươm Doanh nghiệp Công nghệ cao TP.HCM (SHTP-IC) đã ra mắt và đưa vào sử dụng phòng Innovation Lab (Phòng thí nghiệm đổi mới sáng tạo) với mục tiêu hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, khởi nghiệp tại SHTP-IC và sinh viên, giảng viên các trường ĐH – CĐ trên địa bàn TP.
 
Cụ thể, Innovation Lab là một không gian mở dành để hỗ trợ cá nhân, tổ chức sáng tạo công nghệ, sản xuất thử nghiệm, kiểm thử và triển khai các giải pháp, phát triển sản phẩm.
 
Với trang bị những thiết bị kiểm thử của tập đoàn National Instruments và một số thiết bị di động viễn thông dành cho điện thoại thông minh chạy trên nền tảng Windows, IOS, Android… Innovation Lab sẽ cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc triển khai, nhân rộng phát triển các sản phẩm công nghệ trên nền tảng công nghệ thông tin, công nghệ điện – điện tử – viễn thông.
 
 
Ông Dương Minh Tâm, Phó Trưởng Ban quản lý Khu Công nghệ cao TP.HCM
Phát biểu tại buổi lễ, ông Dương Minh Tâm, Phó Trưởng Ban quản lý Khu Công nghệ cao TP.HCM đánh giá, phòng Innovation Lab chính là chìa khóa giúp doanh nghiệp trong việc phát triển sản phẩm ứng dụng trên di động, tiến hành kiểm thử – đo lường các sản phẩm vi mạch điện tử và hệ thống nhúng… Từ đó, tăng sức cạnh tranh, phát huy tính sáng tạo và đổi mới công nghệ của các cá nhân, tổ chức trong ứng dụng công nghệ và phát triển xã hội bền vững.
 
Được biết, Innovation Lab sẽ có các dịch vụ và chức năng chính gồm: đào tạo, hỗ trợ sinh viên, giảng viên, doanh nghiệp phát triển sản phẩm, các ứng dụng di động và các kỹ năng liên quan; hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp, nghiên cứu khoa học; tra cứu, cung cấp thông tin cơ sở dữ liệu về công nghệ…
 
Theo Khám Phá
 

Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Ưu tiên hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, tiến sỹ Chu Ngọc Anh đã chia sẻ với báo chí về những vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành trong nhiệm kỳ của ông.
 
Xin trân trọng chúc mừng ông đã được Quốc hội tín nhiệm phê chuẩn chức vụ Bộ trưởng Bộ KH&CN. Ông có thể chia sẻ cảm nghĩ của mình trên cương vị mới?
 
– Tôi cảm nhận sâu sắc niềm vinh dự đi đôi với trách nhiệm rất lớn trước đất nước, nhân dân và cộng đồng KH&CN, đặc biệt trong bối cảnh mới khi KH&CN và đổi mới sáng tạo phải trở thành đòn bẩy cho công cuộc tái cấu trúc kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
 
Kỳ vọng và sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với KH&CN là một thuận lợi nhưng cũng là một áp lực, buộc lực lượng KH&CN phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện.
 
Tôi trân trọng nỗ lực và tâm huyết của các bộ trưởng tiền nhiệm trong việc khởi xướng các đổi mới trong KH&CN, thiết lập hành lang pháp lý và tháo gỡ vướng mắc để tạo thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Đồng thời, tôi cũng thấu hiểu các khó khăn và rào cản trong thực tiễn thi hành để biến các chủ trương tiến bộ thành hiện thực và đi vào cuộc sống.
 
Con đường phía trước đầy thách thức nhưng tôi tin rằng, với trí tuệ, nhiệt huyết và sự quyết tâm, đồng lòng của lực lượng KH&CN Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, chúng ta sẽ đến đích thành công.
 
Thời gian tới, trên cương vị Bộ trưởng Bộ KH&CN, xin ông cho biết những ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành?
 
– Ưu tiên hàng đầu trong nhiệm kỳ sắp tới của tôi là tập trung chỉ đạo thực hiện thành công các định hướng, giải pháp phát triển KH&CN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 20-NQ/TW, những ưu tiên và trọng tâm công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó đặc biệt chú trọng vấn đề hiệu quả của hoạt động KH&CN sao cho KH&CN tác động trực tiếp và mạnh mẽ hơn tới năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.
 
 
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trao quyết định của Chủ tịch Nước bổ nhiệm thành viên Chính phủ cho đồng chí Chu Ngọc Anh – Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Ảnh: TTXVN
Muốn vậy, cần xác định trúng và đúng tầm nhiệm vụ KH&CN, xuất phát từ thực tiễn và giải quyết được các yêu cầu bức thiết của hiện thực phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là chủ thể đi đầu trong thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ.
 
Để triển khai có hiệu quả nhiệm vụ KH&CN, nhân tố con người là quan trọng nhất. Cần gây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học mạnh trong nước và nước ngoài, kết hợp đồng thời biện pháp động viên, khuyến khích và đặt yêu cầu trở lại đối với nhà khoa học; đào tạo, trọng dụng người tài kết hợp với đòi hỏi về tính liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu.
 
Bên cạnh đó, cần đảm bảo phương tiện và môi trường làm việc thuận lợi cho cán bộ khoa học. Đầu tư có hiệu quả cho hạ tầng KH&CN, trang thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nguồn lực thông tin và tài chính, kể cả hạ tầng mềm – đó là môi trường học thuật tiên tiến, lành mạnh.
 
Có con người giỏi và phương tiện hiện đại chưa đủ, chúng ta cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động KH&CN theo hướng dỡ bỏ các rào cản, giải phóng tối đa tiềm năng sáng tạo, nới rộng quyền tự chủ đi đôi với đánh giá công khai, minh bạch kết quả hoạt động nghiên cứu.
 
Cuối cùng, với một nước đi sau như Việt Nam, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thúc đẩy hợp tác nghiên cứu chung để tranh thủ nguồn lực và tri thức của các quốc gia tiên tiến, đồng thời từng bước nâng tầm năng lực và trình độ nghiên cứu trong nước để có thể tham gia hợp tác đối tác bình đẳng, cùng có lợi trong dài hạn.
 
– Nhân dịp này, Bộ trưởng mong muốn gửi gắm thông điệp gì tới cộng đồng KH&CN Việt Nam?
 
Tôi tin tưởng vào trí tuệ, lòng tự trọng và trách nhiệm đối với công việc, với đất nước của các nhà khoa học Việt Nam. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự ủng hộ và chia sẻ của cộng đồng KH&CN Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, cùng chung sức, đồng lòng đóng góp cho thành công của sự nghiệp KH&CN.
 
Tôi cũng mong ngành KH&CN tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân và các lực lượng xã hội, để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững.
 
– Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
 
Thiện Thuật (Thực hiện)
     
 

Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ nêu cao năng lực kiến tạo

Tinh thần "quyết liệt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có năng lực kiến tạo để đưa sự nghiệp khoa học công nghệ thắng lợi" đã được Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh tại Lễ bàn giao công tác bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN). 
 
Sáng 14/4/2016, Bộ KH&CN tổ chức Lễ bàn giao công tác bộ trưởng giữa ông Nguyễn Quân và ông Chu Ngọc Anh. Buổi Lễ được tổ chức trang trọng, ấm cúng với sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam. Lễ bàn giao công tác bộ trưởng còn có sự tham gia của đại diện Ban tổ chức Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, các Lãnh đạo Bộ KH&CN.
 
Phát biểu tại Lễ bàn giao, ông Nguyễn Quân cho biết, trong suốt nhiệm kỳ qua cá nhân ông cùng tập thể cán bộ quản lý đã hết sức nỗ lực xây dựng hệ thống pháp lý với nhiều đổi mới và cũng đạt được những thành công nhất định. Thành công này đã nhận được sự ủng hộ của Chính phủ. Đặc biệt, việc thực hiện Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020 đã qua 5 năm triển khai cũng đã đạt được những kết quả bước đầu, song cũng còn nhiều khó khăn phía trước.
 
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh nhiệm kỳ 2016-2020 và Bộ trưởng Nguyễn Quân nhiệm kỳ 2011-2016 cùng ký nhận bàn giao công tác bộ trưởng. Ảnh Loan Lê.
Chính vì vậy, ông Nguyễn Quân hy vọng và tin tưởng trong giai đoạn tới ông Chu Ngọc Anh cùng với các đồng chí thứ trưởng, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động sẽ tiếp tục chung sức, chung lòng, đoàn kết cùng tháo gỡ những khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nhiệm kỳ 2016-2020.
 
Xúc động trước sự kỳ vọng này, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh bày tỏ lòng cảm ơn đối với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và trực tiếp là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Nguyễn Quân nhiệm kỳ 2011-2016.
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cũng cho biết cá nhân nhận thức được sự tín nhiệm của Đảng, Nhà nước, Quốc hội giao cho là vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm, song nguyện sẽ cùng chung tay với các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tiếp tục kế tục những thành quả đóng góp hết sức quan trọng tư lệnh ngành KH&CN trong suốt những năm qua, khởi xướng những đổi mới, tháo gỡ những rào cản một cách quyết liệt, năng động và sáng tạo nhất trong thời gian qua.
 
Bộ trưởng cũng mong muốn nhận được sự ủng hộ của Đảng, Chính phủ, cộng đồng khoa học, các cán bộ công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân cùng chung tay để khoa học công nghệ ngày càng đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển chung.
 
"Cá nhân tôi cam kết thể hiện nỗ lực tối đa của bản thân cùng tập thể vào cuộc với tinh thần như trong buổi họp đầu tiên Thủ tướng đã chỉ đạo là quyết liệt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có năng lực kiến tạo để thực sự cùng cộng đồng khoa học trong và ngoài nước, xã hội chung tay đóng góp, đưa sự nghiệp khoa học công nghệ thắng lợi, cùng với sự phát triển của đất nước" – Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh.
 
Phát biểu tại Lễ bàn giao ông Vũ Đức Đam ghi nhận và đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng của ông Nguyễn Quân – Bộ trưởng Bộ KH&CN nhiệm kỳ 2011-2016. Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đây là nhiệm kỳ có nhiều đột phá, đặc biệt là tạo cơ chế chính sách để hoạt động nghiên cứu khoa học được thuận lợi hơn, được cộng đồng khoa học ghi nhận.
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá cao những kết quả ông Nguyễn Quân khi còn đương nhiệm đã nỗ lực thực hiện và kỳ vọng người kế nhiệm sẽ tiếp tục phát huy thành quả này, tiếp tục gặt hái thành công. Ảnh Loan Lê.
 
"Xin chúc mừng đồng chí Nguyễn Quân đã hoàn thành nhiệm kỳ với những kết quả đáng ghi nhận" – Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh.
 
Phó Thủ tướng cũng chúc mừng Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhận được sự tín nhiệm và trên cương vị Bộ trưởng Bộ KH&CN nhiệm kỳ 2016-2020 cùng với những kinh nghiệm từng kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
 
Phó Thủ tướng cũng nhắn nhủ Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, từng đi qua thực tế địa phương, đã nắm được hơi thở của cuộc sống làm sao có được mối quan hệ tốt với địa phương, làm sao để khoa học đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển kinh tế địa phương. Đặc biệt cần nỗ lực để những chính sách mới về khoa học công nghệ nhanh chóng vào cuộc sống, tạo ra được sản phẩm cho xã hội giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển ngày càng mạnh mẽ.
 
Một số hình ảnh tại Lễ bàn giao:
 
 
Lễ bàn giao có sự tham dự của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, đại diện Ban tổ chức Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, các Lãnh đạo Bộ KH&CN.
 
 
 
Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân phát biểu tại Lễ bàn giao và bày tỏ kỳ vọng vào người kế nhiệm. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh bày tỏ sự cảm ơn đối với những lãnh đạo tiền nhiệm và mong muốn nhận được sự ủng hộ để hoàn thành nhiệm vụ cùng những mục tiêu cao đẹp đã đặt ra. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tặng hoa chúc mừng ông Nguyễn Quân đã hoàn thành nhiệm kỳ với nhiều kết quả đáng ghi nhận. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tặng hoa chúc mừng Bộ trưởng Chu Ngọc Anh trên cương vị mới. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân tặng hoa chúc mừng Bộ trưởng Chu Ngọc Anh. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh bày tỏ lòng biết ơn và trân trọng tặng món quà nhỏ tới nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân.
Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Các Lãnh đạo Bộ KH&CN chụp ảnh lưu niệm tại Lễ bàn giao. Ảnh: Loan Lê.
 
Ngày 09/4/2016, Chủ tịch nước đã ký quyết định bổ nhiệm ông Chu Ngọc Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ KH&CN nhiệm kỳ 2016-2020. Cũng trong ngày 09/4/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 142/QĐ/TW phân công ông Chu Ngọc Anh đảm nhiệm vị trí Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ KH&CN.
 
Nguồn:  Báo Khoa học và Phát triển

Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN: đổi mới từ cách làm

Nhân lực nói chung, nhân lực khoa học và công nghệ (KH&CN) nói riêng luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm cả về chất và lượng. Nhìn về tổng thể, số lượng nhân lực KH&CN của nước ta không phải ít so với quy mô dân số cũng như so với các nước trong khu vực, thậm chí số có trình độ sau đại học khá lớn, nhưng chất lượng còn nhiều bất cập. Điều này đặt ra vấn đề là chính sách phát triển nhân lực KH&CN thời gian qua còn nhiều bất cập, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng. Vậy chúng ta cần làm gì để cải thiện thực trạng này?
 
Sau 20 năm Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đi vào cuộc sống, KH&CN nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống, đưa nước ta từ một nước kém phát triển gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, so với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, KH&CN nước ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội, giúp nâng cao năng suất, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế và vẫn còn tụt hậu so với khu vực và thế giới. Đội ngũ nhân lực KH&CN và mạng lưới tổ chức KH&CN tuy gia tăng về số lượng nhưng chất lượng còn thấp, thiếu các chuyên gia đầu ngành và nhân lực trình độ cao trong nhiều lĩnh vực KH&CN, thiếu những nhóm nghiên cứu mạnh và thiếu những tổ chức KH&CN mạnh có đủ khả năng giải quyết những vấn đề KH&CN lớn của quốc gia và hội nhập quốc tế.
Thực trạng nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là thiếu chính sách cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và khai thác hiệu quả năng lực của đội ngũ nhân lực KH&CN. Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH&CN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện hiện nay, cần thiết phải có chính sách phù hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN ở trong nước và nước ngoài một cách bài bản, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển của đất nước.
 
Nhân lực KH&CN của Việt Nam qua một vài con số
 
Nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (NC&PT )
 
Theo Sách Trắng KH&CN Việt Nam năm 2014 cho thấy, trong năm 2013, cả nước có 164.744 người tham gia hoạt động NC&PT. Trong đó, số người làm công tác nghiên cứu chuyên nghiệp tại các viện, trung tâm nghiên cứu là 37.481 người. Xét theo chức năng làm việc, nhân lực NC&PT được phân bố như sau: 128.998 cán bộ nghiên cứu (có trình độ cao đẳng, đại học trở lên); 12.798 cán bộ kỹ thuật; 15.250 cán bộ hỗ trợ; 7.800 người làm chức năng khác1.
 
 
Đội ngũ nhân lực làm NC&PT của nước ta đông
nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế
Với đội ngũ nhân lực NC&PT nêu trên, KH&CN Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, đóng góp thiết thực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Một số lĩnh vực trong khoa học tự nhiên (toán, vật lý lý thuyết) có thứ hạng khá cao trong khu vực ASEAN2. Nhiều kết quả trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ đã được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ3.
Nhân lực quản lý KH&CN
 
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH&CN hiện nay được chia thành 3 nhóm chính: 1) Cán bộ đang làm công tác quản lý tại Bộ KH&CN (hiện tại có khoảng hơn 700 người); 2) Cán bộ thuộc Vụ (Ban) KH&CN tại các bộ/ngành (theo thống kê có khoảng gần 300 người); 3) Cán bộ quản lý thuộc các Sở KH&CN tại các tỉnh/thành phố (hiện cả nước có khoảng 3.138 cán bộ tham gia quản lý tại các Sở KH&CN thuộc các tỉnh/thành phố).
 
Những bất cập phổ biến
Mặc dù có đội ngũ nhân lực KH&CN hùng hậu, nhưng trên thực tế Việt Nam chưa có nhiều công trình, sản phẩm nổi bật, mang tính đột phá ở tầm khu vực và thế giới. Số công trình khoa học được công bố quốc tế có tốc độ tăng trung bình 22%/năm, nhưng giá trị tuyệt đối và chỉ số trích dẫn còn thấp, nhất là khi so sánh với các nước trong khu vực và thế giới. Tổng số công bố KH&CN của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu Web of Science giai đoạn 2010-2014 là 9.976 bài báo, xếp thứ 59 trên thế giới; so với khu vực, Việt Nam đứng sau Singapore (xếp thứ 32), Malaysia (xếp thứ 38) và Thái Lan (xếp thứ 43), cao hơn Indonesia (xếp thứ 62) và Philipin (xếp thứ 66). Số lượng đơn sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011-2013 của người Việt Nam là 1.126 đơn, trong khi có 10.690 đơn của người nước ngoài; số bằng độc quyền sáng chế được cấp của người Việt Nam còn thấp hơn nhiều, chỉ đạt 144 văn bằng, kém 21,7 lần so với số văn bằng được cấp của người nước ngoài (3.128).
 
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả KH&CN của Việt Nam chưa cao, trong đó phải kể đến nguyên nhân do năng lực của đội ngũ nhân lực KH&CN ở nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của KH&CN, cụ thể:
 
Thiếu hụt nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành: mặc dù số lượng cán bộ KH&CN có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ khá đông4, nhưng hiện nay tình trạng thiếu hụt đội ngũ kế cận đang diễn ra. Số lượng nhà khoa học có trình độ cao và có kinh nghiệm ngày càng giảm do đến tuổi nghỉ hưu, đặc biệt trong các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, lĩnh vực công nghệ cao. Bên cạnh đó, hiện tượng “chảy máu chất xám” vẫn đang diễn ra trong nhiều năm, nền kinh tế thị trường đang phát triển đã dẫn tới nhiều cán bộ có chuyên môn sâu chuyển sang làm việc tại khu vực doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với mức thu nhập cao hơn. Nhiều người sau khi hoàn thành xong chương trình đào tạo đại học, thạc sỹ, tiến sỹ ở nước ngoài đã không trở về nước làm việc. Chính vì thế, đội ngũ kế cận các nhà khoa học giỏi trong các viện nghiên cứu, trường đại học ngày càng thiếu hụt nghiêm trọng, đặc biệt là thiếu các nhà khoa học đầu ngành, các tổng công trình sư đủ năng lực chủ trì các nhiệm vụ KH&CN quan trọng quy mô quốc gia và quốc tế.
 
Một ví dụ cụ thể là, tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cán bộ khoa học có học hàm GS, PGS phần lớn tuổi cao (trung bình trên 55 tuổi), tỷ lệ cán bộ có đủ năng lực chủ trì đề tài nghiên cứu cấp quốc gia rất thấp (khoảng 15%; một số lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao như công nghệ sinh học, vắc xin, vật liệu mới… rất thiếu cán bộ khoa học giỏi5. Ngành y tế cũng xảy ra tình trạng thiếu nhân lực khoa học trong một số chuyên ngành sâu, đặc biệt là một số chuyên ngành trước đây thường được đào tạo ở các nước Đông Âu. Số chuyên gia được đào tạo theo mô hình này dần đến tuổi nghỉ hưu nhưng lớp cán bộ trẻ được đào tạo bài bản ở nước ngoài hiện nay lại quá ít, không thể đáp ứng được nhu cầu của ngành6… Ở Bộ Công thương, Đại học Quốc gia Hà Nội hay Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và nhiều cơ quan, đơn vị khác cũng tương tự. Thêm vào đó, nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ cao còn khá mỏng, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
 
 
Việt Nam hiện thiếu rất nhiều các nhà khoa học đầu ngành
ở nhiều lĩnh vực
 
Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm của đội ngũ nhân lực KH&CN còn yếu7: một hạn chế khác của đội ngũ nhân lực KH&CN nước ta là sự hợp tác, gắn kết giữa các nhà khoa học chưa cao, khó hình thành được các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu mạnh liên ngành hoạt động theo định hướng lâu dài và bền vững. Điều này thường dẫn đến nội dung các nhiệm vụ KH&CN bị phân tán, không có sự phối hợp giữa các nhóm khác nhau để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quan trọng, quy mô lớn.
 
Nhân lực KH&CN phân bố không đều: nhân lực KH&CN ở nước ta, nhất là nhân lực có trình độ tiến sỹ chủ yếu tập trung tại các tổ chức KH&CN ở Trung ương, đặc biệt ở hai Viện Hàn lâm và các trường đại học lớn. Nhân lực KH&CN trình độ cao ở địa phương cũng phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở 5 thành phố trực thuộc Trung ương, ở các địa phương khác rất ít người có trình độ tiến sỹ. Chính sự phân bố không đồng đều đã dẫn tới hệ quả là không có cán bộ KH&CN đảm nhận các nhiệm vụ KH&CN ở các địa bàn xa xôi, miền núi.
 
Một bộ phận không nhỏ nhân lực KH&CN trình độ cao không trực tiếp làm NC&PT8, do cơ chế bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay vẫn dựa trên trình độ chuyên môn cao (học hàm, học vị) nên có tình trạng một số cán bộ lãnh đạo là GS, PGS, TS tập trung chủ yếu thời gian cho công tác quản lý, điều hành mà ít tham gia trực tiếp các hoạt động nghiên cứu khoa học.
 
Chính sách thu hút, đãi ngộ, sử dụng cán bộ KH&CN mới được ban hành, nên chưa tạo động lực, chưa phát huy hiệu quả năng lực sáng tạo và đóng góp của đội ngũ trí thức KH&CN, nhất là người có trình độ cao, tài năng trẻ. Chưa có chính sách thoả đáng để thu hút và sử dụng các trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động NC&PT ở Việt Nam. Thủ tục hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực KH&CN còn rườm rà, thiếu đồng bộ, khó triển khai. Việc tổ chức thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực KH&CN (đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành tại Quyết định số 4009/QĐ-KHCN ngày 29.12.2011) tại các bộ/ngành, địa phương chưa thực sự được chú trọng.
Điều đáng phải suy nghĩ là, những hạn chế của nhân lực KH&CN hiện nay như phân tích trên đây đã tồn tại từ những năm 90 của thế kỷ trước9. Điều đó có nghĩa là, những chính sách phát triển nhân lực KH&CN của Việt Nam giai đoạn gần đây chưa thực sự tác động có hiệu quả đến việc xây dựng đội ngũ này và dường như những thay đổi về chất của đội ngũ trong những năm qua là không đáng kể.
 
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, thách thức lớn nhất đối với nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam hiện nay là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng suy giảm; đội ngũ cán bộ khoa học hiện nay không chỉ thiếu cán bộ đầu ngành giỏi, thiếu các tổng công trình sư mà còn thiếu cả cán bộ trẻ có trình độ cao; khả năng thu hút, tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ có trình độ vào làm việc tại các tổ chức nghiên cứu và triển khai rất thấp; cơ chế, chính sách phát triển nhân lực KH&CN còn hạn chế và chưa thực sự khuyến khích phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN; việc đào tạo cán bộ có trình độ cao trong KH&CN còn nhiều bất cập… Việc thiếu nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành làm đầu tàu dẫn dắt, định hướng hoạt động nghiên cứu – triển khai được xem là điểm yếu lớn nhất của đội ngũ nhân lực KH&CN nước ta hiện nay.
 
Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN: đổi mới từ cách làm
 
Những hạn chế của đội ngũ nhân lực KH&CN nêu trên đặt ra yêu cầu, đòi hỏi cần có những đổi mới mang tính đột phá trong chính sách phát triển nhân lực KH&CN thời gian tới, trong đó chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN được xem là khâu đột phá. Cần xây dựng một chính sách đồng bộ, đào tạo có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, đào tạo theo nhu cầu thực tiễn.
 
 
Ngày 25.12.2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN ở trong nước và nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (tại Quyết định số 2395/2015/QĐ-TTg). Đây là Đề án rất có ý nghĩa nhằm nâng cao chất lượng nhân lực KH&CN quốc gia, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước quyết tâm đầu tư nâng cao về chất của đội ngũ nhân lực KH&CN. Đề án đã xác định các nhóm đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng như sau:
 
(1) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng thực hành nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ cho đội ngũ nhân lực NC&PT:
– Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN trình độ cao, chuyên gia cho các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, trọng điểm, lĩnh vực công nghệ mới; bồi dưỡng sau tiến sỹ cho đội ngũ tiến sỹ làm công tác nghiên cứu và triển khai nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu chuyên nghiệp, hiện đại, tạo ra được những sản phẩm KH&CN có chất lượng cao. Qua đó từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành trong từng lĩnh vực để định hướng, dẫn dắt sự phát triển của ngành/lĩnh vực KH&CN theo kịp trình độ của khu vực và thế giới.
 
– Phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng nhà khoa học trẻ tài năng nhằm hình thành đội ngũ nhà khoa học kế cận có trình độ cao, tâm huyết với hoạt động KH&CN.
(2) Đào tạo, bồi dưỡng theo ê-kíp để thúc đẩy việc hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu:
 
Nhóm nghiên cứu nói chung, nhóm nghiên cứu mạnh nói riêng được xem như một bộ phận quan trọng trong tổ chức KH&CN. Hiện nay ở Việt Nam đã hình thành một số nhóm nghiên cứu chủ yếu ở trong các trường đại học10. Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển các nhóm còn mang tính chất tự phát, thiếu định hướng và sự hỗ trợ cần thiết, chưa đồng bộ, chưa có hệ thống; nhiều nhóm nghiên cứu sau khi hình thành gặp phải những khó khăn và tan rã. Vì vậy, định hướng tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng hỗ trợ để hình thành, phát triển các nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh là hết sức cần thiết từ đó phát triển thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc với nhiều nhóm nghiên cứu đơn ngành và đa ngành.
 
(3) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý KH&CN ở Bộ KH&CN, các bộ/ngành và địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ trực tiếp tham gia hoạch định chính sách KH&CN nhằm nâng cao trình độ, tư duy đổi mới, sáng tạo và cập nhật kỹ năng quản lý KH&CN tiên tiến, hiện đại của khu vực và thế giới.
 
Với nhóm đối tượng được đầu tư có chọn lọc, dựa trên nhu cầu thực tiễn của đất nước, việc triển khai Đề án trong thời gian tới chắc chắn sẽ đem lại một không khí mới cho KH&CN của đất nước. Đề án được kỳ vọng là một trong những chính sách đột phá về nhân lực KH&CN, góp phần hình thành một đội ngũ nhân lực khoa học trình độ cao của nước nhà.
TS Trần Đắc Hiến
Bộ KH&CN
____________________________
1Theo sách “KH&CN Việt Nam 2014” của Bộ KH&CN , Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2015.
2Xếp hạng một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản của Việt Nam: Toán học: thứ hai ASEAN; vật lý lý thuyết: thứ ba ASEAN; toán tối ưu: 19 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Nguồn: Nhà xuất bản ELSEVIER.
3Một số kết quả nổi bật như: thiết kế chế tạo thiết bị cơ khí thủy công cho các nhà máy thủy điện công suất lớn; giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90 m nước; công nghệ khai thác dầu trong đá móng; các giống lúa mới năng suất cao; khai thác vệ tinh viễn thông; làm chủ công nghệ đóng tàu, xây dựng công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc; ghép tạng và sản xuất vắc xin…
4Theo thống kê của Bộ KH&CN, cả nước có 24.300 tiến sỹ và 101.000 thạc sỹ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó tiến sỹ tăng 7%/năm, thạc sỹ tăng 14%/năm.
5Theo Báo cáo hiện trạng và nhu cầu nhân lực KH&CN trình độ cao của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 9.7.2012.
6Theo Báo cáo hiện trạng và nhu cầu nhân lực KH&CN trình độ cao của Bộ Y tế , ngày 6.8.2012.
7Theo Đề án “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
8Theo Đề án “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
9Xem thêm: Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 50 năm KH&CN Việt Nam (1945-1995). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật 1995, tr 34,35.
10Tính đến năm 2014, Đại học Quốc gia Hà Nội đã hình thành được hệ thống trên 80 nhóm nghiên cứu mạnh ở các cấp độ khác nhau. Trong đó, 16 nhóm đã được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia năm 2014.

Để xây dựng một tạp chí khoa học đẳng cấp quốc tế

Dư luận ồn ào gần đây về việc tranh chấp quyền sở hữu tạp chí Asian-Pacific Journal of Computational Engineering giữa GS. Nguyễn Đăng Hưng và Đại học Tôn Đức Thắng đã ít nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của giới khoa học Việt Nam, đồng thời cho thấy có những sự hiểu sai về quyền sở hữu một tạp chí đẳng cấp quốc tế. Để làm rõ vấn đề này, nhóm phóng viên đã có cuộc phỏng vấn GS. Hoàng Tụy, người từng tham gia ban biên tập của một số tạp chí toán học quốc tế.
 
 
 Xin giáo sư cho biết để hình thành một tạp chí khoa học theo thông lệ quốc tế, người ta thường làm như thế nào?
 
GS. Hoàng Tụy: Từ xưa, các tạp chí khoa học vốn do các đại học, viện nghiên cứu, hiệp hội khoa học lập ra và tự xuất bản. Đến bây giờ số tạp chí như vậy vẫn rất nhiều. Nhưng khi đã xuất hiện những nhà xuất bản (NXB) lớn chuyên kinh doanh việc xuất bản và phát hành sách và tạp chí khoa học, thì nhiều tạp chí thấy việc tự xuất bản và phát hành không hiệu quả bằng hợp tác với một NXB có uy tín để nhượng hẳn việc xuất bản và phát hành tạp chí cho NXB. Trong trường hợp này,  tạp chí vẫn thuộc quyền chủ quản của tổ chức đã lập ra nó, NXB chỉ lo việc xuất bản. Cũng có trường hợp một nhóm nhà khoa học về một chuyên ngành nào đó muốn ra một tạp chí về chuyên ngành đó thì sau khi thỏa thuận với nhau về tổng biên tập (TBT) và thành phần ban biên tập thì TBT chịu trách nhiệm thay mặt đứng ra thương thảo với NXB để lập ra tạp chí. Khi đó tạp chí là của NXB (tức là bản quyền thuộc NXB), tuy NXB vẫn không can thiệp vào việc tổ chức biên tập, việc này vẫn để thuộc quyền TBT. Trong mọi trường hợp, mỗi bài được đăng đều do tác giả ký nhượng bản quyền bài đó cho tổ chức (NXB, trường, viện) chủ quản tạp chí đó.  
 
Trong khoảng chục năm gần đây đã ra đời loại tạp chí truy cập tự do (open access). Bài muốn đăng ở tạp chí loại này thì tác giả phải trả tiền cho NXB, nhưng khi đã đăng thì có thể truy cập tự do trên mạng. Trái với các tạp chí thông thường đã có trước đây là loại phải “đặt mua”, bài đăng ở đây thì tác giả không mất tiền để được đăng, nhưng độc giả phải trả tiền đặt mua từng năm, hoặc truy cập từng bài. Ngày nay các tạp chí loại “đăt mua” quá nhiều rồi, lập ra thêm một tạp chí loại đó rất khó tiêu thụ, cho nên các  NXB thường khó nhận xuất bản thêm tạp chí mới loại này. Trái lại  kinh doanh tạp chí tự do truy cập (TDTC) thu lãi lớn, cho nên các NXB dễ chấp nhận. Cũng vì lẽ đó, thị trường tạp chí TDTC rất sôi động, đã xuất hiện những NXB chỉ chuyên cho ra tạp chí TDTC. Trong tình hình đó tất nhiên nảy ra xu hướng thương mại hóa tiêu cực, cho nên có những tạp chí TDTC có chất lượng rất thấp.     
 
Vậy thưa giáo sư, chúng ta đã có những mối quan hệ hợp tác giữa các trường/viện trong nước và các nhà xuất bản quốc tế để xây dựng tạp chí khoa học như vậy chưa?
 
Tạp chí Vietnam Journal of Mathematics là ví dụ về một tạp chí loại “đặt mua”  trước đây do ta tự xuất bản, từ vài năm nay đã do NXB Springer hợp tác với ta xuất bản. Tạp chí Acta Mathematica Vietnamica cũng như vậy. Phía ta là chủ của tạp chí, cử TBT và Ban Biên tập, phụ trách toàn bộ nội dung tạp chí và bản thảo điện tử, còn Springer lo việc xuất bản và phát hành, theo những điều khoản đã thỏa thuận. Một ví dụ khác là gần đây, có tờ Vietnam Journal of Computer Science là một tạp chí TDTC đã ra đời, do Đại học Nguyễn Tất Thành (ĐH NTT) mời được GS Nguyễn Ngọc Thanh, một nhà khoa học Việt kiều Ba Lan có tiếng nhận đứng ra làm TBT và thành lập ban biên tập, đồng thời cử một người của ĐH NTT làm assistant editor (trợ lý biên tập), rồi  liên hệ với Springer đề nghị NXB này nhận thành lập tạp chí theo những điều kiện trên. Trong trường hợp này, Springer là chủ của tạp chí và xuất bản tạp chí với sự hợp tác của  ĐH NTT (điều này được ghi rõ trên trang bìa của tạp chí). 
 
Giới khoa học Việt Nam luôn mong đợi sự ra đời những tạp chí trong nước được lọt vào danh sách ISI, trong đó người ta thường kỳ vọng nhiều ở toán học và vật lý là những ngành mà Việt Nam có thế mạnh. Vậy vì sao trong hai ngành này chúng ta vẫn chưa xây dựng được các tạp chí trong danh sách ISI?  
 
Trước đây chúng ta có những khó khăn, hạn chế rất lớn về nguồn lực, khả năng và điều kiện kỹ thuật trong việc xuất bản các tạp chí khoa học có chất lượng cao, cả về nội dung và hình thức. Ví dụ như  hai tạp chí Acta Mathematica Vietnamica và Vietnam Journal of Mathematics tuy đã ra đời được mấy chục năm nay, nhưng trước đây điều kiện thông tin liên lạc còn hạn chế, kỹ thuật in lạc hậu, việc xếp chữ mang tính thủ công nên rất khó cho việc in ấn các ký hiệu toán học, báo thường xuyên phát hành trễ, giấy in xấu, chữ in lèm nhèm nên bán rất khó khăn, chủ yếu chỉ dùng để trao đổi với các đại học nước ngoài mà cũng vô cùng vất vả và khó khăn. Dễ hiểu là trong những điều kiện đó làm sao thu hút được bài vở có chất lượng. Dù vậy ngay thời đó, hai tạp chí đó cũng đã được Math Review điểm duyệt thường xuyên và cũng đã có một số ít bài được đồng nghiệp quốc tế quan tâm, trích dẫn và đánh giá cao. 
 
Hơn chục năm nay, hai tạp chí toán của ta đã được cải tiến đáng kể, về cả nội dung và hình thức đang tiến nhanh tới chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, trở ngại vẫn còn nhiều. Bên cạnh đó, việc đăng bài trên các tạp chí quốc tế gần đây được coi là điều kiện để được xét duyệt các đề tài nghiên cứu – ví dụ Quỹ Nafosted yêu cầu các đề tài trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đều phải có công bố quốc tế trên các tạp chí ISI. Việc xét chức danh PGS, GS cũng dần dần đi theo xu hướng đó. Phải nói đó là xu hướng lành mạnh, tích cực. Nhưng đồng thời, mặt trái của nó là đối với những nhà khoa học có năng lực, đăng bài trên tạp chí trong nước ít nhiều là một sự hi sinh. Không mấy người thích đăng ở tạp chí trong nước, những bài viết tốt đều tìm cách đăng ở tạp chí nước ngoài, khiến chất lượng bài đăng trên các tạp chí trong nước không cao. Tất nhiên đây cũng là điều tự nhiên, từ trình độ lạc hậu đi lên không thể tránh được những chuyện như vậy. 
 
Vì sao một số tạp chí của các nước trong khu vực như Malaysia và Thái Lan có chất lượng không hơn tạp chí của Viện Toán học nhưng vẫn được nằm trong danh sách ISI?
 
Chuyện này tôi nghe nói nhiều, nhưng thật tình tôi chưa có dịp kiểm chứng. Ở Thái Lan hay Malaysia, những người lập ra tạp chí phần lớn học từ Mỹ về và khi trở về nước họ vẫn giữ mối quan hệ tốt với thầy, bạn ở Mỹ. Đất nước họ từ lâu đã hội nhập quốc tế, tờ báo của họ ít nhất về hình thức không khác quốc tế mấy. Nhờ những yếu tố đó, việc được lọt vào danh sách ISI thuận lợi hơn ta nhiều. Chưa kể, tiền bạc cũng đóng vai trò nhất định. Tôi nghĩ việc có tạp chí lọt vào danh sách ISI hay có đại học lọt vào tốp mấy trăm trong các bảng xếp hạng quốc tế, ta cũng chỉ nên quan tâm vừa phải thôi. Một số nước phát triển dùng một bảng xếp hạng các tạp chí khoa học, không phụ thuộc danh sách ISI mà chỉ căn cứ trên chất lượng thật, chia các tạp chí trên thế giới làm bốn hạng: A* cao nhất, rồi đến A, B, C; C là hạng cuối trong thang đó. Trong bảng này các tạp chí của Malaysia và Thái Lan được xếp cùng hạng C với hai tạp chí của ta. Cho nên tôi có đề nghị Nafosted nên tham khảo bảng này, thay vì chỉ chú ý ISI.
 
Theo giáo sư, chúng ta cần có những giải pháp gì để các tạp chí khoa học trong nước được xuất bản bởi những nhà xuất bản nổi tiếng – một trong những yếu tố quan trọng để tạp chí dễ vào danh sách ISI? 
 
Chỉ có cách là chúng ta tự cải thiện năng lực của mình và tăng cường các mối quan hệ với cộng đồng khoa học quốc tế, từ đó giành được sự quan tâm của những nhà xuất bản quốc tế có uy tín cùng tham gia xuất bản và quảng bá các tạp chí khoa học của Việt Nam. Chẳng hạn, mấy năm qua, mối quan hệ giữa Viện Toán học và giới toán học quốc tế có cải thiện rõ rệt do một số nhà toán học của ta tạo được uy tín tốt với cộng đồng toán quốc tế. Đặc biệt đối với các NXB lớn như Springer, nhiều nhà khoa học của ta có vai trò trong ban biên tập của nhiều tạp chí của họ, hoặc có sách chuyên khảo do họ xuất bản. Bên cạnh đó, một số thành tích nổi bật của các nhà toán học của ta thời gian gần đây, những hội thảo quốc tế về Toán có chất lượng cao do ta tổ chức, có sự tham gia của nhiều người nổi tiếng thế giới, kể cả Chủ tịch hay Tổng Thư ký Hội Toán quốc tế, tất cả những yếu tố đó kết hợp lại đã gây ấn tượng khiến hai năm gần đây, tạp chí Vietnam Journal of Mathematics do phía Việt Nam tự xuất bản đã được xuất bản bởi Springer.  
 
Với những tiến bộ đáng kể ở nhiều lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, cùng với giới khoa học của chúng ta cũng có ý thức chăm lo hơn đến chất lượng của tạp chí mình, tôi tin trong vòng ít năm nữa ta sẽ có tạp chí lọt vào danh sách ISI.
 
Xin trân trọng cảm ơn giáo sư! 
 
Là người từng được mời tham gia ban biên tập hoặc làm TBT  một vài tạp chí khoa học quốc tế, xin giáo sư chia sẻ về khó khăn lớn nhất mà ông từng trải qua trước đây khi hợp tác làm các tạp chí khoa học quốc tế?
 
Lần đầu tiên tôi được mời tham gia ban biên tập một tạp chí quốc tế là năm 1976. Hôm ấy, ở Budapest, trong phiên họp toàn thể của Hội thảo Quốc tế về Qui hoạch Toán học (mathematical programming), sau khi đọc xong báo cáo mời, tôi vừa trên diễn đàn bước xuống thì Balinski, TBT tạp chí Mathematical Programming, đến gặp và tỏ ý mời tôi tham gia ban biên tập của tạp chí. Thời đó, một trong những khó khăn lớn nhất cho các nhà khoa học trong nước gặp phải trong việc hợp tác với các tạp chí quốc tế là vấn đề thông tin liên lạc. Cách đây mấy chục năm, lần đầu tiên cộng đồng Tối ưu toàn cục gặp nhau ở Nhật và đề nghị tôi làm TBT của tờ tạp chí Tối ưu Toàn cục. Công việc TBT đòi hỏi phải gửi rất nhiều thư từ cho các tác giả. Tất cả thư từ chúng tôi gửi đi nước ngoài đều phải đợi đến lúc có người nước ngoài sang Việt Nam về nước thì nhờ họ cầm đi. Ngược lại, thư từ nước ngoài gửi về Việt Nam thì có khi mất hàng tháng trời mới tới nơi hoặc có khi không có. Vì vậy tôi tập hợp tất cả các phong bì mà ngày gửi và ngày đến cách nhau mấy tháng rồi đưa cho cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và ông đã chỉ thị cho Tổng cục Bưu điện nhưng cũng không thay đổi được. Trước năm 1975 khi tôi còn nằm trong Ban Biên tập của tạp chí Mathematical Programing thì tình hình thậm chí còn khó khăn hơn, bởi thời đó người ta cấm gửi thư ra nước ngoài, muốn gửi thì phải qua kiểm duyệt chứ không được tự động, khiến nhiều khi tôi phải làm “liều”, nhận “chui”. Chỉ đến khi Việt Nam mở cửa, quan hệ với các nước bình thường thì giao lưu thư từ đó mới được cải thiện. Nhưng thời kỳ mới mở cửa cũng vẫn còn những bất cập, một là các nhân viên bưu tá nhiều khi không làm đúng trách nhiệm, có khi để dồn mới đưa, có khi để mất, rồi có khi mấy tờ báo ở nước ngoài về có mấy hình đẹp đẽ thì giữ lại cho con cháu chơi. Thứ hai là các bưu kiện quốc tế của Việt Nam hồi đó đều qua Bangkok thì họ đều giữ lại, lúc nào thuận tiện mới gửi qua.
 
 
   
 
Tác giả bài viết: Nhóm PV thực hiện

Lực lượng khoa học và công nghệ phải không ngừng đổi mới

 
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm thành viên Chính phủ cho ông Chu Ngọc Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
 
Là một trong 18 thành viên mới của Chính phủ được Quốc hội Khóa XIII phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng, trên cương vị mới, tân Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, tiến sỹ Chu Ngọc Anh đã chia sẻ với báo chí về những vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành trong nhiệm kỳ của ông. 
 
– Xin trân trọng chúc mừng ông đã được Quốc hội tín nhiệm phê chuẩn chức vụ Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Xin ông cho biết cảm nghĩ của mình trên cương vị mới? 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Tôi cảm nhận sâu sắc niềm vinh dự đi đôi với trách nhiệm rất lớn trước đất nước, nhân dân và cộng đồng khoa học và công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh mới, khi khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo phải trở thành đòn bẩy cho công cuộc tái cấu trúc kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Kỳ vọng và sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với khoa học và công nghệ là một thuận lợi nhưng cũng là một áp lực buộc lực lượng khoa học và công nghệ phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện. 
 
Tôi trân trọng nỗ lực và tâm huyết của các bộ trưởng tiền nhiệm trong việc khởi xướng các đổi mới trong khoa học và công nghệ, thiết lập hành lang pháp lý và tháo gỡ vướng mắc để tạo thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Tôi cũng thấu hiểu các khó khăn và rào cản trong thực tiễn thi hành để biến các chủ trương tiến bộ thành hiện thực và đi vào cuộc sống. Con đường phía trước đầy thách thức, nhưng tôi tin rằng, với trí tuệ, nhiệt huyết và sự quyết tâm đồng lòng của lực lượng khoa học và công nghệ Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, chúng ta sẽ đến đích thành công. 
 
– Thời gian tới, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, xin ông cho biết những ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành? 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Ưu tiên hàng đầu trong nhiệm kỳ sắp tới của tôi là tập trung chỉ đạo thực hiện thành công các định hướng, giải pháp phát triển khoa học và công nghệ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 20-NQ/TW, những ưu tiên và trọng tâm công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó đặc biệt chú trọng vấn đề hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ, sao cho khoa học và công nghệ tác động trực tiếp và mạnh mẽ hơn tới năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. 
 
Muốn vậy, chúng tá cần xác định trúng và đúng tầm nhiệm vụ khoa học và công nghệ, xuất phát từ thực tiễn và giải quyết được các yêu cầu bức thiết của thực tiễn phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là chủ thể đi đầu trong thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ. Để triển khai có hiệu quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nhân tố con người là quan trọng nhất. 
 
Cần gây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học mạnh trong nước và ở nước ngoài, kết hợp đồng thời biện pháp động viên, khuyến khích và đặt yêu cầu trở lại đối với nhà khoa học; đào tạo, trọng dụng người tài kết hợp với đòi hỏi về tính liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần đảm bảo phương tiện và môi trường làm việc thuận lợi cho cán bộ khoa học. Đầu tư có hiệu quả cho hạ tầng khoa học và công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nguồn lực thông tin và tài chính, kể cả hạ tầng mềm, đó là môi trường học thuật tiên tiến, lành mạnh. 
 
Có con người giỏi và phương tiện hiện đại chưa đủ, chúng ta cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ theo hướng dỡ bỏ các rào cản, giải phóng tối đa tiềm năng sáng tạo, nới rộng quyền tự chủ đi đôi với đánh giá công khai, minh bạch kết quả hoạt động nghiên cứu. 
 
Cuối cùng, với một nước đi sau như Việt Nam, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thúc đẩy hợp tác nghiên cứu chung để tranh thủ nguồn lực và tri thức của các quốc gia tiên tiến, đồng thời từng bước nâng tầm năng lực và trình độ nghiên cứu trong nước để có thể tham gia hợp tác đối tác bình đẳng và cùng có lợi trong dài hạn. 
 
– Nhân dịp này, ông mong muốn gửi gắm thông điệp gì tới cộng đồng khoa học và công nghệ Việt Nam? 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Tôi tin tưởng vào trí tuệ, lòng tự trọng và trách nhiệm đối với công việc, với đất nước của các nhà khoa học Việt Nam. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự ủng hộ và chia sẻ của cộng đồng khoa học và công nghệ Việt Nam trong nước và ở người ngoài, cùng chung sức, đồng lòng đóng góp cho thành công của sự nghiệp khoa học và công nghệ. 
 
Tôi cũng mong ngành khoa học và công nghệ tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân và các lực lượng xã hội, để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững.
 
– Xin cảm ơn Bộ trưởng!/.