Đánh giá đúng nghề độc hại nguy hiểm để có chính sách, chế độ phù hợp

Ngày 30/10/2024, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Khoa học kỹ thuật, an toàn, vệ sinh lao động đã tổ chức hội thảo với chủ đề: Nâng cao kiến thức, giải pháp, chế độ chính sách cho các nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm trong môi trường lao động giai đoạn hiện nay.

Toàn cảnh Hội thảo.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS. TS Phạm Quang Thao – Phó chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho biết, trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của công nghệ khiến cho các phương thức sản xuất cũng có nhiều thay đổi, do đó việc đánh giá, phân loại công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm cũng khác trước.  Điều này có vai trò quan trọng, làm căn cứ thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động như: Bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, phụ cấp lương, bồi dưỡng bằng hiện vật…

Theo ông Nguyễn Khánh Long – Phó cục trưởng Cục An toàn Lao động, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Việt Nam càng hội nhập sâu rộng với quốc tế, những tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội trên thế giới ngày càng được nâng lên. Trong bối cảnh đó, cần hết sức quan tâm tới việc đánh giá, phân loại nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm này bởi nếu không đưa ra phương pháp đánh giá, phân loại chính xác, công bằng, hợp lý, hài hòa, giúp cải thiện điều kiện lao động thì rất khó để cạnh tranh. Ngày 28/12/2021, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 29/2021/TT-BLĐTBXH về quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động. Cách phân loại này góp phần giúp người lao động được hưởng các chế độ, chính sách phù hợp; người sử dụng lao động cũng giải quyết được vấn đề chế độ đối với người lao động, qua đó giữ chân người lao động trong bối cảnh cạnh tranh lực lượng lao động hiện nay. Tuy nhiên, Thông tư cũng bộc lộ một số hạn chế như: Chưa xác định cụ thể tổ chức, cơ sở nào có đủ năng lực và điều kiện để đánh giá phân loại cho chính xác. Để thuận tiện hơn trong việc đánh giá phân loại điều kiện lao động, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đang dự thảo Thông tư mới nhằm thay thế Thông tư số 29.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã trình bày các báo cáo nghiên cứu về điều kiện lao động của giáo viên mầm non, lao động ngành may… các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động. Các báo cáo còn chỉ rõ, không chỉ người lao dộng làm việc trong nhà xưởng sản xuất mới có các yếu tố nặng nhọc, độc hại, mà những người làm việc trong văn phòng cũng chịu một số tác động có hại. Hội chứng bệnh nhà kín của người làm việc và sinh sống trong không gian kín phổ biến là: Vấn đề về hô hấp; kích ứng da và mắt; mệt mỏi; đau đầu và chóng mặt; mất tập trung và suy giảm trí nhớ; triệu chứng liên quan đến dị ứng…

PT

Kiểm soát ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường bằng công nghệ và giải pháp xanh

Ngày 01/11/2024, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ) và Phòng Thí nghiệm trọng điểm Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Công nghệ xử lý chất thải bậc cao (Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) phối hợp tổ chức Hội thảo “Công nghệ xanh trong kiểm soát ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường”. Nhiều công nghệ, giải pháp “xanh” đã được chia sẻ và trao đổi tại Hội thảo nhằm góp phần xử lý ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường.

Đại biểu tham dự chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo.

Công nghệ xanh là việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hướng tới mục đích bảo vệ môi trường, khắc phục những tác động tiêu cực mà con người gây ra với môi trường. Công nghệ xanh không chỉ mang lại những lợi ích đối với môi trường mà còn tạo dựng cho con người thói quen sống xanh. Công nghệ xanh đang dần trở thành xu hướng trong cuộc sống hiện đại, giúp môi trường trở lại trạng thái ban đầu (trước khi bị ô nhiễm). Đặc biệt, trong thời điểm cả môi trường đất, không khí, nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng thì công nghệ xanh lại càng được các quốc gia trên thế giới quan tâm.

Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Phạm Thị Minh Nguyệt phát biểu khai mạc Hội thảo.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Phạm Thị Minh Nguyệt cho biết, đây là dịp để các nhà khoa học trao đổi, thảo luận về các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực môi trường, nhằm tìm ra những giải pháp thiết thực và bền vững cho các vấn đề ô nhiễm môi trường và quản lý tài nguyên. Hội thảo là cơ hội để kết nối Tạp chí với cộng đồng các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ xanh. Phó Tổng biên tập mong muốn nhận được sự cộng tác chặt chẽ từ các đại biểu và các nhà khoa học thông qua những bài viết chất lượng cao, góp phần thúc đẩy công bố quốc tế trong lĩnh vực công nghệ xanh, kiểm soát ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường.

Trong khuôn khổ của Hội thảo, Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Phạm Thị Minh Nguyệt cũng đã giới thiệu về Tạp chí, trong đó nhấn mạnh những nội dung quan trọng mà Tạp chí đang thực hiện nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế. Nhiều nhà khoa học với tư cách là các tác giả đã có công bố trên Tạp chí đánh giá cao những kết quả đạt được, khẳng định uy tín và tin tưởng vào sự phát triển của Tạp chí trong tương lai.

PGS.TS Bùi Xuân Thành – Trưởng phòng Phòng Thí nghiệm trọng điểm Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Công nghệ xử lý chất thải bậc cao trình bày tham luận tại Hội thảo.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã chia sẻ và trao đổi nhiều công nghệ, giải pháp xanh nhằm xử lý ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường như: Một số công nghệ xử lý sinh học mới nổi trong xử lý chất thải; Giáo dục STEAM khoa học trái đất và du lịch địa chất; Hấp thụ dinh dưỡng và loại bỏ nhôm bằng vi tảo nước ngọt: Công nghệ xử lý bằng thực vật tiềm năng; Ứng dụng chùm tia điện tử để phân hủy các hợp chất hữu cơ bền vững trong nước và nước thải; Ứng dụng than sinh học có nguồn gốc từ phụ phẩm nông nghiệp loại bỏ chất kháng sinh trong dung dịch nước; Công nghệ Anammox trong xử lý nước thải dòng chính; Ứng dụng hệ thống thực vật nổi cải thiện chất lượng nước kênh; Công nghệ tạo hạt vi tảo vi khuẩn trong xử lý nước thải.

Một số hình ảnh tại Hội thảo:

 

VH

Hợp tác quốc tế trong trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng giữa Bộ KH&CN Việt Nam với UAE và Ả rập Xê út

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng đoàn cấp cao Việt Nam đến Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), Ả rập Xê út và Qatar, đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt dẫn đầu đã có buổi làm việc song phương với Bộ Công nghiệp và Công nghệ tiên tiến UAE (MoIAT) và ký kết Thỏa thuận hợp tác kỹ thuật với Tổ chức Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Ả rập Xê út (SASO) vào ngày 29/10/2024.

Tăng cường thúc đẩy trao đổi chuyên gia giữa Việt Nam và UAE

Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp và Công nghệ tiên tiến UAE, ông Omar Al Suwaidi bày tỏ vui mừng được đón tiếp đoàn Bộ KH&CN Việt Nam, ông đánh giá cao quan hệ hợp tác giữa hai bên và nhấn mạnh sự cần thiết của việc đẩy mạnh các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực Halal dựa trên Biên bản ghi nhớ đã ký kết năm 2023 về tiêu chuẩn đo lường chất lượng.


Buổi làm việc giữa Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và Thứ trưởng Bộ Công nghiệp và Công nghệ tiên tiến UAE (MoIAT) – Ông Omar Al Suwaidi.

Trao đổi với đoàn UAE, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao quan hệ hợp tác và ủng hộ lẫn nhau giữa hai bên, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho Trung tâm Chứng nhận Halal thuộc Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (STAMEQ) của Việt Nam – thuộc Bộ KH&CN. Bộ trưởng cũng mong muốn thúc đẩy việc trao đổi chuyên gia giữa hai nước coi đây là một yếu tố quan trọng để phát triển các hoạt động hợp tác; kêu gọi tìm kiếm cơ hội hợp tác trong việc đánh giá sự phù hợp của sản phẩm hàng hóa trước khi xuất khẩu nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường UAE. Bộ trưởng bày tỏ hi vọng nhận được sự đồng thuận và ý kiến đóng góp từ Thứ trưởng Omar Al Suwaidi để hiện thực hóa các kế hoạch này trong thời gian tới.

Kết thúc buổi làm việc, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đã gửi lời mời và hi vọng được đón tiếp lãnh đạo Bộ MoIAT UAE sang thăm và làm việc tại Bộ KH&CN Việt Nam trong thời gian tới.

Ký kết thỏa thuận hợp tác kỹ thuật với SASO

Chiều ngày 29/10/2024 tại trụ sở của Tổ chức Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng Ả-rập Xê út (SASO), Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác kỹ thuật (Technical Cooperation Program) giữa STAMEQ (Bộ KH&CN) với SASO đã diễn ra trang trọng dưới sự chứng kiến của Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt.

Trao đổi với ông Saad Alkasabi – Chủ tịch của SASO, Bộ trưởng đánh giá cao tiềm năng hợp tác giữa hai cơ quan trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng, đặc biệt là trong lĩnh vực Halal. Theo Thỏa thuận này, hai bên dự kiến hợp tác trong các lĩnh vực như: tiêu chuẩn và đào tạo tiêu chuẩn, đánh giá sự phù hợp, đo lường pháp định và đo lường công nghiệp, thử nghiệm và phòng thí nghiệm, hiệu chuẩn, trao đổi thông tin, thừa nhận lẫn nhau giữa các tổ chức đánh giá sự phù hợp, chuyển đổi số về hạ tầng chất lượng, cũng như trao đổi chuyên môn và nhân lực.


Ông Hà Minh Hiệp – Quyền Chủ tịch STAMEQ ký Thỏa thuận hợp tác với SASO.

Ông Saad Alkasabi cũng bày tỏ mong muốn STAMEQ và SASO sẽ hỗ trợ lẫn nhau để đưa các hoạt động hợp tác đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn.
Hai bên đều tin tưởng rằng việc ký kết thoả thuận nhân dịp đặc biệt này sẽ tạo nền tảng để STAMEQ và SASO triển khai các hoạt động hợp tác thiết thực trong thời gian tới, đóng góp tích cực vào quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Ả-rập Xê-út.

MoIAT là cơ quan chính phủ được thành lập vào tháng 7/2020 trên cơ sở sáp nhập chức năng của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Công nghệ tiên tiến, Cơ quan Tiêu chuẩn và Đo lường UAE (ESMA) và Ban Công nghiệp thuộc Bộ Năng lượng và Cơ sở hạ tầng. MoIAT có nhiệm vụ xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến thúc đẩy nghiên cứu phát triển, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; thiết lập khuôn khổ phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu; và hoàn thiện hệ thống hạ tầng chất lượng quốc gia UAE. MoIAT cũng là cơ quan quản lý hoạt động chứng nhận Halal tại UAE.

SASO được thành lập theo Nghị định Hoàng gia số M/10 ngày 17/4/1972 với tư cách là một cơ quan có tư cách tư pháp nhân và ngân sách độc lập. SASO có thẩm quyền phụ trách mọi vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn hóa, đo lường và chất lượng tại Ả Rập Xê-út, đồng thời đại diện quốc gia tham gia vào các tổ chức và diễn đàn quốc tế, tác chặt chẽ với khu vực tư nhân và các cơ quan chính phủ và các bên liên quan để phát triển hạ tầng chất lượng.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Văn phòng Bộ

Bước ngoặt mạnh mẽ và tích cực để doanh nghiệp Việt Nam – Hoa Kỳ hợp tác đầu tư

Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) mong muốn trở thành một trong những địa chỉ tin cậy hỗ trợ doanh nghiệp, đối tác Hoa Kỳ hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, cùng đầu tư nghiên cứu phát triển tăng trưởng xanh, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tham gia chuỗi sản xuất thông minh, phối hợp đào tạo khởi nghiệp sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực về trí tuệ nhân tạo, chip bán dẫn để phát triển các dự án đầu tư sản xuất thông minh, khu công nghiệp xanh tại các địa phương.
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh tại buổi làm việc với đại diện Mạng lưới các tổng giám đốc tập đoàn vì an ninh quốc gia (Business Executives for National Security – BENS) do ngài Timothy M.Ray – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc điều hành làm trưởng đoàn.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Hoàng Minh và đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN đã trao đổi về một số mục tiêu trong Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,ĐMST) của Việt Nam, một số mục tiêu cụ thể trong triển khai chương trình KH&CN quốc gia để hiện thực hóa cam kết của Việt Nam tại COP 26 về đạt phát thải ròng bằng 0 vào 2050, cụ thể hóa chiến lược quốc gia của Việt Nam về tăng trưởng xanh và chống biến đổi khí hậu. Trong đó, có nội dung liên quan đến chuyển đổi năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo như năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Chương trình này cũng hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện quá trình chuyển đổi xanh thông qua khuyến khích đầu tư, chuyển giao, làm chủ công nghệ.
Năm 2024, Việt Nam tăng hai bậc trong bảng xếp hạng ĐMST toàn cầu, đặc biệt dẫn đầu thế giới về chỉ số xuất khẩu hàng hóa sáng tạo. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức mua bán máy móc, thiết bị, các doanh nghiệp chưa chú trọng nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ. Lao động Việt Nam chủ yếu tham gia vào quá trình vận hành máy móc, chưa tham gia nhiều vào các khâu sản xuất công nghệ cao. Nguồn nhân lực cần tương xứng và đồng bộ với mức độ phát triển KH&CN.
Thứ trưởng Hoàng Minh chủ trì buổi làm việc với BENS.
Về khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, đại diện lãnh đạo cơ quan trực thuộc Bộ KH&CN cho biết, tại Việt Nam hành lang pháp lý về chuyển giao công nghệ cao, phát triển thị trường công nghệ, phát triển các sàn giao dịch công nghệ đang là lĩnh vực được Chính phủ Việt Nam ưu tiên. Một số địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ đã xây dựng các dự án sàn giao dịch công nghệ nhằm tạo ra nền tảng cho các giao dịch, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, sở hữu trí tuệ. Bên cạnh các chính sách của Nhà nước như: cơ chế ưu đãi, khuyến khích về thuế, thủ tục pháp lý…, các tập đoàn trong và ngoài nước được kỳ vọng sẽ đầu tư nguồn lực để chuyển giao công nghệ cao vào Việt Nam, đặc biệt là các đối tác đến từ Hoa Kỳ thuộc nhóm dẫn đầu về nghiên cứu phát triển công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, rất cần sự tham gia, chung tay của các đơn vị tư nhân, các tập đoàn, doanh nghiệp trong kết nối thị trường KH&CN Việt Nam với quốc tế.
Đại diện BENS cho biết, tổ chức này sẽ phát huy vai trò tư vấn chính sách cho các bộ, cơ quan liên quan của Chính phủ Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy hợp tác về nghiên cứu và phát triển, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, BENS sẽ tư vấn cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ quan tâm đầu tư vào Việt Nam để phát triển các sản phẩm công nghệ cao thuộc danh mục được Chính phủ Việt Nam ưu tiên, khuyến khích, vì lợi ích chung của hai nước.
Đại diện lãnh đạo Công ty Cổ phần Công nghệ Viễn thông Sài Gòn (SaigonTel) chia sẻ, chương trình hợp tác với Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp KH&CN trong triển khai dự án đầu tư phát triển mô hình trung tâm ĐMST (SoiHub) như một mô hình thí điểm về hợp tác công – tư để thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, thu hút nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp cho thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đào tạo khởi nghiệp sáng tạo, phát triển đội ngũ doanh nhân công nghệ trong quá trình triển khai dự án tăng trưởng xanh, sản xuất thông minh tại các địa phương cùng các đối tác quốc tế.
Đại diện BENS đánh giá cao những nỗ lực và thành quả của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh những triển vọng hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong các lĩnh vực KH&CN mới nổi. Đồng thời, bày tỏ sự quan tâm về các chính sách của Việt Nam trong thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, khuyến khích chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, phương tiện giao thông chạy điện, tăng trưởng xanh, giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng và môi trường.
Toàn cảnh buổi tiếp.
Để thúc đẩy năng lực ĐMST của doanh nghiệp Việt Nam, yếu tố quan trọng nhất là thị trường cho sản phẩm công nghệ mới, Thứ trưởng Hoàng Minh đề xuất doanh nghiệp Hoa Kỳ có sáng kiến hợp tác, liên kết với doanh nghiệp Việt Nam để cùng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
BENS là tổ chức hoạt động phi lợi nhuận, bao gồm thành viên là các chủ tịch, tổng giám đốc của các tập đoàn hàng đầu của Hoa Kỳ như Amazon, Cisco, Infor, Morgan Stanley & Houlihan Lokey, Honeywell, First Atlantic Capital, Carlyle… BENS đóng vai trò thúc đẩy quan hệ giữa khu vực doanh nghiệp tư nhân với các cơ quan của Chính phủ như Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại Hoa Kỳ và các cơ quan khác trong một số lĩnh vực như năng lượng, chăm sóc sức khỏe, quản trị rủi ro, dịch vụ, ngân hàng, đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp công nghệ.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp KH&CN

‘VinFuture ngày càng được giới khoa học toàn cầu đón nhận’

Theo GS. Sir. Richard Henry Friend Chủ tịch hội đồng VinFuture, đề cử tăng về số lượng, đa dạng về lĩnh vực, cho thấy giới khoa học ngày càng biết, hiểu những giá trị VinFuture tôn vinh.

VinFuture khởi động đầu năm nay, Ban tổ chức hoàn thành việc chấm giải hồi tháng 9. Lễ trao giải VinFuture mùa 4 dự kiến diễn ra vào 6/12 tới. Dịp này GS. Sir. Richard Henry Friend chia sẻ các thông tin về giải thưởng.

– Ông đánh giá thế nào về giải thưởng VinFuture qua các mùa?

– Giải thưởng VinFuture ngày càng được đón nhận tích cực bởi cộng đồng khoa học thế giới. Mùa thứ 4 có gần 1.500 đề cử đến từ hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, hơn 9.000 nhà khoa học trở thành đối tác đề cử. Các đề cử năm nay không chỉ tăng về số lượng mà còn đa dạng, trải dài trên nhiều lĩnh vực như khoa học vật liệu, y học tái tạo, khoa học công nghệ máy tính…

Việc này cho thấy giới khoa học ngày càng biết và hiểu về những giá trị mà VinFuture tôn vinh. Giải thưởng không chỉ được trao cho những ý tưởng khoa học đột phá, mà còn vinh danh những công trình tạo ra thay đổi đáng kể trong các lĩnh vực quan trọng như sức khỏe, nguồn cung thực phẩm bền vững và khí hậu.

Chúng tôi cũng mong muốn tìm kiếm những đổi mới, những khám phá chưa được biết đến hoặc chưa được áp dụng rộng rãi nhưng hứa hẹn tiềm năng tạo nên bước ngoặt tích cực trong tương lai.Giáo sư Richard Henry Friend, Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng VinFuture, nhấn mạnh tầm quan trọng của Giải thưởng VinFuture trong sứ mệnh kết nối khoa học với thực tiễn.

Giáo sư Richard Henry Friend, Chủ tịch hội đồng Giải thưởng VinFuture, nhấn mạnh tầm quan trọng của Giải thưởng VinFuture trong việc kết nối khoa học với thực tiễn. Ảnh: VinFuture

– Những lĩnh vực nào thu hút sự chú ý trong mùa giải năm nay?

– Tôi không thể tiết lộ cụ thể, nhưng tính tác động toàn cầu của những công trình này sẽ khiến mọi người phải chú ý. Chúng tôi không chỉ vinh danh những đột phá trong khoa học kỹ thuật, mà còn đánh giá cao về tác động của những công trình đoạt giải. Những lĩnh vực có thể khác nhau, nhưng tất cả đều góp phần vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống.

– Thông điệp VinFuture năm nay mà ông muốn hướng đến là gì?

– Chúng tôi hướng đến một giải thưởng có thể phản ánh sinh động về cách mà các tiến bộ khoa học công nghệ tác động đến tình hình phát triển chung toàn cầu. Thông điệp quan trọng nhất chính là sự công nhận toàn cầu đối với những công trình được trao giải, qua đó, nâng cao nhận thức của mọi người về những vấn đề cấp bách chung mà nhân loại đang đối mặt.

Những mùa giải trước, các đề cử được vinh danh đều góp phần vào giải pháp giải quyết những vấn đề toàn cầu, như đại dịch Covid-19, hay khử carbon trong hệ thống năng lượng bằng pin lưu trữ.

Công chúng ngày càng hiểu rằng những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến từng quốc gia hay xã hội riêng lẻ, mà là toàn bộ thế giới. Không nơi nào có thể tránh được hậu quả của những hành động sai lầm hay sự thờ ơ. Ngược lại, mọi xã hội và quốc gia đều có cơ hội chung tay tạo nên những điều tốt đẹp.GS Friend khẳng định, khoa học vật liệu vẫn còn rất nhiều tiềm năng, đặc biệt là cho nền công nghiệp năng lượng.

GS Friend (trái) khẳng định, khoa học vật liệu còn nhiều tiềm năng, đặc biệt là cho nền công nghiệp năng lượng. Ảnh: VinFuture

– VinFuture có ý nghĩa như thế nào đối với tương lai, thưa ông?

– Tôi tin giải thưởng VinFuture đã tạo ra tác động tích cực to lớn trên toàn cầu. Không chỉ thế, VinFuture còn cho thấy con người phải thay đổi, thích nghi. Bởi vì không có giải pháp nào là duy nhất cho tất cả vấn đề. Điều thách thức là chúng ta phải tìm ra cách sử dụng vật liệu một cách hiệu quả, từ sản xuất đến lưu trữ và sử dụng năng lượng.

Chúng ta cũng đã chứng kiến những tiến bộ lớn trong việc sử dụng năng lượng mặt trời. Ở mùa giải năm 2023, VinFuture đã tôn vinh phát minh giúp cải tiến đáng kể hiệu suất pin mặt trời silicon. Tuy nhiên, còn nhiều tiềm năng để cải thiện hiệu quả của các tấm pin này thông qua việc sử dụng vật liệu mới. Đây sẽ là chủ đề quan trọng trong tọa đàm khoa học sắp tới tại Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2024 vào đầu tháng 12 này.GS. Henry Friend chia sẻ về những đề cử cho mùa giải VinFuture năm nay. Ảnh:

GS. Henry Friend chia sẻ về những đề cử cho mùa giải VinFuture năm nay. Ảnh: VinFuture

– Ông kỳ vọng VinFuture giúp Việt Nam nâng vị thế trên bản đồ khoa học toàn cầu như thế nào?

– Uy tín và sức hút của Việt Nam trên bản đồ khoa học toàn cầu ngày càng rõ nét. Giải thưởng VinFuture đã thu hút sự quan tâm từ nhiều nơi, chào đón những nhà khoa học tuyệt vời đến Việt Nam. Ở mùa đầu tiên, TS. Katalin Karikó và GS. Drew Weissman – hai nhà khoa học đoạt giải VinFuture với công trình nghiên cứu giúp phát triển vaccine mRNA ngừa Covid-19 – đã có mặt tại Hà Nội. Hai năm sau khi được vinh danh, họ tiếp tục được trao giải Nobel Y Sinh 2023. Hai chủ nhân khác của giải đặc biệt VinFuture mùa 2 (năm 2022) là TS. Demis Hassabis và TS. John Jumper cũng vừa thắng giải Nobel Hóa học 2024.

Ngoài ra, nhóm tác giả từng được vinh danh ở giải đặc biệt VinFuture 2023 dành cho Nhà khoa học nghiên cứu các lĩnh vực mới là GS. Daniel Joshua Drucker (Canada), GS. Joel Francis Habener (Mỹ), GS. Jens Juul Holst (Đan Mạch) và PGS. Svetlana Mojsov (Mỹ) lần lượt được tạp chí Time vinh danh trong danh sách 100 người ảnh hưởng nhất thế giới và danh sách 100 người ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực sức khỏe. Họ cũng tiếp tục được vinh danh ở nhiều giải thưởng quốc tế uy tín khác trong năm nay như Tang Prize, giải thưởng Lasker Awards…

Những nhà khoa học này đều đã đến Hà Nội và giao lưu với cộng đồng khoa học cùng sinh viên Việt Nam. Điều đó đã truyền cảm hứng, chứng minh rằng Việt Nam cũng dần trở một trong những điểm đến thu hút các tài năng khoa học hàng đầu thế giới.

Lâm Anh/Vnexpress.net

60% công nghệ bảo quản sau thu hoạch ở mức đơn giản

Việc chế tạo, ứng dụng máy móc cho bảo quản sau thu hoạch 60% là công nghệ từ đơn giản đến vừa, thiếu những đầu tư công nghệ cao, theo chuyên gia.

Tại tọa đàm “Nâng cao giá trị nông sản Việt qua công nghệ thực phẩm” tổ chức tại TP HCM sáng 26/10, PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Viện trưởng Viện cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (VIAEP) cho biết, việc chế tạo máy móc, ứng dụng công nghệ bảo quản chưa có nhiều đơn vị đầu tư công nghệ. Việc ứng dụng các hệ thống bảo quản, quản lý nông sản phục vụ xuất khẩu công nghệ cao vẫn chưa nhiều.

Thực tế từ năm 2010 Chính phủ ban hành Quyết định 63 và năm 2013 có Quyết định 68 cụ thể hóa chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp. Theo ông Tuấn, những chính sách này nhiều năm qua hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp mua sắm máy móc, thiết bị nhằm cơ giới hóa phục vụ bảo quản sản phẩm nông sản, giúp giảm tổn thất trong quá trình bảo quản sau thu hoạch. Tuy nhiên việc tiếp cận vốn vay ưu đãi phục vụ mua sắm máy móc của tổ chức, doanh nghiệp nông nghiệp còn hạn chế. Ngoài ra, các loại hình vốn vay ưu đãi cho các thiết bị máy móc nhập khẩu khó đáp ứng với nhu cầu của người sản xuất, đặc biệt là sản phẩm công nghệ cao. Điều này xuất phát do quy định máy móc thiết bị phải qua quy trình giám định trước khi nhập khẩu mới được đưa vào sử dụng.Gặt lúa ở Đông Anh, Hà Nội tháng 5/2023. Ảnh:Ngọc Thành

Gặt lúa ở Đông Anh, Hà Nội tháng 5/2023. Ảnh: Ngọc Thành

Bà Phạm Thị Hồng Hạnh, đại diện Vụ hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho rằng, việc giảm thất thoát, phát thải carbon từ ngành nông nghiệp đòi hỏi phải ứng dụng công nghệ mới. Đây là yêu cầu rất quan trọng nhằm giúp cơ quan quản lý thực hiện cam kết quốc tế về giảm phát thải carbon bằng 0 vào năm 2050 (mục tiêu Net Zero). Bà cho rằng cần tăng cường phối hợp cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, nông dân… ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực chế biến, bảo quản sau thu hoạch.

Ông David Israel, Giám đốc chiến lược toàn cầu Đại học Melbourne (Australia) thừa nhận, đầu tư trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp vốn cần thời gian dài và nguồn vốn lớn. Quá trình này được ông ví như đi qua “thung lũng chết”, khi nguồn vốn nhà đầu tư sụt giảm vì họ chưa nhìn ra giá trị kinh tế của nghiên cứu. Do đó, nhà đầu tư cần có nguồn vốn tài trợ lâu dài và họ cũng cần sự tham gia hỗ trợ của Chính phủ như một đối tác chia sẻ một phần rủi ro.

Nêu kinh nghiệm ở Australia, ông David Israel, các đại học, nhà đầu tư và Chính phủ sẽ cùng hợp tác trong các dự án nông nghiệp mang tính bao trùm, giải quyết vấn đề lớn. Một phần lợi nhuận từ công nghệ mang lại được tái đầu tư giải quyết những bài toán lớn tiếp theo.

Hà An

Pin sinh học lithium nhỏ nhất thế giới dùng cho y tế

Pin lithium-ion tí hon dạng mềm của Đại học Oxford được kích hoạt bằng ánh sáng, có thể sạc lại và phân hủy sinh học.Phiên bản phóng to của pin lithium-ion mềm dẻo, siêu nhỏ. Ảnh: Yujia Zhang

Phiên bản phóng to của pin lithium-ion mềm dẻo, siêu nhỏ. Ảnh: Yujia Zhang

Nhóm nghiên cứu tại Đại học Oxford, Anh, phát triển một loại pin lithium-ion mềm, nhỏ gọn dùng cho lĩnh vực y sinh như cung cấp năng lượng cho các robot tí hon, máy khử rung tim, máy tạo nhịp tim, Interesting Engineering hôm 25/10 đưa tin. “Đến nay, đây là pin lithium-ion hydrogel nhỏ nhất và có mật độ năng lượng vượt trội”, tiến sĩ Yujia Zhang tại Khoa Hóa học thuộc Đại học Oxford, tác giả chính của nghiên cứu mới, cho biết.

Việc phát triển các thiết bị thông minh tí hon, thường nhỏ hơn vài mm3, đòi hỏi nguồn năng lượng nhỏ tương ứng. Với thiết bị y sinh tương tác trực tiếp với mô sinh học, pin cung cấp năng lượng phải làm từ vật liệu mềm để đảm bảo an toàn và ít xâm lấn. Lý tưởng nhất, pin cần có dung lượng lớn, khả năng tương thích sinh học, phân hủy sinh học và kích hoạt được. Chúng cũng cần khả năng điều khiển từ xa để nâng cao chức năng và khả năng thích ứng trong những môi trường phức tạp. Tuy nhiên, việc kết hợp tất cả các đặc điểm này vào một viên pin gặp rất nhiều khó khăn.

Để giải quyết, nhóm nhà khoa học từ Đại học Oxford đã phát triển pin lithium-ion nhỏ, mềm dẻo, sử dụng các giọt hydrogel tương thích sinh học. Ứng dụng quy trình “lắp ráp hỗ trợ chất hoạt động bề mặt”, loại pin mới kết hợp ba giọt siêu nhỏ, mỗi giọt có thể tích 10 nano lít, với sự hỗ trợ của các phân tử giống xà phòng. Hai giọt trong số đó chứa những hạt lithium-ion với khả năng tương tác để tạo ra năng lượng.

Pin mới được kích hoạt bằng ánh sáng, có thể sạc lại và phân hủy sinh học. Trong nghiên cứu, pin đã cung cấp năng lượng cho các phân tử mang điện di chuyển giữa những tế bào tổng hợp, cũng như kiểm soát nhịp đập và khử rung tim cho chuột. Bằng cách tích hợp các hạt từ tính, nó có thể đóng vai trò như một nguồn năng lượng di động.

Theo nhóm nghiên cứu, các thử nghiệm điều trị tim trên động vật cho thấy tiềm năng của loại pin mới như một giải pháp không dây và phân hủy sinh học đầy hứa hẹn. Thiết kế sáng tạo này giúp giải quyết những thách thức chính trong việc cung cấp năng lượng cho thiết bị y sinh, mang lại giải pháp tương thích sinh học, an toàn và hiệu quả. Hiện nhóm đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế.

Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)

Trái Đất bao nhiêu tuổi?

Dựa vào mẫu đá trên Trái Đất và thiên thể khác, giới khoa học ước tính Trái Đất hình thành 10 triệu năm sau khi hệ Mặt Trời ra đời.Vệ tinh NASA quan sát Trái Đất trong mùa bão. Ảnh: NASA Earth Observatory/Michala Garrison/DSCOVR EPIC

Vệ tinh NASA quan sát Trái Đất trong mùa bão. Ảnh: NASA Earth Observatory/Michala Garrison/DSCOVR EPIC

Nếu coi toàn bộ lịch sử Trái Đất là một ngày thì con người sẽ chỉ xuất hiện trong vài giây cuối trước nửa đêm. Vài trăm nghìn năm của loài người chỉ chiếm một phần tí hon trong lịch sử. Vậy hành tinh xanh bao nhiêu tuổi và làm cách nào để tìm ra con số này?

Trái Đất hình thành khoảng 4,54 tỷ năm trước, 10 triệu năm sau khi hệ Mặt Trời ra đời. Sau khi một đám mây khí khổng lồ sụp đổ để tạo ra Mặt Trời, những mảnh còn lại của đám mây này tạo nên các hành tinh.

Tuy nhiên, Trái Đất sơ khai hoàn toàn không giống với thế giới xanh tươi mà con người biết ngày nay. Khi mới chào đời, Trái Đất vẫn còn nóng chảy do những vụ va chạm đã tạo ra hành tinh. Những phần nặng hơn, như sắt, chìm xuống để tạo thành lõi, những phần nhẹ hơn nổi lên bề mặt. Cuối cùng, điều này khiến Trái Đất có nhiều lớp – lõi, lớp phủ, vỏ.

Khi hệ Mặt Trời yên tĩnh lại và ít thiên thạch đâm vào Trái Đất hơn, các đại dương hình thành và sự sống xuất hiện gần như ngay lập tức. “Con người không thể tồn tại trong phần lớn lịch sử Trái Đất, nhưng sinh vật sống dạng tế bào đã tồn tại liên tục khoảng 3,5 tỷ năm”, Mark Popinchalk, nhà thiên văn tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Mỹ và Đại học New York, cho biết. Nghiên cứu mới thậm chí cho thấy con số này có thể còn lớn hơn – 4,2 tỷ năm.

Giới khoa học thu thập thông tin về dòng thời gian nhờ vào mặt đất. Đá là chìa khóa để xác định tuổi Trái Đất và những điều kiện trên hành tinh trong quá khứ. Nhờ phương pháp xác định niên đại bằng đồng vị phóng xạ, giới khoa học có thể sử dụng lượng những nguyên tố phóng xạ khác nhau để tính tuổi một tảng đá. “Tuy nhiên, đá trên Trái Đất có thể gây khó khăn vì hành tinh này có rất nhiều hoạt động, rất bận rộn. Núi lửa, phong hóa và các quá trình địa chất đồng nghĩa, việc tìm kiếm đá từ thời điểm Trái Đất hình thành vô cùng khó”, Popinchalk nói.

Mặt Trăng hình thành từ một vụ va chạm với Trái Đất khi còn non trẻ, nhưng không có những mảng kiến tạo rắc rối như Trái Đất. Các mẫu đá Mặt Trăng từ thời Apollo đã giúp tinh chỉnh ước tính tuổi của hành tinh xanh, và mẫu vật mới từ những nhiệm vụ như Hằng Nga 5 đang bổ sung cho sự hiểu biết của nhân loại về lịch sử Mặt Trăng.

Với các hành tinh lân cận như sao Hỏa, con người có thể phóng robot đến thu thập đá rồi mang về phân tích để xác định niên đại. Nhưng làm thế nào để xác định tuổi của những hành tinh xa xôi quay quanh các ngôi sao khác?

“Cách tốt nhất để tìm hiểu về hành tinh quanh các ngôi sao khác là nghiên cứu chính ngôi sao đó. Tôi đoán tuổi của một ngôi sao bằng cách nhìn vào tốc độ quay. Sao trẻ quay nhanh trong khi sao già sẽ quay chậm. Nếu đo được tốc độ quay của một ngôi sao có hành tinh kèm theo, tôi có thể ước tính tuổi sao và sử dụng một con số tương tự cho hành tinh”, Popinchalk giải thích.

Khi khám phá những thế giới mới ngoài hệ Mặt Trời, con người cũng đang tìm hiểu chi tiết hơn về cách các hành tinh hình thành. Điều này sẽ giúp con người hiểu rõ hơn về lịch sử của chính Trái Đất.

Thu Thảo (Theo Live Science)

TP HCM thu hút tư nhân phát triển công nghệ xanh

Mô hình Trung tâm đổi mới sáng tạo mở (Soihub) được cơ quan quản lý kỳ vọng thu hút các tập đoàn lớn cùng tham gia phát triển, thương mại hóa công nghệ xanh.

Thông điệp được ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (Natec) nói trong sự kiện Ngày đổi mới sáng tạo mở, lần 2 tổ chức sáng 25/10 tại TP HCM.

Theo đó, Trung tâm đổi mới sáng tạo mở đặt tại Công viên phần mềm Quang Trung (quận 12) được thành lập với mục tiêu kiến tạo động lực thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với không gian ươm tạo tài năng, phát triển công nghệ hướng đến tăng trưởng xanh, chống biến đổi khí hậu…Cục trưởng Phạm Hồng Quất (phải) cùng Phó Chủ tịch UBND TP HCM Võ Văn Hoan (thứ 2 từ trái sang) tham quan không gian tại Soihub, trong khuôn khổ Ngày đổi mới sáng tạo mở, sáng 25/10. Ảnh: Hà An

Cục trưởng Phạm Hồng Quất (phải) cùng Phó Chủ tịch UBND TP HCM Võ Văn Hoan (thứ 2 từ trái sang) tham quan không gian tại Soihub, sáng 25/10. Ảnh: Hà An

Theo ông Quất, hơn 10 năm qua Chính phủ có nhiều chính sách, chương trình hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Tuy nhiên, nguồn lực tư nhân, đặc biệt là các tập đoàn lớn tham gia vào hệ sinh thái quốc gia còn hạn chế. Ông nhận định, Soihub được coi là mô hình thí điểm đầu tiên tại Việt Nam về trung tâm đổi mới sáng tạo mở do tư nhân điều hành. Trung tâm có các đối tác trong và ngoài nước như các tập đoàn công nghệ lớn, quỹ đầu tư, chuyên gia… được kỳ vọng sẽ thu hút tài năng trẻ tham gia giải quyết các vấn đề thách thức toàn cầu bằng việc ứng dụng công nghệ, hướng đến lĩnh vực như tăng trưởng xanh, chống biến đổi khí hậu, chuyển đổi số, thành phố thông minh.

Lãnh đạo Natec đánh giá, với TP HCM lực đẩy từ Nghị quyết 98, cùng nhiều chính sách hỗ trợ cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo sẽ thu hút nhiều tài năng công nghệ. Ông cho rằng, các chính sách thúc đẩy và sự hiện diện của Soihub làm cơ sở vững chắc giúp chỉ số đổi mới sáng tạo thành phố tăng hạng thời gian tới.

Đề cập vai trò các tập đoàn, khu vực tư nhân, ông Quất cho rằng, mô hình Trung tâm đổi mới sáng tạo mở sẽ là nơi thu hút tài năng, trường đại học nghiên cứu thương mại hóa công nghệ, giải quyết các bài toán thách thức toàn cầu. Các tập đoàn lớn sẽ có vai trò phát triển dự án, tận dụng nguồn lực và công nghệ từ Soihub đưa sản phẩm thương mại hóa.

Ông đánh giá, khu vực tư nhân cùng với cơ chế hỗ trợ từ chính quyền, nguồn nhân lực đại học sẽ tạo ra những công nghệ giải quyết bài toán lớn. “Đây cũng là cầu nối giúp các tài năng công nghệ người Việt Nam ở nước ngoài có thể đóng góp cho đất nước thông qua các nguồn đầu tư các dự án của tập đoàn tư nhân”, ông Quất nói.

Phó chủ tịch UBND TP HCM Võ Văn Hoan nhận định, việc ươm tạo công nghệ mới, đào tạo nhân lực chất lượng cao và đổi mới sáng tạo là những yếu tố quyết định thành công trong quá trình tăng trưởng xanh, phát triển bền vững mà thành phố đang theo đuổi.

Lãnh đạo TP HCM cho rằng, thành phố đứng trước cơ hội lớn để thành trung tâm đổi mới sáng tạo, dẫn đầu trong chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế số. Các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh, xây dựng đô thị thông minh đã và đang triển khai tại địa phương.

Tuy nhiên, ông Hoan cho rằng, quá trình chuyển đổi hiệu quả cần có sự phối hợp giữa các cấp chính quyền và doanh nghiệp, các chuyên gia trong và ngoài nước. Ông kỳ vọng, sáng kiến Trung tâm đổi mới sáng tạo mở và Trung tâm Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ có những gắn kết trong việc thu hút tư nhân cùng chung tay xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, thúc đẩy cộng đồng đầu tư vào lĩnh vực này, giúp thành phố đạt được các mục tiêu đề ra.Trình diễn công nghệ thực tế ảo tại Soihub, sáng 25/10. Ảnh: Hà An

Trình diễn công nghệ thực tế ảo tại Soihub, sáng 25/10. Ảnh: Hà An

Về phía doanh nghiệp, ông Harry Hughes, Phó chủ tịch hội đồng tư vấn chiến lược SaigonTel cho rằng, giải quyết các thách thức biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh là những xu hướng phát triển toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Để đạt được những mục tiêu, Thành phố cần những quyết định táo bạo, nỗ lực nhiều bên để giải quyết trên cơ sở ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo. Với mô hình Soihub, ông cho biết sẽ kết nối nguồn lực các bên trở thành đơn vị đi đầu trong ứng dụng công nghệ, phát triển bền vững.

Ông Keijo Norvanto, Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam cho biết, sẽ kết nối với các tập đoàn, trường đại học nước này phối hợp với Soihub đưa các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, 5G, vi mạch bán dẫn… nhằm kết nối ý tưởng thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, phát triển công nghệ phục vụ mục tiêu tăng trưởng xanh thời gian tới.

Hà An

Lần đầu ghi nhận loài rết lớn tại Việt Nam

Các nhà khoa học phát hiện loài rết Scolopendra pinguis Pocock, 1891 có kích thước lên tới 6,5 cm trong rừng Phong Nha – Kẻ Bàng, nâng tổng số loài ghi nhận tại Việt Nam lên 9.Scolopendra pinguis trong tự nhiên. Ảnh: Lê Xuân Sơn

Scolopendra pinguis trong tự nhiên. Ảnh: Lê Xuân Sơn

Phát hiện của nhóm nghiên cứu đến từ Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga và Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam vừa công bố trên tạp chí Far Eastern Entomologist. Đây là lần đầu tiên loài này được ghi nhận tại Việt Nam, đánh dấu sự mở rộng phạm vi phân bố về phía Đông của loài này ở Đông Nam Á.

Rết Scolopendra pinguis thuộc họ Scolopendridae có chiều dài trung bình khoảng 5,5 cm, tối đa lên đến 6,5 cm. Các đốt râu đầu tiên của loài này không có lông, trong khi các đốt sau được bao phủ bởi lớp lông tơ nhỏ. Đầu có màu xanh đậm ở phía trước và chuyển sang màu vàng nhạt ở phần sau, tạo nên đặc trưng màu sắc phân biệt cho loài. Ngoài ra, các chi cuối cùng của chúng dài và mỏng.

Thạc sĩ Lê Xuân Sơn, đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, trước khi được phát hiện ở Việt Nam, Scolopendra pinguis từng được ghi nhận tại Myanmar, Thái Lan và Lào. Phát hiện mới này cho thấy loài rết này cũng phân bố trong hệ sinh thái rừng đá vôi của Phong Nha – Kẻ Bàng, khu vực có độ ẩm cao và thảm lá dày, đặc biệt tại những khu rừng tre và rừng thường trên nền đá vôi.

Các mẫu vật thu thập tại Phong Nha – Kẻ Bàng cho thấy chúng có những khác biệt nhỏ so với các mẫu được tìm thấy trước đây tại Thái Lan và Lào. Trên tấm lưng và bụng của các mẫu vật ở Việt Nam xuất hiện các lỗ nhỏ rải rác, trong khi ở Lào và Thái Lan không quan sát thấy đặc điểm này (theo Siriwut, 2016). Điều này làm nổi bật sự đa dạng hình thái và di truyền của loài trong các quần thể khác nhau.

Các mẫu vật hiện được cố định và bảo quản trong cồn 70-80% tại Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga và Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam để phân tích chi tiết.

Thạc sĩ Lê Xuân Sơn cho biết, việc ghi nhận loài Scolopendra pinguis cho thấy khu hệ rết tại Việt Nam vẫn còn tiềm ẩn nhiều loài chưa được khám phá. Nghiên cứu sâu hơn về phân loại học của nhóm này hứa hẹn sẽ mang lại nhiều phát hiện mới.

Năm 2022 Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga cũng phát hiện loài rết Scolopendra cataracta thuộc giống Scolopendra, họ Scolopendridae tại Vườn Quốc gia Tà Đùng, tỉnh Đắk Nông. Loài này có chiều dài cơ thể là 24 cm (tính cả râu và chân cuối là 32 cm). Chiều rộng của các đốt thân trung bình 1,6 cm, lớn nhất đạt 1,8 cm.

Hiện các loài rết lớn thuộc giống Scolopendra nói chung ở Việt Nam bị săn bắt khá phổ biến để phục vụ cho các nhu cầu làm thuốc, sinh vật cảnh hoặc làm thức ăn cho các loài động vật nuôi. Điều này dẫn đến sự suy giảm đáng kể số lượng của các loài này. Việc ghi nhận loài thêm bằng chứng về đa dạng sinh học tại Việt Nam và công tác bảo tồn.

Nhật Minh