Bộ Khoa học và Công nghệ vận hành Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa từ tháng 10, với sự tham gia của hơn 4.000 doanh nghiệp và một số địa phương.
Ông Nghiêm Thanh Hải, Phó Ban Quản lý chất lượng và Đánh giá sự phù hợp, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia cho biết thông tin trên tại họp báo thường kỳ Bộ Khoa học và Công nghệ chiều, 17/10. Cổng thông tin sẽ kết nối các hệ thống truy xuất nguồn gốc hàng hóa, sản phẩm trong nước và quốc tế; quản lý, cập nhật cơ sở dữ liệu sản phẩm, hàng hóa; chia sẻ dữ liệu truy xuất nguồn gốc giữa các hệ thống. Cổng thông tin cũng tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức trên toàn quốc về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ.
Giao diện Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia.
Theo ông Hải, Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc quốc gia từ 1/10, đến nay một số địa phương mong muốn kết nối kỹ thuật vào hệ thống. Bộ Khoa học và Công nghệ cùng các địa phương đang phối hợp thực hiện việc kết nối này.
Hồi tháng 6, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Thông tư 02 yêu cầu các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, dịch vụ thực hiện truy xuất nguồn gốc hàng hóa. Khi xây dựng dữ liệu phải đảm bảo tối thiểu 10 thông tin như tên, hình ảnh sản phẩm, đơn vị, địa chỉ đơn vị sản xuất; các công đoạn, thời gian sản xuất, thời hạn sử dụng sản phẩm; mã truy xuất nguồn gốc; các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, quốc tế… Các thông tin này được in mã gắn trên bao bì sản phẩm và được kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia. Người tiêu dùng có thể tra cứu hạn sử dụng, nguồn gốc của sản phẩm.
Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam đang xây dựng đề án hợp tác doanh nghiệp giúp khôi phục sản xuất thuốc phóng xạ, phục vụ nhu cầu cấp thiết bệnh nhân.
Thông tin được ông Phạm Quang Minh, Viện phó Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (Vinatom) nói tại họp báo thường kỳ Bộ Khoa học và Công nghệ, chiều 17/10. Theo ông Minh, đơn vị đang phối hợp với công ty cổ phần y học Rạng Đông – doanh nghiệp sản xuất dược chất phóng xạ 18F-FDG dùng trong chụp PET-CT xây dựng đề án hợp tác mới, phù hợp quy định pháp luật để trình Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt về mặt chủ trương.
Trước đó, công ty Rạng Đông có trụ sở trong khuôn viên Trung tâm Nghiên cứu Triển khai công nghệ bức xạ (Vinagama), thuộc Vinatom buộc phải dừng sản xuất do vướng mắc về thủ tục pháp lý. Điều này khiến nguồn cung dược chất phóng xạ tại nhiều bệnh viện tại TP HCM bị ảnh hưởng, khiến các máy PET/CT hoạt động cầm chừng, trong khi nhu cầu khám chữa bệnh của bệnh nhân ung thư rất cao. Cơ quan y tế cho rằng đặc điểm của 18F-FDG là có tuổi thọ thấp, thời gian bán rã ngắn trong khoảng 110 phút, nên việc sử dụng phải được tiến hành ngay sau khi sản xuất. Việc vận chuyển thuốc từ các địa phương khác để sử dụng là không khả thi.
Máy PET/CT tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Ảnh: Hà An
Theo ông Minh, đề án hợp tác sản xuất dược chất phóng xạ cần thời gian vì đây là lĩnh vực kỹ thuật cao, cần được đánh giá yếu tố an toàn khi vận hành thiết bị sản xuất thuốc phóng xạ. Vinatom cam kết sớm trình Bộ Khoa học và Công nghệ thông qua đề án hợp tác.
Ông Nguyễn Nam Hải, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết cơ quan nhà nước khi hợp tác doanh nghiệp phải căn cứ theo Luật quản lý, sử dụng tài sản công. Ông Hải cam kết sẽ khẩn trương phối hợp các đơn vị liên quan hoàn thiện đề án đúng quy định, tháo gỡ vướng mắc nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân.
Có 2 loại thuốc phóng xạ gồm chu kỳ bán rã ngắn và dài ngày. Tại Việt Nam có Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (HIC) và một số bệnh viện sử dụng máy gia tốc chủ động sản xuất dược chất phóng xạ có thời gian bán rã ngắn, phục vụ chẩn đoán ung thư. Riêng Viện nghiên cứu hạt nhân chủ yếu sản xuất dược chất phóng xạ có thời gian bán rã dài.
Trước đó trao đổi với VnExpress, TS Phạm Thành Minh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Điều chế đồng vị phóng xạ, Viện nghiên cứu hạt nhân cho biết hiện Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sản xuất thuốc phóng xạ đang đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu. Tuy nhiên Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt có công suất thấp (500 kW) nên chưa cung cấp đủ nhu cầu trong nước. Ngoài ra, Việc nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thuốc cũng gặp khó khăn do vướng các quy định của Bộ Y tế.
TS.BS Nguyễn Xuân Cảnh, Trưởng khoa Y học hạt nhân, bệnh viện Chợ Rẫy nhận định, trong vài năm trở lại đây nhu cầu bệnh nhân sử dụng thuốc phóng xạ trong điều trị và chẩn đoán ngày càng cao. Bệnh viện được trang bị máy gia tốc vòng Cyclotron sản xuất thuốc phóng xạ F-18 FDG sử dụng trong ghi hình PET/CT chẩn đoán và theo dõi các bệnh lý ung bướu và thần kinh. Thuốc phóng xạ F-18 FDG có thời gian bán rã 2 giờ, thời gian sử dụng 8 giờ, có thể cung cấp cho một số bệnh viện trong thành phố. Theo bác sĩ Cảnh, thiết bị đã 15 năm, công suất giảm, dẫn đến khó đáp ứng đủ cho nhu cầu ghi hình PET/CT cho các bệnh viện.
Nhóm sinh viên Đà Nẵng sử dụng vật liệu hydrua kim loại và kỹ thuật gia nhiệt xảy ra quá trình nạp – xả hydro, chế tạo thiết bị lưu trữ hơn 20g hydrogen dạng khí.
Nghiên cứu do Võ Dư Định, Lê Anh Vân, Lâm Đạo Nhơn, Nguyễn Hưng Tâm và Mai Đức Hưng, bộ môn Cơ khí ôtô, khoa Cơ khí, trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng thực hiện từ tháng 10/2023. Sản phẩm hướng đến kỹ thuật lưu trữ năng lượng hydrogen dạng rắn, ứng dụng trong các hệ thống quản lý năng lượng và phương tiện giao thông xanh.
Sản phẩm được thiết kế có hai phần chính: bình chứa hydrogen cùng các bộ phận phụ trợ và hệ thống điều khiển thông minh. Nguyên lý hoạt động của bình chứa dựa trên phản ứng giữa kim loại magie có trong bình chứa và hydrogen để tạo ra hợp chất Magie Hydrua (MgH₂). Khi gia nhiệt ở 250-350°C, sẽ xảy ra quá trình nạp hydrogen trong điều kiện áp suất trên 1 bar. Ngược lại, quá trình giải phóng hydrogen xảy ra khi áp suất dưới 1 bar.
Với hệ thống thông minh bao gồm vi điều khiển và các cảm biến đóng vai trò giám sát, điều khiển nhiệt độ, áp suất. Điều này đảm bảo hệ thống hoạt động hiệu quả và an toàn trong quá trình chuyển pha của hợp chất lưu trữ hydrogen.
Các thành viên nhóm bên sản phẩm thiết bị lưu trữ hydrogen tại Triển lãm sáng tạo sinh viên Đà Nẵng năm 2024. Ảnh: NVCC
Theo trưởng nhóm Võ Dư Định, hiện có ba công nghệ lưu trữ hydrogen dưới dạng khí nén, khí hóa lỏng và rắn. Ở dạng khí nén, hydro được lưu trữ trong các bình áp suất cao, từ 350 đến 700 bar (5.000-10.000 psi). Ở dạng lỏng hydrogen được làm lạnh xuống -253°C để chuyển sang trạng thái lỏng, sau đó lưu trữ trong các bồn chứa cách nhiệt. Với dạng rắn, hydrogen được lưu trữ trong các hợp chất hydrua kim loại hoặc các vật liệu hấp thụ khác như khung hữu cơ kim loại (MOFs), carbon nanotubes…
Theo Định, mỗi phương pháp lưu trữ có ưu, nhược điểm khác nhau. Do vậy, lựa chọn công nghệ phụ thuộc vào mục đích sử dụng như dùng để vận chuyển, lưu trữ tĩnh hay ứng dụng di động… trong đó có tính tới yếu tố chi phí, hiệu suất, an toàn.
Nhóm đánh giá, thách thức trong lưu trữ hydrogen đòi hỏi những công nghệ phức tạp, chi phí cao để đảm bảo an toàn và hiệu suất. Do thiếu hạ tầng hỗ trợ và hiệu quả kinh tế chưa cao nên đây là rào cản lớn trong ứng dụng rộng rãi hydro như một nguồn năng lượng sạch.
Trong nghiên cứu của nhóm, các thành viên muốn chế tạo thiết bị lưu trữ hydrogen dưới dạng rắn do công nghệ này an toàn, ít xảy ra cháy nổ. Công nghệ này cho phép lưu trữ dễ dàng hơn do không yêu cầu áp suất quá cao hoặc nhiệt độ cực thấp như với lưu trữ khí hoặc khí hóa lỏng.
Tính toán trên lý thuyết, sản phẩm của nhóm có thể lưu trữ vật liệu, sau phản ứng cho đầu ra tối đa 20,74g hydrogen dạng khí. Theo Định, đây là con số ước tính do cơ sở vật chất của nghiên cứu còn hạn chế, thiếu một số thiết bị dụng cụ chuyên dụng nên hiện chưa xác định cụ thể khối lượng thực tế.
Nhóm thiết kế bình chứa chuyên dụng theo quy chuẩn và tiêu chuẩn của Việt Nam về bình chịu áp lực. Khi gặp các sự cố ngoài mong muốn trong lúc thiết bị đang hoạt động, hệ thống gia nhiệt gián tiếp ngắt toàn bộ nguồn nhiệt đưa về trạng thái bình thường để đảm bảo an toàn.
Thiết bị lưu trữ hydrogen do nhóm nghiên cứu. Ảnh: NVCC
TS Bùi Văn Hùng, Giảng viên khoa Cơ khí, trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng đánh giá, nghiên cứu của nhóm mới ở giai đoạn tìm ra vật liệu lưu trữ phù hợp có khả năng hấp thụ và giải phóng hydrogen. Nhóm cũng xây dựng mô hình mô phỏng khả năng và điều kiện lưu trữ nhiên liệu này.
Ông đánh giá, khối lượng hydrogen trong sản phẩm của nhóm ước tính khoảng 20g, tương đương khoảng 0.66 kWh, là khá thấp. Mức năng lượng này phù hợp cho các thiết bị nhỏ hoặc thí nghiệm, nhưng không đủ để vận hành các phương tiện như ôtô hay thiết bị công nghiệp trong thời gian dài.
Để tăng khối lượng hydrogen lưu trữ, TS Hùng gợi ý nhóm nên tìm các hợp kim hoặc vật liệu có khả năng hấp thụ hydrogen nhiều hơn mà không tăng quá nhiều khối lượng vật liệu. Tuy nhiên, một số vật liệu có mật độ lưu trữ hydrogen cao đòi hỏi điều kiện và môi trường để quá trình chuyển pha giữa nạp và xả khó xảy ra hơn. Ông cho rằng, dựa trên nghiên cứu này, nhóm cần tiến hành thử nghiệm thêm những vật liệu khó chuyển pha trong thời gian tới.
Lượng francium tồn tại trong vỏ Trái Đất chưa đến 28 g ở bất kỳ thời điểm nào và chưa ai từng thu được số lượng có thể cân đong được, theo IFL Science.
Francium có số nguyên tử là 87 trên bảng tuần hoàn. Ảnh: Intothelight Photography
Nằm ở cuối bảng tuần hoàn và là nguyên tố có độ phóng xạ mạnh nhất trong bảng tuần hoàn, francium cực độc hại đối với bất cứ ai đến gần nó. Độ phóng xạ của nó lên tới 45.000 curi/mg.
Trên thực tế, giới nghiên cứu chưa bao giờ có thể quan sát francium. Không có ứng dụng nào đã biết và dường như không thực hiện bất kỳ chức năng sinh học nào. Nó hiếm hoi và tồn tại chóng vánh đến mức giới khoa học muốn nghiên cứu nguyên tố phải tự tạo francium bằng cách để neutron va chạm với radium hoặc để proton va chạm với thorium.
Trong nhiều năm, sự tồn tại của francium chỉ nằm ở lý thuyết. Chính Dmitri Mendeleev, cha đẻ của bảng tuần hoàn hóa học, là người đầu tiên nêu giả thuyết có một kim loại kiềm chưa phát hiện ẩn trong vũ trụ với số nguyên tử là 87. Điều này dấy lên một cuộc chạy đua nhằm phát hiện nguyên tố bí ẩn. Nhiều nhà khoa học xuất chúng khẳng định đã tìm thấy nó, nhưng kết quả của họ bị bác bỏ sau đó.
Đồng vị duy nhất tồn tại trong tự nhiên của francium là francium-223 hình thành trong quá trình phân rã phóng xạ của actinium. Năm 1939, nó được phát hiện lần đầu tiên bởi một nhà vật lý người Pháp Marguerite Perey làm việc với actinium ở Viện Radium tại Paris, người từng làm trợ lý cá nhân cho Marie Curie. Nguyên tố 87 sau đó được đổi tên thành “francium” theo quê hương của Perey.
Những quan sát sau khi phát hiện hé lộ francium-223 có chu kỳ bán rã chỉ 22 phút. Trong khi đó, uranium-235, một đồng vị phóng xạ dùng làm nhiên liệu cho nhà máy điện nguyên tử, có chu kỳ bán rã khoảng 700 triệu năm.
Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo TP HCM đi vào vận hành, dành phần lớn không gian và các chính sách thu hút cộng đồng cùng tham gia ươm tạo doanh nghiệp theo lĩnh vực ưu tiên.
Thông tin được Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM Nguyễn Việt Dũng nói tại hội nghị giới thiệu Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo (Startup and Innovation Hub – Sihub) và chính sách thu hút các đối tác tham gia, sáng 11/10.
Theo quyết định được Chủ tịch UBND TP HCM Phan Văn Mãi ký hôm 30/9, Sihub được thành lập trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ. Trụ sở mới của Sihub đặt tại 123 Trương Định, quận 3 với khối tòa nhà cao 8 tầng, 3 tầng hầm, tổng diện tích sàn hơn 17.000 m2. Sihub có chức năng tập hợp, kết nối các nguồn lực trong hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại TP HCM, trong nước và quốc tế, cung cấp dịch vụ, hỗ trợ các dự án khởi nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi của thành phố. Dự kiến, Sihub sẽ vận hành trong năm nay.
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM Nguyễn Việt Dũng chia sẻ cơ chế hoạt động của Sihub sáng 11/10. Ảnh: Hà An
Theo ông Dũng, trụ sở mới của Sihub sẽ dành phần lớn không gian thu hút đối tác tư nhân tham gia. Cụ thể, tòa nhà sẽ dành khoảng 5.000 m2 diện tích từ tầng 4 đến tầng 8 thu hút khoảng 5 cơ sở ươm tạo. Số lượng vườn ươm có thể thay đổi theo yêu cầu diện tích sử dụng của mỗi đơn vị. Phần còn lại từ tầng 1 đến tầng 3 là không gian hỗ trợ chung của nhà nước và các khu vực triển lãm, hội nghị kết nối…
Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM cho biết, hầu hết diện tích tại Sihub sẽ dành cho hoạt động ươm tạo doanh nghiệp khởi nghiệp. Vườn ươm là nơi TP HCM triển khai các chính sách của Nghị quyết 20 hỗ trợ không hoàn lại cho các dự án khởi nghiệp ở ba mức 40 triệu, 80 triệu và 400 triệu đồng. Kinh phí hỗ trợ được chi thông qua vườn ươm nhằm giúp doanh nghiệp khởi nghiệp trả tiền lương và sử dụng các dịch vụ khác phục vụ cho hoạt động.
Theo ông Dũng, không gian mở tại Sihub giúp cộng đồng tiếp cận gần hơn với các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Cộng đồng khởi nghiệp cũng có thể trở thành đối tác của cơ quan quản lý trong hoạt động ươm tạo doanh nghiệp và các hoạt động khác như tập huấn nâng cao năng lực, sở hữu trí tuệ, giới thiệu sản phẩm, kết nối thị trường, gọi vốn đầu tư… “Với các chính sách hỗ trợ không hoàn lại, vườn ươm sẽ có nguồn lực ươm tạo nhiều dự án khởi nghiệp hơn, giúp tăng xác suất thành công”, ông Dũng nói.
Về tiêu chí để các đơn vị tham gia hoạt động ươm tạo tại Sihub, lãnh đạo Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM cho biết sẽ có các chỉ số đo lường cụ thể. Vườn ươm khi hoạt động phải thu hút được các startup có chất lượng vào các lĩnh vực ưu tiên như chuyển đổi số, nông nghiệp công nghệ cao, y tế, phát triển bền vững… Các dự án khởi nghiệp phải có lượng vốn đầu tư mạo hiểm, tạo ra việc làm, đóng góp vào nền kinh tế của thành phố.
Bà Phan Thị Quý Trúc, Phó phòng Sở hữu Trí tuệ và Đổi mới Sáng tạo, Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM, cho biết tại Sihub ngoài không gian làm việc còn có các khu vực quầy cà phê, căng tin, khu tổ chức sự kiện kết nối ngoài trời, khu thư giãn… nhằm tạo nhiều điều kiện tốt nhất cho hoạt động kết nối. Sihub được coi là nơi tập hợp, kết nối các thành phần trong hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo như vườn ươm, các tập đoàn lớn, quỹ đầu tư, trường đại học, chuyên gia…
Ngoài ra Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM sắp vận hành hạ tầng trực tuyến với tên gọi H.O.I.P nhằm tập hợp và chia sẻ nguồn lực từ cộng đồng đổi mới sáng tạo trên nền tảng số.
Tòa nhà Trung tâm khởi nghiệp sáng tạo TP HCM sắp đi vào hoạt động. Ảnh: Hà An
Ông Trần Duy Hào, Nhà sáng lập dự án StarGlobal 3D đánh giá, mô hình của Sihub với không gian và các nguồn lực hỗ trợ sẽ tạo cảm hứng làm việc, kết nối tốt hơn cho các dự án khơi nghiệp. Ông cũng đề xuất xây dựng bộ tiêu chí tuyển chọn cụ thể, với các chỉ số đo lường hiệu quả ươm tạo rõ ràng. Vườn ươm cần đảm bảo số lượng các doanh nghiệp ươm tạo, sản phẩm khởi nghiệp gọi được vốn, được bảo hộ sở hữu trí tuệ, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội. “Với các tiêu chí minh bạch, ưu tiên người thực làm tạo động lực cho các vườn ươm tham gia để nhận được các chính sách ưu đãi”, ông Hào nói.
Về phía doanh nghiệp, đại diện Mobifone TP HCM nói hiện đơn vị có các thế mạnh hạ tầng kết nối như công nghệ 5G, IoT, NB IoT, trí tuệ nhân tạo. Ông cho biết, các hạ tầng kết nối này luôn sẵn sàng hỗ trợ doanh nghiệp, cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo tại Sihub khi được tham gia.
Một nghiên cứu mới đăng tải trên Tạp chí American Journal of Preventive Medicine cho thấy, dù bạn bỏ thuốc lá ở độ tuổi nào cũng sẽ giúp kéo dài tuổi thọ. Kết quả của nghiên cứu một lần nữa khẳng định, không bao giờ là quá muộn để ngừng hút thuốc.
Hút thuốc lá từ lâu đã được biết đến là một trong những nguyên nhân gây ung thư, đột quỵ, các bệnh tim mạch và phổi. Vì vậy, các chiến dịch kêu gọi bỏ thuốc lá đã luôn khuyến khích mọi người ngừng hút thuốc để cải thiện sức khỏe. Tuy nhiên, trọng tâm thường là khuyến khích những người trẻ bỏ thuốc “trước khi quá muộn”. Nghiên cứu mới của Trường Y tế Công cộng Đại học Michigan (Hoa Kỳ) đã phát hiện rằng, dù bỏ thuốc ở độ tuổi nào cũng có thể kéo dài tuổi thọ thêm.
Tiến sỹ Thuy Le – thành viên nhóm nghiên cứu cho biết, nhóm đã chứng kiến sự giảm thiểu đáng kể số lượng người trẻ hút thuốc trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, tỷ lệ người cao tuổi hút thuốc vẫn không thay đổi và chưa có nghiên cứu nào chứng minh lợi ích của việc bỏ thuốc với nhóm đối tượng này. Do đó, nhóm nghiên cứu muốn chứng minh việc ngừng hút thuốc có lợi ở bất kỳ độ tuổi nào và tạo động lực cho người cao tuổi bỏ thuốc. Các nhà khoa học đã tính toán tỷ lệ tử vong theo từng độ tuổi và tình trạng hút thuốc – gồm những người chưa từng hút, người hiện đang hút và người từng hút nhưng đã bỏ. Sử dụng dữ liệu từ các nguồn quốc gia của Hoa Kỳ và xây dựng “bảng tuổi thọ”, các nhà khoa học đã tiến hành dự đoán tuổi thọ ở các mốc 10 năm (từ 35 đến 75 tuổi).
Kết quả cho thấy, so với những người chưa từng hút thuốc, những người hút thuốc đến các độ tuổi 35, 45, 55, 65, hoặc 75 sẽ mất trung bình lần lượt là 9,1, 8,3, 7,3, 5,9 và 4,4 năm tuổi thọ nếu tiếp tục hút thuốc đến cuối đời. Tuy nhiên, nếu họ bỏ thuốc ở các độ tuổi đó, họ sẽ tránh mất lần lượt 8,0, 5,6, 3,4, 1,7 và 0,7 năm tuổi thọ. Cụ thể, đối với người bỏ thuốc ở tuổi 65, cơ hội kéo dài thêm ít nhất một năm tuổi thọ là 23,4%, nếu bỏ ở tuổi 75, cơ hội này là 14,2%. Ngoài ra, dữ liệu còn chỉ ra rằng, gần 10% những người bỏ thuốc ở tuổi 65 có thể sống thêm ít nhất 8 năm so với người tiếp tục hút. Tương tự, 8% những người bỏ thuốc ở tuổi 75 có thể sống thêm ít nhất 4 năm.
Tiến sỹ Kenneth Warner – đồng tác giả của nghiên cứu cho biết, lợi ích của việc bỏ thuốc không chỉ tác động tới người trẻ và trung niên. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng, ngay cả người lớn tuổi cũng có thể nhận được lợi ích đáng kể. Dù số năm tuổi thọ tăng thêm có vẻ ít, nhưng đó là một phần lớn trong thời gian sống còn lại của mỗi người. Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng, các bác sỹ có thể sử dụng kết quả của nghiên cứu này để thuyết phục bệnh nhân, đặc biệt là người cao tuổi ngừng hút thuốc nhằm cải thiện sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.
TS Đỗ Thanh Nhỏ cùng cộng sự Đại học New South Wales, Australia thiết kế trái tim nhân tạo tâm thất trái, có khả năng mô phỏng chuyển động, áp suất máu và dòng chảy như trái tim thật.
Trái tim này có thể tái tạo lại các thông số của tim bình thường và bệnh nhân bị bệnh tim (như suy tim). Kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Robotics, tạp chí đầu ngành thế giới về lĩnh vực robot. Nhóm nghiên cứu cũng nộp bằng sáng chế cho công nghệ này.
Công nghệ tim nhân tạo hướng tới hỗ trợ bác sĩ trong chẩn đoán, điều trị cho bệnh nhân cần cấy ghép van tim, người cần dùng bơm tim nhân tạo trong khi chờ tim hiến tặng hoặc sau phẫu thuật tim.
Trái tim nhân tạo tâm thất trái từ phòng thí nghiệm Robot y tế do TS Đỗ Thanh Nhỏ dẫn đầu, nghiên cứu chế tạo. Ảnh: Nhóm nghiên cứu
Chia sẻ với VnExpress từ Australia, TS Đỗ Thanh Nhỏ, 39 tuổi, Giám đốc Phòng thí nghiệm Robot Y tế, chủ nhiệm dự án, có ý tưởng từ năm 2021 khi anh làm việc tại một số bệnh viện ở Sydney. Khi đó các bác sĩ tim lâm sàng rất trăn trở vì nhiều bệnh nhân sử dụng van tim và bơm tim nhân tạo xuất hiện biến chứng sau cấy ghép. Họ mong muốn có một trái tim nhân tạo giống tim bệnh nhân cho phép thử cấy ghép và kiểm tra nếu có các biến chứng hay các thông số nguy hiểm trước khi thực hiện trên bệnh nhân. Đây là lý do TS Nhỏ bắt tay vào nghiên cứu trái tim nhân tạo sử dụng chính công nghệ robot mềm mà phòng thí nghiệm của anh tiên phong.
Nhóm nghiên cứu bắt đầu quá trình tạo ra một trái tim nhân tạo tâm thất trái bằng cách tập trung tái tạo cấu trúc cơ tim. Trước tiên, một trái tim người thật được chụp cắt lớp, sử dụng phần mềm 3D trên máy tính để xác định các góc sắp xếp của các sợi cơ ở lớp trong, lớp giữa và lớp ngoài cùng. Tiếp theo, nhóm sử dụng các sợi cơ nhân tạo đã phát triển trước đó và sắp xếp các sợi cơ này chính xác theo hình dạng và góc của các sợi cơ của tim thật. Việc lựa chọn loại cơ nhân tạo và cấu trúc nhiều lớp cho phép tạo ra một mạng lưới cơ tim dày đặc gần giống với trái tim tự nhiên nhất.
Anh giải thích, tâm thất trái là buồng bơm chính và phức tạp nhất của tim. Bộ phận này hoạt động theo cách đặc biệt nhờ hệ thống liên tục các sợi cơ tim sắp xếp với nhiều lớp chồng chất lên nhau và với các góc khác nhau. Nếu có thể tái tạo hoạt động tâm thất trái, việc tạo ra tâm thất phải và các tâm nhĩ còn lại sẽ rất dễ dàng.
Tâm thất trái của trái tim với 3 lớp cơ tim, mô phỏng theo tim thật con người. Ảnh: Nhóm nghiên cứu
Theo nhóm nghiên cứu, hai cơ chế quan trọng nhất của một trái tim nhân tạo là khả năng tái tạo các thông số liên quan đến đặc tính cơ học, lực tác động đến cấu trúc và chức năng của tim (biomechanics), các thông số liên quan đến động lực học của dòng chảy, huyết áp trong tim, mạch máu (hemodynamics).
Ban đầu họ gặp khó khăn trong việc tái tạo nhiều lớp cơ tim chồng chất lên nhau và sắp xếp chúng, gia công và điều khiển để tái tạo chính xác giống tim người. Sau nhiều lần thất bại, nhóm đã thành công thiết kế và tạo một tâm thất trái của trái tim với 3 lớp cơ tim bao gồm ngoại tâm mạc (epicardium), cơ tim (myocardium) và nội tâm mạc (endocardium). Nhờ có cấu trúc gần giống với tim thật nhất, nhóm đã tạo ra các chuyển động sinh học ba chiều, độ co bóp, áp suất máu và dòng chảy giống tim người nhất.
“Đến nay thế giới chưa có một trái tim nhân tạo nào có khả năng tái tạo những thông số như vậy giống như tim người. Hiện nay mới chỉ có một nhóm nghiên cứu ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) của Mỹ cũng phát triển công nghệ tim nhân tạo, song chưa thể thành công tái tạo lại các thông số của tim người”, TS Nhỏ nói.
PGS.TS Phan Hoàng Phương, Trường Kỹ thuật Cơ khí và Chế tạo, Đại học New South Wales cho biết: “Đây là trái tim robot mềm đầu tiên trên thế giới có khả năng tái tạo cơ sinh học cơ tim và huyết động học của tim người”.
Nhóm nghiên cứu đang mở rộng công trình và bắt đầu tích hợp thêm các cơ quan bên trong tim như các van tim, động mạch chủ, các tâm thất, cơ nhú. Để thử nghiệm tính khả thi, nhóm đã sử dụng trái tim mới để đánh giá các hệ thống máy bơm tim cho người bị suy tim và các cơ cấu mổ ống thông mềm (catheters). Mục đích hỗ trợ việc mổ tim nội soi ít xâm lấn dùng để sửa chữa van tim hay các thủ thuật khác liên quan đến tim mạch. Kết quả, trái tim nhân tạo còn dự đoán trước những biến chứng xảy ra với một máy bơm tim hỗ trợ tâm thất trái (LVAD) và máy bơm tim bóng đối xung trong động mạch chủ (IABP). Đây là những thiết bị hỗ trợ tim mạch được sử dụng để tăng cường lưu lượng máu và giảm gánh nặng cho tim trong các trường hợp suy tim hoặc sau phẫu thuật tim.
GS Nigel Lovell, trưởng khoa Trường Cao học Kỹ thuật Y sinh, Giám đốc Viện Công nghệ sức khỏe Tyree IHealthE cho hay, tính hữu ích của công trình này là khả năng tái tạo chính xác chuyển động, áp suất máu và dòng chảy của máu của người bình thường và người bị bệnh tim. Khả năng này cung cấp thông tin có ý nghĩa lâm sàng cho những người đang phát triển các thiết bị y tế mới và các thủ thuật phẫu thuật ở giai đoạn đầu. Nhờ vậy họ giảm phụ thuộc vào thử nghiệm trên động vật, các chi phí tài chính và đạo đức liên quan.
Thiết bị có thể dùng như công cụ hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng đánh giá tác động dự đoán của các can thiệp tim mạch, chẳng hạn như cấy ghép van hoặc máy bơm tim trước khi bệnh nhân trải qua phẫu thuật. Các bác sĩ cũng có thể dùng để nghiên cứu các cơ chế đằng sau một số bệnh tim mạch và cách điều trị. “Đây sẽ là một cuộc cách mạng trong ngành tim mạch”, GS Nigel Lovell nhấn mạnh.
TS Đỗ Thanh Nhỏ. Ảnh: NVCC
TS Đỗ Thanh Nhỏ sinh ra tại xã Hiệp Thạnh, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, trong gia đình làm nông. Anh là cựu học sinh của trường THPT Quang Trung, Gò Dầu. Năm 2004, anh theo học tại Khoa Cơ khí thuộc Đại học Bách Khoa TP HCM và được chọn vào lớp Kỹ sư tài năng, chuyên ngành Kỹ thuật chế tạo. Năm 2011, anh nhận học bổng toàn phần cho chương trình tiến sĩ, chuyên ngành robot mổ tại trường Kỹ thuật Cơ khí và Hàng không, thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore. TS Nhỏ làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại ĐH California, Santa Barbara (UCSB), Mỹ. Anh gia nhập Đại học New South Wales (UNSW Sydney), Australia với vai trò giảng viên cao cấp (Scientia) và thành lập phòng thí nghiệm Robot y tế.
Hướng nghiên cứu chính của anh chuyên về robot mổ nội soi ít xâm lấn cho tim mạch và ung thư đường tiêu hóa, in 3D sinh học, robot mềm, cơ nhân tạo, vải thông minh, thiết bị trợ tim, thiết bị nâng cao khả năng của con người và phục hồi chức năng cho người tàn tật, và các thiết bị tái tạo cảm xúc. Hiện anh sở hữu hơn 10 bằng phát minh sáng chế quốc tế.
“KỸ THUẬT PHẪU THUẬT TUYẾN GIÁP” – Phương Pháp “Gỡ cá khỏi lưới”
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ.
Ngày 10/10/2024, trong khuôn khổ Tuần lễ Sách Khoa học và Công nghệ 2024, buổi tọa đàm giới thiệu sách mới xuất bản của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật – cuốn sách Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” – tác giả Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm đã diễn ra thành công, thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia y tế, bác sĩ và sinh viên y dược và y khoa. Buổi tọa đàm không chỉ là cơ hội để các bác sĩ trẻ và sinh viên tiếp cận với những kiến thức mới mẻ trong lĩnh vực y học, mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chia sẻ kiến thức trong cộng đồng y tế..
Mở đầu buổi tọa đàm, Ban Tổ chức Tuần Lễ sách Khoa học và Công nghệ 2024 và Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật giới thiệu cuốn sách Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” như một giải pháp cấp thiết trong bối cảnh số lượng bệnh nhân mắc các bệnh lý tuyến giáp, đặc biệt là ung thư tuyến giáp, ngày càng gia tăng. Mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 5.000 ca ung thư tuyến giáp mới, và phẫu thuật được coi là phương pháp chính để điều trị căn bệnh này. Tuy nhiên, việc thực hiện phẫu thuật tuyến giáp đòi hỏi sự tỉ mỉ và kỹ năng chuyên môn cao để tránh các biến chứng nguy hiểm như tổn thương dây thần kinh thanh quản hoặc tuyến cận giáp.
Chia sẻ từ tác giả – Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm
Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm trong buổi tọa đàm giới thiệu cuốn sách
“KỸ THUẬT PHẪU THUẬT TUYẾN GIÁP” – Phương Pháp “Gỡ cá khỏi lưới” do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ xuất bản
Trong buổi tọa đàm, bác sĩ Mai Văn Sâm đã chia sẻ về hành trình hình thành và phát triển cuốn sách. Ông nhấn mạnh rằng các bệnh lý tuyến giáp, đặc biệt là ung thư, không chỉ là một thách thức y học mà còn là cơ hội để các bác sĩ không ngừng hoàn thiện kỹ năng phẫu thuật của mình. Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” được giới thiệu trong cuốn sách là một kỹ thuật phẫu thuật giúp bảo vệ các cấu trúc quan trọng xung quanh tuyến giáp như dây thần kinh thanh quản và tuyến cận giáp, giảm thiểu các biến chứng và giúp bệnh nhân hồi phục nhanh chóng.
Câu nói đầy ý nghĩa của bác sĩ Sâm “Một kỹ thuật thành công, một đề tài thành công là một kỹ thuật, một đề tài mà ai cũng có thể sử dụng” đã thể hiện mong muốn của ông trong việc chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật phẫu thuật với cộng đồng y tế, để không chỉ cá nhân ông mà các bác sĩ khác cũng có thể áp dụng và nâng cao hiệu quả điều trị.
Giá trị trong việc nâng cao chất lượng tuyến giáp ở Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm chia sẻ kinh nhiệm của bản thân trong ngành y khoa.
Cuốn sách không chỉ là một tài liệu khoa học, mà còn mang tính cấp bách trong việc nâng cao chất lượng phẫu thuật tuyến giáp ở Việt Nam, cuốn sách ra đời như một nguồn tài liệu hữu ích, cung cấp những kiến thức cần thiết giúp các bác sĩ tiếp cận và áp dụng phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” trong điều trị bệnh nhân.
Thảoluận và tương tác – điểm nhấn của tọa đàm
Khách mời tham gia thảo luận cùng Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm.
Buổi tọa đàm trở nên sôi nổi hơn khi khán giả đặt câu hỏi về quá trình phẫu thuật thực tế và những khó khăn mà bác sĩ Sâm đã gặp phải trong việc bảo đảm an toàn cho bệnh nhân trong các ca phẫu thuật tuyến giáp. Bác sĩ đã chia sẻ về một số ca phẫu thuật phức tạp mà ông đã thực hiện thành công, nhấn mạnh rằng sự tỉ mỉ và kiên nhẫn là những yếu tố không thể thiếu trong quá trình phẫu thuật. Ông cũng chia sẻ về các yếu tố quan trọng giúp đạt được kết quả phẫu thuật thành công, như việc chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi mổ, kỹ năng phân tích hình ảnh siêu âm và tư duy chiến lược trong khi mổ.
Một trong những điểm nhấn của buổi tọa đàm chính là giá trị thực tiễn mà cuốn Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp –Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” mang lại. Cuốn sách không chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà còn cung cấp những hướng dẫn chi tiết về quy trình phẫu thuật, từ việc chuẩn bị cho ca mổ đến việc xử lý các biến chứng sau mổ. Các bác sĩ tham dự buổi tọa đàm đều đánh giá cao tính ứng dụng cao của cuốn sách, là một tài liệu tham khảo cần thiết trong quá trình học tập và làm việc của các sinh viên và bác sĩ trẻ.
Buổi tọa đàm kết thúc với những lời khuyên từ bác sĩ Mai Văn Sâm dành cho các bạn sinh viên y dược và các bác sĩ trẻ. Ông khuyến khích họ luôn giữ niềm đam mê với nghề, không ngừng học hỏi và rèn luyện kỹ năng để có thể mang lại kết quả điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Những chia sẻ của bác sĩ Sâm không chỉ truyền cảm hứng cho thế hệ bác sĩ trẻ, mà còn khẳng định tầm quan trọng của việc cập nhật kiến thức và không ngừng cải tiến các kỹ thuật trong ngành y.
Cuốn sách Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” hứa hẹn sẽ trở thành một tài liệu tham khảo quý báu, góp phần nâng cao chất lượng điều trị và giảm thiểu biến chứng cho các bệnh nhân mắc bệnh lý tuyến giáp.
Tại buổi làm việc với Học viện Kỹ thuật Quân sự (Bộ Quốc phòng), ngày 10/10/2024, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt khẳng định, Bộ KH&CN luôn phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng bám sát các định hướng của Quân ủy Trung ương để xây dựng và triển khai những nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, tiến tới trang bị cho quân đội góp phần vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Tại buổi làm việc, Thượng tướng Lê Minh Thái, Giám đốc Học viện báo cáo với đoàn công tác một số kết quả thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học giai đoạn 2018-2024, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tiếp theo.
Theo đó, giai đoạn từ 2018-2024, Học viện đã triển khai gần 1.200 đề tài, nhiệm vụ KH&CN các cấp trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu định hướng cơ bản. Đặc biệt, hoạt động nghiên cứu ứng dụng luôn là thế mạnh của Học viện. Hiện Học viện có 18 nhóm nghiên cứu mạnh làm cơ sở phát huy năng lực nghiên cứu, bồi dưỡng đội ngũ, hình thành và phát triển lực lượng nghiên cứu chuyên sâu theo mô hình nhóm nghiên cứu mạnh; có định hướng và sản phẩm nghiên cứu cơ bản bám sát định hướng công nghệ ưu tiên của Nhà nước, Quân đội, các công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, Học viện đã tạo ra nhiều sản phẩm KH&CN phục vụ quốc phòng và sản phẩm lưỡng dụng phục vụ phát triển KT-XH như: Hệ thống dẫn đường quán tính, Thiết bị chế áp flycam, Rô bốt hỗ trợ học tiếng Anh, Rô bốt ứng dụng trong y tế…
Trong giai đoạn vừa qua đã có gần 1.400 đề tài nghiên cứu khoa học của học viên, sinh viên được triển khai thực hiện với hơn 1.200 công bố khoa học trên các tạp chí ISI/Scopus, trong đó có nhiều công bố trên các tạp chí thuộc nhóm Q1 có chỉ số trích dẫn cao…
Toàn cảnh buổi làm việc.
Để tăng tiềm lực KH&CN trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Học viện đề xuất Bộ KH&CN, Bộ Quốc phòng được triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu tiềm năng hỗ trợ các nhà khoa học trẻ sáng tạo, đột phá nghiên cứu trong lĩnh vực ứng dụng; có chính sách ưu đãi với nhóm nghiên cứu mạnh khi thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quốc gia; hướng dẫn việc xử lý tài sản hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN; đồng thời có cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư, thương mại hoá sản phẩm.
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt chúc mừng Học viện trong giai đoạn 5 năm vừa qua luôn là đơn vị hàng đầu trong hoạt động giáo dục đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Với các con số gần 6000 bài báo được công bố; 18 nhóm nghiên cứu mạnh; 52 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản; 55 nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng các cấp thực sự là những con số rất ấn tượng, phản ánh rõ nét nhất năng lực của Học viện.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại buổi làm việc.
Bộ trưởng cho biết, trong thời gian vừa qua, Bộ KH&CN và Bộ Quốc phòng đã có sự phối hợp chặt chẽ, bám sát các định hướng của Quân ủy Trung ương để xây dựng và triển khai những nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, tiến tới trang bị cho quân đội góp phần vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, Học viện Kỹ thuật quân sự là một trong những đơn vị thường xuyên phối hợp với Bộ KH&CN, không chỉ cung cấp các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà còn trực tiếp chủ trì thực hiện nhiều đề tài, dự án lớn được Bộ Quốc phòng giao thực hiện.
Trên cơ sở các đề xuất, kiến nghị của Học viện và các ý kiến trao đổi, thảo luận của các đơn vị chuyên môn thuộc Bộ KH&CN, Bộ trưởng đề nghị đối với những đề xuất, kiến nghị đã được trao đổi thống nhất, Học viện Kỹ thuật quân sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chuyên môn liên quan của Bộ KH&CN tập trung triển khai theo đúng quy định; với các kiến nghị, đề xuất đang trong quá trình xem xét, giải quyết, Học việc tiếp tục bám sát các đơn vị chức năng của Bộ KH&CN để được tháo gỡ, hướng dẫn triển khai thực hiện.
Bộ trưởng nhận định, với tiềm lực KH&CN lớn mà không nhiều đơn vị giáo dục đại học có được, Học viện cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò đơn vị giáo dục đại học, nghiên cứu KH&CN đầu ngành trong quân đội, tập trung nghiên cứu, ứng dụng KH&CN trong chế tạo mới, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật theo các định hướng đã được Bộ Quốc phòng phê duyệt để phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
Trong khuôn khổ buổi làm việc, Bộ trưởng và đoàn công tác đã tới thăm, kiểm tra khu trưng bày các kết quả nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, một số sản phẩm nghiên cứu khoa học điển hình của Học viện; tham quan các phòng thí nghiệm, phòng trang bị và các phòng học chuyên môn.
Các đại biểu tham quan phòng thí nghiệm thiết kế vi mạch chuyên dụng trong quốc phòng.
Các đại biểu tham quan phòng trang bị sonar thủy âm. Hệ thống mô phỏng bán tự nhiên đài điều khiển TLPK S-300PMU1.
Nguồn: Trung tâm NC&PT truyền thông KH&CN, Vụ Công nghệ cao
Triển lãm sách khoa học và công nghệ (KH&CN) năm 2024 với chủ đề “Tri thức và công nghệ: Hành trình Đổi mới sáng tạo” không chỉ phản ánh sự phát triển của nền KH&CN Việt Nam qua các thời kỳ mà còn truyền tải thông điệp về vai trò của KH&CN đối với phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định tại Lễ khai mạc Triển lãm sách KH&CN năm 2024 do Cục Thông tin KH&CN quốc gia phối hợp với Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật tổ chức.
Phát biểu tại Triển lãm, ông Trần Đắc Hiến, Cục trưởng Cục Thông tin KH&CN quốc gia cho biết, Triển lãm sách KH&CN 2024 là sự kiện thường niên của Bộ KH&CN, nhằm lan tỏa văn hóa đọc và thúc đẩy khai thác các nguồn tin KH&CN phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, góp phần tôn vinh những thành tựu KH&CN, vai trò của tri thức KH&CN đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Đây cũng là sự kiện đánh dấu kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2024), 65 năm thành lập Bộ KH&CN (1959-2024) và hướng tới Ngày khoa học vì hòa bình và phát triển thế giới 10/11.
Ông Trần Đắc Hiến phát biểu khai mạc Triển lãm.
Chia sẻ tại sự kiện, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho biết, trong những năm qua, Bộ KH&CN đã quan tâm, chú trọng đầu tư phát triển tiềm lực thông tin KH&CN, thông qua các đơn vị đầu mối là Cục Thông tin KH&CN quốc gia và Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu về tài liệu của cộng đồng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST); tuyên truyền, phổ biến các thành tựu KH,CN&ĐMST của đất nước, đồng thời đưa những tri thức mới nhất của nhân loại đến với bạn đọc. Các đơn vị cũng tiếp tục đổi mới cả về hình thức và nội dung cung cấp thông tin KH&CN để đáp ứng yêu cầu phát triển KH,CN&ĐMST trong giai đoạn mới.
Thứ trưởng Lê Xuân Định phát biểu tại Lễ khai mạc Triển lãm sách KH&CN.
Nhận định tài nguyên thông tin trở thành tiềm lực cơ bản cho mọi hoạt động kinh tế – xã hội, văn hóa, khoa học, giáo dục, quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia, Thứ trưởng Lê Xuân Định mong muốn, bạn đọc không chỉ dừng lại ở việc tham quan và dự các hoạt động của Triển lãm mà còn tiếp tục khai thác, sử dụng kho tri thức phong phú và đa dạng hiện có tại Cục Thông tin KH&CN quốc gia và Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, lan tỏa tới các cộng đồng khoa học trong cả nước.
Các đại biểu cắt băng khai mạc Triển lãm.
Dự Triển lãm, khách tham quan được tìm hiểu về hành trình đổi mới sáng tạo của đất nước qua những trang sách khoa học theo 3 giai đoạn:
Trước 1975 với những cuốn sách quý của các nhà khoa học nổi tiếng, có đóng góp lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước như: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di… Trong đó, có những cuốn sách độc bản còn duy nhất tại Thư viện của Cục Thông tin KH&CN quốc gia.
Giai đoạn 1975-2002 là sách của các nhà khoa học, chính trị, quân sự, y dược có đóng góp lớn vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh như: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Tài Thu, Bùi Huy Giáp, Nguyễn Điền…
Giai đoạn từ 1975 đến nay được chia làm 2 khu trưng bày sách in và tài liệu số. Khu vực sách in trưng bày sách giai đoạn đổi mới, đặc biệt là các nhà khoa học Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng các lĩnh vực khoa học trên thế giới. Khu vực tài liệu số giới thiệu tài liệu điện tử cập nhật mới nhất từ các cơ sở dữ liệu hàng đầu thế giới.
Ông Bùi Minh Cường, Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật trao tặng sách cho các đơn vị.
Trong khuôn khổ Triển lãm diễn ra 3 Hội thảo khoa học với chủ đề: “Gen AI: Công cụ đột phá trong nghiên cứu học thuật”, “Kỹ năng khai thác nguồn tin KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học”, “AI và Hướng nghiệp”; 2 phiên Tọa đàm giới thiệu sách: “Từ điển KH,CN&ĐMST Việt-Anh-Trung”; “Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” cùng nhiều hoạt động bên lề khác như tập huấn bạn đọc, giới thiệu sách và cơ sở dữ liệu.
Thứ trưởng Lê Xuân Định và các đại biểu tham quan các gian hàng Triển lãm sách.
Đặc biệt, đại biểu tham dự Lễ khai mạc Triển lãm và Hội thảo sẽ được tặng tài khoản truy cập miễn phí tới các cơ sở dữ liệu quốc gia và quốc tế của Cục Thông tin KH&CN quốc gia như: Cơ sở dữ liệu công bố KH&CN Việt Nam, Nhiệm vụ KH&CN Việt Nam, ScienceDirect, SpringerNature, IEEE, Sage, OECD, ACS, ProQuest Central… Đây là cơ hội để người dân, đặc biệt là những người yêu thích KH&CN có thể tiếp cận nguồn tài nguyên khoa học chất lượng, hỗ trợ tối đa cho học tập và nghiên cứu.
Triển lãm diễn ra từ ngày 10-12/10/2024 tại Cục Thông tin KH&CN quốc gia.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN