VKIST ký kết thỏa thuận hợp tác với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Sóc Trăng

Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) sẽ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Sóc Trăng triển khai các chương trình nghiên cứu và chuyển giao công nghệ mới ứng dụng trong doanh nghiệp phát triển kinh tế địa phương, nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng, thế mạnh trên lĩnh vực hoạt động của mỗi bên vì sự phát triển lâu dài, bền vững và cùng có lợi.
Thông tin được chia sẻ tại buổi Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa VKIST với Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng ngày 24/10/2024.
Theo nội dung hợp tác, hằng năm VKIST sẽ cung cấp thông tin về các công trình nghiên cứu và công nghệ mới, hiện đại trong lĩnh vực KH&CN thông qua Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, Sở sẽ cung cấp định hướng đề xuất nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ phù hợp với các lĩnh vực nghiên cứu của VKIST; hỗ trợ VKIST trong việc kết nối giữa các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp để triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển, chuyển giao công nghệ; cung cấp thông tin, hỗ trợ nguồn lực để VKIST tổ chức thực hiện hoạt động KH&CN phục vụ các nhu cầu cấp bách của tỉnh Sóc Trăng trong phạm vi, thẩm quyền của Sở KH&CN. Ngoài ra, hai bên phối hợp thực hiện từ 1-3 công trình nghiên cứu ứng dụng do VKIST chủ trì hoặc phối hợp thực hiện để phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Sóc Trăng.
Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng phối hợp và hỗ trợ VKIST thực hiện chuyển giao công nghệ về các lĩnh vực KH&CN cho các đơn vị trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng ứng dụng, triển khai. Bên cạnh đó, hợp tác triển khai các hoạt động hỗ trợ ươm tạo, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong các lĩnh vực; Xây dựng và triển khai mạng lưới các chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ, khởi nghiệp từ mạng lưới đối tác, chuyên gia của các bên…
VKIST và Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng ký thỏa thuận hợp tác giữa hai đơn vị.
Phát biểu tại buổi Lễ, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy nhấn mạnh, Lễ ký kết hợp tác giữa VKIST với Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng như mô hình thí điểm để thực hiện tại địa phương. Thứ trưởng hy vọng mô hình hợp tác sẽ thành công, để từ đó nhân rộng ra các địa phương khác trong cả nước, đưa VKIST trở thành một viện hàng đầu về nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy phát biểu tại buổi Lễ.
Tại Lễ ký kết, ông Vũ Đức Lợi, Viện trưởng VKIST cho biết, với sứ mệnh trở thành viện hàng đầu về nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại, cung cấp các dịch vụ kỹ thuật tiên tiến, VKIST luôn sẵn sàng hợp tác và hỗ trợ các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp vì sự phát triển kinh tế bền vững của Việt Nam. Vì vậy, đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong hợp tác giữa hai đơn vị, mở ra nhiều cơ hội mới để thúc đẩy nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Các nội dung tại biên bản ký kết sẽ phát huy thế mạnh, điều kiện của hai bên về nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng trong sản xuất và đời sống, xây dựng mối liên kết, hợp tác nâng cao hiệu quả trong hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số phục vụ thiết thực sản xuất và đời sống, phát triển gắn kết giữa Viện Nghiên cứu với doanh nghiệp, hợp tác xã, các cơ quan, đơn vị, địa phương, phục vụ xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Sóc Trăng.
Tại Lễ ký kết, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Khởi cho rằng, Sóc Trăng là tỉnh hội tụ đầy đủ các yếu tố về vị trí địa lý, thổ nhưỡng, nguồn nước, nguồn nhân lực… để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, quy mô lớn. Trong đó, thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn; lúa là sản phẩm chủ lực và cây ăn trái là sản phẩm tiềm năng được chú trọng từng bước tham gia thị trường trong và ngoài nước, góp phần nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu. Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng đã và đang có nhiều sáng kiến trong việc hợp tác ứng dụng khoa học, công nghệ và đã thực hiện nhiều chương trình, dự án có ý nghĩa thiết thực, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của tỉnh.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc

Nghệ An: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững dựa trên nền tảng KH,CN&ĐMST, chuyển đổi số

Để phấn đấu đưa Nghệ An trở thành “Trung tâm khoa học và công nghệ (KH&CN) khu vực Bắc trung Bộ”, ngành KH&CN Nghệ An cần phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương đồng thời quán triệt quan điểm “Phát triển kinh tế nhanh, bền vững dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), chuyển đổi số”.

Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 65 năm ngành KH&CN Nghệ An diễn ra ngày 25/10/2024, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã nhấn mạnh như trên.


Toàn cảnh buổi Lễ.

Ngày 25/10/1959, Hội Phổ biến Khoa học – Kỹ thuật Nghệ An được thành lập với nhiệm vụ tuyên truyền và phổ biến khoa học kỹ thuật, đây là ngày đánh dấu sự ra đời và trở thành ngày truyền thống của ngành KH&CN Nghệ An. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, ngành KH&CN đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của tỉnh nhà.

KH&CN đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng, thể hiện đóng góp năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng GRDP của tỉnh, giai đoạn 2017-2022 đạt 42,1%. Nhiều kết quả nghiên cứu, tiến bộ KH&CN được áp dụng mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và đời sống, góp phần tạo ra một số sản phẩm hàng hóa có chất lượng, nhất là về nông nghiệp, thủy sản. Các nhiệm vụ về khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản về văn hóa, lịch sử, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, đưa ra những nhận thức mới, cung cấp một số luận cứ khoa học về hoạch định quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Các hoạt động ứng dụng, thu hút dự án ứng dụng công nghệ cao được quan tâm nhất là trong lĩnh vực y dược, nông nghiệp, điện tử, tự động hoá…

Đóng góp của KH&CN được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực và có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Các đề tài, dự án nghiên cứu phát triển các sản phẩm theo chuỗi từ khâu giống, quy trình thâm canh, thu hoạch sản phẩm, chế biến sau thu hoạch, xây dựng nhãn hiệu và phát triển thị trường sản phẩm. Hiệu quả ứng dụng của các đề tài, dự án đạt trên 86%, cao hơn bình quân cả nước.

Hoạt động đổi mới công nghệ đã hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ KH&CN, đổi mới thiết bị công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp một số mặt hàng đã được khẳng định thương hiệu. Nhiều sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn quốc tế, bảo hộ về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp có sức cạnh tranh trên thị trường.

Tiềm lực KH&CN được nâng lên. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo tỉnh được hình thành và phát triển khá vững chắc, có đầy đủ các nhân tố cấu thành hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST. Phong trào khởi nghiệp sáng tạo phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.

Chia vui với cán bộ ngành KH&CN Nghệ An trong Lễ kỷ niệm 65 năm thành lập, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt chúc mừng và đánh giá cao những thành tựu mà ngành KH&CN tỉnh đạt được, những thành tích đó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang yêu cầu cả nước phải tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước để phát triển mạnh mẽ KH,CN&ĐMST, trở thành động lực chính cho tăng trưởng của nền kinh tế. Với định hướng nêu trên, nhằm phấn đấu đưa Nghệ An trở thành “Trung tâm KH&CN khu vực Bắc trung Bộ”, Bộ trưởng đề nghị trong thời gian tới, sở KH&CN Nghệ An cần phối hợp chặt chẽ với Bộ KH&CN trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách; Chủ động xây dựng, ban hành theo thẩm quyền chính sách, chương trình, kế hoạch để thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương, phục vụ hiệu quả cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.


Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại buổi Lễ.

Bộ trưởng cũng đề nghị, ngành KH&CN tỉnh tiếp tục nâng cao tiềm lực KH,CN&ĐMST của địa phương thông qua các nhiệm vụ; Quán triệt quan điểm “Phát triển kinh tế nhanh, bền vững dựa trên nền tảng ứng dụng KH,CN&ĐMST, chuyển đổi số” đã được xác định tại Quy hoạch tỉnh Nghệ An; phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp, ĐMST ở địa phương; tăng cường kết nối cung – cầu công nghệ; đẩy mạnh thương mại hoá kết quả KH&CN; thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN hiệu quả, hiện đại và hội nhập. Tăng cường hợp tác, liên kết địa phương, liên kết vùng, hợp tác quốc tế trong triển khai hoạt động KH,CN&ĐMST.


Bộ trưởng và các đại biểu chụp ảnh tại buổi Lễ.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, Sở KH&CN tỉnh Nghệ An

Đại học Bách Khoa Hà Nội thành lập viện nghiên cứu sâu về AI

Viện AI4LIFE được thành lập, trở thành điểm kết nối nghiên cứu hàn lâm và ứng dụng thực tế của đại học và doanh nghiệp, khai thác tối đa lợi ích trí tuệ nhân tạo mang lại.

Thông tin được PGS.TS Nguyễn Phi Lê, Trường Công nghệ thông tin – Truyền thông, Đại học Bách khoa Hà Nội, điều hành Viện nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI4LIFE) chia sẻ tại lễ thành lập Viện sáng 24/10.

Viện AI4LIFE định hướng tập trung nghiên cứu chuyên sâu AI ứng dụng vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đời sống. Viện sẽ có 6 phòng thí nghiệm, bao gồm: Học máy, công nghệ bán dẫn thông minh, khoa học sự sống thông minh, môi trường thông minh, hệ thống thông minh và giáo dục thông minh.Ban lãnh đạo. Ảnh: HUST

Lãnh đạo Đại học Bách khoa Hà Nội trao quyết định thành lập và tặng hoa chúc mừng Ban lãnh đạo Viện AI4LIFE. Ảnh: HUST

PGS Lê cho biết, Viện AI4LIFE đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ thành lập được ít nhất một nhóm nghiên cứu mạnh theo nghị định 109 của Chính phủ và là một trong các trung tâm đổi mới sáng tạo, phát triển các giải pháp và ứng dụng AI dẫn đầu Việt Nam.

Phát biểu tại lễ thành lập, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy tin tưởng Viện AI4LIFE sẽ trở thành một trong số trung tâm đổi mới sáng tạo của cả nước, kết nối đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.

Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc kỳ vọng sự ra đời của Viện AI4LIFE – viện nghiên cứu ứng dụng đầu tiên về lĩnh vực này ở trong nước là điểm liên kết, giúp kết nối và thúc đẩy hợp tác giữa các nhóm nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong Đại học Bách khoa Hà Nội. Viện cũng xúc tiến hợp tác với các nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới, qua đó, tạo ra các nghiên cứu, giải pháp ứng dụng AI liên ngành và thực hiện chủ trương nghiên cứu phát triển AI vì cuộc sống.

Lê Thanh

Cỗ máy in 3D tên lửa composite lớn nhất thế giới

Máy in 3D tự động mới cao 12 mét, nặng 75 tấn, giúp phun các lớp sợi carbon để chế tạo nhanh tên lửa Neutron, dự kiến phóng năm 2025.Máy in 3D cao 12 mét có thể in 100 mét sợi carbon mỗi phút. Ảnh: Rocket Lab

Máy in 3D cao 12 mét có thể in 100 mét sợi carbon mỗi phút. Ảnh: Rocket Lab

Rocket Lab, công ty có trụ sở tại Mỹ, đang tạo ra những bước tiến lớn trong lĩnh vực du hành vũ trụ với tên lửa tải trọng trung bình Neutron, New Atlas hôm 20/10 đưa tin.

Ban đầu, quá trình chế tạo Neutron bao gồm việc đặt hàng trăm lớp và hàng nghìn feet vuông (1 feet bằng 0,3 mét) sợi carbon được lên khuôn bằng tay, đòi hỏi một đội ngũ lớn làm việc nhiều tuần để hoàn thành. Giờ đây, với Máy đặt sợi tự động (AFP) mới của Rocket Lab, công việc này có thể hoàn thành chỉ trong một ngày.

AFP giống như một máy in 3D tự động cao 12 mét, nặng 75 tấn, phun ra những lớp sợi carbon với tốc độ 100 mét mỗi phút. Thay vì in từng mảnh, cỗ máy đặt các tấm sợi carbon theo nhiều hướng, từng lớp một, tạo độ bền chắc và độ cứng cho mỗi cấu trúc.

Với khả năng di chuyển theo phương ngang tới 30 mét, AFP có thể chế tạo những mảnh lớn nhất – phần liên tầng dài 28 mét và phần vỏ bảo vệ của tên lửa Neutron. Cỗ máy cũng đảm nhận việc rải các lớp của tầng đầu tiên (đường kính 7 mét) và bồn chứa của tầng thứ hai (đường kính 5 mét).

Khi chế tạo một mảnh, hệ thống kiểm tra tự động tích hợp trong máy sẽ rà quét để phát hiện khiếm khuyết hoặc sai sót trong cấu trúc composite carbon và tạm dừng để cảnh báo người vận hành trước khi chế tạo lớp tiếp theo.Mô phỏng tên lửa Neutron. Ảnh: Rocket Lab

Mô phỏng tên lửa Neutron. Ảnh: Rocket Lab

Rocket Lab dự kiến việc sử dụng AFP giúp tiết kiệm hơn 150.000 giờ lao động để chế tạo Neutron, giúp mẫu tên lửa này trở nên rẻ hơn, sản xuất nhanh và dễ dàng hơn. Công ty dự định phóng tên lửa Neutron đầu tiên vào năm 2025.

Theo Rocket Lab, sau khi hoàn thiện, Neutron sẽ trở thành tên lửa bằng vật liệu composite lớn nhất lịch sử. Tên lửa dự kiến cao 43 m, đường kính 7 mét, có sức chở 13 tấn lên quỹ đạo Trái Đất thấp (LEO) và có thể tái sử dụng. Trong khi đó, hệ thống tên lửa Starship của SpaceX chủ yếu làm từ thép không gỉ, Starliner của Boeing chủ yếu sử dụng hợp kim nhôm. Ban đầu, SpaceX đã cân nhắc sử dụng vật liệu composite CF cho Starship, nhưng cuối cùng chọn thép không gỉ vì hiệu quả về chi phí, khả năng chịu nhiệt và độ bền.

Thu Thảo (Theo New Atlas)

El Niño và La Niña đã xảy ra trong 250 triệu năm qua

Nghiên cứu mô hình mới cho thấy El Niño và La Niña tồn tại 250 triệu năm qua ảnh hưởng đến khí hậu của Trái Đất.Mô hình cho thấy hiện tượng dao động El Niño-Nam bán cầu (xuất hiện vào tháng 8/2023 đã gây ảnh hưởng đến thời tiết lâu hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây. Ảnh: NOAA

Mô hình cho thấy hiện tượng dao động El Niño-Nam bán cầu (xuất hiện vào tháng 8/2023 đã gây ảnh hưởng đến thời tiết lâu hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây. Ảnh: NOAA

Nghiên cứu thực hiện bởi nhóm nhà khoa học tại Đại học Duke, công bố trên PNAS hôm 21/10. Nghiên cứu mô hình mới chỉ ra rằng hiện tượng khí hậu toàn cầu tự nhiên, El Niño và hiện tượng lạnh đi kèm, La Niña, đã xảy ra trong 250 triệu năm qua. Mặc dù các hình thái thời tiết phức tạp này là động lực của những thay đổi thời tiết khắc nghiệt ngày nay, nghiên cứu cho thấy chúng mạnh hơn đáng kể trong quá khứ.

El Niño (tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là cậu bé) và La Niña (cô bé) là một phần của chu kỳ El Niño-Southern Oscillation (ENSO), là kết quả của sự biến đổi nhiệt độ đại dương ở Thái Bình Dương xích đạo. Trong điều kiện bình thường, gió mậu dịch thổi về phía tây dọc theo đường xích đạo mang nước ấm từ Nam Mỹ đến châu Á.

Sử dụng các công cụ mô hình khí hậu giống như Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), nhóm nghiên cứu đã mô phỏng các điều kiện thời tiết từ 250 triệu năm trước. Những công cụ này thường được các nhà nghiên cứu khí hậu sử dụng để dự đoán những diễn biến trong tương lai do biến đổi khí hậu, nhưng chúng cũng có thể được chạy ngược để xem xét những gì đã xảy ra.

Hu và các đồng nghiệp chỉ ra rằng cường độ của các dao động trong quá khứ phụ thuộc vào hai yếu tố: cấu trúc nhiệt của đại dương và cái mà họ gọi là “nhiễu động khí quyển” của gió bề mặt đại dương.

“Vì vậy, một phần của nghiên cứu của chúng tôi là, bên cạnh cấu trúc nhiệt của đại dương, chúng ta cũng cần chú ý đến nhiễu động khí quyển và hiểu cách những cơn gió đó sẽ thay đổi”, Hu nói. Ông cho biết, trong mỗi thí nghiệm nhóm đã thực hiện thấy El Niño Southern Oscillation hoạt động và “nó gần như mạnh hơn những gì chúng tôi có bây giờ, một số mạnh hơn, một số mạnh hơn một chút”, Hu nói thêm.

Các nhà nghiên cứu không thể mô hình hóa từng năm trong mô phỏng này, do khoảng thời gian đáng kể mà nó đại diện, nhưng họ đã có thể đánh giá các điều kiện theo “lát cắt” cứ sau 10 triệu năm. Mô phỏng này mất hàng tháng để hoàn thành, nhưng nó đã cung cấp một mô hình cho hàng nghìn năm.

Shineng Hu, trợ lý giáo sư về động lực học khí hậu tại Trường Môi trường Nicholas thuộc Đại học Duke cho biết, các thí nghiệm mô hình đã bị ảnh hưởng bởi các điều kiện biên khác nhau, như sự phân bố đất liền – biển khác nhau (với các lục địa ở những nơi khác nhau), bức xạ mặt trời khác nhau, CO2 khác nhau”.

Tại các thời điểm khác nhau trong quá khứ, bức xạ mặt trời đến hành tinh thấp hơn khoảng 2% so với hiện nay, nhưng đồng thời, nồng độ CO2 cao hơn, khiến bầu khí quyển và đại dương ấm hơn ngày nay.

Đặc biệt, 250 triệu năm trước, trong kỷ Mesozoi, Nam Mỹ nằm ở giữa siêu lục địa Pangea, và các dao động thời tiết diễn ra ở phía tây, ở Panthalassa – siêu đại dương bao la bao quanh vùng đất rộng lớn.

Những mô phỏng này rất có giá trị để hiểu cách ENSO có thể hoạt động khi biến đổi khí hậu tiếp tục diễn ra. Chủ đề này đã được tranh luận trong một thời gian và các nghiên cứu trước đây cho thấy các hiện tượng thời tiết có thể trở nên mạnh hơn trong tương lai khi khí hậu tiếp tục nóng lên.

Như vậy, nghiên cứu mới này cho thấy ENSO sẽ bị ảnh hưởng đáng kể trong tương lai, do những thay đổi trong cấu trúc nhiệt của đại dương và nhiễu động khí quyển, cùng với tất cả những điều bất định đi kèm với nó. “Nếu chúng ta muốn có một dự báo tương lai đáng tin cậy hơn, trước tiên chúng ta cần hiểu khí hậu trong quá khứ”, Hu nói.

Minh Thư (Theo IFL Science)

Phát hiện số nguyên tố lớn nhất có 41 triệu chữ số

Một nhà toán học nghiệp dư tìm ra số nguyên tố mới có nhiều hơn 16 triệu chữ số so với kỷ lục trước đó.Hộc chứa 6 bộ xử lý đồ họa Sapphire Technology AMD. Ảnh: MSN

Hộc chứa 6 bộ xử lý đồ họa Sapphire Technology AMD. Ảnh: MSN

Luke Durant, nhà nghiên cứu nghiệp dư kiêm cựu nhân viên Nvidia phát hiện số nguyên tố lớn nhất từ trước tới nay. Số nguyên tố mới là 2136.279.841 – 1, đánh bại kỷ lục trước đó là 282.589.933 – 1 khi nhiều hơn 16 chữ số, theo Live Science. Số nguyên tố là những số tự nhiên chỉ chia hết cho 1 và chính nó. Những số nguyên tố nhỏ nhất là 2, 3, 5, 7 và 11. Về lý thuyết, tập hợp các số nguyên tố là vô tận, nhưng tìm ra chúng ngày càng khó hơn khi giá trị càng lớn.

Để tìm ra số nguyên tố mới, Luke Durant sử dụng một chương trình miễn phí mang tên Great Internet Mersenne Prime Search (GIMPS) để rà soát mọi khả năng bằng thuật toán. Nỗ lực của ông đòi hỏi sử dụng hàng nghìn bộ xử lý đồ họa (GPU) ở khắp 24 trung tâm dữ liệu tại 17 nước, một thành tựu “kết thúc 28 năm thống trị của máy tính cá nhân thông thường trong tìm kiếm số nguyên tố khổng lồ”, theo thông báo trên website của GIMPS.

Số nguyên tố mới được xác nhận chứa 41.024.320 chữ số. Đây cũng là số nguyên tố Mersenne thứ 52 được biết đến, dãy số nguyên tố đặt theo tên Marin Mersenne, một linh mục và nhà bác học người Pháp soạn công thức tìm số nguyên tố bằng cách biểu thị dưới dạng 2p – 1 với p là số nguyên dương. Dù không phải là cách duy nhất để phát hiện số nguyên tố, phương pháp này dễ hơn so với các phương pháp khác.

Theo đội ngũ phía sau GIMPS, có nhiều thuật toán mật mã học được phát triển dựa trên số nguyên tố. Phát hiện giúp Durant nhận được khoản tiền thưởng 3.000 USD từ GIMPS. Giải thưởng trị giá 150.000 – 250.000 USD sẽ được lần lượt trao cho người phát hiện số nguyên tố có hàng trăm triệu và hàng tỷ chữ số đầu tiên.

An Khang (Theo Live Science)

Bộ KH&CN: Chủ động xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về Halal

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã chủ động xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về Halal gồm tiêu chuẩn về thực phẩm Halal, sản xuất nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi và giết mổ động vật theo Halal như: tiêu chuẩn quốc gia về “tổ chức chứng nhận Halal”, tiêu chuẩn quốc gia “TCVN 14230:2024 dịch vụ du lịch thân thiện với người Hồi giáo; các yêu cầu để tạo thuận lợi cho việc thu hút khách du lịch Hồi giáo tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch kết hợp hội nghị tại Việt Nam…
Hội nghị do Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Bộ KH&CN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng tổ chức, thu hút sự tham gia (trực tiếp và trực tuyến) của khoảng 500 đại biểu trong và ngoài nước, gồm các ban, bộ, ngành và một số địa phương; các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trong nước đã sản xuất, xuất khẩu sản phẩm Halal; đại diện Hiệp hội và viện nghiên cứu, trường đại học liên quan; đại diện chức sắc Hồi giáo và tổ chức chứng nhận Halal tại Việt Nam; cơ quan quản lý Halal một số nước; tổ chức quốc tế và khu vực; cơ quan đại diện nước ngoài tại Hà Nội; doanh nghiệp nước ngoài sản xuất, kinh doanh liên quan đến Halal…
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, trong những năm qua, các sản phẩm và dịch vụ Halal ngày càng trở nên phổ biến. Thị trường tiêu thụ sản phẩm Halal phân bổ khắp thế giới, từ các nước Hồi giáo đến phi Hồi giáo, từ các nền kinh tế phát triển đến đang phát triển. Có được sự phát triển đó là do các sản phẩm Halal đáp ứng nhiều tiêu chí về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo đảm sức khỏe, chất lượng, xanh, sạch, có đạo đức trong chế biến và góp phần bảo vệ môi trường.
Điều này góp phần mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam, khi chúng ta có lợi thế về nông nghiệp, công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đồng thời, Việt Nam còn là quốc gia có nền tảng vững chắc về KH&CN để nghiên cứu và phát triển các sản phẩm Halal chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong thời gian qua, Bộ KH&CN đã chủ động xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về Halal gồm các tiêu chuẩn về thực phẩm Halal, về sản xuất nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi và giết mổ động vật theo Halal.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, Bộ KH&CN đã chủ động xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về Halal.
Trong năm 2023, Bộ KH&CN đã công bố tiêu chuẩn quốc gia về “tổ chức chứng nhận Halal”. Đồng thời, năm 2024, Bộ KH&CN đã chỉ đạo thành lập “Trung tâm Chứng nhận Halal quốc gia” và xây dựng tiêu chuẩn quốc gia “TCVN 14230:2024 Dịch vụ du lịch thân thiện với người Hồi giáo – Các yêu cầu để tạo thuận lợi cho việc thu hút khách du lịch Hồi giáo tham quan, nghỉ dưỡng, du lịch kết hợp hội nghị tại Việt Nam. Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt bày tỏ tin tưởng, tiêu chuẩn quốc gia này sẽ góp phần hỗ trợ cho các doanh nghiệp du lịch, lữ hành Việt Nam tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm của mình thông qua việc phục vụ dòng khách từ Trung Đông và các quốc gia Hồi giáo, đóng góp vào chương trình phát triển ngành Halal của Việt Nam.
Nhằm tiếp tục nâng cao năng lực chứng nhận Halal của Việt Nam, Bộ KH&CN sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, cộng đồng doanh nghiệp và các đối tác quốc tế xây dựng một hệ sinh thái Halal bền vững, từ việc tiêu chuẩn hóa quy trình sản xuất, tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ nhằm đảm bảo các sản phẩm và dịch vụ của Việt Nam đạt được các tiêu chuẩn quốc tế cao nhất.
Bộ KH&CN mong muốn được hợp tác chặt chẽ với các nước bạn, các đối tác quốc tế, để cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, mở rộng cơ hội hợp tác và thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành Halal, không chỉ tại Việt Nam mà còn trong khu vực và trên toàn thế giới trong thời gian tới.
Thủ tướng Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và các đại biểu dự Hội nghị chụp ảnh lưu niệm.
Trong khuôn Hội nghị, Bộ KH&CN đã giới thiệu Trung tâm chứng nhận Halal quốc gia Việt Nam (HALCERT) và bộ tiêu chuẩn Halal Việt Nam.
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để tham gia sâu hơn vào thị trường Halal toàn cầu, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự quan tâm của các địa phương, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Việt Nam có thế mạnh về sản xuất, cung ứng sản phẩm nông nghiệp, thực phẩm, du lịch, dệt may… và là mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng toàn cầu với 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) được ký kết. Việt Nam cũng có quan hệ tốt đẹp với nhiều quốc gia Hồi giáo lớn trên thế giới.
Ngoài ra, việc tham gia hiệu quả, bài bản vào thị trường Halal toàn cầu sẽ giúp khai mở thị trường Halal giàu tiềm năng, tạo thêm động lực mới cho phát triển kinh tế bền vững của đất nước, qua đó hình thành nên một cấu phần mới, quan trọng của nền kinh tế, đó là hệ sinh thái Halal.
Ông Yousif S.AlHarbi, Phó Chủ tịch Trung tâm Halal Saudi Arabia, Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Saudi Arabia (SFDA) cho biết, bằng cách áp dụng chứng nhận Halal, Việt Nam khẳng định mình là nguồn cung cấp sản phẩm Halal được chứng nhận đáng tin cậy, mở ra cơ hội mới cho các nhà sản xuất Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Với hai phiên thảo luận chính gồm: Phát huy nội lực xây dựng ngành Halal Việt Nam – Tiềm năng và định hướng; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển ngành Halal Việt Nam – Cơ hội và triển vọng. Hội nghị tập trung vào các nội dung: Tiềm năng và triển vọng phát triển ngành Halal Việt Nam; Tiềm năng và định hướng phát triển ngành Halal của địa phương; Thuận lợi và khó khăn cần tháo gỡ của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia thị trường Halal toàn cầu…

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Họp báo thường kỳ Quý III năm 2024

Giải pháp, đóng góp thực hiện thành công Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chuyển giao công nghệ; Điều chỉnh cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN tại Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95 về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN; Những điểm mới trong dự án Luật KH&CN sửa đổi; Tiến độ triển khai và vận hành Cổng Thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hoá quốc gia…
Đó là những vấn đề được báo chí quan tâm đưa ra tại Họp báo thường kỳ Quý III/2024 do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức vào chiều ngày 17/10/2024 dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh.
Toàn cảnh Họp báo.
Tại buổi họp báo, Phó Chánh Văn phòng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang cho biết, trong Quý III năm 2024, Bộ KH&CN đã chú trọng xây dựng và hoàn thiện các chính sách, pháp luật về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), cụ thể: Hoàn thiện và trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 30/7/2024 về đẩy mạnh công tác tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng quốc gia đến năm 2030 và các năm tiếp theo. Hiện nay, Bộ đang xây dựng dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch thực hiện Chỉ thị này.
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các luật chuyên ngành như: dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; hồ sơ đề nghị xây dựng Luật KH,CN&ĐMST; hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi).
Phó Chánh Văn phòng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang báo cáo tại Họp báo.
Trình Chính phủ và Thủ tướng ban hành các văn bản: Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 09/7/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới; Quyết định số 709/QĐ-TTg ngày 24/7/2024 ban hành Kế hoạch thực hiện Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/01/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Quyết định số 1118/QĐ-TTg ngày 07/10/2024 về thành lập Hội đồng thẩm định quy hoạch phát triển năng lượng nguyên tử thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 1054/QĐ-TTg ngày 29/9/2024 thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Khu công nghệ cao sinh học Hà Nội.
Trong lĩnh vực quản lý, Bộ cũng đã ban hành theo thẩm quyền: Thông tư số 05/2024/TT-BKHCN ngày 09/7/2024 về quy định quản lý các nhiệm vụ KH&CN cấp thiết của địa phương, sử dụng ngân sách nhà nước cấp quốc gia; Thông tư số 06/2024/TT-BKHCN ngày 30/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2015/TT-BKHCN ngày 26/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 99/2013/NĐ-CP ngày 29/8/2013 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
Cũng trong Quý III, đã diễn ra các sự kiện quan trọng của ngành KH&CN như: Bộ KH&CN tháp tùng đoàn công tác của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước/tổ chức các đoàn công tác thăm và làm việc tại các quốc gia: Hoa Kỳ, Liên Bang Nga, Úc, Pháp, Đức, Hàn Quốc… nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, công nghệ ô tô và chip bán dẫn, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ cao trong y tế, nông nghiệp, biến đổi khí hậu, phát triển công nghệ sinh học tại Việt Nam, bảo hộ sở hữu trí tuệ, năng lượng nguyên tử, tiêu chuẩn, đo lường chất lượng nhằm phục vụ thiết thực các mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội bền vững dựa trên KH,CN&ĐMST. Bộ KH&CN đã ký kết 02 Bản ghi nhớ cấp Bộ với đối tác nước ngoài về: hợp tác phát triển và trao đổi hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo với Bộ Doanh nghiệp nhỏ và vừa và khởi nghiệp Hàn Quốc; về Lộ trình thực hiện Dự án Trung tâm Khoa học công nghệ hạt nhân trên lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam giữa Bộ KH&CN và Tập đoàn Năng lượng nguyên tử Rosatom. Hiện nay, Bộ KH&CN đang phối hợp với các đối tác quốc tế triển khai các Bản ghi nhớ nêu trên.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh phát biểu tại Họp báo.
Trong Quý IV/2024: Bộ KH&CN tập trung hoàn thiện các dự án luật chuyên ngành, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV) và hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi); đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ các văn bản, đề án thuộc Chương trình công tác của Chính phủ và các văn bản pháp luật trong thẩm quyền của Bộ trưởng; tiếp tục triển khai hiệu quả các chương trình, nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia đến năm 2025 và 2030, cùng với các chương trình ứng dụng công nghệ tại địa phương; tổ chức các sự kiện lớn như Techfest Việt Nam 2024 tại Hải Phòng, Hội nghị giao ban KH&CN vùng Bắc Trung Bộ tại Quảng Bình, Lễ trao Giải thưởng Chất lượng quốc gia; Hội nghị Tổng kết công tác năm 2024 của ngành KH&CN.
Tại Họp báo, đại diện các cơ quan thông tấn báo chí đã đặt câu hỏi về các vấn đề nổi bật: Giải pháp, đóng góp thực hiện thành công Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050; Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ; Điều chỉnh cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN tại Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95 về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN; Những điểm mới trong dự án Luật KH&CN sửa đổi; Tiến độ triển khai và vận hành Cổng Thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm hàng hoá, quốc gia… Đại diện các đơn vị chức năng trực thuộc Bộ đã chia sẻ, cung cấp thông tin đến báo chí về những nội dung trên.
Lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ cung cấp thông tin đến báo chí tại buổi Họp báo.
Phát biểu Kết luận tại Họp báo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh cảm ơn các nhà báo trong thời gian qua đã luôn quan tâm, chia sẻ, đồng hành cùng hoạt động của ngành KH&CN, phát triển tiềm lực KH&CN đất nước, đưa kết quả nghiên cứu KH&CN ứng dụng vào đời sống. Nhận định rằng, báo chí đóng vai trò quan trọng đối với ngành KH&CN, Thứ trưởng bày tỏ mong muốn các nhà báo luôn quan tâm, hỗ trợ Bộ và ngành KH&CN thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, kịp thời thông tin những vấn đề hoạt động của ngành KH&CN mà dư luận xã hội quan tâm. Bộ KH&CN luôn sẵn sàng phối hợp với các nhà báo để cung cấp thông tin nhằm tạo sự ủng hộ và quan tâm của dư luận xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho KH&CN phát triển phục vụ kinh tế – xã hội.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Loại nhựa phân hủy trong nước biển nhanh hơn giấy

Các nhà khoa học dùng kỹ thuật “tạo bọt” để khiến nhựa CDA xốp hơn, phân hủy 65 – 70% trong môi trường nước biển chỉ sau khoảng 9 tháng.Mẫu ống hút thử nghiệm do Eastman chế tạo từ CDA dạng xốp để kiểm tra khả năng phân hủy sinh học. Ảnh: WHOI

Ống hút thử nghiệm do Eastman chế tạo từ CDA dạng xốp để kiểm tra khả năng phân hủy sinh học. Ảnh: WHOI

Nhiều năm qua, giới nghiên cứu đã tìm kiếm loại nhựa phân hủy sinh học nhanh nhất trong môi trường biển khi hàng triệu tấn nhựa đang trôi xuống đại dương mỗi năm. Giờ đây, nhóm nhà khoa học từ Viện Hải dương học Woods Hole (WHOI) phát hiện CDA là loại nhựa phân hủy nhanh nhất trong nước biển, được phân loại là nhựa sinh học về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, họ còn đẩy nhanh tốc độ phân hủy của vật liệu này nhờ kỹ thuật biến đổi đơn giản gọi là “tạo bọt”, khiến nó xốp hơn, New Atlas hôm 18/10 đưa tin.

CDA, hay cellulose diacetate, làm từ cellulose – loại polymer tự nhiên có trong thành tế bào thực vật, đặc biệt là trong bông hoặc bột gỗ. CDA xuất hiện từ cuối những năm 1800 và được dùng trong rất nhiều vật dụng, từ đầu lọc thuốc lá (cách sử dụng phổ biến nhất) đến gọng kính râm, phim chụp ảnh và hàng triệu thứ khác trong cuộc sống hàng ngày.

Trong nghiên cứu mới, nhóm chuyên gia khiến CDA dạng xốp phân hủy nhanh hơn dạng rắn 15 lần, thậm chí nhanh hơn giấy. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí ACS Publications.

“Chúng tôi đã đưa kiến thức cơ bản vào việc thiết kế một vật liệu mới vừa đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, vừa phân hủy dưới biển nhanh hơn bất cứ vật liệu nhựa nào khác mà chúng tôi biết, thậm chí nhanh hơn giấy”, Collin Ward, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết.

Trong thử nghiệm kéo dài 36 tuần, khi đặt trong các bể chứa nước biển chảy liên tục, mút xốp CDA đã mất 65 – 70% khối lượng gốc. Một loại nhựa thông thường khác hiện diện ở mọi đại dương trên thế giới, Styrofoam, không hề phân hủy với cùng khoảng thời gian.

Trong nghiên cứu mới, Ward cùng các nhà khoa học khác của WHOI đã hợp tác với công ty sản xuất nhựa sinh học Eastman, đơn vị cung cấp vật liệu, tài trợ và là đồng tác giả. Nghiên cứu được thực hiện với môi trường có kiểm soát trong phòng thí nghiệm. Nhóm tác giả đã kiểm soát ánh sáng, nhiệt độ và nhiều yếu tố khác để mô phỏng các điều kiện của đại dương.

Nghiên cứu mới sẽ giúp các ngành công nghiệp giảm sử dụng nhựa truyền thống và hướng tới những lựa chọn thay thế thân thiện với môi trường hơn. Thành công của CDA dạng xốp cho thấy vật liệu này có thể dùng trong nhiều sản phẩm, giúp giảm lượng rác thải nhựa khó phân hủy dưới biển. Hiện Eastman đã sản xuất loại khay có thể phân hủy sinh học và ủ thành phân hữu cơ từ CDA dạng xốp thay cho khay xốp thông thường dùng để đóng gói thịt – loại khay không phân hủy sinh học trong bất kỳ môi trường tự nhiên nào, dù trên đất liền hay dưới biển.

Thu Thảo (Theo New Atlas)

Việt Nam xây dựng cơ chế khuyến khích chuyển giao công nghệ mới nổi

Các công nghệ mới nổi như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, blockchain… sẽ khuyến khích chuyển giao và doanh nghiệp được hưởng ưu đãi khi thực hiện.

Thông tin được ông Nguyễn Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ trả lời tại họp báo thường kỳ Bộ Khoa học và Công nghệ, chiều 17/10. Buổi họp báo do Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh chủ trì.

Theo ông Linh, các công nghệ ưu tiên, hạn chế và cấm chuyển giao đang được Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng tại dự thảo sửa đổi Nghị định 76/2018/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.

Việc khuyến khích chuyển giao công nghệ mới nổi, theo ông Linh nhằm phù hợp xu thế liên tục phát triển của khoa học công nghệ trong nhiều năm qua. Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ứng dụng công nghệ mới được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu triển khai, sản xuất đưa ra thị trường.

Lãnh đạo Vụ Đánh giá, Thẩm định và giám định công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho rằng việc sửa đổi Nghị định 76 hướng đến tạo điều kiện cho doanh nghiệp trên tinh thần cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các trình tự, thủ tục của hoạt động chuyển giao công nghệ.Ông Nguyễn Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và giám định công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) tại họp báo chiều 17/11. Ảnh: TTTT

Ông Nguyễn Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và giám định công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) tại họp báo chiều 17/10. Ảnh: TTTT

Với công nghệ hạn chế chuyển giao, ban soạn thảo đề xuất theo hướng giảm các công nghệ ứng dụng vì mục đích thân thiện môi trường nhưng hiệu suất thấp. Cụ thể, pin năng lượng mặt trời nhưng hiệu suất dưới 20% mặc dù ứng dụng cho các sản phẩm thân thiện môi trường nhưng sẽ hạn chế chuyển giao. Trong dự thảo sửa đổi Nghị định 76, Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất cấm các công nghệ được cho là cũ, lạc hậu như 1G, 2G và các công nghệ bất hợp pháp như tạo mã độc, virus máy tính. Hiện, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, sửa đổi bổ sung Nghị định 76 và sẽ sớm trình Chính phủ thời gian tới.

Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 95/2014/NĐ-CP quy định về đầu tư và cơ chế tài chính với hoạt động khoa học và công nghệ. Ông Nguyễn Nam Hải, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết cơ quan soạn thảo hướng tới tháo gỡ 3 – 4 nhóm chính sách về cơ chế tài chính. Dự thảo hướng đến tháo gỡ vướng mắc về sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên cho đầu tư hạ tầng mua sắm, hạ tầng nghiên cứu của các tổ chức viện trường.Ông Nguyễn Nam Hải trả lời báo chí tại họp báo. Ảnh: TTTT

Ông Nguyễn Nam Hải trả lời báo chí tại họp báo. Ảnh: TTTT

Tại Nghị định 95 sửa đổi cũng điều chỉnh về việc sử dụng Quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp theo hướng mở rộng hơn, dựa trên nhu cầu của đơn vị đã trích lập quỹ. Việc sử dụng quỹ không chỉ cho hoạt động R&D mà còn phục vụ đổi mới công nghệ, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo… Điều này được cho sẽ gỡ khó cho việc quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp bị kết dư hàng nghìn tỷ đồng vì không có cơ chế sử dụng.

Về các tồn tại trong cơ chế tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học, theo ông Hải sẽ được tháo gỡ khi Bộ Khoa học và Công nghệ tham mưu Chính phủ sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ ban hành năm 2013. Theo ông Hải, Nghị định 95 sửa đổi, bổ sung dự kiến sẽ được trình Chính phủ trong tháng 10 này. Tuy nhiên, sửa đổi Nghị định 95 phải đồng bộ với việc Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn về trình tự thủ tục về lập dự toán, quyết toán kinh phí chi thường xuyên cho hoạt động mua sắm hiện trogn quá trình lấy ý kiến các Bộ ngành.Trí tuệ nhân tạo là một trong những công nghệ ưu tiên chuyển giao khi Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng dự thảo sửa đổi Nghị định 76. Trong ảnh robot Trí Nhân do người Việt Nam nghiên cứu. Ảnh: Anh Phú

Trí tuệ nhân tạo là một trong những công nghệ ưu tiên chuyển giao khi dự thảo sửa đổi Nghị định 76 được thông qua. Trong ảnh robot Trí Nhân do người Việt Nam nghiên cứu. Ảnh: Anh Phú

Tại buổi họp báo, ông Nguyễn Hoàng Giang, Phó chánh Văn phòng phụ trách Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng thông tin các hoạt động nổi bật trong quý III và những công việc trọng điểm triển khai trong quý IV. Theo đó Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung hoàn thiện các dự án luật chuyên ngành, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV) và hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). Các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đến năm 2025 và 2030, cùng với các chương trình ứng dụng công nghệ tại địa phương cũng được ưu tiên triển khai trong quý IV.

Vĩnh Hà/VNEXPRESS