.jpg)
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc
Phát biểu tại Lễ kỷ niệm 65 năm ngành KH&CN Nghệ An diễn ra ngày 25/10/2024, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã nhấn mạnh như trên.
Toàn cảnh buổi Lễ.
Ngày 25/10/1959, Hội Phổ biến Khoa học – Kỹ thuật Nghệ An được thành lập với nhiệm vụ tuyên truyền và phổ biến khoa học kỹ thuật, đây là ngày đánh dấu sự ra đời và trở thành ngày truyền thống của ngành KH&CN Nghệ An. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, ngành KH&CN đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của tỉnh nhà.
KH&CN đã góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng, thể hiện đóng góp năng suất tổng hợp (TFP) vào tăng GRDP của tỉnh, giai đoạn 2017-2022 đạt 42,1%. Nhiều kết quả nghiên cứu, tiến bộ KH&CN được áp dụng mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và đời sống, góp phần tạo ra một số sản phẩm hàng hóa có chất lượng, nhất là về nông nghiệp, thủy sản. Các nhiệm vụ về khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu những vấn đề cơ bản về văn hóa, lịch sử, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, đưa ra những nhận thức mới, cung cấp một số luận cứ khoa học về hoạch định quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Các hoạt động ứng dụng, thu hút dự án ứng dụng công nghệ cao được quan tâm nhất là trong lĩnh vực y dược, nông nghiệp, điện tử, tự động hoá…
Đóng góp của KH&CN được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực và có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Các đề tài, dự án nghiên cứu phát triển các sản phẩm theo chuỗi từ khâu giống, quy trình thâm canh, thu hoạch sản phẩm, chế biến sau thu hoạch, xây dựng nhãn hiệu và phát triển thị trường sản phẩm. Hiệu quả ứng dụng của các đề tài, dự án đạt trên 86%, cao hơn bình quân cả nước.
Hoạt động đổi mới công nghệ đã hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng tiến bộ KH&CN, đổi mới thiết bị công nghệ, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp một số mặt hàng đã được khẳng định thương hiệu. Nhiều sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn quốc tế, bảo hộ về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp có sức cạnh tranh trên thị trường.
Tiềm lực KH&CN được nâng lên. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo tỉnh được hình thành và phát triển khá vững chắc, có đầy đủ các nhân tố cấu thành hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST. Phong trào khởi nghiệp sáng tạo phát triển cả chiều rộng và chiều sâu.
Chia vui với cán bộ ngành KH&CN Nghệ An trong Lễ kỷ niệm 65 năm thành lập, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt chúc mừng và đánh giá cao những thành tựu mà ngành KH&CN tỉnh đạt được, những thành tích đó đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang yêu cầu cả nước phải tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước để phát triển mạnh mẽ KH,CN&ĐMST, trở thành động lực chính cho tăng trưởng của nền kinh tế. Với định hướng nêu trên, nhằm phấn đấu đưa Nghệ An trở thành “Trung tâm KH&CN khu vực Bắc trung Bộ”, Bộ trưởng đề nghị trong thời gian tới, sở KH&CN Nghệ An cần phối hợp chặt chẽ với Bộ KH&CN trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách; Chủ động xây dựng, ban hành theo thẩm quyền chính sách, chương trình, kế hoạch để thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương, phục vụ hiệu quả cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại buổi Lễ.
Bộ trưởng cũng đề nghị, ngành KH&CN tỉnh tiếp tục nâng cao tiềm lực KH,CN&ĐMST của địa phương thông qua các nhiệm vụ; Quán triệt quan điểm “Phát triển kinh tế nhanh, bền vững dựa trên nền tảng ứng dụng KH,CN&ĐMST, chuyển đổi số” đã được xác định tại Quy hoạch tỉnh Nghệ An; phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái khởi nghiệp, ĐMST ở địa phương; tăng cường kết nối cung – cầu công nghệ; đẩy mạnh thương mại hoá kết quả KH&CN; thúc đẩy phát triển thị trường KH&CN hiệu quả, hiện đại và hội nhập. Tăng cường hợp tác, liên kết địa phương, liên kết vùng, hợp tác quốc tế trong triển khai hoạt động KH,CN&ĐMST.
Bộ trưởng và các đại biểu chụp ảnh tại buổi Lễ.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, Sở KH&CN tỉnh Nghệ An
Viện AI4LIFE được thành lập, trở thành điểm kết nối nghiên cứu hàn lâm và ứng dụng thực tế của đại học và doanh nghiệp, khai thác tối đa lợi ích trí tuệ nhân tạo mang lại.
Thông tin được PGS.TS Nguyễn Phi Lê, Trường Công nghệ thông tin – Truyền thông, Đại học Bách khoa Hà Nội, điều hành Viện nghiên cứu và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI4LIFE) chia sẻ tại lễ thành lập Viện sáng 24/10.
Viện AI4LIFE định hướng tập trung nghiên cứu chuyên sâu AI ứng dụng vào các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đời sống. Viện sẽ có 6 phòng thí nghiệm, bao gồm: Học máy, công nghệ bán dẫn thông minh, khoa học sự sống thông minh, môi trường thông minh, hệ thống thông minh và giáo dục thông minh.
Lãnh đạo Đại học Bách khoa Hà Nội trao quyết định thành lập và tặng hoa chúc mừng Ban lãnh đạo Viện AI4LIFE. Ảnh: HUST
PGS Lê cho biết, Viện AI4LIFE đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ thành lập được ít nhất một nhóm nghiên cứu mạnh theo nghị định 109 của Chính phủ và là một trong các trung tâm đổi mới sáng tạo, phát triển các giải pháp và ứng dụng AI dẫn đầu Việt Nam.
Phát biểu tại lễ thành lập, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy tin tưởng Viện AI4LIFE sẽ trở thành một trong số trung tâm đổi mới sáng tạo của cả nước, kết nối đưa các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Thứ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc kỳ vọng sự ra đời của Viện AI4LIFE – viện nghiên cứu ứng dụng đầu tiên về lĩnh vực này ở trong nước là điểm liên kết, giúp kết nối và thúc đẩy hợp tác giữa các nhóm nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong Đại học Bách khoa Hà Nội. Viện cũng xúc tiến hợp tác với các nhóm nghiên cứu mạnh trên thế giới, qua đó, tạo ra các nghiên cứu, giải pháp ứng dụng AI liên ngành và thực hiện chủ trương nghiên cứu phát triển AI vì cuộc sống.
Lê Thanh
Máy in 3D tự động mới cao 12 mét, nặng 75 tấn, giúp phun các lớp sợi carbon để chế tạo nhanh tên lửa Neutron, dự kiến phóng năm 2025.
Máy in 3D cao 12 mét có thể in 100 mét sợi carbon mỗi phút. Ảnh: Rocket Lab
Rocket Lab, công ty có trụ sở tại Mỹ, đang tạo ra những bước tiến lớn trong lĩnh vực du hành vũ trụ với tên lửa tải trọng trung bình Neutron, New Atlas hôm 20/10 đưa tin.
Ban đầu, quá trình chế tạo Neutron bao gồm việc đặt hàng trăm lớp và hàng nghìn feet vuông (1 feet bằng 0,3 mét) sợi carbon được lên khuôn bằng tay, đòi hỏi một đội ngũ lớn làm việc nhiều tuần để hoàn thành. Giờ đây, với Máy đặt sợi tự động (AFP) mới của Rocket Lab, công việc này có thể hoàn thành chỉ trong một ngày.
AFP giống như một máy in 3D tự động cao 12 mét, nặng 75 tấn, phun ra những lớp sợi carbon với tốc độ 100 mét mỗi phút. Thay vì in từng mảnh, cỗ máy đặt các tấm sợi carbon theo nhiều hướng, từng lớp một, tạo độ bền chắc và độ cứng cho mỗi cấu trúc.
Với khả năng di chuyển theo phương ngang tới 30 mét, AFP có thể chế tạo những mảnh lớn nhất – phần liên tầng dài 28 mét và phần vỏ bảo vệ của tên lửa Neutron. Cỗ máy cũng đảm nhận việc rải các lớp của tầng đầu tiên (đường kính 7 mét) và bồn chứa của tầng thứ hai (đường kính 5 mét).
Khi chế tạo một mảnh, hệ thống kiểm tra tự động tích hợp trong máy sẽ rà quét để phát hiện khiếm khuyết hoặc sai sót trong cấu trúc composite carbon và tạm dừng để cảnh báo người vận hành trước khi chế tạo lớp tiếp theo.
Mô phỏng tên lửa Neutron. Ảnh: Rocket Lab
Rocket Lab dự kiến việc sử dụng AFP giúp tiết kiệm hơn 150.000 giờ lao động để chế tạo Neutron, giúp mẫu tên lửa này trở nên rẻ hơn, sản xuất nhanh và dễ dàng hơn. Công ty dự định phóng tên lửa Neutron đầu tiên vào năm 2025.
Theo Rocket Lab, sau khi hoàn thiện, Neutron sẽ trở thành tên lửa bằng vật liệu composite lớn nhất lịch sử. Tên lửa dự kiến cao 43 m, đường kính 7 mét, có sức chở 13 tấn lên quỹ đạo Trái Đất thấp (LEO) và có thể tái sử dụng. Trong khi đó, hệ thống tên lửa Starship của SpaceX chủ yếu làm từ thép không gỉ, Starliner của Boeing chủ yếu sử dụng hợp kim nhôm. Ban đầu, SpaceX đã cân nhắc sử dụng vật liệu composite CF cho Starship, nhưng cuối cùng chọn thép không gỉ vì hiệu quả về chi phí, khả năng chịu nhiệt và độ bền.
Thu Thảo (Theo New Atlas)
Nghiên cứu mô hình mới cho thấy El Niño và La Niña tồn tại 250 triệu năm qua ảnh hưởng đến khí hậu của Trái Đất.
Mô hình cho thấy hiện tượng dao động El Niño-Nam bán cầu (xuất hiện vào tháng 8/2023 đã gây ảnh hưởng đến thời tiết lâu hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây. Ảnh: NOAA
Nghiên cứu thực hiện bởi nhóm nhà khoa học tại Đại học Duke, công bố trên PNAS hôm 21/10. Nghiên cứu mô hình mới chỉ ra rằng hiện tượng khí hậu toàn cầu tự nhiên, El Niño và hiện tượng lạnh đi kèm, La Niña, đã xảy ra trong 250 triệu năm qua. Mặc dù các hình thái thời tiết phức tạp này là động lực của những thay đổi thời tiết khắc nghiệt ngày nay, nghiên cứu cho thấy chúng mạnh hơn đáng kể trong quá khứ.
El Niño (tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là cậu bé) và La Niña (cô bé) là một phần của chu kỳ El Niño-Southern Oscillation (ENSO), là kết quả của sự biến đổi nhiệt độ đại dương ở Thái Bình Dương xích đạo. Trong điều kiện bình thường, gió mậu dịch thổi về phía tây dọc theo đường xích đạo mang nước ấm từ Nam Mỹ đến châu Á.
Sử dụng các công cụ mô hình khí hậu giống như Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), nhóm nghiên cứu đã mô phỏng các điều kiện thời tiết từ 250 triệu năm trước. Những công cụ này thường được các nhà nghiên cứu khí hậu sử dụng để dự đoán những diễn biến trong tương lai do biến đổi khí hậu, nhưng chúng cũng có thể được chạy ngược để xem xét những gì đã xảy ra.
Hu và các đồng nghiệp chỉ ra rằng cường độ của các dao động trong quá khứ phụ thuộc vào hai yếu tố: cấu trúc nhiệt của đại dương và cái mà họ gọi là “nhiễu động khí quyển” của gió bề mặt đại dương.
“Vì vậy, một phần của nghiên cứu của chúng tôi là, bên cạnh cấu trúc nhiệt của đại dương, chúng ta cũng cần chú ý đến nhiễu động khí quyển và hiểu cách những cơn gió đó sẽ thay đổi”, Hu nói. Ông cho biết, trong mỗi thí nghiệm nhóm đã thực hiện thấy El Niño Southern Oscillation hoạt động và “nó gần như mạnh hơn những gì chúng tôi có bây giờ, một số mạnh hơn, một số mạnh hơn một chút”, Hu nói thêm.
Các nhà nghiên cứu không thể mô hình hóa từng năm trong mô phỏng này, do khoảng thời gian đáng kể mà nó đại diện, nhưng họ đã có thể đánh giá các điều kiện theo “lát cắt” cứ sau 10 triệu năm. Mô phỏng này mất hàng tháng để hoàn thành, nhưng nó đã cung cấp một mô hình cho hàng nghìn năm.
Shineng Hu, trợ lý giáo sư về động lực học khí hậu tại Trường Môi trường Nicholas thuộc Đại học Duke cho biết, các thí nghiệm mô hình đã bị ảnh hưởng bởi các điều kiện biên khác nhau, như sự phân bố đất liền – biển khác nhau (với các lục địa ở những nơi khác nhau), bức xạ mặt trời khác nhau, CO2 khác nhau”.
Tại các thời điểm khác nhau trong quá khứ, bức xạ mặt trời đến hành tinh thấp hơn khoảng 2% so với hiện nay, nhưng đồng thời, nồng độ CO2 cao hơn, khiến bầu khí quyển và đại dương ấm hơn ngày nay.
Đặc biệt, 250 triệu năm trước, trong kỷ Mesozoi, Nam Mỹ nằm ở giữa siêu lục địa Pangea, và các dao động thời tiết diễn ra ở phía tây, ở Panthalassa – siêu đại dương bao la bao quanh vùng đất rộng lớn.
Những mô phỏng này rất có giá trị để hiểu cách ENSO có thể hoạt động khi biến đổi khí hậu tiếp tục diễn ra. Chủ đề này đã được tranh luận trong một thời gian và các nghiên cứu trước đây cho thấy các hiện tượng thời tiết có thể trở nên mạnh hơn trong tương lai khi khí hậu tiếp tục nóng lên.
Như vậy, nghiên cứu mới này cho thấy ENSO sẽ bị ảnh hưởng đáng kể trong tương lai, do những thay đổi trong cấu trúc nhiệt của đại dương và nhiễu động khí quyển, cùng với tất cả những điều bất định đi kèm với nó. “Nếu chúng ta muốn có một dự báo tương lai đáng tin cậy hơn, trước tiên chúng ta cần hiểu khí hậu trong quá khứ”, Hu nói.
Minh Thư (Theo IFL Science)
Một nhà toán học nghiệp dư tìm ra số nguyên tố mới có nhiều hơn 16 triệu chữ số so với kỷ lục trước đó.
Hộc chứa 6 bộ xử lý đồ họa Sapphire Technology AMD. Ảnh: MSN
Luke Durant, nhà nghiên cứu nghiệp dư kiêm cựu nhân viên Nvidia phát hiện số nguyên tố lớn nhất từ trước tới nay. Số nguyên tố mới là 2136.279.841 – 1, đánh bại kỷ lục trước đó là 282.589.933 – 1 khi nhiều hơn 16 chữ số, theo Live Science. Số nguyên tố là những số tự nhiên chỉ chia hết cho 1 và chính nó. Những số nguyên tố nhỏ nhất là 2, 3, 5, 7 và 11. Về lý thuyết, tập hợp các số nguyên tố là vô tận, nhưng tìm ra chúng ngày càng khó hơn khi giá trị càng lớn.
Để tìm ra số nguyên tố mới, Luke Durant sử dụng một chương trình miễn phí mang tên Great Internet Mersenne Prime Search (GIMPS) để rà soát mọi khả năng bằng thuật toán. Nỗ lực của ông đòi hỏi sử dụng hàng nghìn bộ xử lý đồ họa (GPU) ở khắp 24 trung tâm dữ liệu tại 17 nước, một thành tựu “kết thúc 28 năm thống trị của máy tính cá nhân thông thường trong tìm kiếm số nguyên tố khổng lồ”, theo thông báo trên website của GIMPS.
Số nguyên tố mới được xác nhận chứa 41.024.320 chữ số. Đây cũng là số nguyên tố Mersenne thứ 52 được biết đến, dãy số nguyên tố đặt theo tên Marin Mersenne, một linh mục và nhà bác học người Pháp soạn công thức tìm số nguyên tố bằng cách biểu thị dưới dạng 2p – 1 với p là số nguyên dương. Dù không phải là cách duy nhất để phát hiện số nguyên tố, phương pháp này dễ hơn so với các phương pháp khác.
Theo đội ngũ phía sau GIMPS, có nhiều thuật toán mật mã học được phát triển dựa trên số nguyên tố. Phát hiện giúp Durant nhận được khoản tiền thưởng 3.000 USD từ GIMPS. Giải thưởng trị giá 150.000 – 250.000 USD sẽ được lần lượt trao cho người phát hiện số nguyên tố có hàng trăm triệu và hàng tỷ chữ số đầu tiên.
An Khang (Theo Live Science)
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
Các nhà khoa học dùng kỹ thuật “tạo bọt” để khiến nhựa CDA xốp hơn, phân hủy 65 – 70% trong môi trường nước biển chỉ sau khoảng 9 tháng.
Ống hút thử nghiệm do Eastman chế tạo từ CDA dạng xốp để kiểm tra khả năng phân hủy sinh học. Ảnh: WHOI
Nhiều năm qua, giới nghiên cứu đã tìm kiếm loại nhựa phân hủy sinh học nhanh nhất trong môi trường biển khi hàng triệu tấn nhựa đang trôi xuống đại dương mỗi năm. Giờ đây, nhóm nhà khoa học từ Viện Hải dương học Woods Hole (WHOI) phát hiện CDA là loại nhựa phân hủy nhanh nhất trong nước biển, được phân loại là nhựa sinh học về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, họ còn đẩy nhanh tốc độ phân hủy của vật liệu này nhờ kỹ thuật biến đổi đơn giản gọi là “tạo bọt”, khiến nó xốp hơn, New Atlas hôm 18/10 đưa tin.
CDA, hay cellulose diacetate, làm từ cellulose – loại polymer tự nhiên có trong thành tế bào thực vật, đặc biệt là trong bông hoặc bột gỗ. CDA xuất hiện từ cuối những năm 1800 và được dùng trong rất nhiều vật dụng, từ đầu lọc thuốc lá (cách sử dụng phổ biến nhất) đến gọng kính râm, phim chụp ảnh và hàng triệu thứ khác trong cuộc sống hàng ngày.
Trong nghiên cứu mới, nhóm chuyên gia khiến CDA dạng xốp phân hủy nhanh hơn dạng rắn 15 lần, thậm chí nhanh hơn giấy. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí ACS Publications.
“Chúng tôi đã đưa kiến thức cơ bản vào việc thiết kế một vật liệu mới vừa đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, vừa phân hủy dưới biển nhanh hơn bất cứ vật liệu nhựa nào khác mà chúng tôi biết, thậm chí nhanh hơn giấy”, Collin Ward, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết.
Trong thử nghiệm kéo dài 36 tuần, khi đặt trong các bể chứa nước biển chảy liên tục, mút xốp CDA đã mất 65 – 70% khối lượng gốc. Một loại nhựa thông thường khác hiện diện ở mọi đại dương trên thế giới, Styrofoam, không hề phân hủy với cùng khoảng thời gian.
Trong nghiên cứu mới, Ward cùng các nhà khoa học khác của WHOI đã hợp tác với công ty sản xuất nhựa sinh học Eastman, đơn vị cung cấp vật liệu, tài trợ và là đồng tác giả. Nghiên cứu được thực hiện với môi trường có kiểm soát trong phòng thí nghiệm. Nhóm tác giả đã kiểm soát ánh sáng, nhiệt độ và nhiều yếu tố khác để mô phỏng các điều kiện của đại dương.
Nghiên cứu mới sẽ giúp các ngành công nghiệp giảm sử dụng nhựa truyền thống và hướng tới những lựa chọn thay thế thân thiện với môi trường hơn. Thành công của CDA dạng xốp cho thấy vật liệu này có thể dùng trong nhiều sản phẩm, giúp giảm lượng rác thải nhựa khó phân hủy dưới biển. Hiện Eastman đã sản xuất loại khay có thể phân hủy sinh học và ủ thành phân hữu cơ từ CDA dạng xốp thay cho khay xốp thông thường dùng để đóng gói thịt – loại khay không phân hủy sinh học trong bất kỳ môi trường tự nhiên nào, dù trên đất liền hay dưới biển.
Thu Thảo (Theo New Atlas)
Các công nghệ mới nổi như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, blockchain… sẽ khuyến khích chuyển giao và doanh nghiệp được hưởng ưu đãi khi thực hiện.
Thông tin được ông Nguyễn Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và Giám định công nghệ trả lời tại họp báo thường kỳ Bộ Khoa học và Công nghệ, chiều 17/10. Buổi họp báo do Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh chủ trì.
Theo ông Linh, các công nghệ ưu tiên, hạn chế và cấm chuyển giao đang được Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng tại dự thảo sửa đổi Nghị định 76/2018/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ.
Việc khuyến khích chuyển giao công nghệ mới nổi, theo ông Linh nhằm phù hợp xu thế liên tục phát triển của khoa học công nghệ trong nhiều năm qua. Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ứng dụng công nghệ mới được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu triển khai, sản xuất đưa ra thị trường.
Lãnh đạo Vụ Đánh giá, Thẩm định và giám định công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho rằng việc sửa đổi Nghị định 76 hướng đến tạo điều kiện cho doanh nghiệp trên tinh thần cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các trình tự, thủ tục của hoạt động chuyển giao công nghệ.
Ông Nguyễn Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Đánh giá, Thẩm định và giám định công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) tại họp báo chiều 17/10. Ảnh: TTTT
Với công nghệ hạn chế chuyển giao, ban soạn thảo đề xuất theo hướng giảm các công nghệ ứng dụng vì mục đích thân thiện môi trường nhưng hiệu suất thấp. Cụ thể, pin năng lượng mặt trời nhưng hiệu suất dưới 20% mặc dù ứng dụng cho các sản phẩm thân thiện môi trường nhưng sẽ hạn chế chuyển giao. Trong dự thảo sửa đổi Nghị định 76, Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất cấm các công nghệ được cho là cũ, lạc hậu như 1G, 2G và các công nghệ bất hợp pháp như tạo mã độc, virus máy tính. Hiện, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, sửa đổi bổ sung Nghị định 76 và sẽ sớm trình Chính phủ thời gian tới.
Ngoài ra, Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 95/2014/NĐ-CP quy định về đầu tư và cơ chế tài chính với hoạt động khoa học và công nghệ. Ông Nguyễn Nam Hải, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết cơ quan soạn thảo hướng tới tháo gỡ 3 – 4 nhóm chính sách về cơ chế tài chính. Dự thảo hướng đến tháo gỡ vướng mắc về sử dụng nguồn kinh phí chi thường xuyên cho đầu tư hạ tầng mua sắm, hạ tầng nghiên cứu của các tổ chức viện trường.
Ông Nguyễn Nam Hải trả lời báo chí tại họp báo. Ảnh: TTTT
Tại Nghị định 95 sửa đổi cũng điều chỉnh về việc sử dụng Quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp theo hướng mở rộng hơn, dựa trên nhu cầu của đơn vị đã trích lập quỹ. Việc sử dụng quỹ không chỉ cho hoạt động R&D mà còn phục vụ đổi mới công nghệ, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo… Điều này được cho sẽ gỡ khó cho việc quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp bị kết dư hàng nghìn tỷ đồng vì không có cơ chế sử dụng.
Về các tồn tại trong cơ chế tài chính cho hoạt động nghiên cứu khoa học, theo ông Hải sẽ được tháo gỡ khi Bộ Khoa học và Công nghệ tham mưu Chính phủ sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ ban hành năm 2013. Theo ông Hải, Nghị định 95 sửa đổi, bổ sung dự kiến sẽ được trình Chính phủ trong tháng 10 này. Tuy nhiên, sửa đổi Nghị định 95 phải đồng bộ với việc Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn về trình tự thủ tục về lập dự toán, quyết toán kinh phí chi thường xuyên cho hoạt động mua sắm hiện trogn quá trình lấy ý kiến các Bộ ngành.
Trí tuệ nhân tạo là một trong những công nghệ ưu tiên chuyển giao khi dự thảo sửa đổi Nghị định 76 được thông qua. Trong ảnh robot Trí Nhân do người Việt Nam nghiên cứu. Ảnh: Anh Phú
Tại buổi họp báo, ông Nguyễn Hoàng Giang, Phó chánh Văn phòng phụ trách Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ cũng thông tin các hoạt động nổi bật trong quý III và những công việc trọng điểm triển khai trong quý IV. Theo đó Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung hoàn thiện các dự án luật chuyên ngành, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật (trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV) và hồ sơ đề nghị xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi). Các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đến năm 2025 và 2030, cùng với các chương trình ứng dụng công nghệ tại địa phương cũng được ưu tiên triển khai trong quý IV.
Vĩnh Hà/VNEXPRESS