Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao công nghệ vào Việt Nam

Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng nhiều chương trình hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam.

Thông tin được ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó Chánh Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ nói tại hội nghị “Thúc đẩy hoạt động ứng dụng, chuyển giao, đổi mới công nghệ và đổi mới sáng tạo tại khu vực miền Nam”, do Cục Phát triển Công nghệ và Đổi mới sáng tạo tổ chức tại TP HCM, chiều 22/8.

Theo ông Cường, khu vực phía Nam là địa bàn có vị trí quan trọng, song hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ chưa đáp ứng như kỳ vọng. Ông đánh giá, việc nghiên cứu tạo ra công nghệ mới, tri thức mới là cần thiết để nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần công nghệ ứng dụng ngay đáp ứng thực tiễn sản xuất, vì thế cần có các giải pháp tức thời. Một trong số đó là chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam.Phó Chánh Văn phòng phụ trách phía Nam Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Cường phát biểu tại hội thảo, chiều 22/8. Ảnh: Hà An

Ông Nguyễn Mạnh Cường phát biểu tại hội thảo, chiều 22/8. Ảnh: Hà An

Ông cho biết, Bộ Khoa học và Công nghệ đang có các chương trình hỗ trợ chuyển giao công nghệ từ nước ngoài, giúp ứng dụng nhanh trong hoạt động của doanh nghiệp vào sản xuất, kinh doanh. Các chương trình này rất phù hợp với mục tiêu ứng dụng công nghệ cấp thiết của doanh nghiệp. “Các Văn phòng đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ luôn sẵn sàng tương tác, lắng nghe nhu cầu của doanh nghiệp để tìm kiếm công nghệ phù hợp”, ông nói và cho biết việc này sẽ được đẩy mạnh trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Khánh Tùng, đại diện Cục Phát triển Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, cho biết việc thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam quy định tại Quyết định 1851, sau này được sửa đổi bằng Quyết định 138 do Thủ tướng phê duyệt đầu năm 2022. Bộ Khoa học và Công nghệ và các bộ ngành liên quan được giao xây dựng chương trình hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động ứng dụng công nghệ nước ngoài vào Việt Nam; hỗ trợ tổ chức, doanh nghiệp chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ; nâng cao năng lực, nhân lực của doanh nghiệp. Đề án cũng xác định một số lĩnh vực công nghệ ưu tiên chuyển giao như công nghiệp điện tử, nông nghiệp công nghệ cao, chế biến nông sản…

Theo ông Tùng, đơn vị đã xây dựng 14 bản đồ công nghệ giúp các doanh nghiệp định hướng phát triển sản phẩm phù hợp. Các bản đồ công nghệ về chọn tạo giống, công nghệ gene, tế bào gốc, vaccine cho người, in 3D… giúp doanh nghiệp làm căn cứ để phát triển công nghệ phù hợp.

Đại diện doanh nghiệp Nhật Bản, ông Yuge Kosei, Trưởng bộ phận Marketing và quan hệ khách hàng, công ty Kanematsu KGK Việt Nam nói đơn vị nghiên cứu thành công công nghệ proton cấp đông nhanh, giữ nguyên độ tươi thực phẩm. Công nghệ này được cấp bằng độc quyền sáng chế. Dù chưa có kế hoạch chuyển giao, nhưng ông Yuge Kosei nói sẵn sàng cho việc đặt nhà máy, sản xuất và kinh doanh tại Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á.

Bà Đặng Thị Hồng Yên, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng và Dịch vụ khoa học công nghệ (Sở Khoa học và Công nghệ Tiền Giang) đề xuất cần phát triển mạnh các nền tảng kết nối trực tuyến giúp người dân, doanh nghiệp và tổ chức khoa học công nghệ dễ dàng kết nối thông tin, hợp tác. Các diễn đàn, hội thảo và sự kiện kết nối cần được tổ chức thường xuyên để các bên liên quan gặp gỡ, trao đổi ý tưởng. Bà Yên cho rằng, cần tạo lập và duy trì các mô hình thí điểm thành công về ứng dụng công nghệ mới, sau đó có đánh giá, điều chỉnh và nhân rộng ra cộng đồng.

Hà An

‘AI sẽ thay đổi những điều cơ bản nhất trong xã hội’

Không đơn thuần về công nghệ, AI ra đời còn tạo nên một cuộc cách mạng về văn hoá với những hành vi mới, theo ông Phinith Chanthalangsy.

Đây là nhận định của ông Phinith Chanthalangsy – cố vấn cấp cao và quản lý chương trình Khoa học, Xã hội và Nhân văn, văn phòng khu vực UNESCO ở Bangkok tại ngày hội trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2024 (AI4VN). Sự kiện diễn ra sáng 23/8 tại trung tâm hội nghị quốc gia, Hà Nội.

Trong phiên thảo luận mở chủ đề “Đối thoại toàn cầu về đạo đức trong trí tuệ nhân tạo: Mối đe dọa hiện nay là gì?”, ông Chanthalangsy cho rằng, AI sẽ thay đổi những điều cơ bản nhất trong xã hội loài người.

Vị đại diện UNESCO lấy ví dụ, trong văn hoá Á Đông, trước đây, khi công nghệ chưa phát triển, người phụ nữ phải làm việc nhà một cách thủ công. Tuy nhiên từ khi có các loại máy móc, phụ nữ được giải phóng sức lao động, họ có thời gian phát triển phát triển bản thân, làm kinh tế. “Công nghệ có khả năng thay đổi hệ giá trị chúng ta tin vào”, ông Chanthalangsy nhấn mạnh.Ông Phinith Chanthalangsy phát biểu tại sự kiện. Ảnh: Giang Huy

Ông Phinith Chanthalangsy phát biểu tại sự kiện. Ảnh: Giang Huy

Chia sẻ thêm về nhận định này, ông cho rằng AI là hệ thống có tính toán, sức mạnh trong việc thuyết phục. Ở nhiều quốc gia, trí tuệ nhân tạo được tích hợp trên các thiết bị giám sát, có thể thu thập hành vi công dân, từ đó chấm điểm xã hội các cá nhân. “Điều này giúp con người điều chỉnh hành vi. Chúng ta có thể sử dụng big data của bản thân để tác động chính mình”, chuyên gia nói .

Tuy nhiên, cần có mục tiêu sử dụng, hành lang pháp lý rõ ràng để ứng dụng AI một cách có đạo đức và hiệu quả.

Kết thúc phần trình bày, đại diện UNESCO chia sẻ, công nghệ không vô tri, nó có giá trị nhất định. Điều con người cần là làm chủ công nghệ. “UNESCO sẽ đồng hành với Việt Nam để sử dụng AI một cách có đạo đức và não bộ con người là yếu tố trọng tâm”, ông khẳng định.

Tại Việt Nam, chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030 xác định: đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển và ứng dụng, đưa trí tuệ nhân tạo trở thành lĩnh vực công nghệ quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Các doanh nghiệp cũng không đứng ngoài cuộc trong quá trình này.

Là một trong những doanh nghiệp đi đầu trong việc phát triển, ứng dụng tự động hoá và AI, Viettel cũng đã có những bước đi hiệu quả trong quá trình kinh doanh và cung cấp cho các đối tác

Theo ông Lê Đăng Ngọc – Phó Giám đốc khối nền tảng Trí tuệ nhân tạo Viettel AI, nếu như trước đây, khách hàng phải mất một buổi để đăng ký các dịch vụ ở trung tâm chăm sóc khách hàng hoặc văn phòng giao dịch thì ngày nay, với AI, có thể rút ngắn thời gian giao dịch xuống còn vài phút, ngay tại nhà.

Hệ thống tự động hóa xử lý hồ sơ trong giúp ngân hàng giảm 48% thời gian xử lý, tự động hóa tác vụ giao tiếp khách hàng giúp giải phóng nhân sự, tăng năng suất 200% so với trước đây.

Ông Lê Đăng Ngọc - Phó Giám đốc Khối nền tảng Trí tuệ nhân tạo, Viettel AI Ảnh: Giang Huy

Ông Lê Đăng Ngọc – Phó Giám đốc Khối nền tảng Trí tuệ nhân tạo, Viettel AI. Ảnh: Giang Huy

Vị phó giám đốc lấy ví dụ, thời kỳ Covid, nhờ ứng dụng AI do Viettel phát triển, một ngân hàng đã có thêm một triệu thuê bao mới.

“Cách chúng tôi tiếp cận là triển khai cho nội bộ hiệu quả mới đem nhân rộng doanh nghiệp bên ngoài. Vì vậy luôn đảm bảo tính chính xác và hiệu quả cao”, ông Đăng Ngọc nói thêm.

Kết thúc phần trình bày, Phó giám đốc Viettel AI cho biết, đơn vị này tự động hoá toàn bộ quy trình của doanh nghiệp, từ ghi nhận thông tin đến chăm sóc sau khách hàng.

Không chỉ trong dịch vụ, những năm qua AI cũng được ứng dụng sâu rộng trong các ngành sản xuất. Là một doanh nghiệp có 150 hình thành phát triển trên thế giới, trên 30 bước chân vào thị trường Việt Nam, đóng góp 0,5% GPP đất nước, Heineken cũng không đứng ngoài cuộc chơi này.

Tham luận về chủ đề Tiên phong chuyển đổi số và ứng dụng AI tại Heineken Việt Nam, bà Đặng Huỳnh Mai Anh – Giám đốc dữ liệu và phân tích Heineken Việt Nam cho biết hiện doanh nghiệp đang ứng dụng AI từ khâu sản xuất cho đến người dùng cuối.

“Chúng tôi có nền tảng để kiểm soát từ khâu sản xuất, đến việc nhân viên tự kiểm soát KPI và các đối tượng bán lẻ cần tăng doanh thu”, bà Mai Anh nói.

Để là được điều đó, Heineken nhìn nhận dữ liệu, data là nguồn tài sản mới, tạo ra lợi thế cạnh tranh. Nhưng tích luỹ nhiều dữ liệu mà không sử dụng hợp lý sẽ thành món nợ do chi phí vận hành. Vì vậy bài toán doanh nghiệp phải đối mặt chính là việc sử dụng dữ liệu sao cho hiệu quả.Bà Đặng Huỳnh Mai Anh - Giám đốc Dữ liệu & Phân tích Heineken Việt Nam Khai mạc Ngày hội trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2024. Ảnh: Giang Huy

Bà Đặng Huỳnh Mai Anh – Giám đốc Dữ liệu & Phân tích Heineken Việt Nam Khai mạc Ngày hội trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2024. Ảnh: Giang Huy

Bà Mai Anh cho rằng, Việt Nam là một thị trường tiềm năng, nhân tài Việt Nam có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển trí tuệ nhân tạo của Heineken. Bởi hiện tại, doanh nghiệp này có hai trung tâm công nghệ phục vụ toàn APEC đều đặt tại Việt Nam.

Kết lại phần trình bày, bà cho biết cần nhiều hơn các sân chơi cho nhân lực. “Bước đầu tiên là ươm mầm giấc mơ ở những sự kiện như AI4VN”.

Ngày hội Trí tuệ nhân tạo là sự kiện thường niên, do báo VnExpress tổ chức. Với mục tiêu thúc đẩy phát triển công nghệ và hệ sinh thái AI tại Việt Nam, trong khuôn khổ Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam AI4VN 2024, chương trình AI Workshop được tổ chức với 4 phiên nội dung với các chủ đề về: Tự động hóa và AI – AI Automation, Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam; Data center và AI Cloud, Ứng dụng AI trong lĩnh vực Y tế. Chương trình có sự tham dự của các khách mời là các chuyên gia và đại diện doanh nghiệp ứng dụng AI vào từng lĩnh vực trong nước và quốc tế.

Thanh Lan

Khai mạc Ngày hội trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2024

Với chủ đề “Mở khóa sức mạnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh”, AI4VN 2024 khai mạc ngày 23/8 thu hút hàng nghìn lượt đăng ký tham gia.

Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam (AI4VN) 2024 diễn ra tại Trung tâm hội nghị Quốc gia Hà Nội, với 4 hoạt động chính: AI Summit, AI Workshop, AI Expo, AI Awards.

Sự kiện mở màn với 4 phiên hội thảo (AI Workshop) vào buổi sáng, gồm các chủ đề: Tự động hóa và AI; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam; Data center và AI Cloud; Ứng dụng AI trong lĩnh vực Y tế.

Mở màn là phần dẫn đề từ ông Phinith Chanthalangsy, Cố vấn cấp cao và Quản lý Chương trình Khoa học Xã hội và Nhân văn, Văn phòng khu vực UNESCO tại Bangkok với tham luận “Đối thoại toàn cầu về đạo đức trong trí tuệ nhân tạo: Mối đe dọa hiện nay là gì”.

Với các chủ đề chuyên sâu sau đó, các diễn giả và chuyên gia AI trình bày lần lượt các tham luận và phần tọa đàm. Tại đây, xu hướng phát triển và ứng dụng AI tạo sinh, câu chuyện về dữ liệu và hạ tầng điện toán đám mây cùng kỷ nguyên ung thư chính xác sẽ được cập nhật. Các bàn thảo xoay quanh “mở khóa” thúc đẩy giải pháp cho những thách thức hiện tại và khai thác thế mạnh của công nghệ này cho Việt Nam.

Khép lại phiên hội thảo là bài trình bày “Phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm ở Việt Nam” đến từ đại diện Trường Đại học Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội). Chủ đề phân tích xu hướng toàn cầu trong quản lý và phát triển AI có trách nhiệm, từ đó nêu thực trạng khung chính sách về AI có trách nhiệm cùng khuyến nghị cho Việt Nam.

AI Summit sẽ khai mạc lúc 14h cùng ngày, được tường thuật trực tuyến trên VnExpress. Sự kiện này có sự tham gia của lãnh đạo Chính phủ, các bộ ngành, tập đoàn lớn, nhà khoa học, cộng đồng quan tâm đến phát triển, ứng dụng AI trong nước và quốc tế, trường đại học, doanh nghiệp.

Tại diễn đàn, bức tranh thực tế cùng những cơ hội và thách thức khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh (GenAI) trong các lĩnh vực và tiềm năng của công nghệ này trong tương lai sẽ được tái hiện.

AI Summit bắt đầu bằng chào mừng từ lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ, Đại sứ Australia, Đại sứ Mỹ, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Hàn Quốc và Đại sứ Vương quốc Anh tại Việt Nam, sau đó là các tham luận của các diễn giả đến từ tập đoàn công nghệ trong nước và quốc tế.

“Xu hướng phát triển trí tuệ nhân tạo thế giới” là điểm nhấn mở màn. 4 chuyên gia đến từ Google, Meta và trường đại học từ Australia, Hàn Quốc chia sẻ các vấn đề tổng quan xu hướng phát triển trí tuệ nhân tạo trên thế giới cũng như cách các quốc gia đang thích ứng, tận dụng thế mạnh từ công nghệ AI.

Bức tranh trong nước sẽ được các diễn giả là lãnh đạo tập đoàn “ông lớn” công nghệ đến từ VinBigdata, FPT và VNPT mô tả bằng câu chuyện thực tế trong phát triển công nghệ AI tại đơn vị mình. Các phần trình bày xoay quanh chủ đề tự chủ AI, phát triển AI “Make in Vietnam” hay tìm kiếm cơ hội bứt phá từ GenAI, từ đó làm rõ thuận lợi và thách thức trong việc ứng dụng AI tại Việt Nam.

Trong ngày hội cũng diễn ra lễ trao giải Sản phẩm, giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo xuất sắc (AI Awards 2024), vinh danh Top 5 dự án có tính sáng tạo trong việc ứng dụng AI trong doanh nghiệp và cuộc sống con người.

Hàng nghìn người tham quan các gian hàng triển lãm tại AI4VN 2023. Ảnh: Quỳnh Trần

Hàng nghìn người tham quan các gian hàng triển lãm tại AI4VN 2023. Ảnh: Quỳnh Trần

Xuyên suốt cả ngày là không gian triển lãm AI Expo gồm các gian hàng trình diễn các sản phẩm AI tiêu biểu của các doanh nghiệp, viện, trường… Khách tham dự có cơ hội trải nghiệm các sản phẩm mới ứng dụng AI đang có trên thị trường Việt Nam.

Ngày hội AI4VN do Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ đạo, Báo VnExpress, Công ty Cổ phần Dịch vụ trực tuyến FPT (FPT Online) tổ chức với sự phối hợp của Câu lạc bộ Các Khoa – Viện – Trường Công nghệ thông tin -Truyền thông (FISU), bắt đầu từ năm 2018.

Sau 6 năm tổ chức, AI4VN trở thành diễn đàn quốc gia quan trọng, tập hợp nguồn lực thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, triển khai và ứng dụng trí tuệ nhân tạo của Việt Nam giai đoạn 2020-2030.

GS.TS Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch FISU Việt Nam đánh giá, sự phát triển của AI4VN đã mang đến nhiều điểm sáng trong hỗ trợ gặp gỡ và kết nối trong định hướng, tìm kiếm giải pháp hợp tác phát triển ứng dụng AI trong cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Bên cạnh việc tạo ra thị trường công nghệ và kết nối cung cầu, tìm kiếm nguồn đầu tư, ba hệ sinh thái AI được mở ra và phát triển liên quan đến đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng.

Như Quỳnh

Việt Nam và Pakistan thúc đẩy hợp tác sâu rộng về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Với mục tiêu xây dựng một tương lai bền vững và phát triển, Việt Nam và Pakistan đã cùng mở ra một chương mới trong hợp tác khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST). Thông qua buổi làm việc giữa Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam và Đại sứ Pakistan hứa hẹn sẽ mang lại những kết quả thiết thực cho cả hai quốc gia trong thời gian tới.
Chiều 21/8/2024, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã có buổi gặp gỡ và làm việc với Đại sứ Pakistan tại Việt Nam Kohdayar Marri. Cuộc gặp diễn ra trong không khí thân thiện và cởi mở, nhằm trao đổi và thúc đẩy hợp tác giữa hai quốc gia trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST.
Tại buổi gặp, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đã chia sẻ với Đoàn công tác Pakistan về tiềm lực và thành tựu nổi bật của KH&CN Việt Nam. Bộ trưởng khẳng định, KH,CN&ĐMST đã được xác định là một trong những đột phá chiến lược, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế. Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu để đạt mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng, bao gồm Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030, cùng với Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Theo báo cáo của Oxford Insight, Việt Nam đã đạt những tiến bộ đáng kể trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, đứng thứ 5 trong khu vực ASEAN năm 2023. Ngoài ra, hệ thống ĐMST quốc gia của Việt Nam cũng liên tục phát triển, với vị trí thứ 46/132 quốc gia trong Bảng xếp hạng chỉ số ĐMST toàn cầu (GII) năm 2023.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt tiếp Đại sứ Pakistan Kohdayar Marri.
Bộ trưởng thông tin, Việt Nam đã áp dụng công nghệ cao vào nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong sản xuất lúa gạo, chăn nuôi và trồng trọt. Việt Nam đã triển khai các Đề án lớn như “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”. Bộ trưởng bày tỏ mong muốn chia sẻ những kinh nghiệm với Pakistan và hợp tác phát triển công nghệ sinh học – lĩnh vực mà Việt Nam đang đầu tư mạnh với mong muốn trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng trong tương lai.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đề xuất thiết lập khung hợp tác mới giữa hai quốc gia trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực như: ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và công nghiệp bán dẫn. Đồng thời, Bộ KH&CN Việt Nam mong muốn tăng cường hợp tác trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ĐMST cũng như nâng cao năng lực nghiên cứu cho cán bộ tại các viện, trường và các cơ quan liên quan.
Bộ trưởng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở đường bay trực tiếp giữa hai nước, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch và tăng cường hợp tác, và mong hai nước thúc đẩy trao đổi sinh viên, giúp sinh viên hai bên học hỏi thêm thông tin và kiến thức.
Đại sứ Kohdayar Marri bày tỏ mong muốn thúc đẩy hoàn thiện khung pháp lý giữa các bộ, ngành của hai nước. Ông cho biết Pakistan có nguồn nhân lực dồi dào và vị trí địa lý thuận lợi để hợp tác phát triển KH,CN&ĐMST. Đặc biệt, lĩnh vực công nghệ thông tin của Pakistan đang phát triển mạnh, với nhiều công ty hoạt động tại châu Âu và châu Mỹ. Pakistan cũng sẵn sàng học hỏi từ các chuyên gia Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm về nông nghiệp, đặc biệt là các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đại sứ cũng cho biết, Pakistan có nhiều công ty dược nổi tiếng và mong muốn hợp tác với Việt Nam để phát triển ngành này. Ông đề xuất sửa đổi và ký lại biên bản ghi nhớ (MOU) giữa hai nước, đặc biệt trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin.
Toàn cảnh buổi tiếp.
Kết thúc buổi làm việc, Đại sứ Pakistan gửi lời cảm ơn đối với sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam trong những thời điểm khó khăn mà Pakistan phải đối mặt. Đồng thời, Đại sứ hi vọng hai nước sẽ sớm ký kết các thỏa thuận hợp tác mới để đưa mối quan hệ giữa hai quốc gia lên một tầm cao mới.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cảm ơn Đại sứ Kohdayar Marri và khẳng định Việt Nam luôn sẵn sàng hợp tác với Pakistan trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST nhằm thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa hai nước trong tương lai.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Hợp tác quốc tế

Phát triển nguồn tin phục vụ nghiên cứu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Trong thời gian qua, việc khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu (CSDL) Science Direct đã giúp các cơ sở giáo dục tăng số lượng, chất lượng các công bố quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và tăng xếp hạng của các trường đại học trên trường quốc tế.
Ngày 22/8/2024, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã có buổi làm việc với 7 trường Đại học về báo cáo hiệu quả sử dụng CSDL ScienceDirect.
Thực hiện Quyết định số 1285/QĐ-TTg ngày 01/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án Phát triển nguồn tin KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đến năm 2025, tầm nhìn 2030”, thời gian qua, Bộ KH&CN đã ưu tiên đầu tư để bổ sung tập trung CSDL ScienceDirect cho Cục Thông tin KH&CN quốc gia và 7 Đại học lớn là Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Cần Thơ và Đại học Thái Nguyên (nhóm 7+1).
Ông Trần Đắc Hiến, Cục trưởng Cục thông tin KH&CN quốc gia cho biết: Thực hiện quy định của Luật KH&CN 2013, Nghị định số 11/2014/NĐ-CP ngày 18/2/2014 của Chính phủ về hoạt động thông tin KH&CN, Quyết định số 1285/QĐ-TTg ngày 01/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ, từ năm 2016, với nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước hằng năm được Bộ KH&CN ưu tiên để bổ sung tập trung các nguồn tin KH&CN cốt lõi, có giá trị của nước ngoài, đặc biệt là CSDL Science Direct của nhà xuất bản Elsevier để phục vụ cộng đồng nghiên cứu và đào tạo trong nước tham khảo.
Nhờ được tiếp cận với các nguồn tài nguyên thông tin có giá trị này, nên số lượng và chất lượng nghiên cứu của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt và có bước tiến quan trọng. Theo thống kê của Cục Thông tin KH&CN quốc gia năm 2023 cho thấy, trong tổng số 187.200 cán bộ nghiên cứu của cả nước thì có hơn một nửa cán bộ làm việc ở các cơ sở giáo dục đại học. Thống kê trên CSDL Scopus của nhà xuất bản Elsevier cho thấy, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam đã tăng hơn 3,3 lần trong 7 năm qua và tập trung chủ yếu ở các cơ sở giáo dục đại học quy mô lớn như các đại học quốc gia và đại học vùng.
Ông Trần Đắc Hiến phát biểu tại buổi làm việc.
CSDL Science Direct gồm hơn 2.200 tạp chí thuộc 23 lĩnh vực KH&CN của 4 nhóm gồm: khoa học tự nhiên và kỹ thuật, khoa học sự sống, khoa học sức khỏe, khoa học xã hội và nhân văn. Trong những năm gần đây, số lượng các bài tải xuống ngày càng tăng, năm 2016 là 474,434 bài; năm 2023 là 1,081,262 bài, chi phí trên mỗi bài tải xuống giảm từ 2,31 USD năm 2016 xuống còn 1,29 USD năm 2023. Số bài báo khoa học quốc tế của nhóm 7+1 tăng mạnh trong giai đoạn 2016 – 2023, chỉ số FWCI (chỉ số tác động của trích dẫn theo trọng số) trong các năm đều cao hơn mức bình quân của thế giới từ 2-10%. Số lượng trích dẫn CSDL Science Direct của nhóm 7+1 tăng gấp 3 lần trong 5 năm gần đây.
Toàn cảnh buổi làm việc.
Tại buổi làm việc, các đại biểu đánh giá cao hoạt động hỗ trợ của Cục Thông tin KH&CN quốc gia trong thời gian qua đối với các cán bộ nghiên cứu, giảng viên, sinh viên. Các đại biểu cho rằng, việc tập trung vào các nguồn tin KH&CN chất lượng cao của quốc tế giúp các trường đại học nâng cao năng lực nghiên cứu, tăng mạnh số lượng công bố quốc tế cũng như chất lượng công bố được cải thiện. Trong thời gian tới, theo các đại biểu cần tiếp tục đầu tư, tăng cường truy cập CSDL Science Direct và các nguồn tin KH&CN chất lượng cao khác để đảm bảo nhu cầu thông tin cho nghiên cứu và đào tạo.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho biết: Với các con số thống kê trên cho thấy mức độ sử dụng hiệu quả CSDL Science Direct ngày càng tăng. Đây là nguồn đóng góp quan trọng để cải thiện chất lượng nghiên cứu của Việt Nam trong thời gian gần đây và là nguồn thông tin KH&CN chất lượng cao. Việc sử dụng CSDL Science Direct là lựa chọn đúng đắn để làm nền tảng thông tin cho công tác nghiên cứu và giảng dạy của các viện nghiên cứu và trường đại học.
Thứ trưởng Lê Xuân Định phát biểu tại buổi làm việc. 
Phát biểu kết luận, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt khẳng định, trong thời gian qua, việc khai thác và sử dụng CSDL Science Direct đã giúp các cơ sở giáo dục tăng số lượng, chất lượng các các công bố quốc tế, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và tăng xếp hạng của các trường đại học trên trường quốc tế. Việc đầu tư để sử dụng CSDL Science Direct là kênh đầu tư hiệu quả cho KH,CN&ĐMST bên cạnh việc đầu tư cho các nhiệm vụ KH&CN. Trong thời gian tới, để khai thác và sử dụng CSDL Science Direct hiệu quả cần tăng cường đầu tư hơn nữa đặc biệt là nguồn từ xã hội hóa. Điều này cũng phù hợp với quy định của Đề án “Bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, kết hợp đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn lực xã hội để phục vụ phát triển nguồn tin KH&CN”.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu kết luận.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia họp phiên toàn thể năm 2024

Thực hiện Kế hoạch công tác năm 2024 và Quy chế hoạt động của Hội đồng Phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia (Hội đồng), sáng 21/8/2024, tại Trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã diễn ra Phiên họp toàn thể năm 2024 của Hội đồng. Đây là Phiên họp đầu tiên được tổ chức sau khi Hội đồng kiện toàn theo Quyết định số 254/QĐ-HĐPTƯDNLNTQG ngày 29/02/2024 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Chủ tịch Hội đồng.
Phiên họp toàn thể Hội đồng Phát triển, ứng dụng NLNT quốc gia.
Phát biểu khai mạc Phiên họp, Thứ trưởng Trần Hồng Thái cho biết, hoạt động nghiên cứu ứng dụng NLNT ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, công nghiệp, tài nguyên và môi trường. Tuy nhiên các kết quả này còn chưa tương xứng với tiềm năng, triển vọng và đòi hỏi của thực tiễn. Bước sang một giai đoạn mới phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, KH&CN nói chung và lĩnh vực KH&CN hạt nhân nói riêng cần được đẩy mạnh hơn nữa để tham gia vào giải quyết những vấn đề, yêu cầu đặt ra trong thực tiễn cuộc sống, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Vị trí của Hội đồng càng trở nên quan trọng trong nghiên cứu, đề xuất các định hướng, giải pháp nhằm giúp Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, giải quyết các vấn đề quan trọng, liên ngành trong lĩnh vực NLNT.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái phát biểu khai mạc Phiên họp.
Hiện nay, Bộ KH&CN đang phối hợp với các bộ, ngành liên quan triển khai công tác lập Quy hoạch phát triển, ứng dụng NLNT thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và lập Hồ sơ đề nghị xây dựng Luật NLNT (sửa đổi). Thứ trưởng mong muốn các đại biểu tham dự Phiên họp bám sát chủ đề, tập trung thảo luận, trao đổi ý kiến cho hồ sơ Quy hoạch phát triển, ứng dụng NLNT thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và các vấn đề liên quan khác.
Tại Phiên họp, các đại biểu đã được nghe bà Trần Bích Ngọc, Vụ trưởng Vụ NLNT, Ủy viên thường trực của Hội đồng trình bày báo cáo về công tác xây dựng Quy hoạch phát triển, ứng dụng NLNT thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và ông Nguyễn Tuấn Khải, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Ủy viên Hội đồng trình bày báo cáo về “Tình hình sửa đổi, bổ sung Luật NLNT 2008”.
Bà Trần Bích Ngọc, Vụ trưởng Vụ Năng lượng nguyên tử báo cáo tại Phiên họp.
Ông Nguyễn Tuấn Khải, Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân báo cáo tại Phiên họp.
Các đại biểu tham dự đã cùng thảo luận, góp ý hồ sơ dự thảo Quy hoạch phát triển, ứng dụng NLNT gồm một số nội dung như: Quy hoạch cần tuân thủ theo quy hoạch tổng thể quốc gia và quy hoạch ngành; vấn đề đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo chuyên gia về an toàn và công nghệ; định hướng phát triển điện hạt nhân nhằm đảm bảo an ninh năng lượng. Đồng thời các đại biểu cũng đã  đưa ra các đề xuất hoàn thiện cơ sở pháp lý về phát triển, ứng dụng NLNT, bảo đảm an toàn, an ninh trong Luật NLNT 2008 (sửa đổi); cũng như đưa ra những nhiệm vụ trọng tâm cho phát triển ứng dụng NLNT thời gian tới.
Nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Văn Phong phát biểu tại Phiên họp.
Nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân phát biểu tại Phiên họp.
Các đại biểu tham dự thảo luận, góp ý tại Phiên họp.
Phát biểu kết luận Phiên họp, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt – Chủ tịch Hội đồng đã đánh giá cao nỗ lực trong thời gian qua của các cơ quan liên quan thuộc các Bộ: KH&CN, Công Thương, Y tế, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc xây dựng hồ sơ Quy hoạch phát triển, ứng dụng NLNT thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu kết luận Phiên họp.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh các công tác Hội đồng cần tập trung trong thời gian tới như: đẩy mạnh nghiên cứu, tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ trong công tác triển khai thực hiện Quy hoạch bảo đảm hiệu quả, khả thi. Trong đó, đặc biệt lưu ý các vấn đề trọng tâm: Phát triển tiềm lực KH&CN hạt nhân, đào tạo nguồn nhân lực, chuẩn bị sẵn sàng cho ứng dụng NLNT trong các ngành kinh tế – xã hội, xây dựng và triển khai Dự án Trung tâm nghiên cứu Khoa học công nghệ hạt nhân cũng như phát triển cơ sở hạ tầng năng lượng hạt nhân trong tương lai; đề xuất các định hướng nghiên cứu cho Chương trình KH&CN cấp quốc gia về phát triển, ứng dụng NLNT trong các ngành kinh tế – xã hội; tăng cường nghiên cứu và ứng dụng NLNT để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, phù hợp với thực tiễn và mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam giai đoạn tới.
Trong thời gian tới, Hội đồng cần nghiên cứu, đưa ra những giải pháp, ý kiến tham mưu, tư vấn để giúp triển khai Dự án Luật NLNT (sửa đổi) nói riêng cũng như hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế, chính sách trong lĩnh vực NLNT nói chung.
Trên cơ sở đề xuất của Cơ quan thường trực, Hội đồng đã thông qua Kế hoạch công tác năm 2025 và các nhiệm vụ công tác trọng tâm trong giai đoạn tới.
Các đại biểu tham dự Phiên họp chụp ảnh.
Hội đồng Phát triển, ứng dụng NLNT quốc gia được thành lập theo Quyết định số 706/QĐ-TTg ngày 08/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật NLNT (đã được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 15 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch), Hội đồng Phát triển, ứng dụng NLNT quốc gia là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình, có trách nhiệm giúp Thủ tướng Chính phủ trong chỉ đạo, giải quyết các vấn đề quan trọng, liên ngành trong lĩnh vực NLNT. 

Theo Quyết định số 254/QĐ-HĐPTƯDNLNTQG ngày 29/02/2024 của Bộ trưởng Bộ KH&CN, Chủ tịch Hội đồng,  Hội đồng gồm 27 thành viên: Chủ tịch là Bộ trưởng Bộ KH&CN, Phó Chủ tịch thường trực là Thứ trưởng Bộ KH&CN, Phó Chủ tịch là Thứ trưởng Bộ Công thương; các ủy viên Hội đồng là Thứ trưởng của các Bộ Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và Môi trường; Giáo dục và Đào tạo, Quốc phòng, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, Cục trưởng Cục Năng lượng nguyên tử (nay là Vụ trưởng Vụ Năng lượng nguyên tử), Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và 16 chuyên gia trong lĩnh vực phát triển, ứng dụng NLNT.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Năng lượng nguyên tử

Nhiều ‘ông lớn’ công nghệ tham gia AI4VN 2024

Đại diện Google cùng nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn của Việt Nam như FPT, Viettel, VinBigdata, VNPT… sẽ bàn về các xu hướng AI nổi bật tại AI4VN vào ngày 23/8.

Tham gia AI4VNN năm nay, Tập đoàn FPT trình bày hai tham luận gồm “Phát triển và Triển khai AI Tạo sinh: Bài toán hạ tầng và ứng dụng” dẫn dắt bởi TS Trần Thế Trung, Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Công nghệ FPT, Phó Giám đốc Khối sản phẩm AI, FPT Smart Cloud và “AI có Chủ quyền và Tác động Kinh tế đối với Việt Nam”, trình bày bởi ông Lê Hồng Việt, Tổng Giám đốc FPT Smart Cloud, Thành viên Tập đoàn FPT. Đây cũng là doanh nghiệp tiên phong tham dự Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam từ những năm đầu tiên với nhiều công ty thành viên trong lĩnh vực công nghệ, đặc biệt là AI.TS Trần Thế Trung, Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Công nghệ FPT Phó Giám đốc Khối sản phẩm AI, FPT Smart Cloud. Ảnh: FPT

TS Trần Thế Trung, Viện trưởng, Viện Nghiên cứu Công nghệ FPT Phó Giám đốc Khối sản phẩm AI, FPT Smart Cloud. Ảnh: FPT

Bên cạnh FPT, Viettel AI góp mặt tại AI4VN với phiên thảo luận “Ứng dụng AI trong tự động hóa thay thế các tác vụ truyền thống của con người”, dưới sự trình bày của ông Lê Đăng Ngọc, Phó giám đốc Khối nền tảng Trí tuệ nhân tạo, Viettel AI. Doanh nghiệp này có tiền thân là Ban Dự án Quốc gia trực thuộc Tập đoàn Viễn thông Quân đội, thành lập từ năm 2014. Hiện, Viettel AI tiên phong, dẫn dắt lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, Robotics và Digital Twin tại tập đoàn Viettel.

Với bài tham luận “Phát triển chất lượng nhân lực AI từ góc nhìn thực tiễn”, TS Lê Anh Văn, Giám đốc Nền tảng VNPT Generative AI, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam sẽ chia sẻ câu chuyện thực tế của doanh nghiệp trong áp dụng trí tuệ nhân tạo vào thực tiễn.

Ngoài 3 bài tham luận trên, phần phát biểu của đại diện tập đoàn VingroupGS Vũ Hà Văn, Giám đốc Khoa học Viện nghiên cứu dữ liệu lớn VinBigData với chủ đề “Việt Nam và cơ hội bứt phá từ trí tuệ nhân tạo tạo sinh” cũng rất được mong chờ. Tham luận của GS Hà Văn sẽ chia sẻ thực tế phát triển và ứng dụng AI tại doanh nghiệp cũng như những gợi ý, đề xuất để Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ công nghệ AI vào phát triển kinh tế, xã hội. “VinBigdata đã xây dựng thành công mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt, tập trung giải quyết ba vấn đề cốt lõi: cải thiện tính chính xác, giảm chi phí hạ tầng tính toán một cách tối đa và đảm bảo tính bảo mật”, ông nói.GS Vũ Hà Văn. Ảnh: Tùng Đỗ

GS Vũ Hà Văn. Ảnh: Tùng Đỗ

Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam năm nay cũng ghi nhận sự góp mặt của hàng loạt tên tuổi công nghệ lớn thế giới với nhiều phiên tham luận chủ đề xoay quanh việc ứng dụng AI vào thực tế. Trong đó, Google với đại diện là ông Marc Woo, Giám đốc điều hành Google phụ trách thị trường Việt Nam và châu Á – Thái Bình Dương sẽ chia sẻ “AI tạo sinh và các xu hướng nổi bật trong 2024”. Ông Marc Woo là một trong những nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm tại Google, đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt và thực hiện chiến lược kinh doanh, xây dựng quan hệ đối tác cho các sản phẩm của Google và giới thiệu các sáng kiến hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của Việt Nam.

Meta – công ty mẹ của Facebook tham dự AI4VN 2024 với đại diện là bà Kim Hee-Eun – Giám đốc phụ trách Chính sách Cạnh tranh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, tập đoàn Meta. Tại sự kiện, bà sẽ dẫn dắt tham luận với chủ đề “Tác động xã hội của Trí tuệ nhân tạo”, thông qua những kinh nghiệm vận hành mạng xã hội lớn nhất hành tinh. Meta gần đây nỗ lực tăng hiện diện tại Đông Nam Á. Ông Kishore Parthasarathy – Giám đốc Marketing khu vực Đông Nam Á tại Meta đánh giá thị trường này “đem lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp trong bối cảnh toàn cầu có nhiều bất ổn”.

Đại học RMIT tham dự sự kiện với bài tham luận “AI vượt ngoài màn hình máy tính: Nâng cao khả năng con người trong thế giới vật lý” với 2 diễn giả hàng đầu. GS Fabio Zambetta, Phó trưởng khoa phụ trách đối ngoại, Khoa Công nghệ máy tính, Phân viện STEM, Đại học RMIT Australia góp mặt trong tham luận cùng TS Arthur Tang, Giảng viên cấp cao ngành Công nghệ thông tin, Khoa Khoa học, Kỹ thuật & Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam.TS Arthur Tang. Ảnh: NVCC

TS Arthur Tang. Ảnh: NVCC

Trí tuệ nhân tạo cũng là một trong những ngành học nổi bật tại RMIT Việt Nam. Với những nghiên cứu về AI và Xử lý hình ảnh, đại học RMIT được xếp vào hàng xuất sắc theo khung đánh giá Nghiên cứu Xuất sắc quốc gia Australia (ERA), cũng như được vinh danh là cơ sở có những nghiên cứu “vượt chuẩn thế giới” bởi Hội đồng Nghiên cứu Australia. Chương trình Thạc sĩ Trí tuệ nhân tạo ở RMIT được công nhận bởi Hiệp hội Máy tính Australia (ACS).

Ngoài các tập đoàn trên, Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam 2024 hôm 23/8 có sự góp mặt của các chuyên gia từ các doanh nghiệp khác như: bà Đặng Huỳnh Mai Anh – Giám đốc Dữ liệu & Phân tích Heineken Việt Nam; PGS TS Bùi Thu Lâm – Phó chủ tịch, Tổng thư ký FISU Việt Nam; ông Cao Vương – Chủ tịch HĐQT Aiva Group; ông Lê Hồng Quang – Phó Tổng Giám đốc thường trực, Công ty Cổ phần MISA; GS TS Nguyễn Thanh Thủy – Chủ tịch FISU Việt Nam; Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư ngành CNTT, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam; ông Ajay Kushwaha – Giám đốc cấp cao, Kiến trúc doanh nghiệp, Khu vực ASEAN, Salesforce; TS BS Nguyễn Hải Tuấn – Cố vấn Tin Sinh học Digosys…Các xu hướng mới nhất của AI sẽ được cập nhật tại AI4VN 2024. Ảnh: Freepik

Các xu hướng mới nhất của AI sẽ được cập nhật tại AI4VN 2024. Ảnh: Freepik

Sự kiện Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam (AI4VN) với chủ đề “Mở khóa sức mạnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh – Unlock the power of Generative AI” diễn ra ngày 23/8 tại Trung tâm hội nghị Quốc gia Hà Nội với bốn phiên hội thảo (AI Workshop), đề cập tới các chủ đề: AI Automation – Tự động hóa và AI; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam; Data center và AI Cloud và Ứng dụng AI trong lĩnh vực Y tế. Ngoài ra, trong khuôn khổ AI4VN 2024, một triển lãm (AI Expo) gồm các gian hàng trình diễn các sản phẩm AI tiêu biểu của các doanh nghiệp, viện, trường… Sự kiện do Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ đạo, Báo VnExpress, Công ty Cổ phần Dịch vụ trực tuyến FPT (FPT Online) tổ chức với sự phối hợp của Câu lạc bộ Các Khoa – Viện – Trường Công nghệ thông tin -Truyền thông (FISU), bắt đầu từ năm 2018.

Nhiều ông lớn công nghệ tham gia AI4VN 2024 - 4Tuấn Vũ

AI4VN 2024 đề cập vấn đề nóng về AI tạo sinh

Các chuyên gia, ‘ông lớn công nghệ’ sẽ phân tích xu hướng nổi bật, cơ hội bứt phá khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong các lĩnh vực và quản trị doanh nghiệp tại AI4VN 2024.

Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam (AI4VN) 2024 có chủ đề “Mở khóa sức mạnh trí tuệ nhân tạo (AI) tạo sinh – Unlock the power of Generative AI”, diễn ra ngày 23/8 tại Trung tâm hội nghị Quốc gia Hà Nội. Sự kiện do Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ đạo, Báo VnExpress, Công ty Cổ phần Dịch vụ trực tuyến FPT (FPT Online) tổ chức với sự phối hợp của Câu lạc bộ Các Khoa – Viện – Trường Công nghệ thông tin -Truyền thông (FISU), bắt đầu từ năm 2018.

Theo GS.TS Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch FISU Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư ngành CNTT, Chủ tịch Hội Tin học Việt Nam, AI4VN đề cập tới trí tuệ nhân tạo trong doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc sử dụng AI có trách nhiệm, giảm rủi ro cho người dùng… đang là những vấn đề nóng bỏng. “Chủ đề năm nay một mặt đẩy mạnh tiềm năng của công nghệ AI, đi cùng sự hội tụ sức mạnh công nghệ và công nghiệp trí tuệ nhân tạo tạo sinh”, ông nhìn nhận.

Ông đánh giá chủ đề AI Summit 2024 rất thú vị khi xoay quanh việc “mở khóa sức mạnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh”. Mở khóa được hiểu thúc đẩy ứng dụng trí tuệ nhân tạo nhưng phải tạo ra AI có trách nhiệm, đạo đức; AI xanh an toàn cho người sử dụng và doanh nghiệp. “Chủ đề AI4VN “bắt trend” bám sát công nghệ thế giới nhưng vẫn thể hiện đúng, trúng và sát với nhu cầu phát triển của Việt Nam”, GS Thủy nói.

GS. TS Nguyễn Thanh Thủy. Ảnh: Hà An

GS. TS Nguyễn Thanh Thủy. Ảnh: Hà An

Theo ông, việc “mở khóa” nhằm thúc đẩy mạnh mẽ các ứng dụng không chỉ tập đoàn lớn mà có doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mở khóa cũng là quan tâm triển khai các mô hình AI, ngôn ngữ lớn hay Chat GPT trong các lĩnh vực chuyên biệt. Bên cạnh mở khóa (unlock) là khóa (lock), nghĩa là cần quan tâm đến đạo đức của AI và sử dụng có trách nhiệm, phát triển AI giải thích được và an toàn, giảm thiểu tối đa rủi ro.

Tại Việt Nam, “cơ hội vàng” cho các doanh nghiệp khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh là chủ đề nhận được sự quan tâm. GS Nguyễn Thanh Thủy cho hay yếu tố công nghiệp đã tạo ra thị trường AI lớn, ở đó doanh thu cũng như lợi nhuận có được do triển khai công nghệ AI nói chung và AI tạo sinh nói riêng là rất lớn. Ông dẫn thị trường AI tới 50 tỷ USD trong dữ liệu có thể khai thác được; hay các mô hình AI farm (AI server farm) đang là xu hướng công nghệ tạo ra cú đột phá của những “ông khủng về công nghệ”, như Nvidia đã tăng vốn từ 1.000 tỷ USD đến 3.000 tỷ USD.

Để phát triển và ứng dụng AI tạo sinh, câu chuyện về dữ liệu và hạ tầng điện toán đám mây là điều mà nhiều doanh nghiệp quan tâm. Đây cũng là chủ đề sẽ được thảo luận trong chương trình, ở phiên hội thảo buổi sáng 23/8.

Ông Ajay Kushwaha – Giám đốc cấp cao, Kiến trúc doanh nghiệp, Khu vực ASEAN, Salesforce sẽ chỉ ra cách tiếp cận thực tế trong khai thác ứng dụng AI tạo sinh mạnh mẽ như chất lượng của dữ liệu, kết hợp AI dự đoán (Predictive AI) và AI tạo sinh để tạo nên một quy trình công việc hiệu quả hay việc tối ưu hóa tính thực tiễn và hiệu quả về chi phí của AI.

AI có giúp tối ưu hóa quá trình chẩn đoán, điều trị và tăng thời gian sống của bệnh nhân hay không, sẽ được PGS.TS Nguyễn Thị Trang, Trường Đại học Y Hà Nội; Phó tổng thư ký, Hội Di truyền Y học Việt Nam, giải đáp. Chuyên gia cũng giới thiệu giải pháp, quy trình pháp triển mô hình trí tuệ nhân tạo hỗ trợ điều trị ung thư.

“Xu hướng phát triển trí tuệ nhân tạo thế giới” là điểm nhấn tại phiên chính AI Summit. Nói về chủ đề này, GS.TS Nguyễn Thanh Thủy nhìn nhận từ khóa về “sức mạnh của AI tạo sinh” thể hiện ở 3 khía cạnh gồm công nghệ, hội tụ công nghệ và công nghiệp trí tuệ nhân tạo.

Bước vào phiên chính AI Summit trong buổi chiều 23/8 sẽ có sự xuất hiện của bà Kim Hee-Eun, Giám đốc phụ trách Chính sách Cạnh tranh tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Tập đoàn Meta, nói về tác động xã hội nổi bật của trí tuệ nhân tạo

.

Bà Kim Hee-Eun từ Tập đoàn Meta. Ảnh: NVCCBà Kim Hee-Eun từ Tập đoàn Meta. Ảnh: NVCC

Tiếp đó ông Kim Younghun, Giám đốc Bộ phận Mở rộng AI, Cục Xúc tiến CNTT Quốc gia Hàn Quốc, NIPA, có bài tham luận về ứng dụng AI trong thúc đẩy các giải pháp công cộng. Ông chia sẻ về kế hoạch chiến lược của Hàn Quốc trong việc phổ biến, hội tụ công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh AI nhằm phát triển dự án lớn trong hệ sinh thái AI.

Ông Kim Younghun, từ NIPA, là diễn giả trong chương trình. Ảnh: NVCC

Ông Kim Younghun, từ NIPA, là diễn giả trong chương trình. Ảnh: NVCC

Sau phần quốc tế, đại diện các tập đoàn công nghệ, doanh nghiệp lớn trong nước sẽ làm rõ hơn các bước chuẩn bị, tiềm năng cũng như cơ hội, thách thức khi phát triển và ứng dụng AI đối với Việt Nam.

Mở đầu phiên này, GS Vũ Hà Văn, Giám đốc Khoa học Viện nghiên cứu dữ liệu lớn VinBigData (tập đoàn Vingroup) có bài chia sẻ về việc “Việt Nam và cơ hội bứt phá từ trí tuệ nhân tạo tạo sinh”.

Tiếp theo ông Lê Hồng Việt, Tổng Giám đốc FPT Smart Cloud, Thành viên Tập đoàn FPT sẽ có bài tham luận về chủ đề “AI có Chủ quyền và Tác động Kinh tế đối với Việt Nam”.

Ông Lê Hồng Việt. Ảnh: NVCC

Ông Lê Hồng Việt. Ảnh: NVCC

Với bài tham luận “Phát triển chất lượng nhân lực AI từ góc nhìn thực tiễn”, TS Lê Anh Văn, Giám đốc Nền tảng VNPT Generative AI thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, sẽ chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của doanh nghiệp trong việc làm chủ và phát triển các sản phẩm trí tuệ nhân tạo đáp ứng nhu cầu thị trường. Đây là cơ sở để doanh nghiệp định hình và nâng cao chất lượng đội ngũ kỹ sư AI trước bối cảnh ngành AI “khát” nhân lực. Trong thời gian qua, VNPT cũng đã giành được thứ hạng cao nhất tại nhiều cuộc thi quốc tế uy tín trong lĩnh vực AI.

TS Lê Anh Văn. Ảnh: NVCCTS Lê Anh Văn. Ảnh: NVCC

Các hoạt động chính tại AI4VN 2024:

Trong buổi sáng 23/8, chương trình có bốn phiên hội thảo (AI Workshop), đề cập tới các chủ đề: AI Automation – Tự động hóa và AI; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam; Data center và AI Cloud và Ứng dụng AI trong lĩnh vực Y tế. Trước khi bước vào các chủ đề chuyên sâu đại diện của UNESCO sẽ có phần dẫn mở trao đổi về việc “Hợp tác quốc tế đảm bảo an toàn đối với trí tuệ nhân tạo”. Khép lại phiên hội thảo buổi sáng là bài trình bày về “Phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm ở Việt Nam” đến từ đại diện Trường Đại học Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội).

AI Summit diễn ra chiều 23/8 có sự tham của của lãnh đạo Chính phủ, bộ ngành và các tổ chức quốc tế. Phần đầu là phát biểu, tham luận của các diễn giả. Phần hai của chương trình, Ban tổ chức sẽ trao giải cho các sản phẩm, giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo nổi bật (AI Awards 2024).

Trong khuôn khổ AI4VN 2024, một triển lãm (AI Expo) diễn ra cả ngày, giới thiệu các sản phẩm, giải pháp AI của doanh nghiệp trong hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.

Trường Đại học Kinh tế TP HCM (UEH) mang đến sự kiện robot chơi đàn cùng không gian chơi piano thực tế ảo tại AI4VN 2023. Ảnh:Trần Quỳnh

Trường Đại học Kinh tế TP HCM (UEH) mang đến sự kiện robot chơi đàn cùng không gian chơi piano thực tế ảo tại AI4VN 2023. Ảnh:Trần Quỳnh

Như Quỳnh

Phát triển nguồn tin khoa học và công nghệ trong thời đại công nghệ số

Vừa qua, tại TP Hồ Chí Minh, Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã tổ chức Hội nghị lần thứ 21 Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn tin khoa học và công nghệ.

Phát biểu tại Hội nghị, ông Trần Đắc Hiến – Cục trưởng Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Chủ tịch Liên hợp cho biết, trong 20 năm qua, Liên hợp đã đạt được nhiều kết quả tích cực, giúp tăng cường năng lực, tiềm lực thông tin cho các cơ quan thông tin – thư viện, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả kinh phí bổ sung nguồn tin khoa học và công nghệ, phục vụ hiệu quả cho cộng đồng nghiên cứu và đào tạo, góp phần thực hiện yêu cầu chuyển đổi số ngành thư viện hiện nay. Đặc biệt, qua 20 kỳ hội nghị toàn quốc được tổ chức, Liên hợp đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo nguồn tin khoa học và công nghệ cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, giáo dục đào tạo, đổi mới sáng tạo và tăng cường năng lực thông tin cho các cơ quan thông tin thư viện Việt Nam.

Cục trưởng Trần Đắc Hiến cũng đã chỉ ra một số khó khăn và hạn chế của Liên hợp. Điển hình các hoạt động hợp tác liên thông thư viện, phát triển thư viện điện tử, chia sẻ tài nguyên số, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ thông tin – thư viện… còn chậm và chưa thật sự hiệu quả như mong muốn. Nguồn lực tài chính đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin và bổ sung, phát triển dữ liệu số của các trung tâm thông tin – thư viện còn hạn chế, nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Trên cơ sở đó, Cục trưởng đề xuất Hội nghị cùng thảo luận và đưa ra các giải pháp để phát huy các kết quả đã đạt được, đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế và triển khai những nhiệm vụ mới trong giai đoạn 2025-2030.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định phát biểu kết luận tại Hội nghị.

Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Lê Xuân Định chúc mừng những kết quả mà Liên hợp đã đạt được trong 20 năm qua. Dưới sự bảo trợ của Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hợp thư viện Việt Nam về nguồn tin khoa học và công nghệ đã không ngừng phát triển và lớn mạnh, tập hợp nguồn lực của các cơ quan thông tin, thư viện trong cả nước để tăng cường năng lực đàm phán bổ sung các nguồn tin khoa học và công nghệ quốc tế và chia sẻ các nguồn tin nội sinh. Hoạt động của Liên hợp đã góp phần quan trọng vào việc triển khai Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Thư viện, Đề án 1285 về phát triển nguồn tin khoa học và công nghệ và Chương trình chuyển đổi số quốc gia… Thứ trưởng cũng đánh giá cao một trong những giá trị cốt lõi của Liên hợp trong 20 năm qua là đã góp phần đào tạo, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thông tin, thư viện và người dùng tin tại các đơn vị thành viên.

Để phát triển Liên hợp giai đoạn đến năm 2030, Thứ trưởng Lê Xuân Định đề nghị Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia cùng các đơn vị thành viên tập trung nghiên cứu và triển khai một số nội dung sau:

Thứ nhất, nghiên cứu đề xuất triển khai cơ chế phối hợp bổ sung các cơ sở dữ liệu quốc tế cho các đơn vị thành viên trên cơ sở tăng cường xã hội hóa, giảm sự phụ thuộc vào cơ quan bảo trợ (Bộ Khoa học và Công nghệ).

Thứ hai, tiếp tục phổ biến và thúc đẩy sử dụng các nền tảng Openscience.vn và V-Compas (là công cụ trực tuyến chạy trên nền tảng dữ liệu lớn) tại các đơn vị thành viên Liên hợp.

Thứ ba, triển khai thí điểm Hệ thống định danh cán bộ nghiên cứu (RID) kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư tại các đơn vị thành viên Liên hợp, làm cơ sở để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ trong thời gian tới;.

Thứ tư, nghiên cứu các giải pháp xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ hoạt động nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo, trong đó bao gồm các dịch vụ kỹ thuật số tích hợp trợ giúp cho các nhà nghiên cứu trong toàn bộ chu trình nghiên cứu từ khâu hình thành ý tưởng cho tới khi công bố kết quả nghiên cứu và quảng bá hậu công bố.

PT

Thiết kế, chế tạo và tích hợp máy chuẩn đầu mô men lực độ chính xác cao phục vụ lĩnh vực đo lường

Vào ngày 19/4/2024, Tuyên bố New York về Ý thức của động vật đã được công bố tại hội nghị “Khoa học mới nổi về ý thức của động vật” tổ chức tại Đại học New York, Hoa Kỳ. Tuyên bố New York là một nỗ lực để thể hiện sự đồng thuận của giới khoa học về sự tồn tại trải nghiệm ý thức ở tất cả các loài có xương sống và nhiều loài không xương sống. Về mặt khoa học, Tuyên bố New York là một bước tiến bộ lớn cho nhân loại, nhưng nó cũng sẽ khiến cho nhiều người có ý thức hơn về các thách thức đạo đức liên quan đến động vật có trải nghiệm ý thức. Bài viết bàn về các cách tiếp cận triết học đối với vấn đề đạo đức của việc giết các sinh vật có tri giác để từ đó chỉ ra nan đề đạo đức đang hiện hữu trong xã hội loài người: Để duy trì sự tồn tại của con người, loài được xem là có đạo đức, thì chúng ta lại vi phạm đạo đức của chính chúng ta, là sát sinh các loài có giá trị nội tại, ý thức, hay tri giác khác. Nan đề đạo đức này đã tồn tại trong xã hội loài người từ rất lâu trước đây. Nhiều giải pháp đã được đề xuất và ứng dụng vào thực tế nhằm giải quyết nan đề này, tuy nhiên chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn giải quyết được nan đề đạo đức, đó là các sinh vật có tri giác vẫn tiếp tục bị giết vì sự sinh tồn của con người.

Tuyên bố New York: Một bước tiến lớn về ý thức ở động vật

Ngày 19/4/2024, Tuyên bố New York về Ý thức của động vật đã nhận được sự đồng thuận của 39 chuyên gia trong các lĩnh vực tâm lý học, thần kinh học, động vật học và triết học. Tuyên bố New York có mục tiêu cập nhật Tuyên bố Cambridge về Ý thức trước đó, được đưa ra vào năm 2012 như một nỗ lực để thể hiện sự đồng thuận của giới khoa học về sự tồn tại ý thức ở các loài động vật không phải con người, bao gồm nhưng không giới hạn ở động vật có vú và chim. Tuyên bố New York viết rằng [1]: Bằng chứng thực nghiệm cho thấy, trải nghiệm ý thức có khả năng tồn tại ở tất cả các loài có xương sống (bao gồm các loài bò sát, lưỡng cư, cá) và nhiều loài không xương sống (các loài mực ống, giáp xác mười chân và côn trùng). Tuyên bố tập trung vào loại ý thức cơ bản nhất, được biết đến là ý thức hiện tượng. Nói một cách đơn giản, nếu một sinh vật có ý thức hiện tượng, thì nó sẽ có khả năng trải nghiệm các cảm giác đau đớn, thích thú hoặc đói, nhưng không nhất thiết phải có các trạng thái tâm thức phức tạp hơn như tự nhận thức.

Ví dụ, các bằng chứng gần đây cho các nhà khoa học biết được rằng bạch tuộc (Octopoda) cảm nhận được đau đớn và có thể thực hiện các hành vi phức tạp như giải quyết vấn đề, sử dụng công cụ và chơi đùa. Trong khi đó, mực nang (Sepia officinalis) có thể nhớ được chi tiết của các sự kiện trong quá khứ cụ thể… Trong thế giới côn trùng, ong nghệ (Bombus terrestris) cũng có các hành vi chơi đùa, còn ruồi giấm (Drosophilidae) có những cách ngủ khác nhau bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội của chúng…

Ong nghệ (Bombus terrestris). Nguồn: Ivar Leidus (CC-BY-SA-4.0).

Mặc dù nhiều loài động vật được đề cập trong Tuyên bố có bộ não và hệ thần kinh rất khác so với con người, các nhà nghiên cứu cho rằng điều này không nhất thiết là rào cản đối với ý thức. Chẳng hạn, não ong chỉ chứa khoảng 1 triệu tế bào thần kinh, so với khoảng 86 tỷ tế bào thần kinh của con người. Nhưng mỗi tế bào thần kinh của ong lại có thể phức tạp hơn về cấu trúc. Mạng lưới kết nối mà chúng tạo thành cũng vô cùng dày đặc, với mỗi tế bào thần kinh có thể tiếp xúc với khoảng 10.000 hoặc 100.000 tế bào khác. Hệ thần kinh của bạch tuộc lại phức tạp theo cách khác. Cấu trúc của nó phân bố rộng rãi hơn là tập trung; một cánh tay bị cắt có thể thể hiện nhiều hành vi của con vật nguyên vẹn.

Nan đề đạo đức giữa sinh vật có tri giác và sự sinh tồn của con người

Về mặt khoa học, Tuyên bố New York là một bước tiến bộ lớn cho nhân loại, vì nó giúp mở ra giới hạn mới về mặt nhận thức của con người đối với thế giới xung quanh, đặc biệt là đối với các sinh vật có tri giác. Đây không chỉ là nền tảng cho các phát kiến khoa học về nhận thức và các kỹ thuật dựa trên mô phỏng sinh học mà còn giúp định hướng sự chuyển dịch của xã hội theo hướng văn minh và hài hòa với môi trường hơn [2]. Tuy nhiên, Tuyên bố cũng sẽ khiến cho nhiều người có ý thức hơn về các thách thức đạo đức liên quan đến động vật có trải nghiệm ý thức. Nói cách khác, Tuyên bố này sẽ khiến nhiều người trong chúng ta phải xem lại giá trị quan, hành vi và cách đối xử đối với các loài động vật “có ý thức” xung quanh.

Có nhiều khía cạnh để chúng ta phân biệt con người và các loài động vật. Bên cạnh các đặc tính sinh học, khả năng nhận thức, cấu trúc xã hội và văn hóa, thì khả năng lý giải đạo đức và luân lý là một dấu hiệu phân biệt cơ bản.

Trong hầu hết các khuôn khổ luân lý, bao gồm và không giới hạn ở các học thuyết tôn giáo và triết học, việc giết người là sai trái về mặt đạo đức. Trong triết học, cả đạo nghĩa luận và chủ nghĩa vị lợi đều cho rằng trong phần lớn trường hợp, hành vi giết người là sai trái [3]. Đạo nghĩa luận cho rằng, việc giết người là sai trái vì nó sử dụng con người như một cách thức để đạt được mục tiêu, vì thế không tôn trọng giá trị nội tại (phẩm giá) của con người như một sinh vật có lý trí. Ngoài ra, nếu hành vi đấy trở thành luật phổ quát nó sẽ dẫn đến một xã hội đầy rối loạn, mất an toàn, không có niềm tin và hợp tác xã hội. Trong khi đó, mặc dù chủ nghĩa vị lợi cho rằng giết người là chấp nhận được về mặt đạo đức nếu kết quả của hành động đấy giúp làm tăng tối đa tổng hạnh phúc và giảm tối đa tổng đau khổ, nhưng phần lớn các hành vi giết người đều bị xem là sai trái. Đó là vì hành động này tước đoạt khả năng hạnh phúc trong tương lai của nạn nhân, mà không có bất kỳ lợi ích bù đắp nào cho người khác, hoặc vì những tác động tiêu cực đối với những người khác ngoài nạn nhân (ví dụ như sự thống khổ của thân nhân) [3].

Trong cuốn sách “The Ethics of Killing: Problems at The Margins of Life”, tác giả phân biệt hai lĩnh vực đạo đức: đạo đức của sự tôn trọng và đạo đức của lợi ích [4]. Cụ thể, đạo đức của sự tôn trọng được áp dụng cho những đối tượng tác giả xem là “người”. Lĩnh vực đạo đức này thể hiện những hạn chế trong hành động của cá nhân đối với người khác, xuất phát từ sự công nhận họ như những cá nhân trưởng thành có vị thế đạo đức ngang bằng với cá nhân đấy. Nói cách khác, tác giả cho rằng giết chóc là sai vì người có giá trị của riêng họ được tạo nên từ việc họ có ý thức về bản thân, nhận thức được danh tính và sự tồn tại liên tục của mình theo thời gian. Trong khi đó, đạo đức của lợi ích cho rằng một hành động là đúng hay sai dựa vào tác động của hành động đó lên hạnh phúc, lợi ích hoặc lợi ích tương đối theo thời gian của người khác. Lĩnh vực đạo đức này được áp dụng cho những đối tượng không đủ điều kiện về khả năng nhận thức liên tục về sự tồn tại của mình, như thai nhi, trẻ sơ sinh và những người bị suy giảm nhận thức nghiêm trọng [4].

Tuy nhiên, cả ba cách lý giải triết học trên đều bị cho là không thành công để giải thích sự sai trái của việc giết chóc. Trong khi chủ nghĩa vị lợi có thể tạo ra quá nhiều lý do để biện minh cho hành vi giết người, không giải thích được những quan niệm đạo đức sâu sắc và phổ biến về các mức độ sai trái khác nhau liên quan đến việc giết người và đưa ra cách lý giả sai lầm về việc tại sao giết người là sai. Cách tiếp cận theo hướng đạo nghĩa luận và lý thuyết đạo đức của J. McMahan (2002) [4] đều thiết lập những ranh giới bất kỳ và thiếu cơ sở thực nghiệm, khiến chúng không phù hợp để chỉ ra sự khác biệt về sức nặng của địa vị đạo đức giữa những đối tượng nằm dưới và trên những ranh giới này.

Vì thế, R. Ebert (2016) [5] đề xuất rằng tính sai trái của việc giết chóc nên được giải thích bằng giá trị nội tại của ý thức. Hay nói cách khác, việc giết chóc là sai trái đối với những đối tượng có khả năng có ý thức hiện tượng vì nó không thể hiện được sự tôn trọng đối với giá trị nội tại của một chủ thể trải nghiệm. Thông qua cách tiếp cận này, các lý do khiến việc giết người trưởng thành bình thường là sai trái cũng có thể áp dụng cho nhiều loài động vật khác và những người không đạt được mức độ nhận thức của người trưởng thành. Đồng thời, cách tiếp cận này cũng cho thấy biện minh cho việc giết động vật có được ý thức hiện tượng không dễ dàng hơn biện minh cho việc giết một con người.

Tuyên bố New York là một bước tiến tiếp nối Tuyên bố Cambridge, mở rộng phạm vi các sinh vật không phải con người có được ý thức hiện tượng. Đồng thời, cũng làm tăng nhận thức của xã hội về sự tồn tại ý thức ở nhiều loài sinh vật hơn Tuyên bố trước đấy. Cùng với đó, các nền tảng của triết học, bao gồm nhưng không giới hạn ở cách tiếp cận của R. Ebert (2016) [5], đã phát triển tới mức độ cho rằng cần phải tôn trọng các đối tượng có ý thức hiện tượng. Khi những giá trị triết học này xuất hiện và được lan tỏa rộng rãi trong không gian thông tin của xã hội, nó có khả năng được tiếp thu và trở thành một phần thế giới quan của nhiều người [2, 6, 7]. Khi đấy, nan đề đạo đức như sau sẽ xuất hiện một cách rộng rãi: Để duy trì sự tồn tại của con người, loài được xem là có đạo đức, thì chúng ta lại vi phạm đạo đức của chính chúng ta, là sát sinh các loài có ý thức hiện tượng khác.

Có lời giải nào cho nan đề đạo đức này không?

Trên thực tế, nan đề đạo đức này đã tồn tại từ lâu trong xã hội và dẫn đến một số phong trào môi trường đáng chú ý. Các phong trào quyền động vật đã xuất hiện và xem việc lạm dụng động vật như một vấn đề xã hội ngang tầm với việc gây hại cho trẻ em, phụ nữ và người già. Họ hoạt động với nguyên tắc cho rằng, động vật là những sinh vật có tri giác chứ không phải là “vật” để bị xem như là hàng hóa, thực phẩm, công cụ nghiên cứu, hay là chiến lợi phẩm săn bắn. Chính vì thế, các phong trào quyền động vật hay nhấn mạnh khả năng tri giác được sự đau đớn và thống khổ của các loài động vật để thúc đẩy “quyền thiêng liêng của kẻ yếu”, từ đấy thúc đẩy phúc lợi động vật, giải phóng động vật và quyền động vật [8].

Mặc dù không trực tiếp nhắc đến quyền của các loài sinh vật, nhưng Phong trào Tuyệt chủng con người tự nguyện (VHEMT) cũng thể hiện rõ sự mâu thuẫn đạo đức giữa sự tồn tại của con người và tự nhiên, bao gồm các sinh vật khác. Phong trào do Les U. Knight, một nhà hoạt động môi trường người Mỹ, phát động vào năm 1991 [9]. Ông cho rằng, “càng có nhiều người (trên trái đất), các vấn đề sẽ càng trở nên tồi tệ hơn”. Nền tảng của phong trào này dựa trên lập luận rằng, dân số loài người đã vượt quá khả năng chịu đựng của Trái đất, khiến việc tuyệt chủng con người một cách tự nguyện trở thành biện pháp tốt nhất cho sự hạnh phúc của các quần thể sinh vật khác [10]. Vì thế, những người có tư tưởng này ủng hộ việc ngừng sinh con một cách tự nguyện, cuối cùng dẫn đến sự tuyệt chủng của loài người.

Các Phong trào quyền động vật và tuyệt chủng con người tự nguyện đều mượn một số nguyên lý từ học thuyết Sinh thái sâu sắc. Học thuyết này ra đời vào những năm đầu thập kỷ 1970 như một phản ứng trước cuộc khủng hoảng môi trường ngày càng nghiêm trọng và thể hiện sự phê phán đối với các cách tiếp cận bảo vệ môi trường hạn hẹp [11]. A. Næss, triết gia người Na Uy đưa ra học thuyết Sâu sắc sinh thái cho rằng, chúng ta không nên tập trung vào vị trí đặc biệt của con người trong tự nhiên, mà thay vào đó nên quan tâm đến mọi thành phần của tự nhiên trên cơ sở bình đẳng, vì trật tự tự nhiên có giá trị nội tại lớn hơn nhiều so với các giá trị con người [11]. Đồng nhất với quan điểm của A. Næss, những người ủng hộ Sinh thái sâu sắc đề cao giá trị nội tại của tất cả các thực thể sống và hệ sinh thái, ủng hộ các biện pháp như giảm dân số và biến đổi lối sống để giảm bớt tác động của con người đối với môi trường [12].

Tuy nhiên, việc xem các thực thể sống và hệ sinh thái có được giá trị nội tại, ý thức, hay tri giác không chỉ mới xuất hiện gần đây mà đã tồn tại hàng nghìn năm và được truyền đạt theo các hình thức khác nhau thông qua các hệ thống tôn giáo và văn hóa. Một trong những nguồn ý tưởng cho học thuyết Sinh thái sâu sắc là những nguyên lý siêu hình học của Phật giáo [13].

Phật giáo bắt đầu được lưu truyền ở vùng đông bắc Ấn Độ thông qua lời giảng của Đức Phật vào khoảng thế kỷ thứ VI và IV trước Công nguyên. Tứ Diệu Đế (hay còn gọi là 4 chân lý của bậc thánh) là nền tảng trong tư tưởng của Phật giáo, trong đó bản chất đạo đức của Phật giáo, một trong các giới luật được Phật dạy là bất bạo động: được giải thích là lời dặn không giết hại hay làm tổn thương người khác vì chúng sẽ tạo ra sự đau khổ. “Người khác” ở đây dùng để chỉ chúng sinh, bao gồm cả các loài động vật có cảm xúc [14]. Vì các loài động vật đều có trải nghiệm ý thức và có khả năng trải qua sự đau khổ, nên việc giết hại chúng sẽ khiến chúng trải qua sự đau khổ, điều bị cho là sai trái về mặt đạo đức trong Phật giáo [15].

Một tôn giáo lớn khác cũng có hệ thống đạo đức riêng cho động vật là Hồi giáo, tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới bắt nguồn từ đầu thế kỷ thứ VII sau Công nguyên tại Mecca. Tôn giáo này cho rằng, động vật là những sinh vật phụ thuộc vào Thượng Đế, vì thế chúng có những giá trị nội tại của chúng. Cụ thể, động vật được coi là có cuộc sống và mục đích riêng của chúng, có giá trị đối với chính chúng và đối với Thượng Đế  hơn là bất kỳ giá trị vật chất nào mà chúng có thể mang lại cho loài người. Chính vì thế, con người có nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe và điều kiện sống của các loài động vật. Khi giết động vật làm thực phẩm, việc giết mổ phải được thực hiện nhân danh Thượng Đế như một nghi thức thiêng liêng để đảm bảo rằng cuộc sống của động vật không bị coi nhẹ và việc giết mổ không phải là biểu hiện của thái độ thù địch đối với vũ trụ [16].

Có thể thấy được rằng nan đề đạo đức về việc giết các loài sinh vật có trị nội tại, ý thức, hay tri giác để duy trì sự tồn tại của con người đã tồn tại từ rất lâu trước đây. Các cách tiếp cận để giải quyết nan đề cũng rất khác nhau và đa dạng. Trong khi các nước phương Tây xuất hiện các phòng trào đòi quyền cho động vật và thực hiện tuyệt chủng tự nguyện, các tín đồ Phật giáo chọn giải pháp bất bạo lực và ăn chay, còn người theo đạo Hồi tuân theo luật Hồi giáo và tiến hành các nghi lễ thiêng liêng. Tuy nhiên, dù cách nào đi nữa thì hiện nay chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn giải quyết được nan đề đạo đức, đó là các sinh vật có tri giác vẫn tiếp tục bị giết vì sự sinh tồn của con người, giống loài được cho là khác với các sinh vật khác do hệ thống đạo đức và luân lý cho rằng giết sinh vật có ý thức là sai trái. Có lẽ, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, ngành công nghiệp chế biến thịt sử dụng tế bào động vật có thể sẽ giúp phần nào giải quyết nan đề đạo đức này trong tương lai, nhưng điều đó vẫn còn nhiều hoài nghi [17].

Tuy nhiên, một điều có thể chắc chắn là nếu chúng ta thay đổi văn hóa tiêu dùng thực phẩm ở hiện tại, nó sẽ giúp giảm bớt số lượng sinh vật có tri giác bị giết hại, không chỉ vì số lượng sinh vật tri giác bị nuôi lấy thịt giảm mà còn là vì số lượng sinh vật bị giết vì biến đổi khí hậu và phá rừng ít đi. Hàng triệu hoặc thậm chí là hàng tỷ sinh vật trên cạn đã bị giết chết bởi các hiện tượng cực đoan gây ra bởi biến đổi khí hậu, với các hoạt động của con người là tác nhân chính. Chỉ tính riêng các vụ cháy rừng do nhiệt độ ngày càng tăng và hạn hán thường xuyên ở vùng đất ngập nước ở Pantanal, Brazil, mà ít nhất 16,952 triệu động vật có xương sống đã thiệt mạng, đấy là còn chưa kể các thiệt hại gián tiếp khác do cháy rừng gây ra [18].

Hệ thống thực phẩm toàn cầu là một trong những tác nhân chính tạo ra khí thải nhà kính. Theo tính toán, thống sản xuất thực phẩm toàn cầu (như sử dụng máy móc nông nghiệp, phun phân bón và vận chuyển sản phẩm) tạo ra xấp xỉ 17,3 tỷ tấn khí thải nhà kính hằng năm. Trong đấy, sản xuất thực phẩm từ động vật chiếm 57% lượng phát thải, gấp đôi lượng phát thải gây ra bởi sản xuất thực phẩm từ thực vật. Thịt bò là mặt hàng đóng góp nhiều nhất vào lượng khí thải tạo ra bởi sản xuất thực phẩm từ động vật, chiếm 25% tổng phát thải của hoạt động sản xuất thực phẩm. Ngoài ra, việc mở rộng đất đồng cỏ để chăn nuôi gia súc là nguyên nhân dẫn đến 41% diện tích rừng nhiệt đới bị phá [19].

Cho nên, nhìn từ góc độ đạo đức của bất kỳ trường phái triết học, văn hóa, hay tôn giáo nào thì việc thay đổi văn hóa tiêu dùng thực phẩm để giảm bớt tiêu thụ thịt đều đúng đắn [20, 21]. Chúng tôi đề nghị thúc đẩy sự chuyển dịch của xã hội ra khỏi các giá trị và hành vi văn hóa có tính thâm hụt hệ sinh thái (như cổ vũ ăn thịt bò, ăn thịt rừng, sử dụng các sản phẩm từ động vật quý hiếm…) và xây dựng các giá trị văn hóa thặng dư sinh thái trong dân chúng (giảm tỷ lệ thịt trong khẩu phần ăn, không sử dụng việc ăn thịt cho các mục tiêu xã hội và văn hóa, đóng góp cho các quỹ động vật…) [22, 23]. Để làm được điều này, sự kết nối giữa người dân với các sinh vật tri giác khác cần được thúc đẩy thông qua các kênh truyền thông, giáo dục và thông tin. Sức kết nối này sẽ là tiền đề dẫn đến sự đồng cảm của người dân, điều này sẽ giúp họ dễ dàng tiếp thu các giá trị nhân văn chứa đựng giá trị của sự bền vững môi trường hơn [24].

Ngoài ra, tất cả các lý lẽ trên sẽ rất ít tác động nếu loài người vẫn tiếp tục gây chiến, tiêu hao tiền của và sinh mạng để tàn sát lẫn nhau dựa trên ý tưởng nguy hiểm “chân lý thuộc về kẻ mạnh” [25, 26]. Bởi lẽ các tuyên bố về đạo đức với động vật sẽ không thể chạm tới ngưỡng đạo đức cần thiết vì “loài người sẽ luôn đứng đầu chuỗi thức ăn”.

Nói tóm lại, khi chúng ta vẫn chưa thể giải quyết triệt để được nan đề đạo đức, thì giải pháp tốt nhất là chúng ta cố gắng giảm thiểu tối đa các hành vi sai trái về mặt đạo đức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] D. Falk (2024), “Insects and other animals have consciousness, experts declare”, Quanta Magazine, https://www.quantamagazine.org/insects-and-other-animals-have-consciousness-experts-declare-20240419/s, accessed 25 April 2024.

[2] M.H. Nguyen, T.T. Le, Q.H. Vuong (2023), “Ecomindsponge: A novel perspective on human psychology and behavior in the ecosystem”, Urban Science7(1), DOI:  10.3390/urbansci7010031.

[3] T. Tannsjo (2015), Taking Life: Three Theories on The Ethics of Killing, Oxford University Press, 328pp.

[4] J. McMahan (2002), The Ethics of Killing: Problems at The Margins of Life, Oxford University Press, USA, 556pp.

[5] R. Ebert (2016), The Wrongness of Killing, Rice University, 251pp.

[6] Q.H. Vuong (2023), Mindsponge Theory, Walter de Gruyter GmbH, 215pp.

[7] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen, V.P. La (2022), The Mindsponge and BMF Analytics for Innovative Thinking in Social Sciences and Humanities, Walter de Gruyter GmbH, 464pp.

[8] L. Munro (2012), “The animal rights movement in theory and practice: A review of the sociological literature”, Sociology Compass6(2), pp.166-181, DOI: 10.1111/j.1751-9020.2011.00440.x.

[9] S. Jarvis (1994), “Live long and die out: Stephen Jarvis encounters the voluntary human extinction movement”, Independent, https://www.independent.co.uk/life-style/live-long-and-die-out-stephen-jarvis-encounters-the-voluntary-human-extinction-movement-1372200.html, accessed 25 April 2024.

[10] K. Keck (2007), “Earth a gracious host to billions, but can she take many more?”, http://edition.cnn.com/2007/TECH/science/10/04/pip.populationquestion/index.html, accessed 25 April 2024.

[11] A. Naess (1973), “The shallow and the deep, long‐range ecology movement”, Inquiry16(1-4), pp.95-100, DOI: 10.1080/00201747308601682.

[12] M. Smith (2014), “Deep ecology: What is said and (to be) done?”, The Trumpeter30(2), pp.141-156.

[13] G. Sessions (1987), “The deep ecology movement: A review”, Environmental Review11(2), pp.105-125, DOI: 10.2307/3984023.

[14] B. Finnigan (2017), “Buddhism and animal ethics”, Philosophy Compass12(7), DOI: 10.1111/phc3.12424.

[15] D.A. Getz (2004), “Sentient beings”, Encyclopedia of Buddhism, Macmillan Reference USA, 760pp.

[16] E.C. Chao (2022), “Islam and veterinary science: Rethinking animal suffering through islamic animal ethics and the evolving definition of halal slaughter”, Frontiers in Veterinary Science9, DOI: 10.3389/fvets.2022.785585.

[17] C.M. Klein (2022), “Could lab-grown meat pave the way for more ethical, environmentally friendly food?”, Northeastern Global News, https://news.northeastern.edu/2022/11/21/lab-grown-meat/, accessed 25 April 2024.

[18] W.M. Tomas, C.N. Berlinck, R.M. Chiaravalloti, et al. (2021), “Distance sampling surveys reveal 17 million vertebrates directly killed by the 2020’s wildfires in the Pantanal, Brazil”, Scientific Reports11(1), DOI: 10.1038/s41598-021-02844-5.

[19] H. Ritchie (2021), “Cutting down forests: What are the drivers of deforestation?”, Our World in Data, https://ourworldindata.org/what-are-drivers-deforestation, accessed 25 April 2024.

[20] M.H. Nguyen, T.E. Jones (2022a), “Building eco-surplus culture among urban residents as a novel strategy to improve finance for conservation in protected areas”, Humanities & Social Sciences Communications9, DOI: 10.1057/s41599-022-01441-9.

[21] Q.H. Vuong (2021), “The semiconducting principle of monetary and environmental values exchange”, Economics and Business Letters10(3), pp.284-290. DOI: 10.17811/ebl.10.3.2021.284-290.

[22] M.H. Nguyen, T.E. Jones (2022b), “Predictors of support for biodiversity loss countermeasures and bushmeat consumption among Vietnamese urban residents”, Conservation Science and Practice4(12), DOI: 10.1111/csp2.12822.

[23] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen (2024), “Call Vietnam mouse-deer “cheo cheo” and let the empathy save them from extinction: A conservation review and call for name change”, Pacific Conservation Biology3, DOI: 10.1071/pc23058.

[24] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen (2023), “Kingfisher: Contemplating the connection between nature and humans through science, art, literature, and lived experiences”, Pacific Conservation Biology, DOI: 10.1071/PC23044.

[25] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen, V.P. La (2024), “The overlooked contributors to climate and biodiversity crises: Military operations and wars”, Environmental Management73, pp.1089-1093, DOI: 10.1007/s00267-024-01976-4.

[26] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen (2024), “Further on informational quanta, interactions, and entropy under the granular view of value formation”, https://philpapers.org/rec/VUOARN.

TS Nguyễn Minh Hoàng, TS Nguyễn Thị Hồng Huệ

Trường Đại học Phenikaa