Phát ngôn “gây sốc” của Formosa khiến báo quốc tế đưa tin

Truyền thông quốc tế đã đưa tin phản ánh sự việc nhà máy thép Formosa Hà Tĩnh bị phản đối về nghi vấn xả nước thải độc hại xuống biển nhưng lại có phát ngôn vô trách nhiệm gây "bão" dư luận tại Việt Nam.
 
 
Một người dân địa phương cầm trên tay một vài con cá chết mà ông nhặt được trên bờ biển Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế.
Ảnh: AFP
Báo Straits Times của Singapore và China Post của Trung Quốc ngày 25/4 đã dẫn lại nguồn hãng thông tấn Pháp AFP đưa tin phản ánh sự việc nhà máy thép Formosa của Đài Loan (Trung Quốc) đặt tại tỉnh Hà Tĩnh đối mặt nghi vấn xả hóa chất tẩy rửa đường ống độc hại xuống biển, gây hiện tượng cá chết hàng loạt. 
 
Đặc biệt là sau khi ông Chou Chun-fan (Chu Xuân Phàm), Giám đốc đối ngoại của công ty Formosa Hà Tĩnh trả lời phỏng vấn trên kênh truyền hình VTC14 với thái độ vô trách nhiệm rằng: “Nhiều khi mình không được cả hai, mình phải lựa chọn: Muốn bắt cá, bắt tôm, hay xây dựng một nhà máy thép hiện đại”, thì dư luận càng sôi sục hơn nữa. Đại diện Formosa qua đó đã yêu cầu người dân địa phương cân nhắc xem họ đánh giá đời sống sinh vật biển hay đầu tư nước ngoài hơn. (Xem video dưới đây)
 
Straits Times dẫn lại thông tin trên báo Thanh Niên ghi nhận rằng, đường ống xả thải dài 1,5km chạy thẳng từ nhà máy tỉ đô Formosa cắm xuống biển Hà Tĩnh. Mặc dù, đường ống này là hợp pháp, nhưng Formosa chỉ được cho phép xả nước thải đã qua xử lý xuống biển. Hàng tấn cá chết, bao gồm cả các loại quý hiếm sống xa bờ, đã dạt vào các bãi biển dọc miền Trung Việt Nam, khiến ngư dân điêu đứng và gây báo động trong dân cư. 
 
Các ngư dân địa phương cho hay trước khi nhà máy hoạt động, hải sản ở khu vực này rất dồi dào, tuy nhiên, cho tới nay đã sụt giảm. 
 
Straits Times cũng dẫn lại thông tin từ báo Thanh Niên cho biết, Formosa đã nhập khoảng 300 tấn hóa chất độc để súc rửa đường ống xả thải.
 
Hoàng Trang (tổng hợp)
 
Từ Khóa: Formosa, nước thải, độc tố, cá chết,
 

Khuất tất việc xả thải ở Formosa

TP – Thứ trưởng Bộ TN&MT cho rằng, Sở TN&MT Hà Tĩnh chịu trách nhiệm giám sát việc xả thải của Cty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS). Tuy nhiên, đại diện Sở này cho biết chưa lắp thiết bị giám sát. Và cứ ba tháng Sở TN&MT mới vào lấy mẫu một lần.
 
 
 
Một góc nhà máy Formosa (ảnh lớn). Ngư dân hoang mang trước việc cá biển chết bất thường (ảnh nhỏ). Ảnh: PV.
Cưỡi ngựa xem hoa
 
Trao đổi với PV Tiền Phong tại cuộc họp giữa Bộ NN&PTNT với bốn tỉnh ngày 23/4, Thứ trưởng Bộ TN&MT, ông Võ Tuấn Nhân cho biết, giám sát việc xả thải của FHS do Sở TN&MT Hà Tĩnh đảm nhận. Tuy nhiên, đại diện Sở TN&MT Hà Tĩnh cho biết vì điều kiện hạ tầng chưa làm được nên chưa kết nối được với trạm quan trắc tự động mẫu nước của FHS. Như vậy là đã rõ, việc FHS ba tháng đầu năm 2016 nhập về 296 tấn hóa chất sử dụng và xả thải như thế nào chỉ có mỗi đơn vị này biết.
 
Chiều qua, 25/4, tại cuộc làm việc với PV Tiền Phong, ông Hoàng Dật Thuyên, đại diện Bộ phận An toàn Vệ sinh Môi trường FHS cho biết, FHS nhập 296 tấn hóa chất không phải chỉ để dùng mỗi rửa đường ống. “Số hóa chất đó dùng trong nhiều hạng mục của FHS”, ông Hoàng Dật Thuyên nói. Vị đại diện FHS khẳng định, tất cả nước thải sinh hoạt và công nghiệp trước khi xả ra biển phải qua trạm xử lý sau đó đến trạm quan trắc. Nếu không đạt các chỉ số sẽ bị trả lại trạm để xử lý lại.
 
“FHS đầu tư 45 triệu USD trong việc xử lý nước thải. Dự án hơn 10 tỷ USD, FHS không dại gì đi làm việc đó”, đại diện Bộ phận An toàn Vệ sinh Môi trường FHS cho biết. Trả lời câu hỏi của PV về việc hiện gần 300 tấn hóa chất Cty nhập về hiện sử dụng bao nhiêu và còn lại những hóa chất gì? Đại diện FHS cho rằng chưa thống kê được. “Số lượng sử dụng và còn lại chúng tôi đang thống kê. Tuy nhiên số hóa chất này là để cho vào nước làm nguội không phải chuyên tẩy rửa đường ống”, đại diện FHS nói.
 
Tại giấy phép xả nước thải vào nguồn nước số 3215, ngày 11/12/2015 của Bộ TN&MT cấp phép cho FHS, yêu cầu về chất lượng nước thải đơn vị này phải đạt được 12 thông số và giới hạn nồng độ chất ô nhiễm trong nước thải.
 
Tại phần 2, Bộ TN&MT yêu cầu FHS phải quan trắc liên tục tự động nước thải tại vị trí đập quan trắc nước thải sau khi xử lý từ hệ thống nước xử lý nước thải công nghiệp công suất 45.000m3/ngày đêm với các thông số quan trắc là nhiệt độ, pH, COD, SS, tổng Nitơ và lưu lượng nước thải.
 
Theo tiết lộ của vị đại diện FHS, đơn vị giám sát việc xả thải là Sở TN&MT Hà Tĩnh. Tuy nhiên việc này được thực hiện thông qua một đơn vị quan trắc. “Thông thường đơn vị quan trắc 3 tháng lấy mẫu một lần. Từ đầu năm đến nay, đơn vị này lấy mẫu hai lần từ tháng 2 và 3. Kết quả đơn vị này báo cáo cho Sở TN&MT Hà Tĩnh”, đại diện FHS nói.
 
 
Một góc trạm xử lý nước thải công nghiệp của FHS.
 
Vì sao nghi vấn FHS?
 
Trao đổi với PV Tiền Phong, một chuyên gia có kinh nghiệm nhiều năm về vấn đề tẩy rửa và thụ động hóa về mặt kim loại trước khi vận hành cho rằng còn khi tẩy rửa bề mặt và thụ động hóa bề mặt kim loại trước vận hành sẽ phải sử dụng hàm lượng cao gấp nhiều lần và thường là trong giai đoạn này hệ thống xử lý nước thải của các nhà máy chưa sẵn sàng cho việc này nên họ thường tìm cách đổ ra môi trường. Đặc biệt là các nhà máy không nằm trong khu công nghiệp tập trung, không có nơi xử lý giúp trong giai đoạn đầu”, vị chuyên gia nhận định.
 
Theo đó, các cơ quan chức năng nên tập trung làm rõ các hóa chất mà FHS nhập về để tẩy rửa và thụ động hóa bề mặt kim loại cho hệ thống. Đặc biệt tập trung vào các hóa chất mua của các nhà sản xuất là Trung Quốc hoặc Đài Loan vì các nhà sản xuất này rất coi thường công tác an toàn môi trường sau bán hàng và dễ thỏa hiệp với khách hàng. “Các Cty hóa chất uy tín thường sẽ từ chối xử lý nếu công tác môi trường không được đảm bảo, gây ảnh hưởng đến uy tín của họ đã gây dựng hàng trăm năm nay”, vị chuyên gia này nói.
 
Theo nhận định của vị chuyên gia này, theo dõi trên phương tiện truyền thông thấy cá chết chủ yếu sống ở tầng đáy. “Rất khớp với việc sử dụng các chất tẩy rửa và thụ động hóa bề mặt có tỷ trọng lớn hơn nước biển”, vị chuyên gia nói. 
 
Giải thích vì sao cá lại chết trôi dạt vào các vùng biển từ Hà Tĩnh trở vào, vị này nhận định có thể độc tố chỉ gây chết cá 1 vùng, sau đó cá chết bị phân tán theo một chiều của dòng hải lưu. “Ngoài biển rộng mênh mông, sóng gió liên tục, làm gì có chuyện thiếu oxy để cá chết được. Tôi nghĩ nếu các cơ quan chức năng mà không nhanh tay chắc chắn vào cuộc sẽ không còn gì để mà phát hiện nữa đâu. FHS có thể đã tẩy rửa và thụ động hóa gần xong hết cả nhà máy rồi”, vị chuyên gia lo lắng.
 
Truy tìm độc tố
 
Theo vị chuyên gia này, việc truy tìm độc tố trong cá cần phải tập trung vào các độc tố là các muối của kim loại nặng có tỷ trọng lớn hơn nước biển. Vì các hóa chất sau khi thải sẽ tập trung và ít bị phân tán khi bị đưa ra biển. Trong khi đó, các chất hoạt động bề mặt để tẩy rửa dầu và chất diệt vi sinh thường có tỷ trọng gần bằng nước biển nên dễ bị pha loãng và phân tán trong môi trường biển. Điều này rất khó đủ nồng độ để làm cá chết.
 
Nên tập trung vào phân tích các chỉ tiêu này trong dạ dày cá hay nước biển tại những nơi nuôi trồng thủy sản vẫn còn mẫu nước này. Từ đó mới kết luận có hay không có liên quan đến FHS được. Nếu chỉ phân tích COB, BDO, pH, Độ mặn,…thì không thể kết luận liên quan đến FHS được.
 
Để kiểm tra FHS có thải những chất này ra biển hay không phải kiểm tra số liệu như ngày nào họ tẩy rửa và thụ động hóa, lượng hóa chất tiêu thụ là bao nhiêu, thể tích nước đã dùng đã tẩy rửa và thụ động là bao nhiêu, bao nhiêu ppm (mg/l) kim loại nặng đi vào hệ thống nước thải, họ đã xử lý bằng phương pháp nào để đạt được các chỉ tiêu nước thải công nghiệp ra môi trường? Dữ liệu chứng minh họ đã phân tích và theo dõi trong quá trình xử lý đâu?
 
Xây đường ống ngầm để đỡ ảnh hưởng?
 
Trả lời PV về việc tại sao FHS lại xây dựng hệ thống xả thải ngầm ra biển kéo dài hơn 1,5km. Đại diện FHS cho rằng, nước xả thải là nước ngọt, nếu xả ra khu vực ven bờ sẽ ảnh hưởng đến môi trường bờ biển. “Việc làm ống ngầm ra xa bờ là để mức độ lan tỏa xa hơn”, vị đại diện này nói. Về việc phát ngôn gây sốc chọn nhà máy thép hay chọn tôm cá của ông Chu Xuân Phàm, Giám đốc đối ngoại FHS. Trao đổi với PV trên chuyến xe đưa PV thị sát hệ thống quan trắc tự động hệ thống xả thải, ông Phàm cho rằng khi đầu tư vào đây được nhà nước cho phép và đã hỗ trợ người dân chuyển đổi nghề. Trong khu vực phạm vi cảng FHS người dân không thể vào đó đánh bắt vì tàu bè công suất lớn đi lại nhiều, lỡ xảy ra tai nạn thì sao. Khu vực đó đã giao FHS làm dự án thép thì không thể để còn đánh bắt tôm cá”, ông Phàm nói.
 
Theo: tienphong.vn
 
Từ khóa: formosa, chất thải, cá chết, độc tố

Quản lý nhà nước cần người có trình độ như thế nào?

TP – Trao đổi với PV Tiền Phong về tình trạng “lạm phát” đào tạo tiến sĩ ở nước ta hiện nay, các chuyên gia cho rằng có nguyên nhân từ việc một bộ phận không nhỏ quan chức đua nhau đi học tiến sĩ, do đó có cầu thì ắt có cung.
 
 
 
Các học viên cao học và nghiên cứu sinh làm thủ tục nhập học.
TS Nguyễn Đức Hoạt, nguyên chủ nhiệm khoa tiếng Anh, ĐH Ngoại thương:
 
Ở Việt Nam, tiến sĩ chủ yếu công tác trong ngành sư phạm, giảng dạy tại các trường ĐH, CĐ hoặc làm việc tại các viện nghiên cứu. Nhưng cũng có một phần không nhỏ quan chức đua nhau đi học tiến sĩ. Vì quan phải tiến sĩ thì mới xịn. Quan chức đúng là cần chuyên môn nhưng không đến mức phải tiến sĩ.  Ở Việt Nam, chúng ta đang nhầm khoa học với công nghệ. Tiến sĩ ở nước ngoài là làm khoa học, còn công nghệ là ứng dụng khoa học vào thực tế. 
 
Điều này có nghĩa là chúng ta đang sính bằng cấp, thưa ông?
 
Khi nào có cầu ắt sẽ có cung, khi cầu sai thì người ta sẽ làm sai. Vừa qua, tôi được tới 4-5 trường ĐH mời ra đứng tên để thành lập khoa. Hóa ra ta đang rất thiếu cái danh này. Ở nước ngoài làm tiến sĩ phải mất 6 năm, bỏ nhà bỏ cửa để đi làm nhưng Việt Nam chỉ có 3 năm mà lại được ngồi ở nhà, không phải tập trung tại trường. Bài báo không phải đi qua seminar nào. Đội ngũ hướng dẫn cũng chủ yếu chỉ “cơm chấm cơm”. Thầy vừa làm nghiên cứu xong, mấy năm sau lại quay lại hướng dẫn.
 
GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên  Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường:
 
Không nhất thiết làm quản lý phải có học vấn cao
 
Ở khá nhiều cơ sở, đánh giá chung của tôi là chất lượng chưa cao. Nhất là khi chúng ta mở ra đào tạo thạc sĩ nhiều, chất lượng cũng chỉ nhỉnh hơn so với ĐH. Từ “đà” thạc sĩ, nhiều người có nhu cầu làm tiến sĩ. Trong khi đó, chúng ta thường dễ dãi với nhau về đề tài luận án tiến sĩ. Tôi quan niệm, luận án tiến sĩ phải có cái mới đáng giá ở mức độ nhất định, tất nhiên không đòi hỏi sáng tạo quá nhiều. Tri thức càng lên cao phải càng khó thì mới đảm bảo được chất lượng. Còn hiện nay, chúng ta đào tạo tiến sĩ phần chạy theo thành tích, phần chạy theo thị trường có cầu thì có cung. Quan điểm đào tạo trong giáo dục mà đơn giản như kinh tế trong cơ chế thị trường thì không ổn. Tôi cho rằng phải có cái khác để nâng cao chất lượng.
 
Như ông nói, đào tạo tiến sĩ hiện nay quá dễ dãi với đề tài luận án, nguyên nhân xuất phát từ đâu, thưa ông?
 
“Không nhất thiết mọi người quản lý phải có học vấn cao. Bởi vì kỹ thuật quản lý, chuyên môn quản lý đòi hỏi con người những bản lĩnh khác với bản lĩnh học hành như biết nhìn xa, trông rộng, bản lĩnh quyết định trước những việc khó khăn…” 
GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
Thứ nhất là tư duy của người Việt Nam từ xưa đến nay đều coi trọng việc học và đó là cách duy nhất để làm quan. Thứ hai là yếu tố thị trường, nếu đảm bảo cung cầu dễ dàng thì nó tồn tại nhất là khi pháp luật không có quy định cụ thể. Thứ ba là vì cách cất nhắc cán bộ. Do chúng ta không dám nhìn thẳng, không đánh giá thẳng vào năng lực của từng người nên mới phải đưa ra tiêu chí mang tính hình thức. Ví dụ: bằng cấp cao hơn thì ưu tiên hơn… Khi đã đưa ra những tiêu chí này thì những danh hiệu, những chức danh đi theo tiêu chí đó cũng trở nên giả tạo. 
 
 
GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.
 
Vậy theo ông, ở cấp độ quản lý nhà nước thì có cần người có trình độ học vấn cao như thế không?
 
Tôi cho rằng 2 chuyện này khác nhau. Không nhất thiết mọi người quản lý phải có học vấn cao. Bởi vì kỹ thuật quản lý, chuyên môn quản lý đòi hỏi con người những bản lĩnh khác với bản lĩnh học hành như biết nhìn xa, trông rộng, bản lĩnh quyết định trước những việc khó khăn… Người đi theo con đường học vấn lại đòi hỏi bản lĩnh khác như sáng tạo. Nhưng khi chúng ta dính hai chuyện này với nhau thì nó sẽ tác động tới đào tạo.
 
Ông nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng đào tạo tiến sĩ khoa học xã hội của Việt Nam  hiện nay có vấn đề nhất?
 
Tôi cho rằng xã hội hay kỹ thuật thì cách tiếp cận bằng cấp ngang nhau. Có nhiều người kêu rằng một số đề tài khoa học xã hội hiện nay không có ý nghĩa. Điều này là đúng, nhưng do mọi người không thông thạo các đề tài kỹ thuật, kinh tế, công nghệ. Các đề tài này cũng như thế thôi, là vấn nạn chung của nước ta.  Có lẽ chỉ khoa học cơ bản ít hơn vì nó nằm ở không gian hoàn toàn khác, không sát “mặt đất”. Vì nó có tiêu chí đánh giá về mặt khoa học rõ ràng. Còn tất cả thứ khoa học gắn với “mặt đất” thì đều vướng phải vấn đề: đề tài không ra làm sao cả.
 
Do chúng ta hư danh hay còn do trình độ của người thầy, thưa ông?
 
Chắc chắn do trình độ của thầy cô. Các nước rất tôn trọng trình độ thật của con người thông qua các công trình thực của người đó. Nhưng ở Việt Nam, chúng ta  vẫn cứ líu ríu mấy chuyện không dám nhìn thẳng vào sự thật khi đánh giá người này kém, người kia giỏi. Trong khi Việt Nam quy định sau khi bảo vệ 3 năm, tiến sĩ sẽ được quay lại hướng dẫn nghiên cứu sinh thì các nước không ấn định về mặt thời gian, họ chỉ quan tâm người đó có nổi tiếng hay không. Vì thực tế, có nhiều người còn nổi tiếng trước khi làm tiến sĩ. Họ đánh giá con người đó có thực sự được các nhà khoa học trọng vọng không, có thực sự  có tài không. Còn chúng ta không dám làm việc đó, chúng ta đành đưa ra các tiêu chí hình thức. Chúng ta không dám nhìn vào nội dung xem người đó có bao nhiêu công trình khoa học được công bố ở nước ngoài, trong nước, bao nhiêu công trình được trích dẫn ở các đề tài khoa học khác. Chúng ta không dám đưa ra những tiêu chí mang tính nội dung.
 
Theo: tienphong.vn
 
Từ khóa: quản lý, đào tạo, tiến sĩ, trình độ

Dành cho những người say mê sách

Một đời đóng sách

Khám phá sách in của người xưa

Xếp Sách Nghệ Thuật Nhân Ngày Ra mắt Thương Hiệu Panda Books

Bài Thuyết Trình Của SC-er tại Ngày Hội Đọc Sách [21/04/2015]

Nghệ thuật làm một cuốn sách

Quá trình làm một quyển Sketch Book hoàn chỉnh

Cách xếp sách thành hình độc đáo

 

Giá sách sáng tạo

Phục hồi cuốn sách cũ thành sách mới trong 10 phút

Việc phục hồi những cuốn sách cũ tưởng chừng là rất khó, nhưng với 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này, những gì mà nghệ nhân người Nhật Bản, ông Nobuo Okano làm đã khiến người xem phải nể phục.

Cuốn từ điển cũ được nghệ nhân người Nhật Bản hô biến thành mới tinh

Sách luôn là tài sản vô giá của con người, là kho tàng tri thức khổng lồ của nhân loại bởi những tri thức được viết trong sách có thể tồn tại mãi mãi. Thế nhưng, ai cũng từng có lúc phải phiền lòng vì cuốn sách yêu quý của mình bị cũ, hỏng theo thời gian. Những cuốn sách sẽ bị mòn, xỉn màu và tệ hơn cả là bị rách nát. Với tình trạng đó, chúng ta buộc phải bỏ cuốn sách đi vì nó không thể đọc được nữa.
 
 
Chân dung nghệ nhân Nobuo Okano, bậc thầy trong việc “hô biến” sách cũ thành mới.
 
Tuy nhiên, nếu những cuốn sách cũ đó được đưa đến tay của nghệ nhân người Nhật, Nobuo Okano, thì số phận của chúng lại hoàn toàn khác.
Ông Nobuo Okano được biết đến là một kỳ tài "tái sinh" sách với hơn 30 năm kinh nghiệm và đã "cứu sống" được hàng nghìn cuốn sách khác.
Gần đây, một đoạn phim của chương trình Shuri, Bakaseru (Những nghệ nhân tuyệt vời) nói về ông Nobuo Okano và việc “cứu chữa” những cuốn sách cũ của ông trên Đài truyền hình Nhật Bản đã thu hút rất nhiều người xem.
 
 
 
Chỉ bằng những dụng cụ như đục, khắc, nhíp, bàn là… ông Okano đã tái chế thành công một cuốn từ điển lâu năm thành một cuốn sách mới tinh
 
Chỉ trong vòng 10 phút, ông Okano đã “hô biến” cuốn Từ điển Anh – Nhật, có tuổi đời hơn 30 năm thành một cuốn sách mới tinh ở hiệu sách. Quyển từ điển từng là vật bất ly thân từ khi chủ nhân của nó còn là học sinh trung học cho đến mãi về sau này. Hiện giờ, người chủ muốn dành tặng quyển sách này cho cô con gái sắp sửa bước vào đại học.
 
 
Dùng nhíp để gắp các góc giấy bị quăn ở mỗi trang
 
 
…rồi sau đó lấy bàn là chuyên dụng làm phẳng lại từng trang giấy.
 
Okano bắt đầu mọi thứ bằng việc cạo sạch lớp hồ cũ trên gáy sách và phục hồi lại những trang bản đồ bên trong. Mặc dù chúng không thể đưa nó về trạng thái ban đầu, nhưng bây giờ nó đã được dán cố định vào tờ giấy và trở nên chắc chắn hơn.
 
Tiếp theo, ông Okano tỉ mỉ dùng nhíp lật hết các nếp gấp ở góc sách để kéo phẳng chúng ra. Bây giờ thì cuốn sách trông đã dễ nhìn, nhưng vẫn chưa hoàn tất. Vì phần rìa của các trang giấy đều bị lem vết mực tím nên ông Okano phải dùng máy cắt giấy để xén bớt phần này đi. Tạo trang bìa là bước cuối cùng. Ông Okano làm một trang bìa mới hoàn toàn và sử dụng lại phần tiêu đề của cuốn từ điển cũ.
 
Cuối cùng, phim kết thúc bằng nụ cười biết ơn và hạnh phúc của người đàn ông khi được trao cho cô con gái quyển sách từng là “tri kỉ” của mình.
 
Thu Phương (Theo Bored Panda)

Đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ làm việc với tỉnh Lạng Sơn

Ngày 20/4/2016, Đoàn công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Thứ trưởng Trần Văn Tùng làm trưởng đoàn đã có buổi làm việc với tỉnh Lạng Sơn để Đánh giá kết quả hoạt động KH&CN năm 2015, tình hình triển khai nhiệm vụ năm 2016 và kế hoạch hoạt động KH&CN năm 2017 và những năm tiếp theo của địa phương; trao đổi, thảo luận những nhiệm vụ KH&CN trọng tâm góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết đại hội Đảng bộ Tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra.
 
Đại diện các đơn vị thuộc Bộ KH&CN tham gia đoàn công tác gồm Vụ Phát triển KH&CN địa phương, Vụ KH&CN các ngành kinh tế kỹ thuật (KT-KT), Vụ Đánh giá Thẩm định và Giám định công nghệ, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch Tổng hợp, Vụ Pháp chế, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ. 
 
Thứ trưởng Trần Văn Tùng phát biểu tại buổi làm việc
 
Làm việc với Đoàn, về phía tỉnh Lạng Sơn có đồng chí Lý Vinh Quang, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Nhân dân (UBND) Tỉnh và Lãnh đạo Sở KH&CN cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành có liên quan.
 
Được sự ủy quyền của Lãnh đạo Tỉnh, đồng chí Lê Minh Thanh, Giám đốc Sở KH&CN báo cáo kết quả hoạt động KH&CN năm 2015, tình hình triển khai nhiệm vụ năm 2016; kế hoạch hoạt động năm 2017 và những năm tiếp theo; nêu một số đề xuất, kiến nghị của tỉnh đối với Bộ KH&CN.
 
Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Văn Tùng đề nghị đại diện các sở, ngành của Tỉnh làm rõ thêm các thông tin về cây trồng, sản phẩm chủ lực, có thế mạnh của địa phương để đại điện các đơn vị thuộc Bộ trong đoàn công tác cùng trao đổi, thảo luận bàn giải pháp phối hợp và hỗ trợ Tỉnh, đồng thời giải đáp các thông tin liên quan đến đề xuất, kiến nghị của Tỉnh.
 
Với một số sản phẩm đặc sản của tỉnh như hồi, na Chi Lăng, hồng không hạt Bảo Lâm, quýt Bắc Sơn, thạch đen Tràng Định… Thứ trưởng Trần Văn Tùng đề nghị hoạt động KH&CN của tỉnh cần hướng tới việc nâng cao giá trị sản phẩm, áp dụng quy trình sản xuất sạch, an toàn, khép kín; đa dạng hóa nguồn đầu tư tài chính đối với KH&CN để phát huy giá trị các loại đặc sản trên.
 
Thay mặt Lãnh đạo Tỉnh, đồng chí Lý Vinh Quang giới thiệu và làm rõ thêm với đoàn công tác của Bộ về những tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh; những định hướng của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh đối với hoạt động KH&CN trên địa bàn; trân trọng cảm ơn và tiếp thu ý kiến góp ý, chỉ đạo của Thứ trưởng tại buổi làm việc và xin ý kiến của Bộ về chủ trương của Tỉnh dự kiến sáp nhập Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở KH&CN với Trung tâm Khuyến nông thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn.
 
Kết luận buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Văn Tùng ghi nhận những kết quả hoạt động KH&CN của Tỉnh trong thời gian qua; đề nghị Tỉnh tiếp tục quan tâm, tạo ra bước phát triển đột phá ứng dụng KH&CN vào sản xuất, lựa chọn những sản phẩm chủ lực, thế mạnh của địa phương để tập trung phát triển; đối với việc sáp nhập 02 Trung tâm, Thứ trưởng đề nghị tỉnh cần nghiên cứu, xây dựng Đề án, đảm bảo hiệu quả hoạt động sau khi sáp nhập.
 
Đoàn thăm và làm việc với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN
 
 
Cùng ngày, Đoàn đến thăm và làm việc với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở KH&CN Tỉnh.
 
Nguồn:  Ngô Xuân Cường, Vụ Phát triển KH&CN địa phương

Đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ làm việc với tỉnh Lạng Sơn

Ngày 20/4/2016, Đoàn công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Thứ trưởng Trần Văn Tùng làm trưởng đoàn đã có buổi làm việc với tỉnh Lạng Sơn để Đánh giá kết quả hoạt động KH&CN năm 2015, tình hình triển khai nhiệm vụ năm 2016 và kế hoạch hoạt động KH&CN năm 2017 và những năm tiếp theo của địa phương; trao đổi, thảo luận những nhiệm vụ KH&CN trọng tâm góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết đại hội Đảng bộ Tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra.
 
Đại diện các đơn vị thuộc Bộ KH&CN tham gia đoàn công tác gồm Vụ Phát triển KH&CN địa phương, Vụ KH&CN các ngành kinh tế kỹ thuật (KT-KT), Vụ Đánh giá Thẩm định và Giám định công nghệ, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch Tổng hợp, Vụ Pháp chế, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ. 
 
Thứ trưởng Trần Văn Tùng phát biểu tại buổi làm việc
 
Làm việc với Đoàn, về phía tỉnh Lạng Sơn có đồng chí Lý Vinh Quang, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Nhân dân (UBND) Tỉnh và Lãnh đạo Sở KH&CN cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành có liên quan.
 
Được sự ủy quyền của Lãnh đạo Tỉnh, đồng chí Lê Minh Thanh, Giám đốc Sở KH&CN báo cáo kết quả hoạt động KH&CN năm 2015, tình hình triển khai nhiệm vụ năm 2016; kế hoạch hoạt động năm 2017 và những năm tiếp theo; nêu một số đề xuất, kiến nghị của tỉnh đối với Bộ KH&CN.
 
Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Văn Tùng đề nghị đại diện các sở, ngành của Tỉnh làm rõ thêm các thông tin về cây trồng, sản phẩm chủ lực, có thế mạnh của địa phương để đại điện các đơn vị thuộc Bộ trong đoàn công tác cùng trao đổi, thảo luận bàn giải pháp phối hợp và hỗ trợ Tỉnh, đồng thời giải đáp các thông tin liên quan đến đề xuất, kiến nghị của Tỉnh.
 
Với một số sản phẩm đặc sản của tỉnh như hồi, na Chi Lăng, hồng không hạt Bảo Lâm, quýt Bắc Sơn, thạch đen Tràng Định… Thứ trưởng Trần Văn Tùng đề nghị hoạt động KH&CN của tỉnh cần hướng tới việc nâng cao giá trị sản phẩm, áp dụng quy trình sản xuất sạch, an toàn, khép kín; đa dạng hóa nguồn đầu tư tài chính đối với KH&CN để phát huy giá trị các loại đặc sản trên.
 
Thay mặt Lãnh đạo Tỉnh, đồng chí Lý Vinh Quang giới thiệu và làm rõ thêm với đoàn công tác của Bộ về những tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh; những định hướng của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh đối với hoạt động KH&CN trên địa bàn; trân trọng cảm ơn và tiếp thu ý kiến góp ý, chỉ đạo của Thứ trưởng tại buổi làm việc và xin ý kiến của Bộ về chủ trương của Tỉnh dự kiến sáp nhập Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở KH&CN với Trung tâm Khuyến nông thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn.
 
Kết luận buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Văn Tùng ghi nhận những kết quả hoạt động KH&CN của Tỉnh trong thời gian qua; đề nghị Tỉnh tiếp tục quan tâm, tạo ra bước phát triển đột phá ứng dụng KH&CN vào sản xuất, lựa chọn những sản phẩm chủ lực, thế mạnh của địa phương để tập trung phát triển; đối với việc sáp nhập 02 Trung tâm, Thứ trưởng đề nghị tỉnh cần nghiên cứu, xây dựng Đề án, đảm bảo hiệu quả hoạt động sau khi sáp nhập.
 
Đoàn thăm và làm việc với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN
 
 
Cùng ngày, Đoàn đến thăm và làm việc với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở KH&CN Tỉnh.
 
Nguồn:  Ngô Xuân Cường, Vụ Phát triển KH&CN địa phương

Đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ làm việc với tỉnh Lạng Sơn

Ngày 20/4/2016, Đoàn công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Thứ trưởng Trần Văn Tùng làm trưởng đoàn đã có buổi làm việc với tỉnh Lạng Sơn để Đánh giá kết quả hoạt động KH&CN năm 2015, tình hình triển khai nhiệm vụ năm 2016 và kế hoạch hoạt động KH&CN năm 2017 và những năm tiếp theo của địa phương; trao đổi, thảo luận những nhiệm vụ KH&CN trọng tâm góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết đại hội Đảng bộ Tỉnh nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra.
 
Đại diện các đơn vị thuộc Bộ KH&CN tham gia đoàn công tác gồm Vụ Phát triển KH&CN địa phương, Vụ KH&CN các ngành kinh tế kỹ thuật (KT-KT), Vụ Đánh giá Thẩm định và Giám định công nghệ, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch Tổng hợp, Vụ Pháp chế, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ. 
 
Thứ trưởng Trần Văn Tùng phát biểu tại buổi làm việc
 
Làm việc với Đoàn, về phía tỉnh Lạng Sơn có đồng chí Lý Vinh Quang, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Nhân dân (UBND) Tỉnh và Lãnh đạo Sở KH&CN cùng lãnh đạo các sở, ban, ngành có liên quan.
 
Được sự ủy quyền của Lãnh đạo Tỉnh, đồng chí Lê Minh Thanh, Giám đốc Sở KH&CN báo cáo kết quả hoạt động KH&CN năm 2015, tình hình triển khai nhiệm vụ năm 2016; kế hoạch hoạt động năm 2017 và những năm tiếp theo; nêu một số đề xuất, kiến nghị của tỉnh đối với Bộ KH&CN.
 
Phát biểu tại buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Văn Tùng đề nghị đại diện các sở, ngành của Tỉnh làm rõ thêm các thông tin về cây trồng, sản phẩm chủ lực, có thế mạnh của địa phương để đại điện các đơn vị thuộc Bộ trong đoàn công tác cùng trao đổi, thảo luận bàn giải pháp phối hợp và hỗ trợ Tỉnh, đồng thời giải đáp các thông tin liên quan đến đề xuất, kiến nghị của Tỉnh.
 
Với một số sản phẩm đặc sản của tỉnh như hồi, na Chi Lăng, hồng không hạt Bảo Lâm, quýt Bắc Sơn, thạch đen Tràng Định… Thứ trưởng Trần Văn Tùng đề nghị hoạt động KH&CN của tỉnh cần hướng tới việc nâng cao giá trị sản phẩm, áp dụng quy trình sản xuất sạch, an toàn, khép kín; đa dạng hóa nguồn đầu tư tài chính đối với KH&CN để phát huy giá trị các loại đặc sản trên.
 
Thay mặt Lãnh đạo Tỉnh, đồng chí Lý Vinh Quang giới thiệu và làm rõ thêm với đoàn công tác của Bộ về những tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh; những định hướng của Tỉnh ủy, UBND Tỉnh đối với hoạt động KH&CN trên địa bàn; trân trọng cảm ơn và tiếp thu ý kiến góp ý, chỉ đạo của Thứ trưởng tại buổi làm việc và xin ý kiến của Bộ về chủ trương của Tỉnh dự kiến sáp nhập Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở KH&CN với Trung tâm Khuyến nông thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lạng Sơn.
 
Kết luận buổi làm việc, Thứ trưởng Trần Văn Tùng ghi nhận những kết quả hoạt động KH&CN của Tỉnh trong thời gian qua; đề nghị Tỉnh tiếp tục quan tâm, tạo ra bước phát triển đột phá ứng dụng KH&CN vào sản xuất, lựa chọn những sản phẩm chủ lực, thế mạnh của địa phương để tập trung phát triển; đối với việc sáp nhập 02 Trung tâm, Thứ trưởng đề nghị tỉnh cần nghiên cứu, xây dựng Đề án, đảm bảo hiệu quả hoạt động sau khi sáp nhập.
 
Đoàn thăm và làm việc với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN
 
 
Cùng ngày, Đoàn đến thăm và làm việc với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN thuộc Sở KH&CN Tỉnh.
 
Nguồn:  Ngô Xuân Cường, Vụ Phát triển KH&CN địa phương

Triển khai Nhóm khai thác và sử dụng hệ thống mô phỏng nhà máy điện hạt nhân VVER1200

Chiều ngày 19/4/2014 tại Trung tâm Đào tạo hạt nhân (TTĐTHN) trực thuộc Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã diễn ra buổi thảo luận để triển khai Nhóm khai thác và sử dụng hệ thống mô phỏng nhà máy điện hạt nhân VVER1200. 
 
Tham dự buổi thảo luận có ông Lê Đại Diễn – Phó Giám đốc TTĐTHN, TS. Nguyễn Nam Giang – Trưởng Phòng Đào tạo và Giáo vụ TTĐTHN, cùng các cán bộ nghiên cứu đến từ Cục Năng lượng nguyên tử, Trung tâm An toàn hạt nhân và Trung tâm Năng lượng hạt nhân thuộc Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân. 
 
Hệ thống mô phỏng nhà máy điện hạt nhân VVER1200 được lắp đặt tại Trung tâm đào tạo hạt nhân ngày 09/12/2015, nằm trong gói viện trợ của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) cho Việt Nam trong khuôn khổ Dự án triển khai hỗ trợ kỹ thuật VIE2010. 
 
Đây là hệ thống mô phỏng nhà máy điện hạt nhân VVER1200 với thời gian thực. Được cài đặt và thực hiện quá trình mô phỏng trên hệ thống máy vi tính (PC-Based Simulator) với 1 máy chủ dành cho người hướng dẫn (instructor) và 4 máy trạm (client) dành cho người học. Hệ thống có thể mô phỏng được các điều kiện hoạt động của nhà máy điện hạt nhân VVER1200 như: hoạt động ở mức công suất tối đa (100%) hay hoạt động ở mức 64% công suất danh định…; các quá trình chuyển tiếp; hay các kịch bản sự cố. Bên cạnh đó hệ thống còn cho phép thực hiện các thao tác vận hành dừng lò phản ứng, khởi động lò phản ứng và đặc biệt cho phép xây dựng các kịch bản sự cố cũng như các quá trình chuyển tiếp phục vụ mục đích nghiên cứu hay học tập của người sử dụng. 
 
Việt Nam đang trong giai đoạn chuẩn bị cho các dự án nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, đặc biệt là dự án Ninh Thuận 1 sẽ sử dụng công nghệ lò VVER1200. Vì vậy việc lắp đặt và triển khai hệ thống mô phỏng công nghệ lò VVER1200 có ý nghĩa và vai trò quan trọng nhất định góp phần vào quá trình chuẩn bị nguồn nhân lực và hỗ trợ việc tìm hiểu công nghệ và phân tích các tính toán an toàn cho nhà máy điện hạt nhân VVER1200. 
 
Nhóm triển khai và sử dụng hệ thống mô phỏng bao gồm các thành viên là các cán bộ của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và Cục Năng lượng nguyên tử đã tham gia khóa đào tạo 1 tháng sử dụng hệ thống mô phỏng này ở Hoa Kỳ vào tháng 7/2015 và cán bộ thuộc Trung tâm An toàn hạt nhân và Trung tâm Năng lượng hạt nhân thuộc Viện Khoa học và Kỹ thuật hạt nhân. 
 
 
Các cán bộ tham gia nhóm công tác

 

Nhằm khai thác có hiệu quả hệ thống mô phỏng, định hướng của nhóm sẽ triển khai và sử dụng hệ thống mô phỏng phục vụ 2 mục đích đó là đào tạo và nghiên cứu. Đối với mục đích đào tạo, trước mắt nhóm sẽ xây dựng các bài thực hành hướng đối tượng: sinh viên và cán bộ chuyên môn. Đối với mục đích nghiên cứu, nhóm xây dựng các kịch bản đối với các quá trình chuyển tiếp và kịch bản sự cố phục vụ các tính toán phân tích, kiểm chứng kết quả tính toán từ một số chương trình tính toán thủy nhiệt thông qua xây dựng bài toán chuẩn, thu thập các dữ liệu vận hành làm cơ sở tham chiếu và hỗ trợ trong công tác đánh giá thẩm định Báo cáo phân tích an toàn (SAR) cho nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1. 
 
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và Cục Năng lượng nguyên tử đang xây dựng thỏa thuận hợp tác nhằm từng bước kiện toàn đội ngũ cán bộ và triển khai việc khai thác, vận hành hệ thống mô phỏng để thúc đẩy kỹ năng làm việc nhóm trong nghiên cứu và phục vụ Chương trình phát triển nguồn nhân lực cho điện hạt nhân ở Việt Nam./. 
 
Nguồn:  Đoàn Mạnh Long, Trung tâm Đào tạo hạt nhân, Viện NLNTVN
 

Tọa đàm “Doanh nghiệp Việt Nam và một số vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”

Sáng ngày 20/04/2016, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và BSA| Liên minh Phần mềm đã tổ chức Tọa đàm doanh nghiệp với chủ đề “Doanh nghiệp Việt Nam và một số vấn đề thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)”. Đây là một hoạt động quan trọng nằm trong chuỗi các hoạt động của “Tháng hưởng ứng ngày Sở hữu trí tuệ thế giới vì mục tiêu hội nhập”. Nội dung của Tọa đàm tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến những cam kết về sở hữu trí tuệ (SHTT) của Việt Nam trong TPP.
 
 
Tọa đàm đã thu hút sự tham gia của lãnh đạo và đại diện của 09 bộ, ngành thuộc Chương trình hành động 168, các tổ chức và hiệp hội doanh nghiệp quốc tế, các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam và đông đảo các doanh nghiệp, tổ chức đại diện sở hữu công nghiệp. Nội dung Tọa đàm bao gồm các bài chia sẻ và thảo luận các vấn đề liên quan đến cam kết về SHTT trong TPP; công tác thực thi quyền sở hữu công nghiệp; thực thi quyền tác giả trong lĩnh vực phần mềm máy tính, chia sẻ kinh nghiệm của các chuyên gia đến từ các tổ chức quốc tế.
 
 
Ông Trần Minh Dũng – Chánh Thanh tra Bộ KH&CN chủ trì buổi tọa đàm
 
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, ông Trần Minh Dũng, Chánh Thanh tra Bộ KH&CN nhấn mạnh: Quyền Sở hữu trí tuệ, ngày nay, đã trở thành một bộ phận, thành tố quan trọng, quyết định sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bởi lẽ, quyền SHTT không chỉ là tài sản vô hình được tạo dựng, tích lũy liên tục, không giới hạn bởi không gian, thời gian của doanh nghiệp mà nó còn là công cụ pháp lý để bảo vệ, giúp cho doanh nghiệp khởi sự việc kinh doanh trên thị trường toàn cầu và trên cả môi trường kinh doanh trực tiếp và môi trường thương mại điện tử (môi trường kỹ thuật số). Vai trò của việc bảo hộ và thực thi quyền SHTT không thể thiếu đối với các doanh nghiệp ở tầm vi mô và đối với quốc gia ở tầm vĩ mô. Với nhận thức đó, Chính phủ Việt Nam cùng toàn bộ hệ thống đăng ký bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ đang hoàn thiện và nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của hoạt động bảo hộ và thực thi quyền SHTT. 
 
 
TS. Phạm Thị Thu Hằng, Tổng Thư ký, Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam – VCCI phát biểu chào mừng
 
 
Ông Phạm Văn Toàn – Phó Chánh Thanh tra Bộ KH&CN trình bày về công tác thực thi quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp hành chính
 
Là thành viên thường trực của nhóm đàm phán về SHTT của Việt Nam trong TPP, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Trưởng phòng – Phòng Pháp chế & Chính sách, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ KH&CN đã có phần trình bày mở đầu rất chi tiết về những cam kết về bảo hộ và thực thi quyền SHTT trong TPP, để cộng đồng doanh nghiệp trong nước nắm bắt được đầy đủ thông tin, từ đó xây dựng những lộ trình hợp lý cho vấn đề này.
 
 
Bà Nguyễn Thị Thanh Hà – Trưởng phòng – Phòng Pháp chế & Chính sách, Cục Sở hữu trí tuệ trình bày về những cam kết về SHTT của Việt Nam trong TPP
 
Cũng tại buổi Tọa đàm, ông Trần Văn Minh, Phó Chánh Thanh tra Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã chia sẻ về công tác thực thi quyền SHTT trong lĩnh vực phần mềm máy tính. Ông Minh cho biết: Thanh tra Bộ đã phối hợp với Bộ Công an, xử lý và giải quyết 100% đơn yêu cầu xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với chủ sở hữu chương trình phần mềm máy tính. Từ năm 2006 – 2015, tiến hành thanh tra đột xuất 541 doanh nghiệp trên cả nước và số máy tính được kiểm tra: 27.602 máy, phát hiện hành vi sao chép tác phẩm phần mềm máy tính mà không được phép của chủ sở hữu, Thanh tra Bộ đã lập biên bản vi phạm hành chính và ban hành 499 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền nộp vào ngân sách Nhà nước là 8.613.000.000 đồng.
 
 
Ông Trần Văn Minh – Phó Chánh Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch trình bày về công tác thực thi quyền SHTT phần mềm máy tính
 
“ Một lĩnh vực mà TPP đặc biệt quan tâm là bảo hộ quyền SHTT, trong đó thực thi quyền SHTT được đặc biệt chú trọng, trong đó có nội dung: kéo dài thời hạn bảo hộ quyền tác giả lên là 70 năm và thực thi quyền bao gồm cả khả năng bị truy tố hình sự. Điều này đặt ra những thách thức cho doanh nghiệp Việt Nam buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt hơn các quy định về SHTT. Trong lĩnh vực phần mềm máy tính, trong những năm gần đây, mặc dù đã có nhiều cải thiện đáng kể, nhưng tình trạng xâm phạm bản quyền phần mềm máy tính vẫn còn tương đối phổ biến. Vì vậy, đối với cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta cũng cần quan tâm hơn tới vấn đề SHTT, có những bước chuẩn bị về tài chính, về nhân lực và về kỹ thuật để khi hội nhập TPP, chúng ta tránh được các rắc rối khiếu kiện có thể xảy ra.” Ông Minh nhấn mạnh.
 
 
Ông John Hill, Tham tán Kinh tế của ĐSQ Hoa Kỳ chia sẻ những cơ hội và lợi ích lớn mà TPP sẽ mang lại cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam
 
Tại buổi Tọa đàm, Tham tán Kinh tế, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, ông John Hill đã chia sẻ những cơ hội và lợi ích lớn mà TPP sẽ mang lại cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và cho cả nền kinh tế của Việt Nam nói chung. Theo ông John Hill, TPP sẽ mang lại cho Việt Nam những lợi ích hữu hình, gồm : 
 
• Nhờ thuế xuất nhập giảm mà sẽ đem lại những lợi ích trực diện nhất, đặc biệt khi Việt Nam tiếp cận được nhiều hơn với thị trường Hoa Kỳ.
 
• TPP hướng đến việc giảm 18.000 dòng thuế nhập khẩu về mức 0, và đây là một con số khổng lồ.
 
• Về may mặc và da giày, vốn là những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam, mức thuế suất lên đến 32% tại Hoa Kỳ.
 
• Những ngành xuất khẩu khác cũng sẽ được hưởng lợi như ngành thủy sản nhờ giảm thuế nhập khẩu các sản phẩm tôm, mực, cá ngừ.
 
• Mô hình của các tổ chức tư vấn hàng đầu dự báo đến năm 2030, Việt Nam sẽ là nước có được mức hiệu quả tăng cao nhất.
GNP tăng 8,1 và 9,8% (số liệu lần lượt của Viện Peterson và Ngân hàng Thế giới), so với mức tăng 0,4 – 0,5% của Hoa Kỳ.
Xuất khẩu tăng 30% (số liệu của cả Viện Peterson lẫn Ngân hàng Thế giới), so với 8 – 9% của Hoa Kỳ.
 
Thu nhập tăng 13% (Viện Peterson).
 
“Nhưng có thể nói, một điều còn quan trọng hơn cả những lợi ích thương mại trực tiếp mà TPP mang lại, đó là khuôn khổ những chuẩn mực, hành vi mà về lâu dài sẽ định hình quỹ đạo kinh tế cho Việt Nam.” Ông John Hill nhấn mạnh tại buổi Tọa đàm.
 
Mặc dù, trong nhiều năm qua, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm máy tính đã có nhiều cải thiện đáng kể. Tuy vậy, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm tại các doanh nghiệp Việt Nam cũng còn rất cao. Khi vào TPP, với sức ép phải tuân thủ nghiêm ngặt hơn về sở hữu trí tuệ sẽ tạo ra một sức ép lớn cho các doanh nghiệp, buộc các các doanh nghiệp phải tuân thủ khi đã bước vào một sân chơi kinh tế tự do lớn nhất thế giới.
 
Với nhiều năm hợp tác với các cơ quan Chính phủ Việt Nam, ông Roland Chan, Giám đốc cấp cao phụ trách Chương trình Tuân thủ, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của BSA | Liên minh phần mềm đã có phần chia sẻ về những rủi ro mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể phải đối mặt, gồm các vấn đề về an ninh mạng Việt Nam bước vào một thế giới siêu kết nối. Trả lời câu hỏi được các doanh nghiệp quan tâm về những rắc rối mà các doanh nghiệp gặp phải khi sử dụng phần mềm không có bản quyền trong TPP, ông Roland Chan cho rằng, vấn đề đầu tiên doanh nghiệp mắc phải là vấn đề pháp lý. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, việc sử dụng các phần mềm bất hợp pháp là vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền SHTT, trong đó có phần mềm máy tính. 
 
 
Ông Roland Chan, Giám đốc Cấp cao – Chương trình Tuân thủ thuộc BSA Liên minh phần mềm – Khu vực châu Á –
Thái Bình Dương
 
“Vấn đề quan trọng hơn mà các doanh nghiệp sử dụng phần mềm không có bản quyền là đối mặt với các rủi ro về an ninh mạng. Khi sử dụng phần mềm không bản quyền, khả năng hệ thống máy tính của doanh nghiệp bị tấn công bởi các phần mềm mã độc là rất cao, vì thế, an ninh của bản thân doanh nghiệp bị nguy hại.” Ông Roland Chan cho biết.
 
“Tháng hưởng ứng ngày SHTT thế giới vì mục tiêu hội nhập” với nhiều hoạt động tuyên truyền thiết thực, thể hiện nỗ lực của Bộ KH&CN và các bộ, ngành liên quan để thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực thực thi quyền SHTT, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Trong đó, Tọa đàm doanh nghiệp này là một hoạt động quan trọng, cung cấp thông tin vô cùng hữu ích, góp phần hiện thực hóa mục tiêu: “Nâng cao nhận thức về vai trò và ý nghĩa của quyền SHTT đối với phát triển kinh tế – xã hội; đẩy mạnh việc xác lập, khai thác, phát triển và bảo vệ quyền SHTT; bảo đảm quyền SHTT thực sự trở thành công cụ thúc đẩy phát triển khoa học – công nghệ nói riêng và kinh tế – xã hội nói chung; tạo ra nhận thức trong toàn xã hội để thực hiện các cam kết quốc tế về SHTT”./.
 
Nguồn:  Thanh tra Bộ KH&CN