Hội trại khoa học Asean+3 cho thiếu niên tại Hà Nội

 
Việt Nam đăng cai tổ chức hội trại khoa học ASEAN+3 cho thiếu niên tại Hà Nội
 
Từ ngày 10-15/7/2017, tại Trường Đại học FPT Hà Nội sẽ diễn ra Hội trại khoa học Odyssey Asean+3 cho Thiếu niên lần thứ 6 (APT JSO-6) với chủ đề “Năng lượng tái tạo cho cuộc sống”. Sự kiện này nhằm phát huy năng khiếu và tài năng cho các thiếu niên trong lĩnh vực KH&CN, ươm mầm các nhà khoa học và kỹ sư tài năng trong tương lai.
 
Đây là sự kiện KH&CN nằm trong chuỗi hoạt động quý III/2017 của Bộ KH&CN. Năm nay, Hội trại khoa học sẽ gồm 13 đoàn tham dự gồm 9 nước ASEAN, và một số nước và vùng lãnh thổ tham gia: Trung Quốc, Hàn Quốc, Thụy Điển, Đài Loan (Trung Quốc) với tổng số lượng hơn 120 học sinh.
 
Hoạt động chính của Hội trại khoa học Odyssey ASEAN +3 cho Thiếu niên lần thứ 6 vẫn tập trung chủ yếu vào các hoạt động sinh hoạt khoa học; phần thi poster; thi Lý, Hóa, Sinh; phần thi thực hành phòng thí nghiệm; đặc biệt năm nay có thêm phần thi thuyết trình của các giáo viên… Đây là hoạt động khuyến khích sự say mê sáng tạo của các bạn học sinh.
 
Chương trình Trung tâm ASEAN+3 về tài năng khoa học (ACGS) được thành lập từ năm 2009 có trụ sở tại Hàn Quốc. ACGS là chương trình thuộc sự điều phối của Tiểu ban Phát triển cơ sở hạ tầng và Nguồn lực KH&CN ASEAN (SCIRD), Ủy Ban Khoa học và Công nghệ ASEAN (COST).
 
Hiện nay, Bộ KH&CN Việt Nam là cơ quan đầu mối công tác của Việt Nam tại COST. Hội trại APT JSO-6 là một trong những hoạt động thường niên của ACGS và được xem là cuộc thi cho các tài năng khoa học trẻ tuổi từ 13-15 tuổi trong khối ASEAN+3.
 
Hội trại APT JSO-6 tập trung chủ yếu vào các hoạt động nghiên cứu khoa học, đồng thời phát triển kỹ năng làm việc theo nhóm và kỹ năng trình bày thông qua thực hiện các dự án hợp tác cho các tài năng khoa học độ tuổi thiếu niên nhằm mục đích: Tạo cơ hội trao đổi ý tưởng và kinh nghiệm cho các học sinh tài năng khoa học; phát triển khả năng nghiên cứu và sáng tạo cho học sinh tài năng khoa học; tìm kiếm nguồn nhân lực trong lĩnh vực KH&CN trong ASEAN và các nước đối tác.
 
Ngoài ra, các em học sinh tham gia APT JSO phải có kinh nghiệm trong nghiên cứu và tham gia các cuộc thi về khoa học, khả năng tiếng Anh tốt, khả năng nghiên cứu khoa học cũng như có tinh thần sẵn sàng làm việc theo nhóm.
 
Hội trại khoa học ASEAN+3 cho Thiếu niên Odyssey là một trong những hoạt động thường niên của Chương trình ACGS. Đây được xem là cuộc thi cho các tài năng khoa học trẻ tuổi từ 13-15 trong khối ASEAN+3.
NASATI

Khai mạc Hội trại khoa học Odyssey ASEAN+3 cho Thiếu niên lần thứ 6

Sáng nay (11/7), tại Trường Đại học FPT trong khuôn viên Khu Công nghệ cao Hòa Lạc, Hà Nội đã chính thức diễn ra Lễ khai mạc Hội trại khoa học Odyssey ASEAN+3 cho Thiếu niên lần thứ 6 (APTJSO-6) với chủ đề "Năng lượng tái tạo cho cuộc sống".
APT JSO-6 diễn ra từ ngày 10-15/7/2017 do Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam phối hợp với Chương trình Trung tâm ASEAN+3 về tài năng khoa học (ACGS) tổ chức.
Sự kiện này nhằm phát huy năng khiếu và khuyến khích sự đam mê sáng tạo khoa học và công nghệ, ươm mầm các nhà khoa học và kỹ sư tài năng trong tương lai. Đây cũng là một trong những hoạt động có ý nghĩa thiết thực chào mừng kỷ niệm 50 năm thành lập ASEAN.
Tham dự Lễ khai mạc APTJSO-6 có Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam Trần Quốc Khánh, bà Finarya Legoh – Giám đốc Trung tâm Năng khiếu Khoa học ASEAN, đại diện Trung tâm Năng khiếu Khoa học ASEAN Hàn Quốc. APTJSO-6 có sự tham gia của các nhóm học sinh, giáo viên và quan sát viên từ các thành viên ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thụy Điển, ….
 
 
Các đại biểu, học sinh tham dự tại Lễ khai mạc Hội trại
 
Trong 22 năm tham gia ASEAN (từ ngày 28/7/1995), Việt Nam đã hợp tác tích cực, có hiệu quả với các nước thành viên và các đối tác trong việc thu hút nguồn lực để nâng cao trình độ khoa học và công nghệ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
ACGS được thành lập từ năm 2009 có trụ sở tại Hàn Quốc. ACGS là chương trình thuộc sự điều phối của Tiểu ban Phát triển cơ sở hạ tầng và Nguồn lực khoa học và công nghệ ASEAN (SCIRD), Ủy Ban Khoa học và Công nghệ ASEAN (COST). Hiện nay, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam là cơ quan đầu mối công tác của Việt Nam tại COST. Hội trại khoa học ASEAN+3 cho Thiếu niên Odyssey (APTJSO) là một trong những hoạt động thường niên của Chương trình ACGS.
Được tổ chức thường niên từ năm 2012, APTJSO là hoạt động nổi bật dành cho thanh thiếu niên các nước ASEAN và các đối tác khác, có độ tuổi từ 13 – 15 yêu thích nghiên cứu khoa học, có kinh nghiệm tham gia các cuộc thi sáng tạo khoa học, kỹ năng tiếng Anh và làm việc nhóm tốt. APTJSO nhằm khuyến khích và phát triển các tài năng trẻ, tạo ra cộng đồng khoa học công nghệ rộng lớn, góp phần cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các nước trong khu vực trong tương lai. Năm 2017 là lần thứ 6 Hội trại APTJSO được tổ chức.
 
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Quốc Khánh phát biểu tại Lễ khai mạc Hội trại
 
Phát biểu tại Hội trại, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho biết, APTJSO-6 là một trong những hoạt động quan trọng mà Việt Nam đăng cai tổ chức nhằm hưởng ứng kỷ niệm 50 năm thành lập ASEAN trong năm 2017, đồng thời, thiết thực triển khai Chương trình hành động khoa học, công nghệ và đổi mới trong giai đoạn 2016-2025 của ASEAN (gọi tắt là APASTI) và Kế hoạch triển khai APASTI trong bối cảnh Cộng đồng chung ASEAN đã được hình thành từ cuối năm 2015.
“Chủ đề “Năng lượng tái tạo cho cuộc sống” của Hội trại năm nay đã nhận được sự quan tâm chung của các thành viên ACGS. Năng lượng tái tạo ngày càng có vai trò quan trọng để bảo đảm an ninh năng lượng, góp phần cải thiện sức khỏe cộng đồng được sử dụng nhằm thay thế nguồn nhiên liệu hóa thạch ngày càng cạn kiệt, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu”, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho hay.
Năng lượng tái tạo là nguồn năng lượng dồi dào của thiên nhiên từ lâu đã được loài người phát hiện và sử dụng nhằm thay thế nguồn nguyên liện hóa thạch ngày càng cạn kiệt và để giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Năng lượng tái tạo bao gồm: mặt trời, địa nhiệt, thủy triều, thủy điện, năng lượng gió, sinh khối, nhiên liệu sinh học. Việc phát triển năng lượng tái tạo là rất cần thiết để bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, cải thiện sức khỏe cộng đồng …
 
Bà Finarya Legoh- Giám đốc Trung tâm Năng khiếu Khoa học ASEAN phát biểu tại buổi Lễ khai mạc Hội trại
 
Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, nhu cầu sử dụng năng lượng đang tăng trưởng nhanh tại các nước ASEAN. Dự báo nhu cầu năng lượng của khu vực sẽ tăng hơn 80% trong giai đoạn đến năm 2035. Do đó, khai thác, sử dụng năng lượng tái tạo có ý nghĩa chiến lược trong việc giải quyết nguồn năng lượng thiếu hụt của chúng ta.
Tại Việt Nam, năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Với mục tiêu chiến lược là kết hợp phát triển năng lượng tái tạo với triển khai thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường; phát triển và sử dụng năng lượng tái tạo kết hợp với phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo.
Tại APTJSO-6, các bạn học sinh sẽ thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và trình bày dự án thông qua các phần thi poster, kỹ năng trong phòng thí nghiệm, trình bày nhóm đề xuất dự án,  xoay quanh chủ đề “Năng lượng tái tạo cho cuộc sống”. Đây là cơ hội để các bạn học sinh nhiều quốc gia cùng phát huy tinh thần nghiên cứu khoa học hăng say, kỹ năng làm việc trong phòng thí nghiệm và làm việc nhóm, phát triển ý tưởng và chia sẻ kinh nghiệm nghiên cứu cùng bạn bè thông qua các hoạt động thực tiễn liên quan đến phát triển nguồn năng lượng táo tạo.
Những phần trình bày xuất sắc nhất sẽ nhận được Huy chương Vàng, Bạc và Đồng từ Ban Tổ chức. Đồng thời, tất cả các học sinh tham dự chương trình đều nhận được chứng chỉ từ APTJSO.
Ngoài ra, các giáo viên cũng có các hoạt động giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giáo dục năng khiếu khoa học, tham dự Hội thảo giáo viên về "Thúc đẩy STEM cho học sinh thông qua các ứng dụng năng lượng tái tạo".
Bên lề các hoạt động nghiên cứu khoa học, thanh thiếu niên ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thụy Điển,…. còn có cơ hội toạ đàm và tham dự các trò chơi giao lưu văn hóa tại Trường Đại học FPT trong khuôn viên Khu Công nghệ cao Hoà Lạc, Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam và tham quan trung tâm Thủ đô Hà Nội.
 
 
Một góc tại Lễ khai mạc Hội trại
 
Toàn thể các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại Lễ khai mạc Hội trại
 
Các Hội trại APT JSO đã tổ chức trong thời gian qua
– Hội trại APT JSO lần thứ nhất, năm 2012 tại Brunei. Chủ đề: Khoa học và sự vận động của rừng nhiệt đới.
– Hội trại APT JSO lần thứ hai, năm 2013 tại Hàn Quốc. Chủ đề: Nghiên cứu khoa học  vùng ven biển và vùng đầm lầy.
– Hội trại APT JSO lần thứ ba, năm 2014 tại Thái Lan. Chủ đề: Nông nghiệp sáng tạo vì sự bền vững toàn cầu.
– Hội trại APT JSO lần thứ tư, năm 2015 tại Indonesia. Chủ đề: Đa dạng sinh học hướng tới xã hội xanh, thông minh và sáng tạo.
– Hội trại APT JSO lần thứ năm, năm 2016 tại Philippines. Chủ đề: Biến đổi khí hậu và rừng nhiệt đới.
– Hội trại APT JSO lần thứ sáu, năm 2017 tại Việt Nam. Chủ đề: Năng lượng tái tạo cho cuộc sống.
 
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Nơi trao đổi các nghiên cứu, ứng dụng về công nghệ hạt nhân

 
Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ 12, sẽ được tổ chức từ ngày 2-4/8/2017, tại Tp Nha Trang, Khánh Hòa. “Hội nghị là nơi gặp gỡ và trao đổi các kết quả nghiên cứu, ứng dụng mới trong lĩnh vực khoa học và công nghê hạt nhân của các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành cả ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, là cơ hội để các nghiên cứu viên trẻ trong nước có cơ hội giao lưu và trao đổi thêm kiến thức chuyên môn cũng như các kỹ năng thực tế khác…” ông Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam – VINATOM cho biết tại buổi gặp mặt báo chí nhân dịp sắp diễn ra sự kiện trên.
 
Hậu điện hạt nhân, những vấn đề cần giải quyết
Điện hạt nhân đạt công suất cao nhất trong lịch sử
Vì sao Việt Nam cần một lò phản ứng nghiên cứu mới?
Vai trò công nghệ hạt nhân trong sự phát triển bền vững
 
 
 
VINATOM tổ chức gặp mặt báo chí nhân dịp sắp diễn ra Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ 12.
 
Theo ông Trần Chí Thành, Hội nghị lần này được VINATOM tổ chức với quy mô lớn. Do đó, đã thu hút được sự tham gia của nhiều chuyên gia, nhà khoa học, các cán bộ quản lý của các bộ, ngành, cơ quan, địa phương liên quan, các trường đại học trong nước và nhiều đại biểu quốc tế đến từ các quốc gia có nền KH&CN hạt nhân tiên tiến như: Liên Bang Nga, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Hàn Quốc, Cộng hòa Séc, Hà Lan, Bỉ, Romania, Hungary, Ấn Độ, Singapore…
 
“Đặc biệt, Hội nghị lần này còn có sự tham gia của các chuyên gia đến từ Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN), và các chuyên gia từ các nước láng giềng như Lào và Campuchia”, ông Trần Chí Thành nhấn mạnh.
 
Tham gia Hội nghị lần thứ 12 có hơn 70 tổ chức trong và ngoài nước với hơn 370 đại biểu là các cán bộ nghiên cứu khoa học, triển khai ứng dụng năng lượng nguyên tử thuộc các tổ chức khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, các cán bộ quản lý thuộc các bộ, ngành, cơ quan, địa phương liên quan trong cả nước, nghiên cứu sinh và sinh viên các trường đại học và hơn 40 giáo sư, nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu quốc tế.
 
Viện trưởng VINATOM cho biết: qua việc tiến hành phản biện một cách nghiêm túc của Hội đồng khoa học, Hội nghị đã chọn được 235 báo cáo, trong đó có 135 báo cáo được trình bày tại 6 Tiểu ban chuyên môn và 79 báo cáo dán bảng.
 
Vào ngày 2/8, tại Phiên toàn thể của Hội nghị sẽ có 21 bài trình bày của các diễn giả khách mời là các nhà khoa học và chuyên gia hàng đầu đến từ các viện nghiên cứu, các trường đại học, các bệnh viện và các tổ chức uy tín trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử của Việt Nam và quốc tế.
 
Tại Hội nghị lần thứ 12, VINATOM phối hợp với IAEA tổ chức Hội thảo về “Ứng dụng các kỹ thuật hạt nhân trong công nghiệp, nông nghiệp và y tế” vào chiều ngày 2/8, với 6 bài tham luận của các đại biểu là các chuyên gia Quốc tế đến từ IAEA, Cộng hòa Séc và Việt Nam.
 
Tại Phiên toàn thể, GS. Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng VINATOM sẽ trình bày kết quả ứng dụng kỹ thuật phân tích hạt nhân trong nghiên cứu bụi khí. Đại diện Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân (JINR), Dubna, Liên bang Nga, GS. Mikhail Grigorievich Itkis sẽ trình bày về các kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực hạt nhân và các kế hoạch nghiên cứu trong tương lai tại Dubna.
 
Lần đầu tiên tham dự Hội nghị thuộc ngành năng lượng nguyên tử tại Việt Nam, đại diện của Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) tại Geneva sẽ trình bày kết quả nghiên cứu mới nhật của Vật lý hạt nhân hiên đại về Vật lý Plasma Quark-Gluon với thí nghiệm ALICE tại Large Hadron Collider (Máy gia tốc hạt lớn – gọi tắt là LHC).
 
Đến từ Đại học Bang Bắc Carolina, Hoa Kỳ, GS. Ayman Hawari hiện là Giám đốc Chương trình lò phản ứng hạt nhân của Bang Bắc Carolina sẽ trình bày về kinh nghiệm nâng cấp, vận hành và ứng dụng lò phản ứng PULSTAR.
 
PGS. Chung Keng Yeow, Viện Sáng kiến An toàn và Nghiên cứu hạt nhân (SNRSI), Singapore và TS. Chul Hwa Song, Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên tử Hàn Quốc (KAERI), Hàn Quốc sẽ trình bày về kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu về an toàn hạt nhân ở Singapore cũng như chia sẻ về kinh nghiệm phát triển các công nghệ hạt nhân tại Hàn Quốc.
 
Trong lĩnh vực nghiên cứu về cấu trúc hạt nhân, PGS. Nguyễn Quang Hưng, Đại học Duy Tân, sẽ trình bày về các kết quả nghiên cứu gần đây tại Việt Nam về cấu trúc của các mức kích thích trong hạt nhân nguyên tử. Một số kết quả mới nhất của nhóm nghiên cứu vừa được công bố trên tạp chí có uy tín trên thế giới của ngành hạt nhân (Nuclear Physics A).
 
Trong buổi Hội thảo IAEA, TS. Najat Mokhtar đại diện IAEA sẽ trình bày về các chương trình hợp tác kỹ thuật của IAEA hỗ trợ cho các nước thành viên nhằm đẩy mạnh ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững…
 
Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ 12 là sự kiện khoa học quan trọng không chỉ đối với cộng đồng năng lượng nguyên tử Việt Nam mà còn có ý nghĩa lớn đối với thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử của đất nước trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực thúc đẩy khoa học công nghệ, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình.
 
Kể từ năm 1996, được Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cho phép, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN) đã 11 lần tổ chức thành công Hội nghị KH&CNHN toàn quốc. Theo kế hoạch, vào năm 2017, Hội nghị KH&CNHN toàn quốc lần thứ 12 sẽ được tổ chức tại thành phố Nha Trang trong 3 ngày từ 02-04/8/2017.
 
TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Chương trình Gặp gỡ Việt Nam 2017: “Kéo gần” khoa học đến với cuộc sống

 
Tiếp nối thành công của 12 lần tổ chức trước, “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ XIII – năm 2017 diễn ra tại TP Quy Nhơn từ tháng 3 này, hứa hẹn mang đến những sự kiện hấp dẫn, thú vị. Ðặc biệt, chuỗi sự kiện năm nay không đơn thuần là các vấn đề của khoa học cơ bản mà còn có chủ đề gần gũi, “kéo gần” khoa học đến với cuộc sống.
 
Hội Gặp gỡ Việt Nam cho biết, chuỗi các sự kiện của chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ XIII – năm 2017 sẽ có 18 sự kiện, trong đó có 13 hội nghị khoa học quốc tế (KHQT) và 5 lớp học chuyên đề quốc tế.
 
 
Các sự kiện của chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” hằng năm tại TP Quy Nhơn thu hút nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia.
– Trong ảnh: Các nhà khoa học chia sẻ kết quả nghiên cứu khoa học tại Hội thảo Khoa học cơ bản và xã hội, diễn ra năm 2016.
 
Thiết thực, gần gũi
 
So với 12 lần tổ chức trước, “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ XIII có số hội nghị khoa học nhiều hơn hẳn, bắt đầu có các hội nghị, lớp học chuyên đề đa dạng hơn. Không chỉ dừng lại ở lĩnh vực vật lý hạt cơ bản, vật lý thiên văn và vật lý nano như những năm trước, mà còn có các hội nghị, lớp học quốc tế liên quan đến y học, toán học, công nghệ truyền thông. Điều đó chứng tỏ, Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành Quy Nhơn (ICISE) đã bắt đầu có danh tiếng, được nhiều người biết đến và các tổ chức KHQT tổ chức hội nghị, lớp học ở Quy Nhơn.
 
Theo giáo sư (GS) Trần Thanh Vân – Chủ tịch Hội Gặp gỡ Việt Nam, năm nay không có sự kiện đặc biệt như Hội thảo Khoa học cơ bản và xã hội kỷ niệm 50 năm “Gặp gỡ Moriond” diễn ra năm 2016; nhưng có một số lớp học chuyên đề và hội nghị khoa học lớn, như: trường học nghiên cứu CIMPA: hình học không giao hoán và ứng dụng trong vật lý lượng tử; biên giới của vật lý cơ bản…
 
Đặc biệt, khác với mọi năm, khởi động của “Gặp gỡ Việt Nam” năm nay là hội thảo quốc tế với chủ đề: “Ô nhiễm môi trường, biện pháp phục hồi và quản lý”, chính thức khai mạc ngày 8.3. Sự kiện này được tổ chức với sự đồng hành của Trường Đại học Loyola Chicago, Hội Hóa học và Độc học Môi trường khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Tổng cục Môi trường, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Đây là lần thứ 3, hội thảo quốc tế về ô nhiễm môi trường, biện pháp phục hồi và quản lý, diễn ra tại Việt Nam.
 
GS Trần Thanh Vân cho hay, dựa vào kiến nghị của các nhà khoa học, quản lý trong và ngoài nước tham dự 2 kỳ hội thảo trước, hội thảo lần thứ 3 được tổ chức với mục đích mời các nhà khoa học môi trường trên thế giới đến Quy Nhơn để chia sẻ kết quả nghiên cứu khoa học, thảo luận về các vấn đề môi trường hiện tại và chia sẻ kinh nghiệm quản lý môi trường. Qua đó, tăng cường hợp tác nghiên cứu giữa các nước phát triển và đang phát triển như Việt Nam.
 
“Ngoài ra, chúng tôi còn mời các chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau thuộc ngành khoa học môi trường ở nước ngoài và Việt Nam để thành lập một nhóm tư vấn các vấn đề môi trường cho Chính phủ. Việc này sẽ rất quan trọng và hữu ích cho Việt Nam, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang phải đối mặt với các nguy cơ thảm họa môi trường, cần kinh nghiệm và chuyên môn sâu để giải quyết” – GS Trần Thanh Vân chia sẻ.
 
Môi trường là một chủ đề thiết thân với đời sống, nhất là với một nước đang phát triển như Việt Nam. Hội thảo khoa học “Ô nhiễm môi trường, biện pháp phục hồi và quản lý” cho thấy, từ các sự kiện mang tính khoa học thuần túy, đến nay “Gặp gỡ Việt Nam” đã “rộng mở”, “kéo gần” khoa học đến với cuộc sống, dùng khoa học để giải quyết những vấn đề thực tiễn bức xúc.
 
Tiếp tục “bắc cầu” khoa học
 
Mục tiêu của các chuỗi hội thảo khoa học trong các chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” trước đây – đặc biệt là từ năm 2013 đến nay tại ICISE – là đưa các nhà KHQT đến Việt Nam để chia sẻ với các nhà khoa học Việt Nam những kết quả nghiên cứu mới nhất cũng như sự phát triển của KHQT. Năm 2017, có khoảng 1.700 nhà KHQT sẽ đến Quy Nhơn dự các sự kiện khoa học. Trong kế hoạch, cũng sẽ mời 3-4 nhà khoa học đoạt các giải thưởng Nobel đến Bình Định; hiện GS Geradus’t Hoof – Nobel Vật lý 1999 đã nhận lời tham dự.
 
“Không chỉ có các nhà khoa học đoạt giải Nobel mà tất cả các hội nghị đều có các nhà khoa học hàng đầu thế giới về các lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu tham dự, chia sẻ những kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất. Các hội thảo khoa học cũng giúp làm giàu cho sự hiểu biết về khoa học cho các nhà khoa học trẻ, kết nối giới khoa học trong nước và giới KHQT để “từng bước” xây dựng một nền khoa học tại Việt Nam phát triển hơn trong tương lai. Đây là điều mong mỏi nhất của Hội Gặp gỡ Việt Nam” – GS Trần Thanh Vân khẳng định.
 
Đó là lý do cùng với các hoạt động khoa học chính thức trong chuỗi các hội thảo khoa học, trường học Vật lý quốc tế được tổ chức xuyên suốt “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ XIII. Như thường lệ, Ban tổ chức chương trình luôn tận dụng sự có mặt của các nhà khoa học danh tiếng tại Quy Nhơn để kết nối, tổ chức các buổi nói chuyện khoa học đại chúng cho học sinh, sinh viên và công chúng yêu khoa học. Những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ bên lề cũng được xúc tiến, tạo cơ hội cho các nhà khoa học trẻ của Việt Nam hợp tác và phát triển nghiên cứu.
 
Những “cầu nối” khoa học mà tổ chức Gặp gỡ Việt Nam tạo lập đã bắt đầu “gặt hái” những thành quả đầu tiên. Ngày 1.10.2016, ICISE đã cho ra mắt Nhóm nghiên cứu Vật lý lý thuyết. Đến nay, hoạt động của nhóm đã có nhiều tiến triển tốt. Nhóm nghiên cứu đã mời 1 nhà khoa học người Pháp, đang làm việc ở Đức về làm nghiên cứu tại ICISE trong 1 tháng. Từ tháng 4 – 9.2017 sẽ có 1 tiến sĩ trẻ vừa bảo vệ xong luận án ở Italia về nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu khoa học và giáo dục liên ngành (IFIRSE) và ICISE trước khi tiếp tục làm nghiên cứu sau tiến sĩ tại châu Âu.
 
THU HIỀN

WIPO hỗ trợ Việt Nam phát triển tài sản trí tuệ

Các đại biểu tại buổi khai mạc chuỗi sự kiện.
 
NDĐT – Chuyên gia Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) sẽ giới thiệu các mô hình phát triển, chuyển giao công nghệ thành công và lựa chọn các đơn vị tham gia dự án “Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ”.
 
Đây là thông tin được công bố tại buổi khai mạc chuỗi sự kiện Khóa đào tạo nâng cao “Chuyển giao công nghệ thành công” và Hội nghị phỏng vấn các viện nghiên cứu, trường đại học tại TP Hồ Chí Minh, sáng 25-9.
 
Dự án “Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ” do WIPO hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực sáng tạo, quản lý và thương mại hóa công nghệ của các nước đang phát triển và kém phát triển đã được triển khai tại một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái-lan, Philippines, Ấn Độ, Iran, Mông Cổ.
 
Tại Việt Nam, dự án dự kiến sẽ kéo dài trong 5 năm (2018-2022). Hoạt động của dự án bao gồm đào tạo cán bộ cho mạng lưới, thiết lập liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với nhau và với các nhà đầu tư, góp phần hỗ trợ thương mại hóa sáng chế.
 
Để bảo đảm thành công của dự án, WIPO yêu cầu các đơn vị tham gia dự án cam kết mạnh mẽ việc triển khai. Bà Olga Spasic, Cố vấn Văn phòng hỗ trợ Khởi nghiệp và doanh nghiệp nhỏ và vừa WIPO cho biết, Việt Nam được xem là một “ngôi sao” mới nổi trong hoạt động đổi mới sáng tạo của khu vực và đã thể hiện được khá nhiều kết quả tốt. Trong đó, Chính phủ Việt Nam cũng đưa ra nhiều chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đưa hoạt động này phát triển khá mạnh mẽ và ngày càng quy mô hơn. Dự án của WIPO sẽ góp phần phát triển tài sản trí tuệ và thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ công nghệ của Việt Nam.
 
Theo Ban tổ chức, thông qua khóa đào tạo nâng cao “Chuyển giao công nghệ thành công” cho các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, các học viên sẽ có kiến thức, kỹ năng về đàm phán và soạn thảo hợp đồng chuyển giao công nghệ, định giá tài sản trí tuệ, xây dựng chính sách về chuyển giao công nghệ.
 
Còn tại Hội nghị phỏng vấn các viện nghiên cứu, trường đại học sẽ diễn ra tại TP Hồ Chí Minh, từ ngày 25 đến 26-9, và tại Hà Nội, từ ngày 28 đến 29-9, các chuyên gia WIPO sẽ giới thiệu mô hình “trục xoay và nan hoa” (Hub and Spoke) và chính thức lựa chọn các đơn vị tham gia dự án.
 
Hiện nay, Cục Sở hữu trí tuệ đã kết nối được mạng lưới gồm 30 trung tâm sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (TISC) trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Trong số 30 đơn vị này, có 20 viện nghiên cứu, trường đại học đăng ký tham gia dự án “Khởi tạo môi trường sở hữu trí tuệ” do WIPO hỗ trợ.
 
Ông Đinh Hữu Phí, Cục trưởng Sở hữu trí tuệ cho biết, cục sẽ tập trung nguồn lực để mạng lưới TISC vận hành ổn định, giúp các trường đại học, viện nghiên cứu tăng cường năng lực nội tại trong việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; đặc biệt chú trọng tăng số lượng sáng chế của Việt Nam. Số lượng sáng chế này cũng là một chỉ tiêu xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) cần được cải thiện theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 19.
 
Mặt khác, Bộ Khoa học và Công nghệ đang chủ trì, phối hợp các bộ, ngành xây dựng Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia, nhằm nâng tầm hệ thống sở hữu trí tuệ với cơ chế bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích hoạt động sáng tạo, đổi mới, thu hút đầu tư, thúc đẩy chuyển giao và phổ biến thành quả sáng tạo; phát huy vai trò làm công cụ phát triển kinh tế – xã hội của hệ thống sở hữu trí tuệ trong xây dựng nền kinh tế tri thức.
 
KHÁNH BĂNG

Xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2017: Việt Nam tăng 12 bậc

 
Ngày 15/6/2017 tại Geneva, Thụy Sỹ, Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) kết hợp với Trường ĐH Cornell (Hoa Kỳ) và Học viện Kinh doanh INSEAD (Pháp) đã công bố Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) toàn cầu năm 2017 (Global Innovation Index 2017, gọi tắt là GII 2017). Theo đó, Việt Nam đã tăng hạng khá ấn tượng, từ vị trí 59/128 lên vị trí 47/127 nước và nền kinh tế (tăng 12 bậc). Đây là thứ hạng cao nhất Việt Nam từng đạt được từ trước đến nay. Việt Nam còn đứng vị trí số 1 về chỉ số GII 2017 trong số các nước có thu nhập trung bình thấp.
 
Đây là lần thứ 10 liên tiếp, Báo cáo Chỉ số GII được công bố. Mục đích của Chỉ số GII là đưa ra các đánh giá về trình độ ĐMST của mỗi quốc gia một cách toàn diện nhất. Cốt lõi của Báo cáo GII 2017 là Bảng xếp hạng về ĐMST toàn cầu, thể hiện kết quả và năng lực đổi mới sáng tạo của các nên kinh tế.
GII bao gồm nhiều tiểu chỉ số/tiêu chí. GII 2017 được tổng hợp từ 81 tiểu chỉ số (được lấy từ hơn 30 nguồn tài liệu của các tổ chức công và tư quốc tế), trong đó có 57 chỉ số “cứng”, 19 chỉ số tổng hợp và 5 chỉ số từ các cuộc điều tra) trong các lĩnh vực: thể chế/tổ chức, nhân lực và nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, trình độ phát triển của thị trường, trình độ phát triển kinh doanh, đầu ra công nghệ và tri thức, kết quả sáng tạo. Các tiểu chỉ số này được phân chia theo 7 trụ cột. Trong đó 5 trụ cột đầu tiên thuộc “Nhóm tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST” (gồm: Thể chế/tổ chức, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của thị trường, Trình độ phát triển kinh doanh) và 2 trụ cột sau cùng thuộc “Nhóm tiểu chỉ số đầu ra của ĐMST” (gồm: Đầu ra của tri thức và công nghệ và Đầu ra sáng tạo). Báo cáo của WIPO về ĐMST là tài liệu tham khảo hàng đầu về năng lực ĐMST hiện nay của các nước.
Trong bài phát biểu tại Lễ công bố GII 2017, Tổng Giám đốc WIPO Francis Gurry nói: "ĐMST là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu ngày càng dựa trên tri thức, nhưng đầu tư nhiều hơn nữa là cần thiết để giúp thúc đẩy sự sáng tạo của con người và tăng trưởng kinh tế. ĐMST có thể giúp tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn và dài hạn." ĐMST cũng được WIPO coi là có vai trò then chốt, động lực của tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng.
Tại Lễ công bố GII 2017, ông Soumitra Dutta, Đại học Cornell cho biết: "Những nỗ lực nhằm thu hẹp khoảng cách ĐMST phải bắt đầu bằng việc giúp các nền kinh tế mới nổi hiểu được những điểm mạnh và điểm yếu về ĐMST của họ và tạo ra các chính sách và chỉ số phù hợp. Đây là mục đích của GII trong hơn 10 năm nay."
 
GII 2017 có chủ đề: "Sáng tạo Phục vụ Thế giới"
Chủ đề của GII 2017 "Sáng tạo Phục vụ Thế giới" xem xét ĐMST trong các hệ thống nông nghiệp và thực phẩm. Trong những thập kỷ tiếp theo, ngành nông nghiệp và thực phẩm sẽ phải đối mặt với sự gia tăng nhu cầu trên toàn cầu và cạnh tranh ngày càng tăng đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn. Thêm vào đó, sẽ cần phải thích nghi và giúp giảm nhẹ sự thay đổi khí hậu. ĐMST là chìa khóa để duy trì sự tăng trưởng năng suất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng này và giúp tăng cường các mạng lưới kết hợp sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu thụ và quản lý chất thải bền vững – được gọi là hệ thống thực phẩm.
Bruno Lanvin, Giám đốc điều hành của INSEAD cho biết: "Chúng tôi đã chứng kiến ​​sự xuất hiện nhanh chóng trên quy mô toàn cầu của nông nghiệp kỹ thuật số, bao gồm máy bay không người lái, cảm biến dựa trên vệ tinh và robot. Hiện đang có một nhu cầu cấp bách về nông nghiệp thông minh để tối ưu hóa chuỗi cung ứng, phân phối và thúc đẩy những mô hình kinh doanh mới sáng tạo, giảm thiểu áp lực lên đất đai, năng lượng và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác – đồng thời đáp ứng nhu cầu của những người nghèo nhất thế giới".
Đến năm 2050, dân số thế giới ước đạt 9,7 tỷ người. Điều này đặt ngành nông nghiệp toàn cầu trước một thách thức khó khăn. Giai đoạn này đã được thiết lập cho một cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu tiềm ẩn nếu các nhà hoạch định chính sách và các bên liên quan khác không thực hiện cải tiến nông nghiệp, làm tăng đáng kể năng suất.
 
Khái quát xếp hạng GII 2017
Thụy Sĩ, Thụy Điển, Hà Lan, Hoa Kỳ và Anh là những nước sáng tạo nhất thế giới, trong khi một nhóm các quốc gia bao gồm Ấn Độ, Kenya và Việt Nam đang vượt trội so với các nước đang phát triển khác. Các phát hiện chính trong xếp hạng năm nay cho thấy sự nổi lên của Ấn Độ như là một trung tâm đổi mới đang nổi lên ở châu Á.
Theo GII năm 2017, 10 nền kinh tế hàng là: (1) Thụy Sĩ, dẫn đầu bảng xếp hạng năm thứ bảy liên tiếp, (2) Thụy Điển, (3) Hà Lan, (4) Hoa kỳ, (5) Anh, (6) Đan Mạch, (7) Singapo, (8) Phần Lan, (9) Đức và (10) Ai-len.
Cũng theo GII năm 2017, các nước Khu vực Đông Á có sự thăng hạng về chỉ số ĐMST, gồm: Nhật Bản thứ 14 (so với 16 năm 2016), Trung Quốc đã đạt vị trí 22, so với vị trí thứ 25 năm 2016. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình đầu tiên trong top 25.
Một nhóm các nước có thu nhập trung bình và có thu nhập thấp có năng lực ĐMST tốt hơn đáng kể so với mức phát triển hiện tại của họ: Tổng cộng 17 nền kinh tế trong diện này, bao gồm những nước đạt được thành tựu đổi mới trong năm nay, tăng nhẹ từ năm 2016.
Bên cạnh các cường quốc đổi mới như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, một nhóm các nền kinh tế châu Á bao gồm Inđônêxia, Malaysia, Singapo, Thái Lan, Philippin, đặc biệt là Việt Nam đang tích cực làm việc để cải thiện hệ sinh thái ĐMST và xếp hạng cao trong một số chỉ số quan trọng liên quan đến giáo dục, R&D, tăng năng suất, xuất khẩu công nghệ cao.
 
Về chỉ số ĐMST 2017 của Việt Nam
Trong GII 2017, Việt Nam đứng thứ 47/127 nước và vùng lãnh thổ được xếp hạng, tăng 12 bậc so với năm 2016 (năm 2016, Việt Nam đứng thứ 59 thế giới, năm 2015 đạt vị trí 52, năm 2014 thứ 71 và năm 2013 thứ 76). Bên cạnh đó, xét về hiệu quả ĐMST, Việt Nam đứng thứ 10 thế giới (năm 2016 đứng thứ 11 thế giới, năm 2015 đứng thứ 9 thế giới, năm 2014 thứ 5 và năm 2013 thứ 17).
Phân tích Bảng 1, chúng ta có thể thấy: Sở dĩ năm 2017, Việt Nam có sự tăng bậc khá ấn tượng về chỉ số ĐMST so với năm 2016 là do có sự tăng bậc ở cả hai nhóm chỉ số đầu vào và đầu ra. Đặc biệt, trong 7 trụ cột của Việt Nam trong GII 2017, chỉ có trụ cột “Trình độ phát triển kinh doanh” là giảm 1 bậc (từ vị trí 72 xuống 73), “Đầu ra sáng tạo” là giữ nguyên vị trí, 5 trụ cột còn lại đều tăng bậc so với năm 2016, trong đó có những trụ cột tăng 30 bậc (trụ cột “Trình độ phát triển của thị trường”, từ vị trí 64 năm 2016 lên 34 năm 2017), tăng 11 bậc như “Đầu ra công nghệ và tri thức” (từ vị trí 39 lên 28), “Cơ sở hạ tầng” tăng 13 bậc (từ 90 lên 77). Dước đây là phân tích cụ thể về Nhóm tiểu chỉ số đầu vào và đầu ra của ĐMST Việt Nam năm 2017 và so sánh với năm 2016.
– Nhóm tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST: Tăng 8 bậc, chủ yếu do các chỉ số sau tăng hạng: “Thể chế/Tổ chức” (từ 93 lên 87), “Nguồn nhân lực, nghiên cứu” (từ 74 lên 70), “Cơ sở hạ tầng” (từ 90 lên 77), “Trình độ phát triển thị trường” (từ 64 lên 34), “Trình độ phát triển kinh doanh” (từ 72 xuống 73), do yếu kém về đầu tư, đặc biệt là đầu tư mạo hiểm. Như vậy, nhóm tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST của Việt Nam đã có những cải thiện rất đáng kể.
Có những chỉ số được cải thiện đáng kể, do các tổ chức có liên quan ở Việt Nam đã tích cực cập nhật thông tin cho các tổ chức quốc tế có liên quan mà từ đó WIPO lấy số liệu để xếp hạng. Chẳng hạn trong trụ cột “Nghiên cứu và phát triển” đã tăng 19 bậc (từ 99 năm 2016 lên 80 năm 2017), do số liệu về số lượng các nhà nghiên cứu (FTE)/triệu dân và số liệu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D) theo %GDP đã được Cục Thông tin KH&CN Quốc gia cập nhật và cung cấp cho UNESCO, các chỉ số này của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, trong đó chỉ số về số lượng các nhà nghiên cứu (FTE)/triệu dân đã vươn lên vị trí 58 và chỉ số đầu tư cho nghiên cứu và phát triển tăng bậc từ 89 năm 2016 lên 73 năm 2017 (tăng16 bậc).
Trong các tiểu chỉ số đầu vào của ĐMST của Việt Nam, WIPO đánh giá cao về các chỉ số: “Chi tiêu cho giáo dục (%GDP)” (đứng thứ 26/127 nước và vùng lãnh thổ), “Tổng tư bản hình thành (%GDP)” (đứng thứ 29/127), “Tín dụng” (17/127), “Tín dụng trong nước cho khu vực tư nhân” (22/127), “Vay tài chính vi mô (%GDP)” (12/127), “Hấp thu tri thức” (23/127), “Giá trị ròng về nhập khẩu công nghệ cao (% tổng giá trị thương mại)” (3/127), FDI (%GDP) (26/127).
– Nhóm tiểu chỉ số đầu ra của ĐMST: Tăng 4 bậc, do các chỉ số “Đầu ra công nghệ và tri thức” tăng hạng (từ 39 lên 28), nhờ có sự cải thiện về các tiểu chỉ số liên quan đến “Sáng tạo tri thức” (tăng 7 bậc, từ 80 lên 73, nhờ các chỉ số phụ tăng bậc như đăng ký sáng chế, số lượng công bố khoa học), “Tác động của tri thức” (tăng 20 bậc, từ 25 lên 5), xuất khẩu các dịch vụ công nghệ thông tin trên % tổng giá trị thương mại, “Tốc độ tăng năng suất lao động” (GDP/người lao động)…
Trong các tiểu chỉ số đầu ra của ĐMST của Việt Nam, WIPO đánh giá cao về các chỉ số: “Tác động của tri thức” (đứng thứ 5/127), “Phổ biến tri thức” (19/127), “Xuất khẩu công nghệ cao trừ đi tái xuất” (theo % tổng giá trị thương mại) (4/127), “Đăng ký nhãn hiệu theo nước theo nước xuất xứ/tỷ USD (PPP)” đứng thứ 20/127, “Xuất khẩu sản phẩm sáng tạo theo % tổng giá trị thương mại” (7/127).
Đặc biệt, chỉ số “Tốc độ tăng năng suất lao động” (GDP/người lao động) của Việt Nam đứng thứ 1/127 nước và vùng lãnh thổ. Đây là chỉ số đo lường tốc độ tăng năng suất lao động (được định nghĩa là sản lượng đầu ra trên một đơn vị đầu vào lao động). Bình quân GDP/lao động được tính bằng cách lấy GDP chia cho tổng số việc làm trong nền kinh tế.
Như vậy, năm 2017 Việt Nam có nhiều trụ cột và tiểu chỉ số được xếp hạng cao. Nhờ có sự cải thiện cả Nhóm tiểu chỉ số đầu vào và đầu ra của ĐMST, nên tỷ lệ hiệu quả ĐMST của Việt Nam cũng tăng bậc (từ 11 năm 2016 lên 10 năm 2017). Đây cũng là chỉ số có thứ hạng cao trong nhiều năm qua của Việt Nam.
Về chỉ số ĐMST của Việt Nam trong khu vực ASEAN: năm 2015, xếp hạng GII của Việt Nam đã nằm trong Top 3, đứng sau Singapo (thứ 7), Malaysia (thứ 32), nhưng trên Thái Lan (thứ 55). Tới năm 2016, Thái Lan đã vươn lên vị trí thứ 3 (nhờ tăng 3 bậc) và Việt Nam xuống vị trí thứ 4 (giảm 7 bậc). Tuy nhiên, năm 2017, Việt Nam đã lại vượt qua Thái Lan (thứ 51) để lấy lại vị trí thứ 3 của nước này.
Trong số các nước ASEAN được xếp hạng trong GII 2017, có 3 nước đã tụt hạng so với năm 2016 là Malaixia, Singapo và Campuchia. Trong khi đó, các nước còn lại, trừ Việt Nam, đều tăng nhẹ.
Nhiều năm trước đây, Việt Nam vẫn ở trong thứ hạng trên 70 nhưng bắt đầu từ năm 2014 đã có chiều hướng tăng hạng. Nếu như năm 2013, chúng ta xếp hạng thứ 76,  năm 2014 tăng lên 71, năm 2015 tăng ngoạn mục lên 52 và năm 2016 là 59 và hiện nay là 47. Nếu Việt Nam tiếp tục cải thiện thể chế/tổ chức, cơ sở hạ tầng, đổi mới trong KH&CN, kể cả đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu, hệ thống quản lý, tiếp cận với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế… thì thứ hạng của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng lên.
Theo đánh giá của WIPO, Việt Nam đang nỗ lực hướng tới phát triển hệ thống đổi mới quốc gia của mình bằng cách cải thiện khuôn khổ pháp lý và xây dựng thể chế. Hội nhập thương mại toàn cầu thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu và thu hút FDI đang tạo ra cơ hội cho Việt Nam học hỏi và phát triển nhanh. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có nhiều tiến bộ về hấp thụ tri thức, công nghệ, liên kết đổi mới (thông qua các cụm). Những cải thiện trong các yếu tố đầu vào và kết quả đầu ra, như thể hiện bởi năng suất lao động cao hơn và cải thiện chất lượng sản xuất thông qua các chứng nhận ISO.
Tiến bộ của Việt Nam ở hầu hết các trụ cột của GII 2017 được nhìn nhận là kết quả cả quá trình phát triển những năm qua. Cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực ĐMST. Từ năm 2014 và liên tiếp trong các năm 2015, 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 19/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, với mục tiêu cụ thể gắn với các chỉ số đo đếm được theo những phương pháp chuẩn mực được thế giới công nhận.
Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, và trực tiếp tại Nghị quyết 19/NQ-CP là Phó Thủ Chính phủ Vũ Đức Đam, các bộ, ngành, địa phương đã rất nỗ lực trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh trong những năm vừa qua. Những kết quả này ngay lập tức được ghi nhận trong xếp hạng về đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2017.
Nghị quyết 19-2017/NQ-CP ngày 06/2/2017 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh đã sử dụng 4 đánh giá xếp hạng toàn cầu: Đánh giá, xếp hạng về Mức độ thuận lợi kinh doanh của; Đánh giá, xếp hạng về Năng lực cạnh tranh quốc gia của WEF; Đánh giá, xếp hạng về Năng lực đổi mới sáng tạo của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới; Đánh giá, xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên Hợp Quốc. Bằng Nghị quyết 19, lần đầu tiên Việt Nam định vị và đặt mục tiêu về chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia trong xếp hạng toàn cầu; đồng thời xây dựng và thực hiện hệ chính sách tương ứng theo thông lệ quốc tế. Chính phủ đã đặt mục tiêu cụ thể “Đến năm 2020, các chỉ số ĐMST (theo đánh giá của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới – WIPO) đạt trung bình ASEAN 5”. Như vậy với xếp hạng GII 2017, mục tiêu này cho đến nay đã đạt được.
Năm 2017, Chính phủ đã giao Bộ Khoa học và Công nghệ làm đầu mối hướng dẫn, phối hợp với các bộ ngành, địa phương nghiên cứu, sử dụng báo cáo hằng năm về GII để thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, được thể hiện thông qua việc cải thiện các chỉ số GII. Ngoài ra, ngay sau khi được giao nhiệm vụ cải thiện chỉ số GII, các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương vào cuộc, thực hiện ngay các biện pháp khả thi, trong đó phải kể đến việc nhanh chóng cập nhật các số liệu lạc hậu, thu thập và bổ sung một số số liệu còn thiếu, qua đó góp phần có được một đánh giá toàn diện, sát thực hơn về năng lực của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt nam qua các số đo và xếp hạng GII năm 2017./.
 
Nguồn: Cục Thông tin KH&CN quốc gia

Chính sách đặc thù đối với Khu công nghệ cao Hòa Lạc

 
Chính phủ vừa ban hành Nghị định quy định cơ chế, chính sách cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư, làm việc tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc sẽ được hưởng nhiều hỗ trợ.
 
Cụ thể, dự án đầu tư mới tại Khu công nghệ cao có quy mô vốn từ 4.000 tỷ đồng trở lên được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời hạn 30 năm.
 
Các dự án đã được UBND cấp tỉnh cấp phép đầu tư trước thời điểm Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng Khu công nghệ cao (ngày 23/5/2008) và đang hoạt động tại đây được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư/Giấy phép đầu tư/Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đã được cấp.
 
Đồng thời, Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng và phát triển nhà ở (bao gồm hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và công trình nhà ở). Tổ chức, cá nhân thực hiện dự án nhà ở cho người lao động làm việc tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc được hưởng ưu đãi về thuế, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật hiện hành và quy định tại Nghị định này.
 
Nghị định quy định nhà đầu tư, chuyên gia và người lao động là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài và thành viên gia đình (bao gồm bố, mẹ, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi dưới 18 tuổi) được xem xét cấp thị thực xuất cảnh, nhập cảnh có giá trị sử dụng nhiều lần và thời hạn phù hợp với thời gian làm việc trực tiếp tại Khu công nghệ cao. Đối với các dự án cần đặc biệt thu hút đầu tư vào Khu công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ trình Chính phủ hoặc Thủ tướng quyết định các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư bổ sung.

Hội thảo Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam 18/5/2017

 
     Ngày 18/5/2017, Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Hội thảo Ngày KH&CN Việt Nam 18/5. Tham dự Hội thảo có đồng chí Trần Văn Quang, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển KH&CN địa phương Bộ KH&CN, lãnh đạo một số sở, ban, ngành, các hội, doanh nghiệp; đại diện các đơn vị đang thực hiện đề tài, dự án KH&CN; lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức của Sở Khoa học và Công nghệ.
    Tại Hội thảo, đồng chí Lê Minh Thanh, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ ôn lại lịch sử ngành KH&CN cũng như ý nghĩa của Ngày KH&CN Việt Nam 18/5. Với chủ đề “Khoa học – Chìa khóa tương lai”, thời gian tới, ngành KH&CN Lạng Sơn tập trung triển khai một số nội dung như: triển khai đồng bộ công tác quản lý nhà nước về KH&CN; nâng cao chất lượng tham mưu thực hiện nhiệm vụ thuộc lĩnh vực ngành phụ trách; tập trung thúc đẩy, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo; kiểm tra việc xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 900:2008 tại các cơ quan, tổ chức…
 
    Tại Hội thảo, đại diện một số cơ quan, đơn vị đã trình bày tham luận, chia sẻ kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, ứng dụng KH&CN vào đời sống xã hội.
 
    Phát biểu tại Hội thảo, đồng chí Trần Văn Quang, Phó Vụ trưởng Vụ phát triển KH&CN địa phương chúc mừng tập thể cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Sở KH&CN và đội ngũ làm công tác KH&CN của tỉnh. Đồng chí ghi nhận và biểu dương những đóng góp của toàn thể cán bộ ngành KH&CN trong thời gian qua. Đồng thời đồng chí cũng nhấn mạnh trong thời gian tới ngành KH&CN Lạng Sơn phải tiếp tục cố gắng, thực sự là đòn bẩy trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, hỗ trợ các doanh nghiệp xác lập quyền sở hữu công nghiệp, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm chủ lực của địa phương trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đặc biệt hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và giữ vững thương hiệu sản phẩm đặc trưng của tỉnh… 
 
    Nhân dịp này, 16 cá nhân được nhận Kỷ niệm chương vì sự nghiệp KH&CN của Bộ KH&CN; 01 tập thể, 01 cá nhân nhận Bằng khen của UBND tỉnh vì đã có thành tích tiêu biểu 2 năm liên tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ (2015 – 2016)./.
 
                                                                                                                                                                                                Ngọc Hưng – SKHCN

Trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học – công nghệ

Ngày 17-5, lễ trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ (KH-CN) đợt 5 cho 2 cụm công trình đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng đã diễn ra tại Hà Nội.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang trao giải thưởng cho các tác giả,  đồng tác giả có công trình xuất sắc trong lĩnh vực quốc phòng
Chủ tịch nước Trần Đại Quang trao giải thưởng cho các tác giả, đồng tác giả có công trình xuất sắc trong lĩnh vực quốc phòng
 
Đến dự có Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Đây là giải thưởng cao quý mà Đảng và Nhà nước trao tặng các tác giả công trình, cụm công trình KH-CN đặc biệt xuất sắc, có giá trị rất cao, nhiều đột phá về KH-CN, hiệu quả kinh tế – xã hội, có tác dụng to lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng, là kết quả của sự dày công nghiên cứu, cống hiến trí tuệ và tài năng của các nhà khoa học, có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
 
Năm 2015, 4 công trình, cụm công trình của các tác giả trong Bộ Quốc phòng đề nghị xét giải thưởng. Hội đồng xét tặng giải thưởng cấp Bộ Quốc phòng đã xem xét, đánh giá và thống nhất đề nghị lên Hội đồng cấp Nhà nước. Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước và Hội đồng cấp Nhà nước đã xem xét, đánh giá và trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho 2 cụm công trình đặc biệt xuất sắc về KH-CN của 52 tác giả và đồng tác giả thuộc Bộ Quốc phòng tại Quyết định số 103/QĐ-CTN ngày 11-1-2017 của Chủ tịch nước, gồm: cụm công trình về Trường Sa của 33 đồng tác giả và cụm công trình “Nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chẩn đoán và điều trị ung thư gan nguyên phát và một số bệnh lý tiêu hóa, gan mật”, của GS-TS Mai Hồng Bàng và 18 đồng tác giả, đơn vị chủ trì là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hiện công trình đã ứng dụng trong chẩn đoán điều trị tại bệnh viện và chuyển giao thành công hầu hết các kỹ thuật từ kết quả của cụm công trình cho các bệnh viện trên địa bàn cả nước như bệnh viện Bạch Mai, Chợ Rẫy, Bệnh viện K Trung ương, Quân y 175… 
 
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã trao bằng chứng nhận giải thưởng cho các nhà khoa học là tác giả và đồng tác giả của các cụm công trình được tặng giải thưởng. Phát biểu tại buổi lễ, Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhiệt liệt biểu dương những thành tựu to lớn mà đội ngũ cán bộ KH-CN quân sự Việt Nam đã đạt được trong những năm qua; chúc mừng các nhà khoa học, các tổ chức KH-CN trong quân đội có công trình được tặng giải thưởng cao quý – Giải thưởng Hồ Chí Minh về KH-CN. Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhấn mạnh, 2 cụm công trình trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng của 52 đồng tác giả được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh lần này có giá trị đặc biệt to lớn, là kết quả của sự dày công nghiên cứu, cống hiến trí tuệ và tài năng của các nhà khoa học quân sự. Đây là sự ghi nhận, đánh giá cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với những chiến công thầm lặng của các nhà khoa học quân sự Việt Nam đã tận tâm, tận lực nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, thư viện, nhà máy và cả ở những nơi đầu sóng ngọn gió của Tổ quốc để có được các thành tựu KH-CN nổi bật, đóng góp quan trọng vào công cuộc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc mà các thế hệ cha anh đã hy sinh xương máu để giành được, đồng thời phục vụ tốt đời sống của nhân dân. 
MINH GIANG

Đổi mới công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng

 
Sáng 21/4, tại Ninh Bình, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình đã tổ chức Hội thảo “Liên kết, ứng dụng và đổi mới công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng”.
Tham dự Hội thảo có đại diện Lãnh đạo một số đơn vị của Bộ KH&CN, các Sở KH&CN, các Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN vùng Đồng bằng sông Hồng; các doanh nghiệp trong nước đang sản xuất nông nghiệp và đại điện các hợp tác xã; Lãnh đạo các Viện nghiên cứu, nhà khoa học và các chuyên gia công nghệ; các doanh nghiệp quốc tế đến từ Hàn Quốc, Pháp, Nhật Bản, Hà Lan.
Hội thảo được tổ chức nhằm hỗ trợ nâng cao năng lực ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp như sản xuất rau, hoa quả an toàn; trồng và chế biến dược liệu của các tỉnh Đồng bằng sông Hồng.
 
Toàn cảnh Hội thảo
 
Nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng được Chính phủ đặt ra mục tiêu là địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện các “đột phá chiến lược”, tái cấu trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả nước về phát triển kinh tế.
Trong đó, phát triển nông nghiệp công nghệ cao là chìa khoá giúp Đồng bằng sông Hồng tiếp tục thực hiện thành công chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, khẳng định vai trò là “động lực” cho sự phát triển chung của cả nước.
Tại Hội thảo, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình Hoàng Trọng Lễ nhấn mạnh, Việt Nam là nước có tiềm năng phát triển đa dạng các loại sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm về rau quả. Trong đó, khu vực Đồng bằng sông Hồng là vùng sản xuất rau lớn nhất cả nước nhưng sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, phân tán, giá thành cao, chất lượng thấp, tổn thất sau thu hoạch lớn… Vì vậy, việc hỗ trợ, nâng cao năng lực ứng dụng và đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp an toàn trong vùng Đồng bằng sông Hồng rất quan trọng.
Bà Trần Thị Hồng Lan, Phó Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ cho biết, sau gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực, trong đó KH&CN là động lực giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tăng trưởng của lĩnh vực nông nghiệp. 
Tuy nhiên, theo bà Trần Thị Hồng Lan khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao đối với phát triển kinh tế vùng là do công nghệ chậm được đổi mới đang làm hạn chế lớn đến hiệu quả, sức cạnh tranh của sản xuất và nâng cao năng suất lao động trong vùng. Hình thức tổ chức sản xuất nhỏ, thiếu liên kết các khâu, các ngành theo chuỗi giá trị làm hạn chế quá trình phát triển sản xuất hàng hóa tập trung và đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng. Cùng với đó là tỷ lệ lao động nông nghiệp còn lớn, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp là vấn đề đặt ra đối với yêu cầu về giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động và tăng thu nhập cho dân số nông nghiệp ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng. Chưa có cơ chế hợp tác liên kết 5 nhà (Nhà quản lý, Nhà khoa học, Nhà doanh nghiệp, Nhà nông và Nhà băng) trong sản xuất nông nghiệp để thúc đẩy tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả trong sản xuất ở nông thôn trong vùng.
“Với tiềm năng, thế mạnh cũng như khó khăn, thách thức đặt ra cho lĩnh vực nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn hiện nay, vai trò và tác động của KH&CN có ý nghĩa quan trọng đến phát triển kinh tế – xã hội của vùng”, bà Trần Thị Hồng Lan nhấn mạnh.
 
 
Bên lề Hội thảo các đại biểu đã tham quan gian hàng giới thiệu sản phẩm của một số Sở KH&CN
 
Tại Hội thảo, các đại biểu đã tập trung trao đổi, thảo luận một số nội dung trọng tâm nhằm tìm ra giải pháp để có thể xác định được nhu cầu ứng dụng, đổi mới công nghệ và mô hình liên kết 5 nhà, hợp tác công tư hiệu quả theo chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp. Làm sao để lựa chọn được các công nghệ, mô hình ứng dụng KH&CN có chất lượng, hiệu quả, phù hợp cho vùng Đồng bằng sông Hồng, đặc biệt đối với cây trồng và rau màu trong quá trình liên kết sản xuất theo chuỗi từ khâu chọn tạo giống, canh tác, chế biến và bảo quản sau thu hoạch. Các đại biểu đã  đề xuất cơ chế hỗ trợ phù hợp, hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy hoạt động liên kết, ứng dụng, đổi mới, chuyển giao công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng.
Trong khuôn khổ Hội thảo, từ thực tế về nhu cầu hợp tác đầu tư, nhu cầu về một số công nghệ mới và mô hình ứng dụng công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất nông nghiệp và doanh nghiệp vùng Đồng bằng sông Hồng, các chuyên gia tư vấn công nghệ đã tư vấn công nghệ và giải pháp công nghệ phù hợp cho các doanh nghiệp, hợp tác xã có nhu cầu.
 
 
Mô hình trồng rau an toàn trong nhà với ưu điểm trồng được nhiều loại cây trái mùa, không phụ thuộc vào thời tiết bên ngoài
 
Nguồn: Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ