Bộ Khoa học và Công nghệ: Nhiều kết quả ấn tượng trong Quý I năm 2021

 
Ngày 31/3, tại Hà Nội, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tổ chức Họp báo thường kỳ Quý I/2021. Tại buổi Họp báo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy và Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ đã trả lời trực tiếp nhiều vấn đề báo chí và dư luận quan tâm như: kết quả một số đề tài do Bộ KH&CN phê duyệt triển khai liên quan đến phòng, chống dịch Covid 19; thanh tra, kiểm tra chất lượng xăng dầu; vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn;…
Tham dự buổi họp báo có đại diện lãnh đạo một số đơn vị chức năng của Bộ; các đơn vị báo chí thuộc Bộ KH&CN cùng đại diện gần 60 cơ quan thông tấn, báo chí.
Tập trung xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách
 
Tại buổi họp báo, ông Nguyễn Mai Dương – Chánh Văn phòng Bộ KH&CN đã thông tin về các kết quả hoạt động của Bộ trong Quý I cũng như kế hoạch hoạt động trong Quý II. Theo đó, Bộ KH&CN đã tập trung hoàn thiện và trình Chính phủ ban hành một số chính sách, pháp luật về KH&CN; xây dựng Chương trình hành động của Bộ thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện các chương trình/chiến lược/nhiệm vụ trong lĩnh vực KH&CN giai đoạn 2021-2030; tập trung hoàn thiện hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ gửi Bộ Tư pháp để thẩm định theo quy định,…
 
Bộ chủ trì, phối hợp với các bộ liên quan xây dựng và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành theo thẩm quyền: Quyết định số 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2021 về Kế hoạch tổng thể nâng cao năng suất dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030; Quyết định số 108/2021/QĐ-TTg ngày 22/01/2021 phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 118/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030; Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 26/01/2021 ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng Trí tuệ nhân tạo đến năm 2030; Quyết định số 130/QĐ-TTg ngày 27/01/2021 ban hành Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030; Quyết định số 157/QĐ-TTg ngày 01/02/2021 ban hành Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030; Quyết định số 169/QĐ-TTg ngày 04/02/2021 ban hành Chiến lược phát triển và ứng dụng KH&CN vũ trụ đến năm 2030; Quyết định số 188/QĐ-TTg ngày 09/02/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025; Nghị định số 19/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia ban hành kèm theo Nghị định số 23/2014/NĐ-CP ngày 03/4/2014;…
 
Bên cạnh đó, Bộ KH&CN đã ban hành Chương trình hành động của Bộ thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ; Kế hoạch thực hiện Nghị định số 142/2020/NĐ-CP ngày 09/12/2020 của Chính phủ quy định việc tiến hành công việc bức xạ và hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử; Kế hoạch tổng kết Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Bộ KH&CN; Kế hoạch tổ chức thực hiện Quyết định số 108/QĐ-TTg ngày 22/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 04/2021/QĐ-TTg ngày 29/01/2021 của Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia;…
 
Triển khai thành công nhiều hoạt động lớn
 
Theo ông Nguyễn Mai Dương, Bộ KH&CN đang tiếp tục triển khai đề án “Phát triển Hệ tri thức Việt số hóa”: Hoàn thiện platform nền tảng, đang cập nhật dữ liệu cho các dự án: Nhân đạo số (inhandao.vn), Bản đồ số Việt Nam (vmap.vn), Bách khoa toàn thư mở (bktt.vn), Bản đồ an toàn covid (antoancovid.vn), Giáo dục số (igiaoduc.vn); hiện đang hoàn thiện platform các dự án: Dinh dưỡng số, Văn hóa số, Dược thư số, Công nghệ tiếng nói…. Bộ KH&CN đang phối hợp với VinBigData, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam và một số đơn vị liên quan, nghiên cứu xây dựng hệ thống Dữ liệu mở về KH&CN ứng dụng công nghệ BigData phục vụ cộng đồng nghiên cứu khoa học và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; tận dụng nền tảng công nghệ, dữ liệu và nguồn nhân lực hỗ trợ Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19.
 
Đồng thời tích cực, chủ động tham gia đóng góp và nâng cao hơn nữa vai trò của Việt Nam về KHCN&ĐMST trong các tổ chức, diễn đàn song phương và đa phương như ASEAN, APEC, APO, ASEM, IAEA, UNESCO, WIPO, hợp tác khu vực và tiểu vùng Mê Công; tổ chức các buổi làm việc trực tuyến và trực tiếp với các đối tác nước ngoài: tổ chức họp định kỳ trực tuyến về đối thoại chính sách giữa Bộ KH&CN và Bộ Nghiên cứu và Giáo dục Cộng hòa Liên bang Đức (BMBF); làm việc với Đại sứ quán Italy chuẩn bị nội dung cho sự kiện Springer Publication Event.
 
Bộ đã ban hành Công văn số 133/BKHCN-TĐC ngày 23/01/2021 hướng dẫn Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xác định nguồn gốc, truy xuất nguồn gốc cây đào, cây mai theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng (Công văn số 529/VPCP-NN ngày 21/01/2021). Trước đó, Bộ KH&CN đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cung cấp nền tảng kỹ thuật truy xuất nguồn gốc, hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ kỹ thuật truy xuất nguồn gốc trong trường hợp địa phương có nhu cầu xác định nguồn gốc của cây đào, cây mai.
 
Hỗ trợ tỉnh Bắc Giang đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn ở Nhật Bản. Đây là sản phẩm đầu tiên của Việt Nam được chính thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Nhật Bản; là sự kiện đánh dấu mốc quan trọng, mở ra nhiều cơ hội mới cho việc xuất khẩu, tiêu thụ vải thiều Việt Nam ở nhiều thị trường khác nhau. Để kịp đưa vải thiều sang Nhật Bản, Cục Sở hữu trí tuệ đã phối hợp với Sở KH&CN tỉnh Bắc Giang và Công ty Concetti tìm kiếm các phòng thí nghiệm đủ khả năng phân tích các chỉ tiêu và đánh giá các chỉ tiêu này theo yêu cầu của phía Nhật Bản để chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn có thể được bảo hộ tại Nhật Bản trong vụ vải 2021.
 
Trong Quý I/2021, Bộ KH&CN đã công bố 34 TCVN; hướng dẫn doanh nghiệp, tiếp nhận hồ sơ và xử lý cấp 701 mã doanh nghiệp; xử lý 69 hồ sơ xác nhận mã nước ngoài và ủy quyền sử dụng mã số, mã vạch. Công tác đo lường đã giải quyết các thủ tục hành chính và các công việc liên quan đến đo lường được xử lý nhanh chóng, kịp thời góp phần nâng cao chất lượng phục vụ hành chính công, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo cho các tổ chức, cá nhân trên phạm vi cả nước góp phần phát triển kinh tế – xã hội.
 
Đồng thời, đã cấp 11.787 văn bằng bảo hộ, trong đó có 869 Bằng độc quyền sáng chế, 403 Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp, 8.320 Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu quốc gia, 2.132 Đăng ký nhãn hiệu quốc tế,…
 
Cùng với đó, Bộ KH&CN đã tổ chức nhiều sự kiện quan trọng được các cơ quan thông tấn báo chí quan tâm như: Tổ chức Hội nghị tổng kết công tác năm 2020 và triển khai công tác năm 2021; Hội thảo Tham vấn về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ; Tổ chức các hội thảo xin ý kiến các chuyên gia quản lý và nhà khoa học đầu ngành về xây dựng Chiến lược phát triển KH, CN, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030; Hội nghị chuyên đề quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo; Hội nghị triển khai Chương trình Phát triển Vật lý giai đoạn 2021 – 2025; Hội thảo “Nâng cao năng lực đo lường để triển khai Đề án 996/QĐ-TTg” và Kỷ niệm ngày Đo lường Việt Nam 20/01; Hội thảo “Ứng dụng công nghệ để tối ưu hiệu quả sản xuất – Tương lai của nguồn cung ứng toàn cầu”; Tổ chức “Chương trình kết nối công nghệ trực tuyến lĩnh vực công nghiệp phụ trợ” với các đối tác thành phố Changwon, Hàn Quốc;…
 
Hỗ trợ các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng vắc xin COVID-19
 
Tại buổi họp báo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy cùng Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ đã trả lời nhiều vấn đề các nhà báo đưa ra như: kết quả một số đề tài do Bộ KH&CN phê duyệt triển khai liên quan đến phòng, chống dịch Covid -19; hỗ trợ của Bộ trong việc thương mại hóa sản phẩm vắc xin phòng Covid-19; thanh tra, kiểm tra chất lượng xăng dầu; vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý vải thiều Lục Ngạn; kế hoạch của Bộ KH&CN để các doanh nghiệp có thể tiếp cận với nguồn vốn của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia; hỗ trợ của Bộ đối với các doanh nghiệp KH&CN tham gia Đề án 844; hệ thống quan trắc và cảnh báo phóng xạ của Việt Nam;…
 
 
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy chủ trì buổi Họp báo.
 
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy nhận định: Một trong những điểm nhấn trong thời gian qua là tiến độ nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng các vắc xin Covid-19 đã tiến triển tương đối tốt. Bộ KH&CN và Bộ Y tế đã thúc đẩy cơ chế nhanh và kịp thời để hỗ trợ các nghiên cứu đó.
 
Ông Trịnh Thanh Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ KHCN các ngành kinh tế – kỹ thuật cho biết, ngay từ khi dịch COVID-19 bùng phát, vấn đề nghiên cứu vaccine phòng chống COVID-19 được đặt ra. Bộ KH&CN đã phê duyệt nhiệm vụ nghiên cứu vaccine, giao cho Công ty cổ phần công nghệ sinh học dược Nanogen nghiên cứu sản xuất.
 
Trong thời gian ngắn, công ty đã hoàn thiện quy trình công nghệ và các quy định về việc thực hiện thử nghiệm tiền lâm sàng trên động vật để bảo đảm tính an toàn, hiệu quả. Sau đó vaccine đã được Bộ Y tế cho phép thử nghiệm lâm sàng. Đến thời điểm hiện nay đã hoàn thành thử nghiệm giai đoạn 1, giai đoạn 2 đang tiến hành tiêm cho 560 người, mỗi người tiêm 2 mũi. Dự kiến ngày thứ 35 sau khi tiêm mũi thứ 2, các tình nguyện viên sẽ được lấy máu xét nghiệm để đánh giá hiệu qủa vaccine.
 
Kết quả bước đầu cho thấy khi vaccine sử dụng trên người bảo đảm tính an toàn cao, đồng thời cũng có sinh kháng thể khá mạnh, tỷ lệ tăng kháng thể cao, có người tăng 200-300 lần so với trước khi tiêm.
 
Theo kế hoạch, hết tháng 4 sẽ hoàn thành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 và đầu tháng 5 sẽ tiến hành thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3, trong đó giai đoạn 3B sẽ tiếp tục tiêm cho khoảng 10.000-15.000 người ở trong nước cũng như một số nước khác. Bộ KH&CN phối hợp với một số bộ, đơn vị đang hỗ trợ công ty tiến hành tìm kiếm đối tác nước ngoài để tham gia thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3.
 
Dự kiến trong Quý II/2021, bên cạnh việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách pháp luật về KH&CN, Bộ KH&CN sẽ tổ chức các sự kiện: Chuỗi sự kiện kỷ niệm hoạt động ngày KH&CN Việt Nam 18/5 (các sự kiện, hoạt động về KH&CN do Bộ KH&CN, các bộ, ngành, địa phương, Viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp,…tổ chức); Lễ trao Giải thưởng Tạ Quang Bửu; Lễ trao Giải thưởng Báo chí về KH&CN; Lễ trao Giải thưởng Chất lượng Quốc gia năm 2019 – 2020; Hội nghị sơ kết kết quả thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước; tổ chức các Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KH&CN đợt 6; tổ chức các Khóa họp Uỷ ban/Tiểu ban/Tổ công tác hợp tác về KH&CN với các đối tác như: Lào, Thái Lan, Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, CHLB Đức, Úc;…
 
Bài, ảnh: Nhóm PV
 
 
 

Gắn kết nhiệm vụ KHCN và đổi mới sáng tạo với các nhiệm vụ phát triển KT – XH

 
 
Sản xuất điện thoại thông minh tại Nhà máy của VinSmart giai đoạn 1 tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc
 
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ với phương châm hành động "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới, sáng tạo, khát vọng phát triển", Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai chương trình hành động gắn kết nhiệm vụ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo với các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, triển khai Nghị quyết số 01 và Nghị quyết số 02 của Chính phủ, năm 2021, Bộ phối hợp sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo với các quy định khác có liên quan như thuế, đầu tư, đất đai… tạo điều kiện thuận lợi để phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia theo định hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Bộ xây dựng các chính sách và thể chế đột phá cho việc thí điểm triển khai các sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao. Bộ hoàn thiện quy định pháp luật, đẩy nhanh tiến độ thực hiện cơ chế tự chủ và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, đẩy mạnh phát triển thị trường khoa học và công nghệ, phát triển thị trường các sản phẩm, dịch vụ ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, kinh tế chia sẻ, kinh tế số… theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp triển khai công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
 
Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ để trình Chính phủ, Quốc hội nhằm bảo hộ sở hữu trí tuệ, phát triển và khai thác tài sản trí tuệ phục vụ phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, triển khai có hiệu quả Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030. Bên cạnh đó, Bộ nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính để phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 
 
Năm 2021 là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2025. Việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ của ngành trong năm 2021 sẽ tạo tiền đề và khích lệ mạnh mẽ cho các năm tiếp theo. Vì vậy, Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ, sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
 
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ, tập trung triển khai các hướng nghiên cứu, phát triển công nghệ mới, nhất là các công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bộ thực thi có hiệu quả chính sách đào tạo, thu hút và trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ từ các nguồn sinh viên xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học uy tín ở nước ngoài. Đồng thời, Bộ thực hiện tái cơ cấu và tổ chức triển khai các Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia giai đoạn mới theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm, hướng tới các chuẩn mực phù hợp với thông lệ quốc tế, phục vụ thiết thực các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
 
Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia và tăng cường sự gắn kết, hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp để đẩy mạnh thương mại hóa kết quả nghiên cứu trong sản xuất, kinh doanh; Kết nối các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước, phát huy vai trò của hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, gắn kết với các địa phương thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo mang lại hiệu quả thiết thực trong phát triển kinh tế – xã hội các địa phương.
 
Đặc biệt, Bộ chú trọng thúc đẩy các giải pháp nhằm tăng cường xã hội hóa đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là từ doanh nghiệp. Bộ tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp về kinh tế, thương mại, đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh để kích cầu công nghệ và nhu cầu đổi mới sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp, phát huy Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp để hỗ trợ đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.
 
Năm 2021, Bộ Khoa học và Công nghệ đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, tập trung ứng dụng khoa học và công nghệ phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ mới, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ… Bộ tập trung phát triển mạnh công nghiệp chế biến, chế tạo gắn với công nghệ thông minh, chuyển đổi số để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bộ hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo nhu cầu thị trường, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ứng dụng công nghệ cao gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi giá trị; phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái số Việt với các nền tảng dùng chung, các dịch vụ, mô hình kinh doanh mới; từng bước chuyển đổi sang nền kinh tế số.
 
Cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
 
Bộ Khoa học và Công nghệ tập trung tuyên truyền, cung cấp thông tin về hệ thống đổi mới sáng tạo; kết quả đánh giá năng lực đổi mới sáng tạo, hệ thống đổi mới sáng tạo theo các bộ chỉ số của quốc tế do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thực hiện. Năm 2021, Bộ phấn đấu chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam nằm trong nhóm 3 quốc gia dẫn đầu ASEAN.
 
Để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia cũng như hỗ trợ doanh nghiệp trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, Bộ tiếp tục thực hiện rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, không hợp pháp, gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của người dân và doanh nghiệp (gồm quy định về thủ tục hành chính bao gồm cả quy định về báo cáo; quy định về yêu cầu, điều kiện trong hoạt động kinh doanh; quy định về kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp) theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 12/5/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025.
 
Đồng thời, Bộ đẩy mạnh thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính tại Bộ; Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và tạo thuận lợi thương mại, chú trọng công tác thanh tra chuyên ngành khoa học và công nghệ tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, vấn đề gây bức xúc trong đời sống xã hội; Thực thi đầy đủ trách nhiệm được phân công về kiểm tra chuyên ngành theo quy định tại Nghị định số 85/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 của Chính phủ quy định thực hiện thủ tục hành chính theo Cơ chế một cửa quốc gia, Cơ chế một cửa ASEAN, cải cách công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
 
Bên cạnh đó, Bộ tăng cường thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 trên Cổng  dịch vụ công của Bộ Khoa học và Công nghệ và Cổng Dịch vụ công quốc gia; đẩy mạnh tiến độ thanh toán điện tử; ứng dụng công nghệ thông tin để minh bạch hóa quy trình, thủ tục giải quyết hồ sơ. 
 
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh: Năm 2021, Bộ sẽ đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước phù hợp với lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo bảo đảm quản lý thống nhất, phát huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các địa phương. Đồng thời, Bộ thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của ngành, chú trọng bồi dưỡng công chức, viên chức theo các ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh.
 
Bộ Khoa học- Công nghệ Đẩy mạnh, triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; bảo vệ người phát hiện, tố giác, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, đơn vị; cơ chế kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền…; đổi mới hình thức, cách thức tuyên truyền, phổ biến về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời, Bộ thực hiện có hiệu quả Luật tiếp công dân, Luật khiếu nại, Luật tố cáo, các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là Quy định số 11-QĐ/TW ngày 18/2/2019 của Bộ Chính trị về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân.
 
Nguồn: Báo Tin tức

Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế

 
 
Đồng chí Huỳnh Thành Đạt – UVTW Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN phát biểu tại ĐH
 
Trong giai đoạn tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã trở thành một trong những xu hướng phát triển của thời đại, Việt Nam cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng hiện nay sang mô hình dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), qua đó mới có thể nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để phát triển đất nước nhanh, bền vững, độc lập, tự chủ, sớm đạt ngang tầm với các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Đó là một trong những nội dung quan trọng được nhấn mạnh trong bài tham luận của đồng chí Huỳnh Thành Đạt – Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ với chủ đề “Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”, tại phiên thảo luận của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng ngày 28/01/2021.  
 
Nhiều thành tựu ấn tượng
 
Theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, năm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị cũng như của các cấp, các ngành và toàn xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng và toàn diện. Trong thành tựu chung này có sự đóng góp quan trọng của KHCN&ĐMST ở tất cả các ngành, lĩnh vực, các địa phương trong cả nước.
 
 
Việt Nam đã thử nghiệm vắc xin Nano Covax phòng Covid-19 "made in Việt Nam”
 
 
Bộ trưởng cho biết, KH&CN Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và thành tựu nổi bật, đóng góp thiết thực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh quốc gia, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống người dân, góp phần phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp – TFP giai đoạn 2016 – 2020 đã tăng lên 45,2% so với mức 33,58% của giai đoạn 2011 – 2015 là 33,6%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016 – 2020 đã tăng lên 5,8%/năm so với giai đoạn 2011 – 2015 là 4,3%/năm; Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020.
 
Những đóng góp về KH,CN&ĐMST trong phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta đã được các tổ chức quốc tế ghi nhận. Trong bảng xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2020, Việt Nam xếp hạng 42/131 quốc gia/nền kinh tế. Việt Nam tiếp tục giữ vị trí đầu trong nhóm 29 quốc gia có thu nhập trung bình thấp được xếp hạng GII năm 2020; trong 10 nước khu vực Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 3, sau Singapore và Malaysia.
 
Trong các kết quả nổi bật của các ngành, lĩnh vực, có thể thấy có sự đóng góp của ngành KH,CN&ĐMST, Bộ trưởng khẳng định.
 
Theo đó, khoa học chính trị và kinh tế đã và đang cung cấp các luận cứ sâu sắc và kịp thời trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống chính trị; bảo vệ nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng, khẳng định con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của đất nước; đổi mới đồng bộ thể chế kinh tế, chính trị và xã hội; có nhiều đóng góp thiết thực trong việc bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước trong điều kiện mới và đề xuất các chủ trương, chính sách lớn về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
 
Khoa học xã hội và nhân văn đã phát triển hệ thống lý luận mới về vai trò của văn hóa, lịch sử, con người và các nhân tố tạo nên sự phát triển bền vững, tác động vào quá trình thay đổi nhận thức và hành vi, bồi đắp trí tuệ của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị tinh hoa của dân tộc, góp phần xây dựng các nền tảng của một xã hội văn minh và hội nhập với thế giới.
 
Khoa học tự nhiên đã có tiến bộ vượt bậc về lượng và chất trong những năm gần đây. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam tăng gần gấp ba lần so với đầu nhiệm kỳ, bình quân hằng năm tăng trên 20%. Các nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng đã tạo ra nhiều kết quả nổi bật trong lĩnh vực hóa học, cơ học, khoa học thông tin và máy tính, sinh học nông nghiệp, y sinh dược học; nhiều nhà khoa học trẻ Việt Nam đã nhận được các giải thưởng khoa học danh giá trong nước và quốc tế. Các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học trái đất và môi trường đã góp phần nâng cao năng lực dự báo, phòng tránh và giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai, biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Nghiên cứu cơ bản trong khoa học tự nhiên có đóng góp rất quan trọng trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, đặc biệt là bậc sau đại học; gia cố nền tảng, năng lực nghiên cứu và đội ngũ cán bộ khoa học tài năng trong các trường đại học, viện nghiên cứu. Một số trường đại học của Việt Nam đã đứng trong tốp 1.000 trường đại học xếp hạng cao trên thế giới. Với sự đầu tư đúng hướng của Nhà nước, chúng ta đã dần tạo lập được môi trường học thuật tiên tiến và lành mạnh trong nước, thu hút nhiều nhà khoa học trẻ được đào tạo ở nước ngoài về nước tiếp tục phát triển các trường phái nghiên cứu tiên phong, hình thành được một số tập thể khoa học mạnh có trình độ quốc tế. Một số lĩnh vực khoa học tự nhiên như: Toán học, Vật lý, Hóa học tiếp tục giữ thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.
 
Khoa học kỹ thuật và công nghệ đã phát triển lên một tầm cao mới về năng lực và trình độ nghiên cứu, đóng góp ngày càng hiệu quả hơn cho phát triển kinh tế – xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Các công nghệ chủ chốt của Cách mạng công nghiệp 4.0 được nhanh chóng tiếp thu, thúc đẩy ứng dụng trong các chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trình độ công nghệ của nền sản xuất được cải thiện và nâng cao đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá phục vụ trong nước và xuất khẩu.
 
Cũng theo Bộ trưởng, trong lĩnh vực nông nghiệp, các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được các giống cây trồng mới có năng suất và chất lượng vượt trội so với khu vực và thế giới. Nhiều tiến bộ kỹ thuật và quy trình công nghệ mới được ứng dụng rộng rãi trong trồng trọt, chăn nuôi, bảo quản sau thu hoạch và chế biến, mang lại hiệu quả kinh tế cao. KH&CN đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, 38% sản xuất giống cây trồng, vật nuôi, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hồ tiêu, cao su, điều nhân.
 
Cùng với đó, trong công nghiệp và dịch vụ, các chuyên gia công nghệ trong nước đã đủ năng lực thiết kế, chế tạo các thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng, giàn khoan dầu khí tự nâng ở vùng nước sâu; thiết kế, thi công các loại cầu vượt sông khẩu độ lớn, hầm đường bộ, nhà cao tầng, nhà máy nhiệt điện, thủy điện quy mô lớn. Công nghệ thông tin và truyền thông thế hệ mới, công nghệ số được ứng dụng rộng trong các ngành dịch vụ ngân hàng, hàng không, bưu chính viễn thông. Nhiều công nghệ cao như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, mạng di động 5G đã và đang được phát triển. Hệ tri thức Việt số hóa – hệ sinh thái số do người Việt làm chủ, có năng lực tích hợp mọi tri thức, thông tin, dữ liệu công cộng, tài nguyên số của Việt Nam, sẽ được đưa vào sử dụng, phục vụ người dân và doanh nghiệp trong thời gian tới.
 
Trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhiều công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng trong chẩn đoán và điều trị, giúp nâng cao rõ rệt chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, giảm chi phí cho người dân và xã hội. Việt Nam nằm trong tốp 3 nước ASEAN và 43 nước trên thế giới tự sản xuất được vắc xin, rất thành công trong công tác phòng ngừa và thanh toán các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao như ghép tạng và đa tạng, thụ tinh nhân tạo, ứng dụng tế bào gốc và kỹ thuật sinh học phân tử,… Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, chúng ta đã kịp thời đặt hàng nghiên cứu, phát triển kit xét nghiệm nhanh, hỗ trợ truy vết người tiếp xúc, thiết kế, sản xuất robot, máy thở, phác đồ điều trị và kháng thể đơn dòng để sản xuất thuốc đặc hiệu điều trị Covid-19. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu giúp Việt Nam kiểm soát và khống chế dịch bệnh, là minh chứng rõ nhất cho hiệu quả của sự đầu tư kiên trì và chiến lược cho tiềm lực KH&CN nước nhà trong nhiều năm qua.
 
 
Đầu tư cho KH&CN những năm qua đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của doanh nghiệp KH&CN
 
 
Trong quốc phòng và an ninh quốc gia, đã thiết kế, chế tạo mới và cải tiến được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. 85% vũ khí trang bị kỹ thuật của Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng là kết quả nghiên cứu trong nước, đáp ứng các yêu cầu tác chiến.
 
Tạo bứt phá về năng suất, chất lượng từ KHCN và đổi mới sáng tạo
 
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho rằng, thành tựu về KH,CN&ĐMST trong năm năm qua đã khẳng định sự đúng đắn của đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong phát triển KH,CN&ĐMST và là kết quả của sự nỗ lực chung của toàn hệ thống chính trị với sự tham gia và phối hợp tích cực, chủ động của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp. Vai trò, sứ mệnh của KH,CN&ĐMST đã được khẳng định là động lực phát triển kinh tế – xã hội trong nhiều văn kiện quan trọng như Cương lĩnh phát triển đất nước, các văn kiện, nghị quyết của Đảng, các đạo luật.
 
Theo mục tiêu đề ra, đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và phấn đấu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Với mục tiêu này thì việc tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và lao động như trước đây sẽ không còn phù hợp bởi mô hình này còn rất ít dư địa, có xu hướng chững lại và có nguy cơ đưa nước ta rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các quốc gia trên thế giới.
 
“Bởi vậy, trong giai đoạn tới, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã trở thành một trong những xu hướng phát triển của thời đại, Việt Nam cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng hiện nay sang mô hình dựa trên KH,CN&ĐMST, qua đó mới có thể nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế để phát triển đất nước nhanh, bền vững, độc lập, tự chủ, sớm đạt ngang tầm với các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới”, đồng chí Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh.
 
Trong dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2021 – 2030, các nội dung KH,CN&ĐMST được thể hiện đậm nét, đồng bộ, hệ thống, xuyên suốt từ chủ đề của Chiến lược, đến quan điểm phát triển, mục tiêu phát triển, đột phá chiến lược và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển, đảm bảo được tính kế thừa, phát triển từ các thành công và cả từ các hạn chế trong giai đoạn trước đây và có tính đến các bối cảnh mới ở trong nước và quốc tế. Theo Bộ trưởng, quán triệt các nội dung KH,CN&ĐMST đã được nêu trong dự thảo Chiến lược phát triển KT – XH 10 năm 2021 – 2030, trong thời gian tới, ngành KH&CN sẽ tập trung làm tốt các công việc sau:
 
Thứ nhất, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động ĐMST như là cầu nối để KH&CN phục vụ trực tiếp phát triển kinh tế – xã hội, qua đó tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, viện nghiên cứu và trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh;
 
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về KH,CN&ĐMST, trong đó chú trọng đến việc xây dựng thể chế vượt trội và chấp nhận rủi ro trong hoạt động KH,CN&ĐMST; cần có nỗ lực toàn diện và đồng bộ để tháo gỡ các rào cản trong hệ thống luật pháp và chính sách để KH,CN&ĐMST phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là các rào cản, vướng mắc từ các cơ chế, chính sách kinh tế, đầu tư, thương mại; Tăng cường nguồn lực xã hội đầu tư cho KH,CN&ĐMST nhất là từ doanh nghiệp;
 
Thứ ba, đặc biệt chú trọng phát triển khoa học xã hội và nhân văn; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ khoa học xã hội và nhân văn với khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ phục vụ phát triển nhanh và bền vững đất nước; Tiếp tục đầu tư để phát triển, hiện đại hoá hạ tầng và tiềm lực KH,CN&ĐMST;
 
Thứ tư, thúc đẩy phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; phát triển mô hình kinh doanh mới, kinh tế số, xã hội số; nâng cao năng lực đổi mới, hấp thụ và làm chủ công nghệ của doanh nghiệp; tập trung phát triển công nghệ cao, công nghệ chủ chốt của cuộc Cách mạng lần thứ tư có khả năng ứng dụng cao;
 
Thứ năm, thực hiện tái cơ cấu các chương trình, nhiệm vụ KH&CN gắn với nhu cầu xã hội, chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng; Đẩy mạnh phát triển thị trường KH&CN gắn với xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về KH&CN. Đẩy mạnh hội nhập và hợp tác quốc tế về KH,CN&ĐMST nhằm phát huy thế mạnh của Việt Nam và huy động tối đa nguồn lực quốc tế;
 
Thứ sáu, chủ động, tích cực phối hợp để phát huy vai trò quan trọng của các ngành, các cấp, các địa phương trong việc thúc đẩy ứng dụng và phát triển KH,CN&ĐMST đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội ở các ngành các cấp, các địa phương.
 
 
 
“Để KH,CN&ĐMST thật sự là lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực nâng cao năng suất lao động chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển KT-XH thì không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của ngành KH,CN&ĐMST mà còn cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với sự chung tay, góp sức của tất cả các ngành, các cấp, các địa phương, doanh nghiệp và toàn xã hội trong ứng dụng và phát triển KH,CN&ĐMST”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu.
 
Bộ trưởng gửi lời cảm ơn và kính mong tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội, sự hỗ trợ, hợp tác của các bộ, ngành, các địa phương, các Viện nghiên cứu, các Trường đại học, các doanh nghiệp và của toàn xã hội để giúp cho ngành hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.  
 
“Với những thành tựu đạt được của đất nước trong những năm qua, với thế và lực cũng như vị thế mới của Việt Nam, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và bản lĩnh của Đảng ta, chúng ta hoàn toàn tin tưởng đất nước chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh", Bộ trưởng khẳng định.
 
 Bài, ảnh: Hạnh Nguyên

Nền tảng thương mại điện tử Nông sản đoạt giải nhất cuộc thi khởi nghiệp sáng tạo Startup Hunt 2020

 
"Nền tảng thương mại điện tử Nông sản" nhận giải Nhất cuộc thi Startup Hunt 2020
 
Vượt qua 300 ý tưởng và dự án, nền tảng thương mại điện tử nông sản FoodMap.Asia giành giải Nhất cuộc thi khởi nghiệp sáng tạo Startup Hunt 2020, nhận giải thưởng 100 triệu đồng.
Sáng 27/11, chung kết cuộc thi khởi nghiệp Startup Hunt 2020 với chủ đề “Chuyển đổi số nông nghiệp” được diễn ra tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội trong khuôn khổ chương trình Techfest VietNam 2020. Cuộc thi do Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam phối hợp cùng với Văn phòng Đề án 844 (Bộ Khoa học và Công nghệ), Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức. 
Năm dự án được lọt vào vòng chung kết và có màn thuyết trình trực tiếp về sản phẩm dự án và thuyết trình. Kết quả chung cuộc, dự án nền tảng thương mại điện tử nông sản FoodMap.Asia giành giải Nhất cuộc thi, nhận giải thưởng 100 triệu đồng. Đây là nền tảng giúp kết nối hộ nông dân nhỏ và vừa đến khách sạn và khu dân cư để cung cấp các thực phẩm nông nghiệp, giải quyết được bài toán đầu ra sản phẩm cho người sản xuất một cách chắc chắn và ổn định. 
 
Dự án đi sâu vào hỗ trợ nhà sản xuất, người nông dân xây dựng câu chuyện và quy trình sản xuất, giúp các sản phẩm ổn định về chất lượng, nâng cao giá trị nông sản Việt. Tính tới thời điểm hiện tại, FoodMap.Asia đã liên kết và bán hàng cho hơn 300 nhà sản xuất, hộ nông dân với gần 1.000 loại nông sản đến từ hơn 40 tỉnh thành khắp cả nước. 
 
Giải Nhì được trao cho dự án Digital Kingdom với giải pháp truy xuất nguồn gốc chất lượng chuỗi cung ứng áp dụng công nghệ Blockchain, nhận giải thưởng 50 triệu đồng. Dự án NATA với giải pháp xử lý bùn thải chế biến thuỷ sản trồng dưa lưới và dâu tây hiệu quả, giành giải Ba trị giá 20 triệu đồng. 
 
Giải Triển Vọng được trao cho dự án FAGO với nhật ký điện tử trang trại hỗ trợ chăn nuôi và dự án An Nhàn với ứng dụng quản lý nông nghiệp, tiết kiệm thời gian quản lý hàng hóa trong các đại lý vật tư phục vụ nông nghiệp. Hai dự án Triển Vọng nhận giải thưởng 10 triệu đồng. 
 
Phát biểu tại chung kết, ông Nguyễn Đức Tùng, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ Thanh niên Khởi nghiệp cho biết, với chủ đề chuyển đổi số ngành nông nghiệp năm nay, những dự án xuất sắc tại cuộc thi được kỳ vọng sẽ truyền cảm hứng khởi nghiệp tới thanh niên Việt Nam, tạo ra những giải pháp và giá trị mới, đóng góp chung cho việc tái cấu trúc ngành nông nghiệp Việt Nam thông qua các hoạt động đầu tư, quảng bá và tìm kiếm đối tác. Truyền cảm hứng khởi nghiệp, 
 
Startup Hunt là chương trình do Trung ương Hội Liên hiệp Thanh Niên Việt Nam tổ chức với mục đích khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong thanh niên đã và đang có nhu cầu khởi nghiệp, tạo cơ hội thanh niên Việt Nam phát huy tinh thần sáng tạo, áp dụng những kiến thức đã lĩnh hội để đưa ra những giải pháp hợp lý và những ý tưởng sáng tạo cho nền nông nghiệp Việt Nam trong công cuộc chuyển đổi số. 
 
Tin, ảnh: Hà Chi

Thúc đẩy chuyển giao và đổi mới công nghệ

 
Tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ
 
Năm 2030, số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 20%/1 năm. 100% các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm hình thành tổ chức nghiên cứu và phát triển.
Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 118/QĐ-TTg ngày 25/01/2021 ban hành Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030 (Chương trình).
 
Sẽ tăng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ
Mục tiêu của Chương trình nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ, tạo ra các sản phẩm có chất lượng, có giá trị gia tăng cao; thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển nông nghiệp ở vùng nông thôn, miền núi, địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ chuyển giao, đổi mới, hoàn thiện công nghệ.
 
Theo đó, mục tiêu đến năm 2025 số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/1 năm. 100% các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm trực tiếp tham gia Chương trình hình thành các tổ chức nghiên cứu và phát triển; có từ 3 đến 5 ngành sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm làm chủ hoặc tạo ra được công nghệ tiên tiến trong chuỗi giá trị để sản xuất ra các sản phẩm, có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường. 
 
Thúc đẩy tăng năng suất lao động trên cơ sở đổi mới công nghệ, đặc biệt trong các ngành, lĩnh vực sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ cao; các doanh nghiệp trực tiếp tham gia Chương trình có năng suất lao động cao hơn ít nhất 1,5 lần năng suất lao động khi chưa đổi mới công nghệ.
 
Khoảng 5.000 kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp được tập huấn, đào tạo về quản lý công nghệ, quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ mới ở 10 lĩnh vực chủ lực, trọng điểm thông qua hình thức tại chỗ và trực tuyến.
 
Hình thành tại mỗi vùng kinh tế ít nhất một mô hình nghiên cứu ứng dụng chuyển giao công nghệ điển hình phù hợp với điều kiện đặc thù của địa bàn để triển khai nhân rộng.
 
Đến năm 2030, số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 20%/1 năm. 100% các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm hình thành tổ chức nghiên cứu và phát triển; có từ 8 đến 10 ngành sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm làm chủ hoặc tạo ra được công nghệ tiên tiến trong chuỗi giá trị để sản xuất ra các sản phẩm, có giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao trên thị trường. 
 
Các doanh nghiệp trực tiếp tham gia Chương trình có năng suất lao động cao hơn ít nhất hai lần năng suất lao động khi chưa đổi mới công nghệ.
 
Khoảng 1.000 kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp được tập huấn, đào tạo về quản lý công nghệ, quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ mới ở 15 lĩnh vực chủ lực, trọng điểm thông qua hình thức tại chỗ và trực tuyến.
 
Hình thành tại mỗi vùng kinh tế ít nhất hai mô hình nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ điển hình phù hợp với điều kiện đặc thù của địa bàn để triển khai nhân rộng.
 
Giải pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ
 
Quyết định nêu rõ có 7 nhiệm vụ và giải pháp để thực hiện Chương trình gồm: Hoàn thiện thể chế pháp lý thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ; Xây dựng, triển khai lộ trình nâng cao năng lực công nghệ quốc gia; Nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ công nghệ tiên tiến trong việc sản xuất các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị và có tính cạnh tranh cao trên thị trường; Hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới công nghệ; Đẩy mạnh hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; Tăng cường nguồn lực tài chính thực hiện Chương trình; Đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
 
 
 
Doanh nghiệp cần đổi mới thiết bị, dây chuyền, quy trình công nghệ tạo ra các sản phẩm chủ lực
 
Cụ thể, hoàn thiện thể chế pháp lý thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ gồm: Nghiên cứu đề xuất hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và thúc đẩy hình thành các tổ chức nghiên cứu và phát triển trong các doanh nghiệp; Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn để đánh giá việc thực hiện đổi mới công nghệ và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp: bổ sung các hệ thống thống kê, chỉ tiêu đánh giá hoạt động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.
 
Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức của xã hội, tổ chức và doanh nghiệp đối với hoạt động đổi mới công nghệ; triển khai các hoạt động tôn vinh, khen thưởng các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động đổi mới công nghệ là một trong những nội dung để xây dựng, triển khai lộ trình nâng cao năng lực công nghệ quốc gia. Cùng với đó là: xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu hiện trạng, trình độ và năng lực công nghệ trong các ngành, lĩnh vực; xây dựng, cập nhật cơ sở dữ liệu về công nghệ mới, công nghệ tiên tiến và lực lượng chuyên gia công nghệ phục vụ doanh nghiệp khai thác sử dụng và đổi mới công nghệ…
 
Để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao tính năng, chất lượng sản phẩm, đổi mới thiết bị, dây chuyền, quy trình công nghệ tạo ra các sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm cần thực hiện các nghiên cứu, ứng dụng, làm chủ các công nghệ tiên tiến.
 
Tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, sẽ ứng dụng công nghệ tiên tiến, tự động hóa các mô hình công tác nông nghiệp thông minh trong các lĩnh vực công nghệ sau thu hoạch và chế biến sản phẩm nông nghiệp. Bên cạnh đó là cải tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao và cạnh tranh được với giống nhập khẩu; nâng cao công nghệ tạo giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng và kiểm soát dịch bệnh ở quy mô lớn… 
 
Bài, ảnh: Lê Hà

Kết nối cung cầu công nghệ 4.0 – Nhà khoa học và doanh nghiệp

 
TS. Nguyễn Trường Thắng, Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin phát biểu khai mạc
 
Đó là chủ đề Tọa đàm do Viện Công Nghệ Thông tin, Viện Vật lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã phối hợp với một số đơn vị tổ chức diễn ra ngày 16/12/2020.
Tham gia tọa đàm có các nhà nghiên cứu, đại diện các doanh nghiệp sinh viên các trường Đại học. Tọa đàm “Kết nối cung cầu công nghệ 4.0 – Nhà khoa học và doanh nghiệp” được tổ chức nhằm tạo cầu nối giữa đơn vị nghiên cứu, các nhà khoa học và doanh nghiệp. Tạo cơ hội để các nhà khoa học chia sẻ với các nhà quản lý doanh nghiệp để đặt ra những vấn đề, xu thế và tìm giải pháp thúc đẩy sự phát triển, cùng nhau tìm kiếm những cơ hội hợp tác.
 
Các chủ đề xoay quanh buổi tọa đàm gồm: Phát triển nền tảng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) cho hệ sinh thái ngành Fintech; Giải pháp ứng dụng Machine Vision với công nghệ Deep Learning cho công nghiệp sản xuất màn hình hiển thị; Ứng dụng công nghệ xử lý ảnh trong Smart City; Giám sát điều khiển hệ thống chiếu sáng công cộng trong đô thị tại Việt Nam; Phát triển robot tự hành thông minh ứng dụng trí tuệ nhân tạo và định hướng ứng dụng; Phát triển hệ thống quan trắc tự động trên nền IoT và định hướng ứng dụng.
 
Phát biểu khai mạc buổi Tọa đàm, TS. Nguyễn Trường Thắng, Viện Trưởng Viện Công nghệ Thông tin cho biết, 3 chủ thể chính để tạo sự phát triển gồm Nhà nước – Doanh nghiệp – Đơn vị nghiên cứu. Trong đó Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều hành; 2 chủ thể còn lại tạo ra động lực phát triển. Nếu các đơn vị nghiên cứu (bao gồm cả các trường đại học) có nhiệm vụ tìm tòi, sáng tạo, đặt ra các vấn đề có tính đột phát thì doanh nghiệp sẽ sử dụng các kết quả nghiên cứu đó để hiện thực hóa, tạo ra sản phẩm cho xã hội. TS. Thắng cũng đặt ra vấn đề trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0, áp lực chuyển đổi số tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đó công nghệ thông tin là lĩnh vực phải đi tiên phong. TS. Thắng đặt kỳ vọng các đại biểu tham gia buổi buổi Tọa đàm sẽ cùng nhau đặt và giải đáp các bài toán về ứng dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp để thúc đẩy sự phát triển.
 
 
PGS.TS. Hà Quý Quỳnh, Trưởng Ban Ứng dụng và Triển khai Công nghệ, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam
 
PGS.TS. Hà Quý Quỳnh, Trưởng Ban Ứng dụng và Triển khai Công nghệ, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam cho biết, Ban Ứng dụng và triển khai công nghệ có 4 hướng nhiệm vụ chính, trong đó có 2 nhiệm vụ có sự tham gia của doanh nghiệp. Nhiệm vụ chính của Ban là đưa kết quả nghiên cứu vào doanh nghiệp, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp. PGS.TS. Hà Quý Quỳnh hi vọng thời gian tới các kết quả nghiên cứu của các đơn vị trong Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam được đưa ra ứng dụng thực tiễn tại các doanh nghiệp.
 
Trình bày báo cáo về “Phát triển nền tảng công nghệ AI cho hệ sinh thái ngành tài chính – Ngân hàng (Fintech)” TS. Nguyễn Việt Anh, Viện Công nghệ Thông tin nhận định, Tài chính – Ngân hàng là lĩnh vực có nhu cầu ứng dụng công nghệ sớm và lớn nhất. Tất cả các giao dịch của Tài chính – Ngân hàng đều cần ứng dụng công nghệ. Với sự phát triển của công nghệ, có những doanh nghiệp hoạt động tài chính tuy mới ra đời nhưng đã có số vốn lớn hơn cả những doanh nghiệp có tuổi đời hàng trăm năm. Việc ứng dụng công nghệ vào ngành Tài chính – Ngân hàng đã và đang được tự động hóa ở mức cao nhất và xu thế ứng dụng AI đang được đẩy mạnh.
 
Giới thiệu về “Giải pháp ứng dụng Machine Vision với công nghệ Deep Learning cho công nghiệp sản xuất màn hình hiển thị”. KS. Nguyễn Anh Sơn, Công ty Cognex (Mỹ) cho biết, trên một thiết bị điện thoại thông minh thì màn hình chính là linh kiện có giá thành cao nhất, chiếm 40-50% giá trị sản phẩm. Cấu trúc của màn hình gồm nhiều lớp ghép lại với nhau với độ chính xác cao, trong quá trình sản xuất nếu xảy ra sai sót trong việc ghép các lớp này sẽ gây thiệt hại rất lớn. Do vậy, việc kiểm soát và cân chỉnh để tránh sai sót là việc bắt buộc phải làm. Hiện tại, các hãng sản xuất lớn mỗi ngày sản xuất hàng triệu sản phẩm với độ chính xác cỡ nano mét thì việc kiểm soát bằng mắt thường là không thể. Công ty Cognex là doanh nghiệp chuyên nghiên cứu việc phát triển ứng dụng Machine Vision để giám sát, cân chỉnh sai số trong quá trình sản xuất màn hình và đã được một số công ty lớn như Apple, Samsung… ứng dụng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, gần đây Cognex đã tích cực áp dụng AI Deep Learning để nâng cao độ chính xác trong việc nhận dạng từ đó tăng hiệu quả giám sát.
 
Công nghệ xử lý ảnh đã và đang được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực, một trong số đó là để xây dựng SmartCity. TS. Ngô Ngọc Thành, Công ty Cổ phần Beet Innovators giới thiệu công nghệ nhận diện khuôn mặt phục vụ các công tác như: giám sát an ninh, chấm công, điểm danh… Một trong số vấn đề rủi do trong công nghệ nhận diện khuôn mặt là bị “fake” tức là phải phân biệt được giữa khuôn mặt của người thật với ảnh hoặc tượng. Sản phẩm do nhóm TS. Thành nghiên cứu đã khắc phục được nhược điểm này, bên cạnh đó Hệ thống phần mềm, thiết bị do Công ty cổ phần Beet Inovators xây dựng còn có khả năng chia sẻ tránh việc phải tạo lập hồ sơ nhiều lần cho cùng một người. Ngoài công nghệ nhận diện khuôn mặt, TS. Thành cũng giới thiệu công nghệ nhận diện biển số xe và một số công nghệ nhận diện khác ứng phục vụ công tác giám sát, an ninh cũng như xác thực thông tin.
 
 
Các đại biểu tham dự tọa đàm chụp ảnh lưu niệm
 
ThS. Ngô Minh Luân giới thiệu hệ thống “Giám sát điều khiển hệ thống chiếu sáng công cộng trong đô thị tại Việt Nam” của Công ty Cổ phần kỹ thuật công nghệ Ecotek. Đây là một hệ thống bao gồm nhiều thành phần như thiết bị chiếu sáng,dây dẫn, tủ điều khiển và phần mềm điều khiển trung tâm. Hệ thống gồm các chức năng, đặc điểm nổi bật như: Công nghệ, thiết bị hiện tại, thông minh; Quản lý vận hành thông minh, tiết kiệm; Có khả năng mở rộng một cách linh hoạt; Hoàn toàn chủ động về công nghệ, thiết bị; Giám sát, cảnh báo trực quan, kịp thời, chính xác; hỗ trợ tổng hợp, phân tích đánh giá một cách toàn diện. Hiện tại, hệ thống đang được ứng dụng tại rất nhiều đơn vị như các Trung tâm sát hạch lái xe, Trung tâm điều khiển hệ thống chiếu sáng tại một số thành phố lớn,…
 
Ngoài các báo cáo đến từ các doanh nghiệp đã ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn, Viện Công nghệ thông tin cũng giới thiệu sản phẩm “Robot tự hành thông minh ứng dụng trí tuệ nhân tạo” và “Hệ thống quan trắc tự động trên nền IoT”.
 
Tại mỗi chủ đề, các đại biểu tham gia Tọa đàm đều đặt câu hỏi thảo luận, trao đổi như: Khả năng ứng dụng thực tế, sản xuất tại Việt Nam ra sao; giá thành sản phẩm khi hoàn thiện; tính bảo mật thông tin, dữ liệu; khả năng và chi phí nâng cấp.
 
Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất luôn là vấn đề khiến nhà khoa học trăn trở. Kết quả nghiên cứu khoa học dù có tốt đến đâu nhưng nếu không ứng dụng được vào thực tế thì cũng không có nhiều ý nghĩa.
 
Buổi tọa đàm được tổ chức đã tháo gỡ được phần nào đó những vướng mắc trong việc đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Với kỳ vọng những kết quả nghiên cứu sẽ ngày càng được ứng dụng một cách rộng rãi hơn nữa, tạo ra nhiều sản phẩm “Made in Vietnam”, giảm giá thành sản xuất để từ đó khẳng định vị thế của nền khoa học, công nghệ nước nhà trên trường quốc tế và khu vực.
 
Bài, ảnh: PV

Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử

 
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới.
 
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Ảnh VGP
 
Tại phiên khai mạc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, sáng 26/1, tổng kết nhiệm kỳ Đại hội XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, 5 năm qua, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của dịch bệnh và thiên tai liên tiếp xảy ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
 
Củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới
 
Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 5,9%). Nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã được tập trung giải quyết và đạt những kết quả bước đầu. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc. Lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp. Các cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm và có bước được cải thiện. Kỷ luật, kỷ cương tài chính-ngân sách được tăng cường. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, hiệu quả sử dụng được nâng lên. Cán cân thương mại được cải thiện, xuất khẩu tăng nhanh.
 
Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết quả quan trọng. Môi trường đầu tư kinh doanh, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên.
 
Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam… có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.
 
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, được tiến hành toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nhiều vấn đề phức tạp được đặt ra và thực hiện từ những năm trước, nhưng hiệu quả còn thấp, trong nhiệm kỳ này đã có chuyển biến tích cực.
 
Công tác kiểm tra, giám sát và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được triển khai quyết liệt, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá và đạt những kết quả cụ thể, rõ rệt.
 
Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn.
 
Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Việt Nam đã coi trọng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh, chủ động xử lý thành công các tình huống, không để bị động, bất ngờ. An ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.
 
Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia-dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời đóng góp tích cực, có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và khu vực, được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế của Đảng, Nhà nước, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
 
Điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi "mục tiêu kép"
 
Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế – xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.
 
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch COVID-19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020.
 
Việt Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi "mục tiêu kép" vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch COVID-19 thành công; vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.
 
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới.
 
Nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi
 
Đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là ý chí, quyết tâm cao. Sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy đảng trong việc cụ thể hóa, triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, nhất là trong những lĩnh vực quan trọng, then chốt. Sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ và các cấp chính quyền. Sự đổi mới phù hợp, đúng đắn về nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.
 
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991), lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá.
 
“Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định.
 
Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạnh Việt Nam.
 
Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
 
Liên kết nguồn tin: http://baochinhphu.vn/Thoi-su/Nhung-thanh-tuu-to-lon-co-y-nghia-lich-su/420771.vgp
 
Nguồn: Báo điện tử Chính phủ

Ông Huỳnh Thành Đạt: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong xuất bản

 
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật trong 60 năm đã khẳng định vị trí với độc giả, các nhà khoa học, tuy nhiên, giai đoạn tới cần đổi mới công nghệ xuất bản.
 
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt ghi nhận những đóng góp của Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật trong lễ Kỷ niệm 60 năm ngày thành lập, sáng 24/12.
 
Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, ngày từ khi thành lập, Nhà xuất bản đã vượt qua nhiều khó khăn, bám sát nhiệm vụ được giao, tổ chức biên tập xuất bản các ấn phẩm phục vụ công tác quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ.
 
"Minh chứng cụ thể nhất cho kết quả đạt được của nhà xuất bản là sự tin tưởng, gắn bó của các nhà khoa học, cộng tác viên, các tác giả. Sự ủng hộ của đông đảo độc giả trong và ngoài nước", Bộ trưởng nói.
 
 
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại sự kiện. Ảnh: Gia Chính.
Bộ trưởng đưa ra ba nhiệm vụ cho Nhà xuất bản trong giai đoạn mới. Thứ nhất, tập trung nâng cao chất lượng sách xuất bản, chú trọng các mảng đề tài giới thiệu kiến thức khoa học hiện đại, phát minh mới, có tính ứng dụng cao. Sách về đổi mới sáng tạo, sách phổ biến khoa học kỹ thuật cho các vùng miền.
 
"Chú trọng cách viết, hình thức trình bày để thu hút độc giả. Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế về xuất bản sách khoa học, hợp tác xuất bản với các đối tác chiến lược, các nước tiên tiến", Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nói và cho rằng cần mở rộng mạng lưới kết nối cộng đồng các nhà khoa học.
 
Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ tặng bằng khen cho Nhà xuất bản. Ảnh:Gia Chính
 
Thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng công nghệ số trong xuất bản, đầu tư xuất bản sách điện tử, sách đa phương tiện phù hợp với xu thế hiện đại. "Đây là lĩnh vực mới nhiều khó khăn, Nhà xuất bản cần xây dựng lộ trình, kế hoạch và có bước đi phù hợp để chuyển đổi hoạt động xuất bản, không để tụt hậu, lạc hậu".
 
"Chú trọng kiện toàn bộ máy tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nòng cốt là xây dựng đội ngũ biên tập viên giỏi về chuyên môn, vững vàng về nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp", Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nói về nhiệm vụ thứ ba.
 
Ông Bùi Minh Cường, Quyền Giám đốc Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật cho biết tác động của dịch Covid-19 khiến doanh thu của ngành xuất bản sụt giảm, làm cho ngành xuất bản vốn đã nhỏ, càng khó khăn hơn.
 
 
Ông Bùi Minh Cường, Quyền Giám đốc Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Ảnh:Gia Chính
 
"Thực tế đó đã thúc đẩy chuyển dịch từ hình thức xuất bản truyền thống sang nhiều hình thức như, xuất bản điện tử, phát triển phương tiện nghe, nhìn, đọc sách trên mạng di động", ông Cường nói và cho biết hoạt động của biên tập viên, nhà phát hành cũng đã thay đổi theo hướng tích cực hơn.
 
Nhà xuất bản đề ra năm giải pháp, thứ nhất xây dựng, hoàn thiện cơ chế, quy định, quy chế về các lục vực quản lý, quy chế làm việc nội bộ tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.
 
"Xây dựng kế hoạch đề tài dài hạn và kế hoạch hằng năm đối với tất cả các loại sách thông qua sự phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ", ông Cường nói về giải pháp thứ hai.
 
Thứ ba là tăng cường mạng lưới cộng tác viên bằng cơ chế nhuận bút thoả đáng. Đồng thời hợp tác với đơn vị xuất bản khác trong và ngoài nước.
 
Lãnh đạo Nhà xuất bản cũng khẳng định sẽ kiện toàn bộ máy tổ chức theo hướng tinh gọn và xây dựng kế hoạch truyền thông, quảng bá các xuất bản phẩm theo hướng chuyên nghiệp hóa. "Nhà xuất bản sẽ mở rộng hệ thống phát hành với mạng lưới bán buôn và bán lẻ, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu thị trường, khai thác đề tài hay, số lượng in lớn", ông Cường nói.
 
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập ông Phạm Ngọc Khôi, nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Nhà xuất bản được tặng Bằng khen của Bộ trưởng và nhiều cá nhân được tặng kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp khoa học và công nghệ".
 
 
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy tặng kỷ niệm chương "Vì sự nghiệp khoa học và công nghệ" cho các cá nhân xuất sắc. Ảnh: Gia Chính.
 
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật thành lập ngày 9/6/1960. Trải qua 60 năm phát triển, nhà xuất bản đã cho ra đời gần 20.000 đầu sách với hàng tỷ bản in tăng vượt trội so với thời điểm năm 1960 là 26 đầu sách và hàng nghìn trang in.
 
Trong hợp tác quốc tế, Nhà xuất bản và KisStartup đã phát triển Không gian đọc Đổi mới sáng tạo – Innovation Read Space, giới thiệu những cuốn sách có chất lượng về đổi mới sáng tạo từ cộng đồng. Theo mô hình này KisStartup sẽ giới thiệu những cuốn sách hay với NXB, cùng chọn lọc, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật mua bản quyền, tổ chức biên tập và xuất bản. Nhóm dịch giả gồm những dịch giả có uy tín, đảm bảo quy trình dịch thuật sẽ cùng dịch và đảm bảo chất lượng của những cuốn sách này.
 
Thông qua mô hình này có thể thu hút được cộng đồng những chủ doanh nghiệp, tổ chức, những tài năng trẻ về công nghệ, khoa học kỹ thuật, kinh doanh tham gia và tương tác về những cuốn sách được giới thiệu trong Không gian đọc Đổi mới sáng tạo.
 
Gia Chính 

Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật đang nắm lấy cơ hội đổi mới

 
(VietQ.vn) – Trong suốt sáu thập kỷ qua, tùy theo từng thời kỳ lịch sử với nhiệm vụ của mình, các thế hệ cán bộ Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã xuất bản những bộ sách, mảng sách, đề tài hữu ích, phục vụ sự phát triển KH&CN.
 
Ngày nay, trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới và khu vực, đổi mới sáng tạo đã trở thành một triết lý tiến bộ về tư duy và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
 
Sự thay đổi lớn trong cơ cấu xã hội, kinh tế dẫn đến một cách sống mới, một xã hội với những vấn đề mới dẫn đến việc lưu trữ thông tin một cách có ý thức và hệ thống. Đổi mới sáng tạo công nghệ là thông qua việc tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức, biến tri thức thành gía trị. Trong dòng chảy đó, xuất bản sách KH&CN là một trong những công cụ chính cho việc truyền bá, phổ biến kiến thức, đáp ứng nhu cầu giải quyết những vấn đề mới, trước những thách thức của xã hội hiện đại.
 
Những cuốn sách do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật xuất bản 
 
Sách luôn mang lại những nấc thang mới cho sự phát triển. Bởi một cuốn sách có thể làm thay đổi số phận của một con người, có thể làm thay đổi định hướng của một doanh nghiệp, có thể làm thay đổi vận mệnh của cả một dân tộc… Các nước phát triển trên thế giới như Hoa Kỳ, Anh, Đức, Nhật, Hàn Quốc… là những nước có ngành công nghiệp xuất bản phát triển trên thế giới. Chính phủ của họ đánh giá rất cao vai trò của ngành xuất bản trong việc xây dựng nền tảng tri thức quốc gia, chú trọng nền văn hóa đọc, tạo điều kiện chính sách, cơ chế để thúc đẩy nền xuất bản phát triển.
 
Tại Việt Nam, trong các hướng phát triển gần đây của ngành xuất bản, những chương trình, đề án sách quốc gia vẫn còn thiếu vắng mảng đề tài sách đổi mới sáng tạo trong KH&CN, trong khi quan điểm phát triển KH&CN đã được khẳng định rõ trong những chủ trương đường lối và chính sách của chính phủ, các bộ, ban ngành và các địa phương, nhấn mạnh xu thế tất yếu để phát triển.
 
“KH&CN là động lực then chốt trong chính sách phát triển quốc gia” được thể hiện cụ thể bằng các văn bản chỉ đạo của Nhà nước về KH&CN và đã xác định hoạt động tuyên truyền, phổ biến KH&CN là một trong 6 giải pháp chủ yếu để phát triển KH&CN Việt Nam, vì vậy, việc xuất bản các chương trình, dự án sách cũng cần phải được quan tâm đúng mức và đầu tư đúng hướng, vì sách vừa là một công cụ vừa là nguồn lực trọng tâm để đạt được khát vọng phát triển. 
 
Ngành công nghiệp xuất bản đang trải qua giai đoạn thay đổi quan trọng. Trong nhiều năm qua, rất nhiều ấn phẩm sụt giảm số lượng in lớn do việc chuyển từ in giấy sang kỹ thuật số và nhu cầu ngày càng thay đổi trong việc tiếp cận khách hàng. Việc này đã dẫn đến sự cần thiết phải đổi mới trong mô hình xuất bản buộc các nhà xuất bản phải đa dạng hóa mô hình của mình bằng cách tiếp cận khách hàng một cách trọng tâm hơn hơn. 
 
Các xuất bản phẩm mới cần được phát triển để phù hợp với nhu cầu của người đọc và mục tiêu của Nhà xuất bản. Những xuất bản phẩm mới này cần được xem xét trong bối cảnh kỹ thuật số phát triển nhanh chóng bằng nội dung hấp dẫn và riêng biệt hơn trên các nền tảng khác nhau để bắt kịp, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước và của ngành.
 
 
Sự quan tâm của độc giả đối với các ấn phẩm của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật
 
Trong suốt sáu thập kỷ qua, tùy theo từng thời kỳ lịch sử với nhiệm vụ của mình, các thế hệ cán bộ Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã xuất bản những bộ sách, mảng sách, đề tài hữu ích, phục vụ sự phát triển KH&CN, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước thực hiện nhiệm vụ quản lý và phát triển KH&CN của Bộ KH&CN; từng bước trang bị và nâng cao tri thức KH&CN trong và ngoài nước cho các đối tượng học sinh, sinh viên, các nhà khoa học, các cán bộ doanh nghiệp, các nhà hoạch định chính sách thuộc các lứa tuổi, vùng miền; đóng góp tích cực cho việc nhận thức, hiểu biết, ứng dụng KH&CN, giúp nâng cao năng suất lao động của doanh nghiệp, địa phương, quốc gia. Quá trình đó đã diễn ra không biết mệt mỏi, trải qua nhiều năm tháng với những nỗ lực không ngừng của nhà xuất bản với mạng lưới liên kết đội ngũ tác giả, cộng tác viên và các độc giả…
 
Trong công cuộc đổi mới sáng tạo công nghệ hiện nay, một lần nữa Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật mong muốn những ấn phẩm mới của mình mang hơi thở mới của Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020, có thương hiệu trong chiến lược đổi mới; tác động tốt và có sức lan tỏa mạnh mẽ, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò và ý nghĩa của đổi mới sáng tạo trong quá trình đổi mới công nghệ Quốc gia; nâng nền kinh tế phát triển trong chuỗi giá trị, hội nhập vào các chuỗi cung ứng bên ngoài…
 
Đăng Minh

Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật: Một chặng đường phát triển

 
VOV.VN – 60 năm qua, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật đã không ngừng đổi mới và phát triển, là địa chỉ tin cậy của các nhà nghiên cứu, các Viện, Trường trong cả nước.
Ngày 9/6/1960, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật chính thức được thành lập. Chặng đường 60 năm xây dựng và trưởng thành, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ của đất nước, những ấn phẩm của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã khẳng định được vị thế và những cống hiến, đóng góp của mảng sách khoa học kỹ thuật qua từng thời kỳ cách mạng của dân tộc và đất nước.
 
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm không ngừng nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải tiến đời sống của nhân dân”, được sự chỉ đạo sát sao Ủy ban Khoa học Nhà nước, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao, ngay từ ngày đầu thành lập, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã nhanh chóng bám sát thực tiễn của đất nước, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà.
 
 
Ban Lãnh đạo Nhà xuất bản đã chủ động xây dựng kế hoạch biên tập – xuất bản hàng năm theo hai mảng đề tài chính thuộc chức năng, nhiệm vụ của Nhà xuất bản là sách chuyên khảo dành cho các cơ quan nghiên cứu và đội ngũ cán bộ khoa học; sách phổ biến kiến thức khoa học dành cho đông đảo bạn đọc cả nước nhằm xây dựng nền khoa học nước nhà, đồng thời nâng cao trình độ, nhận thức của nhân dân. Công tác biên tập – xuất bản tập trung xây dựng những bộ sách theo các chủ đề: Khoa học – kỹ thuật cơ bản, Toán học, Vật lý, Hóa học, Địa lý, Khí tượng, thủy văn, Thiên văn học, Sinh vật học, Nông lâm nghiệp và Môi trường sinh thái, Khoa học về Trái đất, Điện tử, Năng lượng, Chế tạo máy, Điều khiển, Tin học, Xây dựng – kiến trúc, Thủy lợi, Giao thông vận tải, Công nghệ thực phẩm, Từ điển khoa học kỹ thuật…
 
Nhờ việc định hướng đúng đắn phương hướng, nhiệm vụ và các mảng đề tài sách ngay từ ngày đầu thành lập, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Đó cũng là sơ sở, nền tảng cho sự phát triển ổn định, bền vững của mảng sách khoa học kỹ thuật và công nghệ do Nhà xuất bản tổ chức biên tập – xuất bản trong suốt 60 năm qua.
NXB Khoa học và Kỹ thuật nhận Giải Vàng tại Lễ trao Giải thưởng sách Việt Nam năm 2016.
Trong những năm tháng khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bám sát yêu cầu nhiệm vụ là vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm hậu phương lớn cho miền Nam tiến lên giải phóng nước nhà, với tinh thần “tất cả cho tuyền tuyến, tất cả để chiến thắng”, hàng loạt ấn phẩm thuộc nhiều mảng đề tài sách khoa học kỹ thuật khác nhau của Nhà xuất bản đã ra mắt bạn đọc. Trên các lĩnh vực của khoa học kỹ thuật đều có các cuốn sách thuộc các thể loại: nông nghiệp, sản xuất công nghiệp, toán học, vật lý, hóa học, giao thông vận tải, khoa học biển… phục vụ kịp thời yêu cầu kiến thiết miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời phục vụ công cuộc kháng chiến của quân và dân miền Nam.
 
Đặc biệt, trong hoàn cảnh đế quốc Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc, làm việc trong điều kiện vô cùng khó khăn, song đội ngũ cán bộ Nhà xuất bản đã rất nỗ lực, tổ chức biên tập – xuất bản nhiều cuốn sách phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến đấu của quân và dân ta như: “Kỹ thuật làm cầu đường vận tải”, “Một số kinh nghiệm thi công mặt đường thời chiến”, “Kỹ thuật đầm nén đất”, “Những điều cần biết về chiến tranh hóa học”, “Phòng và chống chiến tranh vi trùng”… Đây là những cuốn sách có giá trị rất lớn trong hoàn cảnh chiến tranh, nhiều cuốn sách đã có mặt trên các mặt trận, các tuyến đường Trường Sơn, góp phần vào những thắng lợi của quân và dân ta trên chiến trường.
 
Trong thời kỳ này, có những cuốn sách khoa học – kỹ thuật của Nhà xuất bản được tái bản, nối bản nhiều lần với hàng chục nghìn bản in; có cuốn sách đã trở thành hành trang, thành người bạn đồng hành của các nhà khoa học, các kỹ sư, các cán bộ, chiến sĩ công binh đang ngày đêm làm nhiệm vụ trên khắp các nẻo đường Tổ quốc. Nhiều cuốn sách về y dược như hướng dẫn chữa các bệnh da liễu, sốt rét, lây nhiễm, ngoại khoa… cũng được xuất bản, đáp ứng nhu cầu cấp thiết của nhân dân.
 
Đặc biệt bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của tác giả Đỗ Tất Lợi được xuất bản năm 1965 với tổng số 1.494 trang, giới thiệu hơn 700 vị thuốc chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian từ các bệnh cảm cúm, đau bụng, nhức đầu đến trị bỏng, cầm máu, bó xương, ngừa sốt rét… đã góp phần tích cực vào việc chữa trị, chăm sóc sức khỏe kịp thời cho nhân dân và các chiến sĩ quân đội trên khắp các chiến trường trong những thời kỳ “đói cơm, thiếu thuốc” của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy cam go ác liệt. Cuốn sách gây được tiếng vang lớn trong giới khoa học thế giới, được các nhà khoa học thế giới đánh giá cao về giá trị, ý nghĩa, trở thành bộ tài liệu quý, cuốn cẩm nang y học cổ truyền thông dụng nhất ở Việt Nam.
 
 
Những cuốn sách do NXB Khoa học và Kỹ thuật phát hành.
 
Bước sang thời kỳ hòa bình, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, sách khoa học – kỹ thuật lại tiếp tục phục vụ nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng nền khoa học Việt Nam thống nhất, xóa bỏ tàn dư của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
 
Từ năm 1980, trong hoàn cảnh kinh tế đất nước khó khăn, bị bao vây cấm vận, hệ thống tài liệu và tạp chí công nghệ, sách báo khoa học bằng tiếng Anh không còn được tài trợ, lượng tạp chí, sách báo khoa học – công nghệ bằng tiếng Nga cũng giảm đáng kể. Đây là thời kỳ thử thách vô cùng nghiệt ngã đối với khoa học, kỹ thuật Việt Nam nói chung cũng như đề tài sách khoa học – kỹ thuật nói riêng. Phát huy bản lĩnh, truyền thống và tinh thần tự lực cường được rèn rũa trong những năm tháng chiến tranh, đội ngũ cán bộ của Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật đã khắc phục khó khăn, tự tìm cho mình hướng đi, mở ra những mảng đề tài mới mà vẫn giữ vững định hướng xuất bản sách khoa học – kỹ thuật.
 
Chính trong những năm tháng khó khăn này, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã huy động đội ngũ cộng tác viên tham gia tổ chức, xây dựng kế hoạch đề tài và xuất bản nhiều sách công trình khoa học Việt Nam có giá trị, sách cung cấp thông tin phục vụ lãnh đạo và quản lý khoa học và kỹ thuật, sách về chiến lược phát triển khoa học của các nước, sách về cách mạng kỹ thuật và công nghệ của thế giới, nhiều tác phẩm khoa học – công nghệ có giá trị ra mắt độc giả, như “Đổi mới chính sách và chiến lược” của Lê Trọng Hiến và Nguyễn Ngọc dịch, “Tiêu chuẩn hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật” của Hoàng Mạnh Tuấn, “Những vấn đề quản lý khoa học trong điều kiện cách mạng khoa học – kỹ thuật” của V.G Sorin, “Cơ chế quản lý kinh tế” của Giorge L. Morrisey, bộ sách 5 tập “Những vấn đề cốt yếu của quản lý” của H. Koonatz, C.O’Donnel, H.Weithrich, “Quản trị kinh doanh tinh giản” của G.P. Collins…
 
Đặc biệt, mảng sách từ điển chuyên ngành vốn là thế mạnh của Nhà xuất bản trong giai đoạn này tiếp tục được chú trọng và phát triển mạnh mẽ, tính đến năm 1986, trong số 1.300 đầu sách được xuất bản có hơn 50 đầu sách từ điển thuật ngữ và đối ngữ về hầu hết các lĩnh vực toán học, hóa học, sinh học, vật lý, kỹ thuật, vô tuyến – điện tử, sinh học, trái đất, thiên văn, hàng hải, nhiệt – điện… của các quốc gia có nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới như Anh, Nga, Đức, Pháp… đã được xuất bản với số lượng lớn. Đặc biệt, có những cuốn được tái bản, nối bản nhiều lần với số lượng hàng vạn bản in, là sách “gối đầu giường” của nhiều nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu, quản lý… Mảng sách từ điển đã góp phần tích cực vào việc khai thác sử dụng và chuẩn hóa các thuật ngữ trong nước, đồng thời giúp cho đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật có công cụ nghiên cứu và tiếp thu trực tiếp tinh hoa của các nền khoa học tiên tiến trên thế giới.
 
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng thăm gian hàng của NXB KH&KT tại Techfest Quảng Ninh năm 2019.
 
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng thăm gian hàng của NXB KH&KT tại Techfest Quảng Ninh năm 2019.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhận thức rõ vai trò của mảng sách khoa học và kỹ thuật trong bối cảnh khoa học và công nghệ trên thế giới ngày càng phát triển mạnh mẽ, tốc độ ngày càng nhanh, đóng góp ngày càng nhiều vào sự phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã xác định nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu là xây dựng phương hướng xuất bản sách khoa học – kỹ thuật góp phần thiết thực phục vụ việc “nâng cao nhận thức của toàn xã hội và các quan điểm của Đảng đối với khoa học – công nghệ”, đẩy nhanh quá trình đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả; xây dựng và phát triển năng lực khoa học và công nghệ để tạo khả năng tiếp thu các tri thức mới, thích nghi và làm chủ các công nghệ tiên tiến, đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống nhân dân và củng cố quốc phòng, an ninh. Xây dựng và đổi mới hành lang pháp lý, cơ chế và chính sách quản lý khoa học công nghệ hướng đến tiệm cận với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu và đổi mới sáng tạo.
 
Công tác xây dựng đề tài sách khoa học và kỹ thuật, tổ chức xây dựng đội ngũ cộng tác viên, khai thác bản thảo sách dịch được đổi mới, chú trọng tính hiệu quả; quy trình biên tập nội dung, trình bày kỹ – mỹ thuật được xây dựng hoàn chỉnh. Nhờ áp dụng sáng tạo khoa học và công nghệ trong công tác quản lý xuất bản, phát hành, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã cho ra mắt bạn đọc nhiều cuốn sách, bộ sách có chất lượng nội dung và hình thức tốt, tập trung vào những đề tài trọng điểm trong các lĩnh vực khoa học cơ bản, khoa học sự sống, công nghệ thông tin điện tử viễn thông, khoa học quản lý, khoa học trái đất và khoa học biển…
 
Đặc biệt mảng sách từ điển song ngữ chuyên ngành – “đặc sản” của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật vẫn được các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu chuyên môn và đông đảo bạn đọc trong cả nước đánh giá cao, nhiều cuốn có khối lượng từ lớn, số lượng in nhiều, như “Từ điển thuật ngữ khoa học Anh-Pháp-Việt” (8.000 cuốn), “Từ điển thủy sản Anh-Việt” (10.000 cuốn), “Từ điển ngoại thương Anh-Việt” (9.000 cuốn), “Từ điển  kỹ thuật vô tuyến điện Nga-Việt” (10.000 cuốn);… Mảng sách Y dược học và Khoa học sự sống có nhiều ấn phẩm tiêu biểu như “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam”, “Dược thư Quốc gia Việt Nam”,… cùng với thường niên xuất bản “Sách Vàng Sáng tạo Việt Nam” đã kịp thời vinh danh các nhà khoa học và công trình khoa học tiêu biểu góp phần khẳng định năng lực sáng tạo mạnh mẽ của người Việt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo được hiệu ứng rất tích cực.
 
60 năm qua, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật đã không ngừng đổi mới và phát triển, là địa chỉ tin cậy của các nhà nghiên cứu, các Viện, Trường trong cả nước.
 
Điều đáng nói ở đây, không phải chỉ là những cuốn sách hay, những bộ từ điển lớn, những tác phẩm có nhiều giải thưởng giá trị, mà quan trọng hơn là Sách Khoa học – kỹ thuật của Nhà xuất bản dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bộ Khoa học và Công nghệ đã từng bước phát triển ngày càng vững mạnh, giữ đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, luôn song hàng cùng sự phát triển của Khoa học – Kỹ thuật – Công nghệ qua từng thời kỳ, cùng với những đề tài sách của các nhà xuất bản trong cả nước tạo thành một nền tảng tri thức Việt phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới đất nước./.
 
CTV Nguyễn Hiền Lương/VOV.VN