Thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp

 
Lễ ký kết Thỏa thuận hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT và một số Sở KH&CN
 
Trong 2 ngày (10 – 11/4/2021), tại Hà Nội, Viện Khoa học sở hữu trí tuệ (Viện KHSHTT) đã tổ chức Hội nghị tập huấn “Thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp”.
Tham dự Hội nghị có thứ trưởng Bộ KH&CN Phạm Công Tạc, GS. Hoàng Văn Phong – nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN cùng đại diện lãnh đạo các Sở KH&CN, trường đại học, viện nghiên cứu, các tổ chức, đơn vị có liên quan, cán bộ được giao vận hành Trạm IPPlatform hiện có và dự kiến được thiết lập. 
Hội nghị được tổ chức với mục tiêu tiếp tục thực hiện nhiệm vụ duy trì, vận hành, phát triển Nền tảng dữ liệu và dịch vụ sở hữu công nghiệp (IPPlatform) được Bộ Khoa học và Công nghệ giao. Bên cạnh đó, Hội nghị cũng nhằm tăng cường hoạt động thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp (SHCN) bằng công cụ IPPlatform và tăng cường hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT với các Sở KH&CN để phục vụ quản lý nhà nước và phát triển tài sản trí tuệ; huấn luyện kỹ năng tư vấn, hướng dẫn khai thác IPPlatform, tiếp nhận và thực hiện dịch vụ cho các cán bộ vận hành Trạm IPPlatform. 
 
Phát biểu tại Hội nghị tập huấn, Thứ trưởng Phạm Công Tạc nhấn mạnh, việc tổ chức Hội nghị tập huấn lần này là hoạt động hết sức thiết thực, qua đó trang bị kiến thức, huấn luyện kỹ năng cho các cán bộ vận hành các Trạm IPPlatform về khai thác thông tin, tư vấn, tiếp nhận và thực hiện dịch vụ SHCN. 
 
Thứ trưởng đề nghị lãnh đạo Sở, các tổ chức thảo luận, làm rõ hiện trạng, khó khăn và đề ra giải pháp để thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ SHCN, phục vụ việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình và hỗ trợ phát triển TSTT của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trên địa bàn địa phương.
 
Các đại biểu chụp ảnh tại Hội nghị tập huấn “Thúc đẩy khai thác thông tin và sử dụng dịch vụ sở hữu công nghiệp”
Trong bối cảnh chưa có tổ chức trung gian nào có cơ sở dữ liệu đầy đủ và thực hiện dịch vụ cung cấp thông tin SHCN theo yêu cầu đa dạng của doanh nghiệp, Viện KHSHTT đã phối hợp với Cục SHTT, Công ty MITEC và các đối tác đề xuất và đã được Bộ KHCN giao thực hiện Dự án “Thiết lập, duy trì và phát triển CSDL thông tin trực tuyến về đối tượng SHCN và công cụ khai thác phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa” thuộc Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020. Đến nay, Dự án đã hoàn thành các nội dung chính của Thuyết minh và xây dựng được Cơ sở dữ liệu về đối tượng SHCN và các công cụ để quản trị, cập nhật và khai thác phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa – được đặt tên là “Nền tảng dữ liệu và dịch vụ thông tin sở hữu công nghiệp” – IPPlatform. Nền tảng này đang được chạy thử nghiệm để lấy ý kiến góp ý trên địa chỉ http://ipplatform.vipri.gov.vn. 
 
Được biết, hiện Viện KHSHTT đã phối hợp với 13 đơn vị, thiết lập 13 Trạm IPPlatform (trong đó có 9 Sở KH&CN, 2 Hiệp hội và 2 Viện nghiên cứu), đã tổ chức lớp tập huấn giới thiệu và hướng dẫn khai thác IPPlatform. 
 
Đây là hoạt động cần được tiếp tục triển khai, Bộ KH&CN đã giao Viện trong năm 2021 phối hợp với các Sở KH&CN thiết lập 9 Trạm IPPlatform mới và tổ chức các hoạt động hỗ trợ, hợp tác để các Trạm này hoạt động hiệu quả phục vụ quản lý nhà nước về SHCN và phát triển tài sản trí tuệ của địa phương.
 
 Lễ ký kết Thỏa thuận hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT và một số Sở KH&CN
 
Cũng tại Hội nghị tập huấn, đã diễn ra Lễ ký kết Thỏa thuận hợp tác về SHTT giữa Viện KHSHTT và Sở KH&CN Hải Phòng, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Phú Yên, Sóc Trăng, Sơn La. 
 
Tin, ảnh: Minh Châu

Áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: Công cụ hữu hiệu xây dựng nền hành chính hiện đại

 

 
PGS.TS Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN phát biểu tại Hội nghị.
 
Sau hơn 7 năm triển khai, hệ thống quản lý chất lượng (HTQLCL) theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008, sau này được nâng cấp thành tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2015 đã khẳng định được vai trò là một công cụ quan trọng, hỗ trợ cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc chuẩn hóa các quá trình giải quyết công việc, cải tiến phương thức thực thi công vụ với mục tiêu hướng tới sự hài lòng của tổ chức, cá nhân công dân có liên quan; minh bạch hóa các quy trình giải quyết thủ tục hành chính, hướng đến một nền hành chính hiện đại, dân chủ, trong sạch và vững mạnh.
Đó là nhận định của PGS.TS Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tại Hội nghị sơ kết tình hình thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.
 
Hội nghị do Bộ KH&CN tổ chức sáng ngày 9/4/2021, nhằm đánh giá, ghi nhận những kết quả đã đạt được, đồng thời, thảo luận, trao đổi về các khó khăn, vướng mắc, qua đó, đưa ra các đề xuất, kiến nghị để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước trong thời gian tới, nhất là trong bối cảnh hoạt động chuyển đổi số ngày càng được đẩy mạnh.
 
Triển khai hiệu quả trên cả nước
 
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN cho rằng, việc áp dụng HTQLCL nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, góp phần xây dựng Chính phủ “kiến tạo, liêm chính, hiệu lực, hiệu quả, tận tâm, tận lực, phục vụ nhân dân”. Với nhiệm vụ được giao là cơ quan đầu mối theo phân công của Thủ tướng Chính phủ, Bộ KH&CN đã luôn nhận được sự đồng hành của các ban, bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân liên quan trong việc tổ chức triển khai thực hiện Quyết định nói trên một cách mạnh mẽ, quyết liệt, hiệu quả, đồng bộ và thống nhất trên phạm vi cả nước. “Hội nghị là cơ hội để chúng ta chia sẻ, nhân rộng các cách làm tốt và ghi nhận, tôn vinh những cống hiến thầm lặng của những cán bộ trực tiếp triển khai, sự quyết tâm bền bỉ, kiên định của lãnh đạo các cấp trong việc xây dựng và áp dụng HTQLCL vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước. Những nỗ lực đó đã có đóng góp quan trọng vào việc cải tiến các quy trình xử lý công việc, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, đồng thời, góp phần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn cuộc sống”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
 
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất Lượng Nguyễn Hoàng Linh báo cáo sơ kết tình hình triển khai Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg tại Hội nghị.
 
Theo ông Nguyễn Hoàng Linh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, trong 7 năm qua, dưới sự chỉ đạo và quan tâm của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân liên quan đã tổ chức triển khai thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ một cách mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ và thống nhất trên phạm vi cả nước.
 
Theo đó, đã hình thành hệ thống các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL. 91% Bộ, ngành (20/22) đã thực hiện việc xây dựng, áp dụng HTQLCL theo quy định (tất cả các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng của các Bộ, ngành đã xây dựng, công bố HTQLCL phù hợp TCVN ISO 9001 đối với toàn bộ thủ tục hành chính). Các Bộ, ngành cũng đã đẩy mạnh việc triển khai xây dựng, áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng (74/98 cơ quan, tổ chức, tỷ lệ 75,5%).
 
Tại địa phương, 98,4% địa phương (62/63) đã thực hiện việc xây dựng, áp dụng HTQLCL theo quy định (tất cả các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng của địa phương đã xây dựng, công bố HTQLCL phù hợp TCVN ISO 9001 đối với toàn bộ thủ tục hành chính). Các địa phương cũng đã đẩy mạnh việc triển khai xây dựng, áp dụng đối với các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng, theo đó  có 62/63 địa phương (tỷ lệ 98,4%) đã triển khai việc xây dựng, áp dụng HTQLCL tại các UBND cấp xã, trong đó đã có 5.564/8.910 UBND cấp xã (tỷ lệ 62,5%) đã xây dựng, áp dụng, công bố HTQLCL phù hợp TCVN ISO 9001 theo quy định.
 
Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện cả về chuyên môn, quản lý nhà nước và chế độ tài chính được triển khai hiệu quả; Các Bộ, ngành đã công bố đầy đủ Mô hình khung HTQLCL theo TCVN ISO 9001 cho các cơ quan, tổ chức theo hệ thống ngành dọc trực thuộc đóng tại địa phương; Bộ KH&CN đã công bố Mô hình khung HTQLCL cho các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước tại địa phương; Đã hình thành hệ thống các cơ sở đào tạo kiến thức quản lý hành chính nhà nước đối với chuyên gia tư vấn, chuyên gia đánh giá và hệ thống tổ chức/chuyên gia tư vấn, tổ chức chứng nhận/chuyên gia đánh giá, đáp ứng yêu cầu tư vấn, kiểm tra HTQLCL trong cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước.
 
Việc xây dựng, áp dụng HTQLCL vào hoạt động của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước một cách có hiệu lực, hiệu quả là một trong những biện pháp thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính của Chính phủ. Theo đó, đã giúp tìm ra biện pháp để cải cách thủ tục hành chính. HTQLCL yêu cầu cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước khi giải quyết thủ tục hành chính cho người dân/tổ chức phải công khai các yêu cầu về hồ sơ, tài liệu mà người dân phải nộp; nêu rõ quy trình xử lý công việc, kết quả xử lý cuối cùng, thời gian hoàn thành, từ đó có thể đưa ra biện pháp để giúp đơn giản hoá các thủ tục hành chính; Giúp vận hành cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” hiệu quả hơn: HTQLCL giúp thấy rõ trong hoạt động của nội bộ cơ quan khi giải quyết công việc, các khâu trong các phòng, ban phải kết nối với nhau một cách hợp lý, từ đó có thể thấy rõ khâu nào bị chồng chéo, bất hợp lý để liên tục cải tiến các quy trình xử lý công việc cho phù hợp, phục vụ người dân/tổ chức tốt hơn.
 
Đồng thời, thúc đẩy việc nâng cao và hoàn thiện điều kiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị văn phòng cho cán bộ, công chức; đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức để đáp ứng tốt hơn yêu cầu vị trí công tác; tạo điều kiện để người dân cùng giám sát cán bộ, công chức, giám sát các thủ tục hành chính có được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hay không, từ đó kiến nghị sửa đổi, chỉnh lý văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp với tình hình thực tế.
 
Tăng cường Áp dụng ISO điện tử và chuyển đổi số
 
Tại Hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận, chia sẻ những kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện; trao đổi những khó khăn, vướng mắc và đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả Quyết định 19 cũng như đề xuất nội dung sửa đổi Quyết định này trong thời gian tới.
 
Bà Nguyễn Thị Kim Huệ – Phó Giám đốc Sở KH&CN TPHCM cho rằng, việc kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin với xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước tạo ra một phương pháp làm việc khoa học, mang tính hệ thống, tăng cường tính giám sát, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính công cho người dân, doanh nghiệp cũng như đáp ứng các yêu cầu của pháp luật. Bà Nguyễn Thị Kim Huệ kiến nghị, mở rộng UBND phường, xã, thị trấn là đối tượng bắt buộc phải xây dựng và áp dụng HTQLCL để thực hiện đồng bộ, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương…
 
Giám đốc Sở KH&CN tỉnh An Giang Tầng Phú An cho rằng, các cơ quan hành chính của tỉnh thực hiện áp dụng HTQLCL đã góp phần tích cực nâng cao chỉ số cạnh tranh, minh bạch trong quản lý hành chính của tỉnh; các cơ quan hành chính nhà nước trong tỉnh đã có nhiều đổi mới trong tác phong và lề lối làm việc, nâng cao chỉ số đánh giá sự hài lòng của người dân khi tiếp xúc giải quyết công việc với cơ quan nhà nước, nâng cao hiệu quả cải cách hành chính. Sở KH&CN tỉnh An Giang kiến nghị, Bộ KH&CN nghiên cứu, cho thực hiện thí điểm việc xây dựng, áp dụng và duy trì, cải tiến HTQLCL tại một số trường Trung học phổ thông tại các thành phố thuộc tỉnh; tăng cường kiểm tra, đánh giá công tác áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL; sớm sửa đổi Quyết định 19 để các địa phương có căn cứ xây dựng kế hoạch triển khai;…
 
Bên cạnh đó, nhiều đại biểu cho rằng quy định về điểm số cho hoạt động xây dựng áp dụng HTQLCL trong việc chấm điểm chỉ số cải cách hành chính còn thấp, chưa tạo động lực thúc đẩy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của hoạt động này. Do đó, cần tăng điểm chỉ số cải cách hành chính cấp tỉnh đối với tiêu chí này. Nhiều đại biểu đưa ra một số khó khăn trong việc hướng dẫn địa phương chuyển HTQLCL từ bản giấy sang bản điện tử; cán bộ chuyên trách công tác này thường luân chuyển nên việc tập huấn chưa thuận lợi;…
 
Thứ trưởng Lê Xuân Định kết luận Hội nghị.
 
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho rằng, việc áp dụng TCVN ISO 9001 ban đầu khá khó khăn, nhưng đến nay hoạt động này đã trở thành một công cụ hữu hiệu xây dựng nền hành chính hiện đại. Qua công tác sơ kết cho thấy, hầu hết các nội dung và chỉ tiêu quan trọng đặt ra trong Quyết định số 19 đã được triển khai nghiêm túc và hiệu quả. Để tiếp tục triển khai thực hiện Quyết định số 19 trong thời gian tới có hiệu lực, hiệu quả cao hơn, Bộ KH&CN đề nghị các Bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các cơ quan, tổ chức trực thuộc hoàn tất các nội dung theo quy định tại Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg; tăng cường hoạt động kiểm tra việc xây dựng, áp dụng, duy trì, cải tiến tại các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo quy định tối thiểu 1 lần/năm. Tổ chức sơ kết việc xây dựng áp dụng HTQLCL theo TCVN ISO 9001 tại Bộ, ngành, địa phương để nhân rộng các mô hình hay, cách làm tốt.
 
Đồng thời, gắn kết việc triển khai Chính phủ điện tử, chuyển đổi số với hoạt động xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến HTQLCL theo TCVN ISO 9001; nâng điểm đánh giá cho việc áp dụng HTQLCL trong điểm đánh giá cải cách hành chính; mở rộng việc xây dựng, áp dụng HTQLCL cho các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng khuyến khích áp dụng như UBND cấp xã, các đơn vị sự nghiệp…
 
Thứ trưởng cho biết, Bộ KH&CN đã ghi nhận các ý kiến đóng góp, chia sẻ, trao đổi, thảo luận tại Hội nghị để tiếp tục làm đầu mối phối hợp với các cơ quan liên quan trong quá trình triển khai thực hiện, nghiên cứu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ để sửa đổi, bổ sung Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg cho phù hợp với tình hình thực tế và tiếp tục đẩy mạnh hoạt động áp dụng HTQLCL theo TCVN ISO 9001 trong các cơ quan, hành chính trong thời gian tới. Một trong những nhiệm vụ, đề xuất sửa đổi thời gian tới đó là tăng cường áp dụng ISO điện tử gắn với việc xây dựng chính quyền điện tử và chuyển đổi số. Đây là một nội dung rất quan trọng cần đẩy mạnh trong thời gian tới, Thứ trưởng Lê Xuân Định nhấn mạnh.
 
Thứ trưởng Lê Xuân Định trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.
 
Trong khuôn khổ Hội nghị, Bộ KH&CN đã tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho 16 tập thể và 16 cá nhân đã có thành tích xuất sắc trong việc xây dựng, áp dụng HTQLCL theo tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001 giai đoạn 2015 – 2020.
 
Bài, ảnh: Hạnh Nguyên, Ngũ Hiệp
 
 
 

Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN phát triển

 
DNKHCN đã chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN
 
Năm 2020, mặc dù chịu tác động không nhỏ từ đại dịch Covid-19, nhưng doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKHCN) vẫn có những bước phát triển đáng ghi nhận: số lượng doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN cao hơn năm 2019, tổng doanh thu của các DNKHCN chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong GDP cả nước. Nhằm tiếp tục hỗ trợ DNKHCN phát triển, bên cạnh việc tiếp tục tạo hành lang pháp lý thuận lợi, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Đóng góp của doanh nghiệp cho GDP ngày càng cao
 
Theo TS. Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp KH&CN, cả nước hiện có gần 540 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN trên tổng số 3.000 doanh nghiệp đang hoạt động theo mô hình DNKHCN. Trên cơ sở báo cáo của 235 doanh nghiệp cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2019, cho thấy DNKHCN tạo việc làm cho gần 31.270 người lao động với thu nhập bình quân 15 triệu đồng/người/tháng. Tổng doanh thu của 235 doanh nghiệp năm 2019 đạt trên 147.170 tỷ đồng. Trong đó, có 217 doanh nghiệp có doanh thu từ sản phẩm KH&CN với tổng trên 24.123 tỷ đồng (chiếm 16,3% tổng doanh thu). Năm 2019, tổng doanh thu của 235 DNKHCN đạt 2,39 % GDP cả nước
 
Ông Quất cho biết thêm, có 198 doanh nghiệp có lãi với tổng lợi nhuận trước thuế đạt trên 5.268 tỷ đồng. Trong đó, tổng lợi nhuận trước thuế của sản phẩm KH&CN đạt gần 1.344 tỷ đồng/183 doanh nghiệp.
 
DNKHCN là nơi nhận chuyển giao các kết quả nghiên cứu từ khu vực viện nghiên cứu, trường đại học và của các nhà khoa học đưa vào sản xuất kinh doanh; nơi các kết quả được chuyển giao, nơi tạo công ăn việc làm cho xã hội, là nơi các nhà khoa học có thể đưa trí tuệ, những ý tưởng của mình để tạo ra những sản phẩm đem lại lợi ích cho xã hội. Tín hiệu đáng mừng đó là, hiện các doanh nghiệp nói chung và các DNKHCN nói riêng đã chú trọng nhiều hơn tới việc đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Số liệu thống kê cho thấy, có khoảng 7% doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận từ kết quả KH&CN từ nguồn ngân sách nhà nước; hơn 90% doanh nghiệp còn lại tự đầu tư nghiên cứu hoặc nhận chuyển giao kết quả KH&CN bằng toàn bộ nguồn vốn của chính doanh nghiệp. Hiện nhiều doanh nghiệp và DNKHCN đã hình thành trung tâm hoặc viện nghiên cứu và trích một phần lợi nhuận để hình thành quỹ phát triển KH&CN nhằm tạo nguồn tài chính chủ động đầu tư cho hoạt động KH&CN, giúp đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp như Viettel, Phenikaa, Vingroup,…
 
Theo Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng, đây là hướng đi đúng và giống thông lệ của các nước. Chúng ta đã và đang từng bước đưa KH, CN và đổi mới sáng tạo (ĐMST) vào doanh nghiệp và tập trung cho nghiên cứu KH, CN & ĐMST tại doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp phát triển một cách bền vững và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
 
DNKHCN đã chú trọng tới việc xác lập và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các kết quả KH&CN và sản phẩm được tạo ra. Có 138 doanh nghiệp được cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và 9 doanh nghiệp đã đăng ký bảo hộ và đang chờ kết quả. Ví dụ: Công ty Cổ phần Robot Tosy đăng ký bảo hộ tại 21 nước trên thế giới; Công ty TNHH Thiết bị Y tế Bắc Việt sở hữu hơn 15 bằng độc quyền sáng chế và bằng kiểu dáng công nghiệp; Công ty Cổ phần Công nghiệp và thiết bị chiếu sáng Duhal sở hữu 15 bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp;…
 
Số lượng DNKH&CN không nhiều nhưng các doanh nghiệp đó tồn tại, phát triển một cách bền vững. Đặc biệt, qua những giai đoạn khó khăn, chúng ta đều nhìn thấy sự phát triển vượt bậc của DNKH&CN. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19, nhiều DNKHCN đã kịp thời điều chỉnh chiến lược kinh doanh, tập trung phát triển sản phẩm mới, tìm kiếm đối tác hợp tác mới và tăng cường khả năng tiếp cận thị trường trong nước. Một số doanh nghiệp đã nghiên cứu và triển khai nhiều ứng dụng công nghệ để tăng khả năng tiếp cận khách hàng, thay đổi phương thức kinh doanh từ trực tiếp truyền thống sang kinh doanh online, giao hàng và thanh toán tận nhà, chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trong đó nghiên cứu và sản xuất kinh doanh các mặt hàng thiết yếu có nhu cầu cao, nội địa hóa nguồn cung nguyên vật liệu. Một số doanh nghiệp đã nghiên cứu đầu tư dây chuyền sản xuất các thiết bị y tế, các sản phẩm chế phẩm sinh học phục vụ cho công tác phòng, chống dịch. Công ty Cổ phần Sao Thái Dương đã hợp tác với các nhà khoa học để chế tạo thành công hai bộ kit phát hiện virus SARS-CoV-2; Công ty Cổ phần Công nghệ mới Nhật Hải nghiên cứu chế tạo thử nghiệm một số hợp chất nano từ thiên nhiên có khả năng ức chế SARS-CoV-2, ngăn bão hòa Cytokine và giảm khả năng đông máu, hỗ trợ điều trị cho các bệnh nhân mắc Covid-19; Công ty TNHH Châu Đà sản xuất sản phẩm máy sản xuất khẩu trang tự động đáp ứng nhu cầu sản xuất khẩu trang y tế trong mùa dịch bệnh,…
 
Tiếp tục hoàn thiện chính sách về DNKHCN 
 
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực KH&CN nói chung trong đó có DNKHCN và được cụ thể hoá thông qua các Nghị định, thông tư, nhiệm vụ KH&CN, chương trình KH&CN, dự án cụ thể như: Nghị định 80/2007/NĐ-CP của Chính phủ về DNKHCN, Chương trình Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm (Chương trình 592), Dự án Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ (FIRST), Nghị định 13/2019/NĐ-CP về doanh nghiệp KH&CN,…
 
 
 
 
 
Tiếp tục thúc đẩy liên kết viện – trường – doanh nghiệp nhằm hỗ trợ hình thành và phát triển DNKHCN
 
Năm 2020, một số văn bản pháp quy mới được ban hành, trong đó có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc thúc đẩy sự phát triển DNKHCN như Luật Đầu tư 2020, Luật Doanh nghiệp 2020 và một số văn bản dưới luật khác. So với Luật Đầu tư 2014 thì Luật Đầu tư 2020 đã bổ sung quy định về cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo DNKHCN là đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư (Điều 15) và bổ sung quy định về ngành nghề ưu đãi đầu tư đối với hoạt động sản xuất các sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của DNKHCN (Điều 16). Khi các quy định này có hiệu lực thì hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm hình thành từ kết quả KH&CN của DNKHCN sẽ được hưởng các ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước dành cho dự án đầu tư thuộc danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư. 
Tháng 3/2021, Thông tư 03/2021/TT-BTC ngày 11/01/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp KH&CN quy định tại Nghị định số 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ về doanh nghiệp KH&CN bắt đầu có hiệu lực. 
 
Tại cuộc Họp báo thường kỳ của Bộ KH&CN diễn ra mới đây, ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục Phát triển thị trường và DNKHCN cho biết, sắp tới, Bộ KH&CN sẽ ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 13 về DNKHCN để làm rõ hơn những vấn đề liên quan đến thủ tục công nhận, cấp giấy chứng nhận DNKHCN. Trong định hướng tái cấu trúc các chương trình KH&CN Quốc gia, Chương trình 592 cũng được đưa vào tái cấu trúc ở phần thương mại hóa, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thị trường KH&CN, sau chuỗi nghiên cứu và phát triển. Định hướng này sẽ được tăng cường trong giai đoạn tới.
 
“Trong đại dịch Covid-19, chúng tôi đã triển khai nhiều hành động hỗ trợ, ví dụ như chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp có sản phẩm test Covid – 19, các sản phẩm hỗ trợ sức khỏe người tiêu dùng, thiết bị y tế phòng chống dịch,… phát triển thị trường trong nước cũng như kết nối với thị trường nước ngoài. Đó cũng là định hướng chúng tôi sẽ đưa vào chương trình hỗ trợ trong giai đoạn tới”, ông Phạm Hồng Quất cho biết thêm.
 
DNKHCN đang được hưởng nhiều hỗ trợ của Nhà nước như hỗ trợ về đăng ký xác lập quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị thương hiệu của doanh nghiệp; được giới thiệu quảng bá sản phẩm thông qua các hội thảo, triển lãm; kết nối cung – cầu, chợ công nghệ và thiết bị… Nhờ được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất, vay vốn tín dụng đầu tư, thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước, doanh nghiệp tập trung được nguồn vốn để tiếp tục đầu tư cho KH&CN, đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực, không ngừng tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng và sức cạnh tranh. 
 
Theo TS. Phạm Hồng Quất, để tiếp tục phát triển DNKHCN trong giai đoạn tới, cần tập trung hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về DNKHCN đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, khả thi. Cụ thể, đồng bộ hóa hệ thống cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về KHCN&ĐMST gồm: Luật KH&CN, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Quản lý sử dụng tài sản công và các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm thực thi các chính sách hỗ trợ phát triển DNKHCN; cơ chế giao quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu sử dụng ngân sách nhà nước; cơ chế phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu… Thiết kế hệ thống chính sách ưu đãi theo hướng ưu đãi áp dụng đối với sản phẩm mới thay vì áp dụng theo chủ thể đầu tư như hiện nay, nhằm đảm bảo sự phù hợp với quy định của Luật Đầu tư và thúc đẩy doanh nghiệp liên tục thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển, tạo ra các sản phẩm mới cho thị trường. Đề xuất xây dựng chính sách ưu tiên sử dụng các sản phẩm KH&CN của DNKHCN.
 
Thứ hai, thúc đẩy liên kết viện, trường và doanh nghiệp nhằm hỗ trợ hình thành và phát triển DNKHCN. Theo đó, xây dựng và ban hành cơ chế phù hợp tạo sự gắn kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp nhận kết quả KH&CN mới để hình thành các DNKHCN; Thúc đẩy hỗ trợ phát triển mô hình doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) từ các trường đại học, viện nghiên cứu nhằm thúc đẩy việc thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được tạo ra từ viện, trường. Thúc đẩy hoạt động của các cơ sở ươm tạo tại trường, viện và thu hút sự đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, DNKHCN dẫn dắt các lĩnh vực.
 
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động truyền thông về sản phẩm KH&CN, DNKHCN để nâng cao giá trị thương hiệu, tạo uy tín đối với người tiêu dùng, giúp thương hiệu “doanh nghiệp khoa học và công nghệ” trở thành thương hiệu mạnh, nâng cao lợi thế cạnh tranh cho DNKHCN. Các hoạt động truyền thông về sản phẩm KH&CN, DNKHCN được đẩy mạnh cả về tần suất thực hiện, hình thức đa dạng, lựa chọn những doanh nghiệp điển hình, tiêu biểu với các sản phẩm chất lượng.
 
Thứ tư, chuyển đổi, cơ cấu lại các chương trình có nội dung hỗ trợ phát triển DNKHCN theo hướng đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ thương mại hóa, phát triển thị trường cho những sản phẩm KH&CN chất lượng nhằm chiếm lĩnh thị trường trong nước và xuất khẩu.
 
Cuối cùng, tăng cường hỗ trợ hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt là Hiệp hội DNKHCN Việt Nam. Thực hiện hỗ trợ các DNKHCN thông qua Hiệp hội để tạo tác động lan tỏa và thúc đẩy sự liên kết giữa các DNKHCN.
 
Bài, ảnh: Hạnh Nguyên