Các nhà khoa học cho biết hiện tượng La Nina đang xuất hiện làm hạ nhiệt độ bề mặt đại dương, 60% sẽ xảy ra trong giai đoạn tháng 7 – 9.
La Nina có thể gây mưa lớn ở một số nơi và hạn hán ở những nơi khác. Ảnh: Somchai Poomlard
Sự trở lại của hiện tượng thời tiết La Nina mát mẻ trong năm nay sẽ giúp nhiệt độ giảm phần nào sau nhiều tháng nhiệt độ toàn cầu lập kỷ lục. Tác động này có thể sẽ được cảm nhận trong vài tháng tới vì kiểu thời tiết El Nino ấm áp – vốn thúc đẩy sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu và thời tiết cực đoan trên thế giới từ giữa năm 2023 – đang có dấu hiệu kết thúc, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) của Liên Hợp Quốc (UN) cho biết hôm 3/6.
Trong khi El Nino làm nóng bề mặt đại dương thì La Nina là sự hạ nhiệt độ bề mặt đại dương ở những vùng rộng lớn thuộc khu vực nhiệt đới Thái Bình Dương, đi kèm với gió, mưa và những thay đổi về áp suất khí quyển. Ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng nhiệt đới, La Nina mang tới những tác động khí hậu trái ngược với El Nino, dẫn đến hạn hán ở một số nơi và gây mưa lớn ở những nơi khác.
WMO cho biết, có 60% khả năng La Nina xảy ra trong giai đoạn tháng 7 – 9 và 70% trong tháng 8 – 11. Khả năng El Nino tái phát triển rất thấp.
Phần lớn lượng nhiệt dư thừa của Trái Đất do biến đổi khí hậu được lưu trữ trong các đại dương. Tại Mỹ, Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA) đã tính đến La Nina khi dự báo mùa bão Đại Tây Dương năm nay. Theo NOAA, dự kiến có 4 – 7 cơn bão mạnh ở Đại Tây Dương từ tháng 6 đến tháng 11.
“Mùa bão Đại Tây Dương sắp tới dự kiến sôi động hơn bình thường do sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm nhiệt độ đại dương ấm gần đạt mức kỷ lục ở Đại Tây Dương, sự phát triển của hiện tượng La Nina ở Thái Bình Dương, gió mậu dịch Đại Tây Dương và gió đứt giảm”, NOAA cho biết.
Tuy nhiên, WMO cảnh báo, nhiệt độ toàn cầu vẫn tiếp tục tăng trong dài hạn do tình trạng biến đổi khí hậu mà con người gây ra. Điều này sẽ khiến những hiện tượng thời tiết cực đoan trở nên tồi tệ hơn và làm đảo lộn các mô hình nhiệt độ và lượng mưa theo mùa.
Mỗi tháng kể từ tháng 6/2023, khi El Nino diễn ra, đều thiết lập kỷ lục nhiệt độ cao mới. Tính đến nay, 2023 cũng là năm ấm nhất từng ghi nhận trên toàn cầu.
“Sự kết thúc của El Nino không đồng nghĩa tình trạng biến đổi khí hậu trong dài hạn sẽ dừng lại, vì hành tinh sẽ tiếp tục ấm lên do khí nhà kính giữ nhiệt. Nhiệt độ mặt nước biển cao vẫn có vai trò quan trọng trong những tháng tới”, Ko Barrett, phó tổng thư ký tại WMO, nhấn mạnh.
9 năm qua là những năm ấm nhất từng ghi nhận, kể cả khi có ảnh hưởng hạ nhiệt của đợt La Nina kéo dài từ năm 2020 đến đầu năm 2023, theo WMO. El Nino mới nhất, đạt đỉnh điểm vào tháng 12 năm ngoái, là một trong 5 đợt mạnh nhất lịch sử.
VinDr của VinBigdata là sản phẩm AI đầu tiên tại Việt Nam đạt chuẩn FDA ở hạng mục phân tích ảnh X-quang tuyến vú.
Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) chính thức cấp phép cho VinDr lưu hành trên thị trường nước này, hôm 23/5. Việt Nam trở thành quốc gia thứ 5 có sản phẩm AI cho chẩn đoán X-quang tuyến vú được FDA công nhận, sau Mỹ, Pháp, Hà Lan và Hàn Quốc.
Theo VinBigdata, sản phẩm được nghiên cứu và đánh giá dựa trên các bộ dữ liệu của nhiều nhóm đối tượng ở Mỹ và Việt Nam. VinDr có khả năng tự động phân loại ảnh chụp X-quang tuyến vú, phát hiện các ca nghi ngờ ung thư vú, độ chính xác 96,5% với dữ liệu người Việt và 95,8% với dữ liệu người Mỹ.
Với việc áp dụng công nghệ AI và thị giác máy tính tiên tiến nhất, sản phẩm có khả năng đánh giá mật độ tuyến vú, phân loại ca chụp theo chuẩn BI-RADS, phát hiện các tổn thương tuyến vú giai đoạn sớm.
Sản phẩm AI cho chẩn đoán X-quang tuyến vú đầu tiên tại Việt Nam được FDA công nhận. Ảnh: VinBigdata
Theo TS Nguyễn Quý Hà – Giám đốc Khối Công nghệ Phân tích hình ảnh VinBigdata, việc ứng dụng AI trong chẩn đoán hình ảnh y tế, sàng lọc sớm ung thư khá phổ biến ở nhiều quốc gia, nhưng tại Việt Nam vẫn còn hạn chế. Đa phần bệnh nhân mắc ung thư tại Việt Nam đến khám ở giai đoạn tương đối muộn.
“Sản phẩm giúp bác sĩ có thêm căn cứ để chỉ định các xét nghiệm chuyên sâu và phát hiện bệnh kịp thời, giai đoạn sớm. Chúng tôi kỳ vọng, sau khi đạt chứng nhận của FDA, VinDr sẽ tiếp cận nhiều thị trường, hỗ trợ y bác sĩ và nhiều người bệnh”, tiến sĩ Hà chia sẻ.
Ngoài chẩn đoán ảnh X-quang tuyến vú, sản phẩm được tích hợp các công cụ hỗ trợ chẩn đoán thông minh cho 6 loại ảnh khác gồm: X-quang lồng ngực, X-quang cột sống, CT sọ não, CT lồng ngực, CT gan mật, MRI sọ não. Máy có thể phát hiện, khoanh vùng gần 70 loại bất thường phổ biến và chẩn đoán đồng thời nhiều ca chụp một lúc với độ chính xác và tốc độ không đổi.
TS Nguyễn Quý Hà tại phòng làm việc. Ảnh: VinBigdata
Sử dụng AI trong đọc ảnh y tế là đề tài nghiên cứu chính được Giáo sư Vũ Hà Văn, Giám đốc Khoa học VinBigdata định hướng từ cuối năm 2018, với sự đầu tư từ tập đoàn Vingroup.
“Nhận được chấp thuận của FDA là dấu mốc quan trọng, mở ra cánh cửa để chúng tôi bước chân vào thị trường toàn cầu, khẳng định chất lượng và năng lực cạnh tranh của các sản phẩm công nghệ Việt, do người Việt làm chủ”, tiến sĩ Nguyễn Quý Hà nhấn mạnh.
Đến nay, đội ngũ phát triển sản phẩm VinDr đã công bố 20 bài báo trên các tạp chí quốc tế, trong đó có 3 bài đăng trên Nature Scientific Data – tạp chí đầu ngành với chỉ số ảnh hưởng ở mức cao – 9,8.
Ngoài ra, các giải pháp AI về y tế của VinBigdata cũng được triển khai tại thị trường Mỹ, Hàn Quốc, Ấn Độ, Israel góp phần khắc phục các hạn chế về chẩn đoán hình ảnh theo phương thức truyền thống.
Máy bay siêu thanh X-59 mới của NASA thực hiện thành công đánh giá tình trạng sẵn sàng bay, đánh dấu bước tiến chủ chốt hướng tới chuyến bay đầu tiên.
Máy bay X-59 đậu ở cơ sở Skunk Works của Lockheed Martin ở Palmdale, California. Ảnh: NASA/Steve Freeman
Đánh giá do các chuyên gia độc lập của NASA tiến hành, xem xét cách tiếp cận của đội phụ trách dự án đối với an toàn của cộng đồng và nhân viên trong thử nghiệm trên mặt đất và bay trong không trung, cũng như phân tích rủi ro có thể phát sinh. Kết quả đánh giá cung cấp nhiều thông tin quý giá và khuyến nghị cho đội phụ trách khi họ chuẩn bị cho chuyến bay đầu tiên của mẫu máy bay phản lực, Space hôm 31/5 đưa tin.
Cathy Bahm, quản lý dự án Low Boom Flight Demonstrator của NASA chia sẻ các thành viên trong dự án sẽ xử lý theo khuyến nghị và làm việc để tiến tới đánh giá độ an toàn bay và khả năng bay.
Máy bay X-59 do hãng Lockheed Martin chế tạo là một bộ phận chủ chốt trong nhiệm vụ đột phá Quesst của NASA nhằm giảm tiếng nổ gắn liền với máy bay siêu thanh khiến loại máy bay này bị cấm trên đất liền trong hơn 50 năm. Nguyên nhân đến từ rung động và tiếng ồn khó chịu mà máy bay gây ra khi vượt qua vận tốc âm thanh.
X-59 được kỳ vọng tạo ra tiếng động êm hơn, chủ yếu do hình dáng độc đáo mang tính cách mạng của phương tiện. Phần mũi kéo dài của máy bay dài 11,5 m, chiếm hơn 1/3 chiều dài toàn bộ máy bay (30 m).
Đánh giá tình trạng sẵn sàng bay là bước đầu tiên trong quá trình xin cấp phép bay. Bước tiếp theo là đánh giá độ an toàn và khả năng bay, xem xét phản ứng của đội phụ trách dự án đối với lần đánh giá gần đây nhất. Trước khi máy bay chính thức cất cánh, nhà chức trách NASA cần ký giấy phép bay. Trong khi đó, đội phụ trách sẽ chuẩn bị cho nhiều thử nghiệm trên mặt đất, tập trung vào kết hợp các hệ thống và ảnh hưởng của nhiễu điện từ với máy bay.
Nhóm nhà khoa học từ Đại học Stanford và Đại học Amsterdam tạo ra thấu kính mỏng nhất thế giới, chỉ dày ba nguyên tử.
Sơ đồ của thấu kính mỏng nhất thế giới. Ảnh: Ludovica Guarneri/Thomas Bauer
Thấu kính được thiết kế để thu thập, bẻ cong và tập trung ánh sáng vào một điểm nhất định. Điều này giúp phóng đại vật thể để điều chỉnh thị lực, cho phép con người nhìn thấy những thứ rất nhỏ qua kính hiển vi hoặc những thứ ở rất xa qua kính viễn vọng. Thấu kính thường làm bằng thủy tinh cong hoặc các vật liệu trong suốt khác, ví dụ, kính áp tròng được chế tạo từ hydrogel.
Tuy nhiên, thiết kế cổ điển này có thể khiến những thấu kính lớn trở nên dày và nặng, nhất là khi làm bằng thủy tinh. Để tiết kiệm vật liệu, thấu kính Fresnel được phát minh vào thế kỷ 19, ban đầu dùng trong các ngọn hải đăng. Thấu kính Fresnel sử dụng nhiều vòng tròn vật liệu đồng tâm để làm nhiễu xạ ánh sáng vào một điểm hội tụ. Điều này khiến độ rõ nét của hình ảnh giảm nhưng lại giúp thấu kính trở nên mỏng hơn nhiều.
Trong nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Nano Letters, nhóm nhà khoa học từ Đại học Stanford và Đại học Amsterdam tạo ra thấu kính chỉ dày 0,6 nm, hay ba nguyên tử, New Atlas hôm 1/6 đưa tin. Đây là thấu kính mỏng nhất từng được chế tạo, đánh bại kỷ lục cũ vào năm 2016 với thấu kính dày 6,3 nm, gấp khoảng 10 lần.
Thấu kính mới gồm các vòng tròn đồng tâm của vonfram disulphide, giúp hấp thụ ánh sáng đỏ chiếu đến và chiếu lại vào một điểm hội tụ cách bề mặt 1 mm. Thấu kính hoạt động bằng cách tạo ra các giả hạt (quasiparticle) tồn tại trong thời gian ngắn gọi là “exciton”. Các hạt này sau đó phân rã và phát ra ánh sáng. Vì thấu kính chỉ tập trung ánh sáng đỏ một cách chọn lọc, các bước sóng khác sẽ đi qua mà không bị ảnh hưởng. Tính chất này mang đến một số ứng dụng thú vị.
“Thấu kính có thể dùng trong các ứng dụng đòi hỏi khung cảnh nhìn qua thấu kính không bị ảnh hưởng, nhưng một phần nhỏ ánh sáng có thể được khai thác để thu thập thông tin. Điều này khiến nó trở nên lý tưởng cho những loại kính đeo như kính thực tế tăng cường (AR)”, Jorik van de Groep, chuyên gia tại Đại học Amsterdam, thành viên nhóm nghiên cứu, giải thích.
Nhóm nghiên cứu cho biết, tiếp theo, họ sẽ tìm hiểu xem có thể dùng công nghệ này để tạo ra những lớp phủ phức tạp được kích hoạt bằng các xung điện nhỏ hay không.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Linköping, Thụy Điển đã phát triển thành công một loại pin mới được chế tạo từ kẽm và lignin, có thể sạc lại hơn 8.000 lần. Sáng kiến này nhằm cung cấp một giải pháp thay thế thân thiện với môi trường và giá cả phải chăng cho các loại pin hiện có, đặc biệt là ở những khu vực có nguồn điện hạn chế. Nghiên cứu này đã được công bố trên tạp chí Energy & Environmental Materials.
Giải pháp pin thân thiện với môi trường
Pin kẽm-lignin mới chạy ổn định, có thể sử dụng trên 8.000 lần sạc trong khi vẫn duy trì khoảng 80% hiệu suất. “Các tấm pin mặt trời đã trở nên tương đối rẻ và nhiều người ở các nước có thu nhập thấp đã sử dụng chúng. Tuy nhiên, ở gần xích đạo, mặt trời lặn vào khoảng 6 giờ chiều khiến các hộ gia đình, cơ sở kinh doanh không có điện. Hy vọng rằng với công nghệ pin này, ngay cả với hiệu suất thấp hơn so với pin Li-ion đắt tiền, đây sẽ là giải pháp để giải quyết những vấn đề đó“, Giáo sư Reverant Crispin, chuyên gia về Điện tử hữu cơ tại Đại học Linköping, cho biết.
Tiến bộ trong vật liệu pin
Nhóm nghiên cứu của Giáo sư Reverant Crispin thuộc Phòng thí nghiệm Điện tử hữu cơ tại Đại học Linköping, cùng với các nhà nghiên cứu tại Đại học Karlstad và Chalmers, đã phát triển loại pin này từ kẽm và lignin – hai vật liệu tiết kiệm chi phí và thân thiện với môi trường. Mặc dù mật độ năng lượng của pin kẽm-lignin tương đương với pin axit chì, nhưng nó không chứa các chất độc hại như chì.
Pin kẽm-lignin duy trì khả năng sạc trong khoảng một tuần, lâu hơn đáng kể so với các loại pin kẽm tương tự khác. Mặc dù pin kẽm đã xuất hiện trên thị trường, chủ yếu là loại không thể sạc lại, nhưng với khả năng sạc lại được đưa vào, pin kẽm-lignin có thể dần thay thế pin lithium-ion.
Hiệu quả chi phí và tái chế
“Mặc dù pin lithium-ion rất hữu ích khi được sử dụng đúng cách, nhưng chúng có thể gây nổ, khó tái chế và gây ra các vấn đề môi trường và nhân quyền khi khai thác các nguyên tố hóa học như coban. Do đó, pin kẽm-lignin của chúng tôi cung cấp một giải pháp thay thế bền vững và hứa hẹn, nhất là trong các ứng dụng không yêu cầu mật độ năng lượng cao“, nhà nghiên cứu Ziyauddin Khan tại Phòng thí nghiệm Điện tử hữu cơ, Đại học Linköping, cho biết.
Pin kẽm thường kém bền vì kẽm phản ứng với nước trong dung dịch điện phân, tạo ra khí hydro và gây ra sự phát triển dendrit kẽm, khiến pin không thể sử dụng được. Để khắc phục vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã sử dụng chất điện phân muối nước trong polymer dựa trên polyacrylate gốc kali (WiPSE), cho thấy độ ổn định cao khi sử dụng trong pin kẽm-lignin. “Cả kẽm và lignin đều siêu rẻ và pin có thể tái chế dễ dàng. Tính toán chi phí cho mỗi chu kỳ sử dụng, pin này rẻ hơn rất nhiều so với pin lithium-ion“, Ziyauddin Khan cho biết.
Hiện tại, pin kẽm-lignin mới chỉ được phát triển trong phòng thí nghiệm với kích thước nhỏ, nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng có thể sản xuất các cục pin lớn tương đương với ắc quy ô tô nhờ nguồn lignin và kẽm giá rẻ. Tuy nhiên, việc sản xuất hàng loạt sẽ cần sự tham gia của doanh nghiệp.
Giáo sư Reverant Crispin khẳng định rằng Thụy Điển, với vị thế là một quốc gia đổi mới, có thể hỗ trợ các nước khác áp dụng các giải pháp bền vững. “Chúng ta có thể coi nhiệm vụ của mình là giúp các nước có thu nhập thấp tránh những sai lầm chúng ta đã mắc phải. Khi xây dựng cơ sở hạ tầng, họ cần bắt đầu ngay với công nghệ xanh. Nếu công nghệ không bền vững được sử dụng bởi hàng tỷ người, nó sẽ dẫn đến thảm họa khí hậu khôn lường“, ông Crispin cho biết.
Tenacity, máy bay vũ trụ vận chuyển hàng hóa cho trạm ISS, bước vào giai đoạn chuẩn bị cuối cùng cho vụ phóng đầu tiên cuối năm 2024.
Mô phỏng máy bay vũ trụ Tenacity. Ảnh: Sierra Space
Máy bay vũ trụ thương mại có cánh đầu tiên trên thế giới, Tenacity, đã tới Trung tâm Vũ trụ Kennedy của NASA ở bang Florida, Mỹ, New Atlas hôm 20/5 đưa tin. Đây là điểm đến cuối cùng trước khi máy bay này thực hiện nhiệm vụ đầu tiên tới Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS) cuối năm nay.
Sau quá trình kiểm tra nghiêm ngặt tại Cơ sở thử nghiệm Neil Armstrong tại bang Ohio, Tenacity, máy bay vũ trụ đầu tiên thuộc dòng Dream Chaser do công ty Mỹ Sierra Space chế tạo, đã có thể bắt đầu những bước chuẩn bị cuối cùng trước khi phóng, ví dụ như hoàn thiện hệ thống bảo vệ nhiệt và tích hợp tải trọng. Vụ phóng đầu tiên dự kiến diễn ra cuối năm nay, trong đó Tenacity sẽ “đi nhờ” trên tên lửa Vulcan của công ty Mỹ United Launch Alliance (ULA) để vận chuyển 3.540 kg thực phẩm, nước và các bộ thí nghiệm khoa học lên trạm ISS.
Dream Chaser được phát triển từ tháng 9/2004 và ban đầu dự kiến nằm trong chương trình Phi hành đoàn Thương mại của NASA – chương trình đưa đón các phi hành gia đến và đi khỏi trạm ISS. Tuy nhiên, nó đã bị các phương tiện của Boeing và SpaceX chiếm chỗ vào năm 2014, khi hai công ty này ký hợp đồng Khả năng Vận chuyển Phi hành đoàn Thương mại (CCtCap) trị giá 6,8 tỷ USD.
Không lâu sau, Dream Chaser được NASA chú ý trở lại. Năm 2016, một phiên bản máy bay vũ trụ nhỏ gọn hơn và không chở người được NASA chọn làm phương tiện đầu tiên thuộc loại này để chở hàng hóa quan trọng lên trạm ISS, đồng thời đưa hàng hóa từ ISS về Trái Đất.
Tenacity sẽ là chiếc đầu tiên trong đội ngũ máy bay vũ trụ kiểu thân nâng linh hoạt, có thể tái sử dụng cho những chuyến giao hàng quỹ đạo thấp. Máy bay có các bộ đẩy bên trong với ba chế độ để đáp chính xác xuống trạm ISS và cánh cố định để lao trở lại khí quyển Trái Đất và tự động hạ cánh xuống đường băng tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy.
Shooting Star, module chở hàng ghép nối với Tenacity, đã đến Trung tâm Vũ trụ Kennedy từ ngày 11/5 và sẽ không trở lại Trái Đất nguyên vẹn. Module nhỏ gọn này dài 4 m, có thể chứa tới 3.175 kg hàng hóa và thêm một khoang chứa bổ sung bên ngoài, được thiết kế để cháy rụi khi hồi quyển. Shooting Star cùng khoảng 2.590 kg rác sẽ phân rã nhờ “lò thiêu” hoạt động bằng áp suất khí quyển của Trái Đất.
Tenacity dự kiến phóng từ Tổ hợp Phóng Không gian 41 tại Trạm Lực lượng Vũ trụ Cape Canaveral và ghép nối với trạm ISS khoảng 45 ngày, sau đó “tạm biệt” module chở hàng và lao xuống để hạ cánh trên đường băng tại Trung tâm Vũ trụ Kennedy.
Sierra Space dự định vận hành một dây chuyền sản xuất để lắp ráp các module Shooting Star. Mỗi nhiệm vụ đòi hỏi một module mới do chúng không thể tái sử dụng. NASA sẽ tiến hành ít nhất 7 nhiệm vụ chở hàng với Tenacity, có thể tăng sức chở của máy bay và kéo dài nhiệm vụ thành 75 ngày trong tương lai.
Ngày 30/5/2024, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) và Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Khoa học và Công nghệ – Chìa khóa cho giảm nhẹ rủi ro thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” và Lễ trao kỷ niệm chương Vì sự nghiệp KH&CN.
Các đại biểu cùng chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo
Hội thảo là dịp để các nhà khoa học chia sẻ những kết quả nghiên cứu, những kinh nghiệm, tầm nhìn để cùng thảo luận về các hướng đi mới, các giải pháp sáng tạo, phù hợp nhằm tìm ra chìa khóa tin cậy để giảm nhẹ rủi ro thiên tai, ứng phó hiệu quả với BĐKH, bảo vệ môi trường và hướng tới phát triển bền vững.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành cho biết: Nnhững năm gần đây, chúng ta đã chứng kiến biến đổi khí hậu (BĐKH) ngày càng rõ nét, những thảm họa thiên tai với tần suất và mức độ tàn phá gia tăng. Điều này đặt ra những thách thức lớn đối với nỗ lực phát triển bền vững của các quốc gia. Vì vậy, KH&CN đóng vai trò then chốt trong việc dự báo, phòng ngừa và giảm nhẹ các rủi ro thiên tai, cũng như ứng phó hiệu quả với BĐKH và bảo vệ môi trường. Bộ TN&MT đã và đang tích cực triển khai nhiều chương trình, dự án nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Những thành tựu đạt được đã cho thấy tầm quan trọng của việc đầu tư vào KH&CN, là chìa khoá giải quyết các thách thức. “Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy rằng, để đạt được kết quả bền vững và toàn diện hơn, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các bộ, ngành và các nhà khoa học trong nước và quốc tế”, Thứ trưởng cho hay.
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái nhấn mạnh ý nghĩa “khoa học công nghệ trở thành chìa khoá” trong ứng phó BĐKH, phát triển ngành tài nguyên nước, môi trường và khoa học công nghệ nói riêng. Thứ trưởng mong muốn các nhà khoa học đẩy mạnh nghiên cứu, hướng mũi nhọn thực hiện áp dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo trong khí tượng thuỷ văn để ứng phó BĐKH, đồng thời hình thành nhóm nghiên cứu mạnh, cam kết hỗ trợ tối đa cho ứng phó BĐKH và bảo vệ môi trường.
Theo các chuyên gia, hiện nay trái đất đang đứng trước những thách thức to lớn đe dọa sự phát triển bền vững của nhân loại như bùng nổ dân số, suy thoái và cạn kiệt của các nguồn tài nguyên, suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường, những tác động khốc liệt của thiên tai, BĐKH và dịch bệnh.
Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, đổi mới sáng tạo đang được coi là giải pháp nền tảng, căn cơ và là xu thế tất yếu để các quốc gia trên thế giới giải quyết các vấn đề thời đại. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó.
Tại sự kiện, để ghi nhận, biểu dương những cống hiến, đóng góp của các nhà khoa học trong quá trình xây dựng và phát triển của Bộ KH&CN nhân dịp kỷ niệm 65 năm ngày thành lập, Bộ trưởng Bộ KH&CN đã quyết định trao tặng thưởng Kỷ niệm chương Vì sự nghiệp KH&CN đối với Giáo sư, Tiến sỹ Trần Thục, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường vì đã có những đóng góp cho hoạt động khoa học công nghệ trong suốt sự nghiệp nghiên cứu khoa học.
Tàu vũ trụ Akatsuki của Nhật Bản, hiện là tàu duy nhất hoạt động trên quỹ đạo sao Kim, mất liên lạc từ tháng trước.
Akatsuki, tàu vũ trụ duy nhất đang hoạt động trên quỹ đạo sao Kim. Ảnh: NASA
Viện Không gian và Khoa học Du hành vũ trụ (ISAS) của Nhật Bản mất liên lạc với tàu Akatsuki sau một hoạt động vào cuối tháng 4 do chế độ kiểm soát sự ổn định độ cao thấp bị kéo dài, Space hôm 30/5 đưa tin. Các chuyên gia đang nỗ lực thiết lập lại kết nối với con tàu.
Tàu vũ trụ sẽ cần duy trì được khả năng định hướng ổn định để hướng ăng-ten về phía Trái Đất và liên lạc. “Chúng tôi sẽ thông báo về các kế hoạch trong tương lai sau khi xác định rõ. Cảm ơn sự ủng hộ nồng nhiệt của các bạn”, nhóm phụ trách Akatsuki viết trên mạng xã hội X.
Akatsuki, nghĩa là “bình minh” trong tiếng Nhật, có nhiệm vụ chính là nghiên cứu khí hậu sao Kim. Đây hiện là tàu vũ trụ duy nhất của thế giới đang hoạt động trên quỹ đạo quanh hành tinh thứ hai tính từ Mặt Trời. Con tàu trị giá 300 triệu USD, phóng lên không gian vào năm 2010. Khởi đầu nhiệm vụ không mấy thuận lợi khi con tàu không thể đi vào quỹ đạo quanh sao Kim do động cơ chính gặp trục trặc.
Tuy nhiên, nhóm phụ trách Akatsuki tìm được cơ hội thứ hai. Năm 2015, sau 5 năm quay quanh Mặt Trời, Akatsuki thành công tiến vào quỹ đạo sao Kim. Con tàu thực hiện nhiều công việc khoa học từ đó đến nay, trong đó có một số quan sát gây bất ngờ.
Akatsuki đã hoàn thành nhiệm vụ chính của mình. Con tàu bắt đầu giai đoạn hoạt động mở rộng vào năm 2018. Kể cả khi không thể được “cứu” lần này, con tàu cũng đã chứng minh khả năng giải quyết vấn đề của các kỹ sư tại Cơ quan Thám hiểm Hàng không Vũ trụ Nhật Bản (JAXA) và nâng cao hiểu biết của nhân loại về khí hậu và động lực khí quyển của sao Kim.
Kể cả khi Akatsuki dừng hoạt động, sao Kim cũng sẽ không thiếu “bạn đồng hành” lâu. Giới khoa học đặc biệt quan tâm đến lý do sao Kim hứng chịu hiệu ứng nhà kính dữ dội, trở thành hành tinh nóng nhất hệ Mặt Trời, và những dấu hiệu sinh học tiềm năng trong khí quyển. Các tàu vũ trụ mới từ NASA, Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA), Ấn Độ và một công ty tư nhân có thể sẽ bay tới sao Kim cuối thập kỷ này.
BÌNH ĐỊNH Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ (ASISOV) nghiên cứu thành công hạt giống hành tím thay thế củ giống, giúp giảm nhân công, năng suất tăng gấp đôi.
ASISOV trụ sở tại TP Quy Nhơn vừa nghiên cứu và xây dựng thành công quy trình nhân giống hành tím nguồn gốc Ninh Thuận, Quảng Ngãi bằng hạt giống.
ThS Lê Đức Dũng – ASISOV giới thiệu lợi ích của quy trình nhân giống hành tím bằng hạt giống. Ảnh: Thảo Chi
Ninh Thuận và Quảng Ngãi vốn là hai địa phương nổi tiếng với nghề trồng hành tím. Nhưng lâu nay người dân vốn thường phải mua củ giống với chi phí cao, cách làm này cũng tốn nhiều công lao động của người nông dân, nên việc nghiên cứu hạt giống là cần thiết.
Theo ASISOV, hiện trong nước có một số nghiên cứu từ giống nhập khẩu, song chi phí cao hơn, thời gian dài, rủi ro cao nếu giống thích ứng không tốt. Giống nhập khẩu có thể mang theo các mầm bệnh hoặc sâu bệnh mới, gây rủi ro cho hệ sinh thái địa phương. Do đó, viện sử dụng giống hành tại hai địa phương nói trên.
Công nghệ nhân giống hành tím bằng hạt giống được ASISOV nghiên cứu bao gồm hai phương pháp chính là nhân giống bằng hạt OP và nhân giống bằng hạt lai F1. Nhân giống bằng hạt OP là hạt giống thụ phấn tự nhiên, tức là các cây tự thụ phấn và tạo ra hạt giống. Nhân giống bằng hạt lai F1 là sử dụng các cây bố mẹ cơ bản để lai tạo nhằm tạo ra thế hệ mới.
Quy trình nhân giống hành tím bằng hạt OP bắt đầu bằng việc chọn lọc và phục tráng các dòng hành tím địa phương qua 3 thế hệ. Quá trình thụ phấn tự nhiên được thực hiện bằng ong. Sau đó, cây con mọc từ hạt OP được gieo ươm trong khay, chăm sóc cẩn thận trong điều kiện nhà lưới.
Trong quy trình nhân giống bằng hạt lai F1, một giống hành tím địa phương được chọn làm dòng bố mẹ, trong khi một dòng hành tím đặc biệt không thể tự thụ phấn (bất dục đực) được lựa chọn làm dòng mẹ. Quá trình thụ phấn được thực hiện nhờ các loài ong giao phấn. Từ việc lai tạo này, hạt lai F1 được hình thành. Cây con mọc từ những hạt lai F1 này được gieo ươm trong khay và chăm sóc cẩn thận trong điều kiện nhà lưới.
Sau khi hạt được gieo ươm từ 45-60 ngày, các cây con mọc lên từ hạt OP và hạt lai F1 đều được đưa ra trồng tại ruộng sản xuất. Sau khoảng 90-100 ngày tiếp theo là có thể thu hoạch củ hành thương phẩm hoặc giữ lại làm củ giống cho vụ sau.
Hành tím thương phẩm từ mô hình nghiên cứu có kích thước lớn, đồng đều. Ảnh: Thảo Chi
Trồng hành tím bằng hạt giống đem lại nhiều lợi ích vượt trội so với trồng bằng củ giống truyền thống. Theo TS Vũ Văn Khuê – Phó Viện Trưởng ASISOV, vì được nhân giống hữu tính nên cây hành từ hạt giống khỏe mạnh hơn, tỷ lệ sống cao, củ hành to hơn và khả năng chống chịu cũng tốt hơn.
ThS Lê Đức Dũng – Phó Bộ môn Rau, Hoa và Cây cảnh thuộc ASISOV cho biết, đơn vị đã thử nghiệm thành công mô hình trồng cây hành tím từ hạt OP và hạt lai F1. Dù mới chỉ ở quy mô nhỏ, nhưng theo đánh giá năng suất hành tím trồng từ hạt có thể tăng gấp đôi so với trồng từ củ giống truyền thống. Cụ thể, hành tím giống OP cho năng suất 25 tấn/ha, trong khi giống lai F1 là 30 tấn/ha, gấp đôi năng suất hành trồng từ củ giống trung bình 15-20 tấn/ha.
Bên cạnh đó, sử dụng hạt giống trong canh tác hành tím giúp tiết kiệm đáng kể chi phí đầu vào. Với phương pháp dùng củ giống, quy mô 1 ha, tùy theo kích cỡ củ giống, nông dân phải chi từ 2-3 tấn củ, tương đương từ 80 triệu đến 195 triệu đồng chi phí mua giống. Thêm vào đó, điều kiện nắng nóng của vụ hè thu khiến tỷ lệ hao hụt củ giống cao, buộc người trồng phải sử dụng lượng giống nhiều hơn, lên tới 3 tấn/ha.
Với hạt giống, diện tích 1 ha chỉ cần khoảng 1 kg hạt giống có thể gieo ra đủ cây con khoảng 60 triệu đồng, giảm hơn một nửa chi phí so với củ giống. Nhờ đặc điểm nhỏ gọn, hạt giống dễ dàng vận chuyển và cũng không chiếm nhiều diện tích bảo quản nếu bảo quản trong điều kiện lạnh.
Ngoài ra, phương pháp trồng hành tím sử dụng củ giống truyền thống tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc sản xuất liên tục qua các vụ khiến củ giống dần tích lũy sâu bệnh hại trong tầng đế củ, làm suy giảm chất lượng, củ hành thương phẩm nhỏ đi và ảnh hưởng đến năng suất. Bên cạnh đó, chi phí vận chuyển và bảo quản củ giống quá lâu cũng gây tốn kém cho người trồng. Cụ thể, sau thu hoạch, nông dân phải bảo quản củ giống ít nhất 2 tháng mới đủ điều kiện trồng, tốn chi phí thuê kho bãi, nhân công làm đảo và phơi củ. Ngay cả khi đã nằm trong kho, củ giống vẫn cần được thường xuyên đảo trộn để thông gió. Những chi phí tốn kém này khiến giá thành củ giống hành tím truyền thống tăng cao, gây khó khăn cho người sản xuất.
Trong khi đó, với hạt giống, do được sản xuất trong điều kiện khép kín nên hạt giống cũng sạch hơn, củ hành thu hoạch đồng đều và to hơn.
TS Hồ Huy Cường, Viện trưởng ASISOV xác nhận, công nghệ nhân giống hạt OP và hạt lai F1 cho hành tím mà Viện đã nghiên cứu thành công không chỉ khắc phục hiện tượng thoái hóa giống hành mà còn mang lại nhiều lợi ích vượt trội. Nhờ được sản xuất trong điều kiện kiểm soát, hạt giống của công nghệ mới giúp cây hành có khả năng chống chịu tốt hơn với thời tiết khắc nghiệt hay dịch hại, đảm bảo sản lượng ổn định. Đặc biệt, độ đồng đều về kích cỡ và chất lượng của củ hành thu hoạch cũng được cải thiện đáng kể, góp phần nâng cao năng suất củ thương phẩm.
TS Hồ Huy Cường, Viện trưởng ASISOV giới thiệu mô hình nghiên cứu giống hành tím với GS.TS Phạm Văn Toản – Phó Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Ảnh: Thảo Chi
Sau giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm thành công, ASISOV sẽ triển khai sản xuất đại trà công nghệ hạt giống hành tím, dự kiến từ năm 2025. Theo TS Vũ Văn Khuê, ASISOV dự kiến chuyển giao công nghệ mới này theo 3 hình thức, đó là chuyển giao hạt giống, cung cấp cây con, và cung cấp củ giống. Trong đó, giống hành tím nhân giống hạt OP được dùng để phục vụ cho nhu cầu sản xuất nội địa, dùng để ăn tươi, làm gia vị. Còn giống hành tím được nhân giống hạt lai F1 sẽ được sản xuất quy mô lớn và bán hạt giống để nông dân tự gieo thành cây con để trồng, hoặc bán củ thương phẩm làm nguyên liệu chế biến hành phi.
“Nghiên cứu mới này sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Điều này không chỉ tạo thuận lợi cho việc chủ động nguồn cung cấp nguyên liệu hành tím trong nước, mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hành tím”, lãnh đạo ASISOV nói.
Theo GS Trần Thục, các công nghệ, mô hình dự báo thiên tai đã cho thấy rõ vai trò của tiến bộ khoa học, song cần nghĩ tới việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo để có thể dự báo sớm hơn.
Thông tin được GS Trần Thục, Chủ tịch Hội Khí tượng Thủy văn Việt Nam cùng nhiều nhà khoa học nêu tại hội thảo “Khoa học và công nghệ – chìa khóa cho giảm nhẹ rủi ro thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững” do Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu và Văn phòng các Chương trình Trọng điểm Quốc gia phối hợp tổ chức, chiều 30/5.
GS Thục dẫn nhiều thông tin khẳng định khoa học công nghệ thể hiện rõ vai trò trong quan trắc, phân tích và dự báo khí tượng thủy văn. Ông cho hay hệ thống quan trắc và truyền số liệu khí tượng thủy văn được cải tiến nhiều nhờ khoa học công nghệ. Hiện nhiều trạm quan trắc tự động dần thay quan trắc thủ công, radar thời tiết, định vị sét, vệ tinh; việc truyền tin qua internet, vệ tinh theo thời gian gần thực, dạng số dễ phân tích. “Việc phân tích tính toán được thực hiện với siêu máy tính, công nghệ tính toán”, GS Thục nói.
GS Trần Thục khẳng định khoa học công nghệ đang thể hiện rõ tầm quan trọng trong công tác dự báo thiên tai. Ảnh: LD
GS Thục cho hay các công nghệ dự báo, mô hình toán đã được áp dụng song cần quan tâm đến áp dụng trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số trong dự báo. Ông đánh giá việc sử dụng hạ tầng chuyển đổi số hiện nay mới chỉ có dữ liệu đo đạc khí tượng thủy văn, chưa có cơ sở dữ liệu lớn về các hình thái thời tiết, điều kiện hình thành và tiến triển thiên tai trong quá khứ. Ông đề xuất các nhà khoa học trẻ phát triển đề tài nghiên cứu, xây dựng chuỗi đề tài từ dữ liệu lớn đến các công nghệ để ứng dụng khoa học trong mục tiêu giảm thiểu rủi ro thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu.
Thứ trưởng Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cũng chỉ ra những lo ngại khi biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét. Theo ông, những thảm họa thiên tai với tần suất và mức độ tàn phá gia tăng đặt ra những thách thức lớn đối với nỗ lực phát triển bền vững của các quốc gia. Trong bối cảnh đó khoa học và công nghệ đóng vai trò then chốt trong dự báo, phòng ngừa và giảm nhẹ các rủi ro thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Thứ trưởng Lê Công Thành phát biểu tại hội thảo. Ảnh: LD
Ông cho biết, nhiều chương trình, dự án nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm bảo vệ môi trường và phát triển bền vững được triển khai. Lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường mong muốn các nhà khoa học thảo luận các hướng đi mới, giải pháp sáng tạo, nhằm tìm ra chìa khóa tin cậy để giảm nhẹ rủi ro thiên tai, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và hướng tới phát triển bền vững.
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái cũng kỳ vọng các nhà khoa học đẩy mạnh nghiên cứu, hướng mũi nhọn thực hiện áp dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo trong khí tượng thủy văn để ứng phó biến đổi khí hậu, đồng thời hình thành nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực.
Thứ trưởng Trần Hồng Thái phát biểu tại sự kiện chiều 30/5. Ảnh: LD
GS.TS Trần Đình Hòa, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam dẫn nhiều thông tin cho thấy công nghệ mới như điện toán đám mây, IoT, dữ liệu lớn (Big Data) hay trí tuệ nhân tạo đang được nhiều nước thế giới ưu tiên sử dụng trong các nghiên cứu về biến đổi khí hậu, rủi ro thiên tai. “Để xây dựng các kịch bản, dự báo để ứng phó biến đổi khí hậu cần thiết ứng dụng giải pháp công nghệ tiên tiến”, ông nói.
Ông cho hay, các giải pháp khoa học công nghệ đang được ứng dụng và mang hiệu quả tại Việt Nam. Hiện Việt Nam đã làm chủ công nghệ tính toán dự báo ngập lụt tiên tiến, xây dựng hệ thống dự báo lũ lụt theo thời gian thực. Theo GS Hòa các công nghệ mới được ứng dụng xây dựng bản đồ rủi ro ngập lũ theo các kịch bản và giải pháp giảm thiểu rủi ro các khu vực tập trung đông dân cư, đô thị miền núi Bắc Bộ.
Còn TS Hoàng Đức Cường, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng Thủy văn cho hay việc áp dụng công nghệ 4.0 toàn diện vào các khâu, lĩnh vực ngành khí tượng giúp tạo giá trị mới và sản phẩm đột phá trong phòng chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. TS Cường nêu ứng dụng công nghệ số trong quan trắc như quan trắc bề mặt, viễn thám và các dữ liệu chuyên dùng, hay như công nghệ dự báo cảnh báo bão lũ.