TP HCM có trung tâm kết nối các nguồn lực khoa học công nghệ

Trung tâm phát triển dịch vụ và khai thác hạ tầng khoa học công nghệ (CSID) được thành lập để kết nối các nguồn lực thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường.

CSID thuộc Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ ra mắt chiều 24/5, với mục tiêu kết nối các nguồn lực cung cấp các dịch vụ khoa học công nghệ, khai thác hạ tầng khoa học công nghệ, hỗ trợ đổi mới sáng tạo… Đơn vị có chức năng chủ trì, phối hợp với các tổ chức khoa học công nghệ, doanh nghiệp huy động nguồn lực triển khai các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, đổi mới, chuyển giao công nghệ.

Các lĩnh vực CSID hợp tác, ưu tiên hỗ trợ như năng lượng, vật liệu mới, trí tuệ nhân tạo, nông nghiệp xanh, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, logistics… Đây cũng là đơn vị tổ chức các hoạt động tuyên truyền, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp đưa nhanh các kết quả nghiên cứu vào cuộc sống. CSID thực hiện các hội nghị hội thảo về khoa học công nghệ, đào tạo quản trị tài sản trí tuệ, hợp tác quốc tế, kết nối các nhà đầu tư…

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó chánh Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ nói, đây là mô hình cung cấp dịch vụ nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nhà khoa học với doanh nghiệp, giúp thương mại hóa sản phẩm ra thị trường.

Ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó chánh Văn phòng Bộ Khoa học và Công nghệ (phải) trao giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ cho CSID. Ảnh: Hà An

Ông Nguyễn Mạnh Cường (phải) trao giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ cho CSID. Ảnh: Hà An

CSID sẽ kết nối với các đối tác cung cấp hạ tầng về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng… phục vụ phát triển sản phẩm, hàng hóa. “Trung tâm được kỳ vọng là điểm tích hợp các dịch vụ hỗ trợ cộng đồng thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ”, ông Cường nói và mong muốn nhận được sự đồng hành của nhà khoa học, tổ chức, doanh nghiệp tham gia để cùng đạt mục tiêu chung.

Phát biểu chúc mừng, nguyên Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân mong muốn CSID là đơn vị đi tiên phong trong việc tổ chức hoạt động theo mô hình sàn giao dịch công nghệ tại khu vực phía Nam, giúp đưa khoa học công nghệ vào cuộc sống.

Tại lễ ra mắt CSID ký kết với hơn 10 đơn vị là các viện nghiên cứu, tổ chức dịch vụ, doanh nghiệp nhằm phối hợp các hoạt động nghiên cứu chính sách, đào tạo sở hữu trí tuệ, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, xúc tiến thương mại, chuyển giao công nghệ…

Hà An

Tiến sĩ người Việt đưa công nghệ điều trị ung thư máu về nước

Sau gần 20 năm nghiên cứu, tiếp xúc với các tiến bộ trong ngành khoa học y ở Đức, TS Lê Đức Dũng đã tìm cách chuyển giao các công nghệ điều trị bệnh ung thư máu về Việt Nam.

TS Lê Đức Dũng làm trưởng nhóm nghiên cứu chuyên sâu về ung thư máu tại Bệnh viện đại học Wuerzburg (Đức). Nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực y sinh, anh được tiếp xúc với phương pháp điều trị ung thư mới, đặc biệt là các phương pháp trị liệu miễn dịch (Immunotherapy). “Mục tiêu của các phương pháp điều trị ung thư hiện đại là đưa bệnh ung thư từ cấp tính, ác tính thành mạn tính hoặc khỏi hẳn, từ đó kéo dài sự sống cho người bệnh”, anh Dũng chia sẻ.

Tiến sĩ Lê Đức Dũng tại phòng làm việc. Ảnh: NVCC

Tiến sĩ Lê Đức Dũng tại phòng làm việc. Ảnh: NVCC

TS Lê Đức Dũng cho biết, trong trị liệu miễn dịch chữa ung thư máu có ba phương pháp chủ chốt gồm kháng thể đặc hiệu kép (Bispecific antibodies), CAR-T cells và ghép tủy đồng loài (Allogeneic stem cell transplantation).

Trong đó, kháng thể đặc hiệu kép là phương pháp sử dụng kháng thể nhân tạo để liên kết đồng thời tế bào ung thư với tế bào miễn dịch như tế bào T, giúp tế bào miễn dịch nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư hiệu quả.

CAR-T là liệu pháp chỉnh sửa gene cho tế bào T để biểu hiện thụ thể kháng nguyên khảm (chimeric antigen receptor – CAR) giúp tăng cường nhận diện và tiêu diệt tế bào ung thư, sau đó được nhân lên và truyền lại vào cơ thể bệnh nhân nhằm tấn công các tế bào ung thư.

Ghép tủy đồng loài là liệu pháp thay thế tủy xương của bệnh nhân bằng tế bào gốc tạo máu khỏe mạnh từ người hiến tặng.

Các phương pháp trị liệu miễn dịch chống ung thư này đã cho thấy hiệu quả cao và được kiểm chứng trên nhiều bệnh nhân ung thư máu ở Đức, kể cả với bệnh nhân diễn biến nặng, tái phát nhiều lần hoặc đã nhờn với các phương pháp điều trị ung thư truyền thống. TS Dũng quyết tâm giới thiệu các phương pháp trị liệu miễn dịch hiện đại về cho các bệnh viện Việt Nam.

Anh bắt đầu lên kế hoạch cho việc kết nối và chuyển giao công nghệ điều trị ung thư máu từ năm 2018. “Tôi được hai lãnh đạo là GS Hermann Einsele – Giám đốc BV nội khoa, BV Đại học Wuerzburg và GS Paul-Gerhardt Schlegel – chuyên gia hàng đầu về huyết học nhi ở Đức lúc đó ủng hộ nhiệt tình”, TS Dũng kể lại.

Bước đầu, anh đã đứng ra tổ chức nhiều cuộc meeting online với sự tham gia của các GS tại bệnh viện Đại học Wuerzburg và các bệnh viện của Việt Nam. Tháng 3/2023, hai đoàn chuyên gia Y tế Đức do GS Einsele và GS Schlegel dẫn đầu cùng TS Lê Đức Dũng đã đến Việt Nam. Đoàn đã đến thăm và làm việc tại một số cơ sở điều trị ung thư lớn của Việt Nam như BV Bạch Mai, Bệnh viện K Trung ương, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Đại học Y Dược Hải Phòng… Các lần gặp này hai bên đã trao đổi phương án đào tạo, chuyển giao các phương pháp điều trị ung thư mới.

Vào tháng 7/2023, TS Dũng một lần nữa đứng ra làm cầu nối đưa đoàn đại diện Bộ Y tế Việt Nam cùng các bác sĩ BV Nhi TƯ sang thăm và làm việc với BV ĐH Wuerzburg, Đức. Ở lần gặp mặt này, hai bên đã ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác chính thức giữa hai quốc gia.

Trong các nội dung chuyển giao công nghệ điều trị ung thư của Đức cho Việt Nam, cả ba phương pháp chủ chốt của trị liệu miễn dịch là kháng thể đặc hiệu kép, CAR-T cells và ghép tủy đồng loài đang dần được chuyển giao.

Buổi ký kết hợp tác giữa BV ĐH Wuerzburg và BV Nhi TW Hà Nội tại Đức, tháng 7/2023. Ảnh: NVCC

Đoàn chuyên gia Đại học Wuerzburg về thăm và làm việc tại BV Nhi TƯ Hà Nội tháng 3/2023 . Ảnh: NVCC

TS Lê Đức Dũng cho biết, để áp dụng được các công nghệ điều trị hiện đại, cần có một nền khoa học tốt để hỗ trợ, một lực lượng bác sĩ có trình độ chuyên môn và có kiến thức khoa học, có kinh nghiệm nghiên cứu để có thể hiểu, nắm bắt được kiến thức nguyên lý sâu xa của các phương pháp điều trị. “Điểm này chúng ta đang rất hạn chế”, anh nói và cho biết đây là khó khăn khi thực hiện các chuyển giao. Kế hoạch chuyển giao và thời gian đào tạo có thể dài hơn dự kiến ban đầu.

Tuy vậy TS Lê Đức Dũng không có ý định bỏ cuộc. Anh cho rằng một khi đã có cơ hội được tiếp xúc với nền khoa học hiện đại, hiểu rõ được khoảng cách giữa y tế Đức và y tế Việt Nam thì việc cần làm là nỗ lực thúc đẩy hợp tác để rút ngắn khoảng cách đó.

TS Lê Đức Dũng sinh năm 1981 ở Nghệ An. Anh tốt nghiệp Đại học Leibniz Hannover (Đức) chuyên ngành miễn dịch học, hóa sinh và vi sinh năm 2010. Sau đó, anh theo học tiến sĩ ngành y học phân tử tại Đại học Y khoa Hannover và Bệnh viện Đại học Saarland.

Mai Ngọc

Cập nhật thông tin khoa học và công nghệ về trang thiết bị y tế Việt Nam năm 2024

“Thiết bị y tế đóng vai trò rất quan trọng trong ngành y tế, là thành tố có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của công tác y tế. Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) trong y tế đã hỗ trợ đắc lực cho đội ngũ bác sỹ trong công tác chẩn đoán, theo dõi và điều trị bệnh nhân một cách chính xác, an toàn và hiệu quả”. Đây là nhận định của các chuyên gia trong Hội thảo quốc gia thường niên về “Nâng cao năng lực quản lý, cập nhật thông tin KH&CN trang thiết bị y tế” do Hội Thiết bị Y tế Việt Nam tổ chức trong 2 ngày (từ 24 đến 25/05/2024) tại TP Đà Nẵng.

Bên cạnh các thông tin cập nhật, những kiến thức KH&CN mới trong lĩnh vực thiết bị y tế, Hội thảo năm nay còn thảo luận những vấn đề quản lý đang rất “nóng” ở các cơ sở y tế trong quá trình triển khai thực hiện: quy định mới về đấu thầu, triển khai mua sắm, thanh, quyết toán trang thiết bị y tế; chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế…

TS Nguyễn Minh Lợi – Cục trưởng Cục Cơ sở hạ tầng và Thiết bị y tế, Bộ Y tế phát biểu tại Hội thảo.

Phát biểu tại Hội thảo, TS Nguyễn Minh Lợi – Cục trưởng Cục Cơ sở hạ tầng và Thiết bị y tế, Bộ Y tế đánh giá cao những kết quả mà Hội Thiết bị Y tế Việt Nam đã đạt được trong thời gian vừa qua. Cục trưởng nhấn mạnh: trải qua 22 năm thành lập, Hội Thiết bị Y tế Việt Nam luôn là đơn vị đồng hành với cơ quan quản lý thiết bị y tế của Bộ Y tế. Bên cạnh vai trò là cơ quan tham mưu, tư vấn, phản biện về chính sách, Hội Thiết bị Y tế Việt Nam còn là cơ quan tổ chức các diễn đàn liên quan đến ứng dụng KH&CN trong quản lý và sử dụng thiết bị y tế tại các tuyến y tế cơ sở.

Cục trưởng Nguyễn Minh Lợi cho biết thêm, Hội Thiết bị Y tế Việt Nam cùng với Cục Cơ sở hạ tầng và Thiết bị y tế đang triển khai phối hợp thực hiện khảo sát đánh giá xây dựng khung Luật Thiết bị y tế. Với vai trò cầu nối, Hội Thiết bị Y tế Việt Nam sẽ tổng hợp các ý kiến khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn thi hành pháp luật về thiết bị y tế, cùng với đề xuất về các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý trang thiết bị y tế của các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thiết bị y tế, để báo cáo với Bộ Y tế xây dựng khung Luật Thiết bị y tế trình Chính phủ.

Bên cạnh đó, thông tin từ Cục Cơ sở hạ tầng và Thiết bị y tế cũng nhấn mạnh, đến năm 2025, toàn bộ các thiết bị y tế lưu hành trên thị trường sẽ được thống nhất quản lý theo số lưu hành có giá trị không thời hạn và không còn hình thức giấy phép nhập khẩu theo hình thức thương mại.

Trong khuôn khổ Hội thảo, bà Ngô Chí Linh – Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hướng dẫn triển khai thực hiện Luật Đấu thầu 2023 và Nghị định số 23/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án thuộc trường hợp phải tổ chức đấu thầu theo quy định của pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực. Theo bà Ngô Chí Linh, khung pháp lý về đấu thầu đã cơ bản được hoàn thiện, mẫu hồ sơ mời thầu sẽ được ban hành trong quý III năm nay. Theo đó, một số điểm mới trong Luật Đấu thầu cần lưu ý bao gồm: dự toán mua sắm, hành vi bị cấm trong đấu thầu, yêu cầu với thành viên, tổ chuyên gia, tổ thẩm định, cơ sở dữ liệu quốc gia về nhà thầu, chất lượng hàng hóa, chỉ định thầu, đàm phán giá… Chính phủ đã giao Bộ Y tế có trách nhiệm ban hành mẫu hồ sơ lựa chọn nhà thầu đối với thuốc; hướng dẫn về nguyên tắc, tiêu chí, tổng hợp nhu cầu để lập danh mục thuốc mua sắm tập trung; thời gian dự kiến tổ chức lựa chọn nhà thầu…; đặc biệt là nghiên cứu hướng dẫn về phân nhóm thiết bị y tế theo tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng. Bà Ngô Chí Linh tin tưởng rằng, sau khi các thiết bị y tế được phân nhóm, cùng với việc được nêu xuất xứ trong hồ sơ mời thầu, các bệnh viện sẽ mua được các thiết bị y tế chất lượng tốt đúng với nhu cầu.

Một trong những dấu ấn trong Hội thảo năm nay phải kể đến các báo cáo liên quan đến giáo dục và đào tạo y tế mô phỏng. Ngoài các kỹ năng lâm sàng, giáo dục mô phỏng đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao kỹ năng phẫu thuật và khả năng ra quyết định. Các bác sỹ phẫu thuật được đào tạo có thể thực hành các quy trình phức tạp trên các thiết bị mô phỏng với độ chính xác cao, điều này giúp họ phát triển khả năng nhạy bén tình huống – yếu tố rất quan trọng đối với các bác sỹ phẫu thuật.

Hơn nữa, giáo dục y tế mô phỏng còn đóng vai trò là chất xúc tác cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ y tế: là nơi thử nghiệm các thiết bị, công cụ và kỹ thuật mới, cung cấp dữ liệu và phản hồi có giá trị; thu hẹp khoảng cách giữa nghiên cứu và ứng dụng tại giường bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các khám phá khoa học thành lợi ích hữu hình cho bệnh nhân; thúc đẩy tinh thần đồng đội và giao tiếp giữa các chuyên gia chăm sóc sức khỏe…

Hội thảo đã thu hút gần 400 đại biểu đến từ các cơ quan quản lý, bệnh viện, trường đại học, công ty sản xuất và phân phối thiết bị y tế. Trong khuôn khổ Hội thảo, đã có hơn 20 báo cáo được trình bày bởi các nhà quản lý, các chuyên gia, nhà cung cấp giải pháp trang thiết bị y tế: định hướng xây dựng hệ thống thông tin thiết bị y tế quốc gia; thanh toán vật tư theo chế độ bảo hiểm y tế; ứng dụng mô hình đào tạo mô phỏng trong điều trị nội soi; ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong y tế của Fujifilm Việt Nam; xu thế mới về chất lượng điện cho thiết bị y tế…

Trong khuôn khổ Hội thảo, Công ty Mindray Việt Nam đã trao tặng 2 máy monitor 6 thông số với giá trị 250 triệu đồng cho Trung tâm Y tế huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.

BL

Nâng cao hiệu quả công tác kế hoạch – tài chính KH&CN, đáp ứng cao nhất yêu cầu nhiệm vụ

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao công tác kế hoạch – tài chính thời gian qua đã tập trung vào tổng hợp, đề xuất, trình phân bổ kinh phí sự nghiệp KH&CN cho toàn ngành có hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác tài chính có tác động lớn đến toàn ngành KH&CN hiện đang được Bộ KH&CN rà soát để sửa đổi, bổ sung cần được tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức KH&CN, cũng như các nhà quản lý, nhà khoa học triển khai nhiệm vụ.

Nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả thực hiện công tác quản lý kế hoạch – tài chính của Bộ KH&CN, từ ngày 24-25/5/2024, tại Đà Nẵng, Bộ KH&CN đã tổ chức Hội thảo “Nâng cao hiệu quả quản lý kế hoạch – tài chính và triển khai nhiệm vụ năm 2024”. Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, Thứ trưởng Lê Xuân Định tham dự và chỉ đạo Hội thảo. Tham dự Hội thảo còn có đại diện Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư; cùng đại diện Lãnh đạo, cán bộ phụ trách công tác kế toán – tài chính của các đơn vị trong Bộ.

Toàn cảnh Hội thảo.

Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính (Bộ KH&CN) Nguyễn Nam Hải cho biết, Hội thảo trao đổi về các nội dung cần lưu ý trong xây dựng kế hoạch khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) của Bộ; sự phối hợp giữa các đơn vị trong quá trình xây dựng kế hoạch, những điểm thuận lợi, khó khăn, các vấn đề cần phát huy, khắc phục… nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.

Vụ trưởng Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính Nguyễn Nam Hải phát biểu tại Hội thảo.

Phát biểu chỉ đạo tại Hội thảo, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt khẳng định, một trong những nhiệm vụ ưu tiên trong năm 2024 của Bộ KH&CN là tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực KH,CN&ĐMST. Trong đó, việc sửa đổi quy định về đầu tư, cơ chế tài chính và xử lý tài sản đối với các hoạt động KH&CN được coi là giải pháp căn cốt. Bên cạnh đó, Bộ KH&CN cũng đang tiếp tục triển khai Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030; triển khai các Chương trình, nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia đến năm 2030, trong đó công tác kế hoạch – tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng.

Bộ trưởng đánh giá cao công tác kế hoạch – tài chính thời gian qua đã tập trung tổng hợp, đề xuất, trình phân bổ kinh phí sự nghiệp KH&CN cho toàn ngành có hiệu quả. Đồng thời, nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác tài chính có tác động lớn đến toàn ngành KH&CN cũng đang được rà soát sửa đổi, bổ sung như: Nghị định 95/2014/NĐ-CP quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KH&CN, Nghị định số 70/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc quản lý, sử dụng tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng vốn nhà nước. Đây đều là những văn bản quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các tổ chức KH&CN và đến việc triển khai các nhiệm vụ KH&CN các cấp.

Bộ trưởng đánh giá cao công tác kế hoạch – tài chính thời gian qua.

“Tôi đề nghị Vụ Kế hoạch – Tài chính cần thúc đẩy việc phổ biến rộng rãi các quy định, chính sách pháp luật này đến các tổ chức KH&CN, cũng như các nhà khoa học và quản lý khoa học”, Bộ trưởng cho biết thêm.

Các tham luận tại Hội thảo tập trung vào các nội dung: Giới thiệu một số nội dung mới tại Thông tư 24/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán hành chính, sự nghiệp; Một số nội dung cần lưu ý trong xây dựng kế hoạch KH, CN&ĐMST năm 2025 của Bộ KH&CN; Một số điểm mới của Luật đấu thầu năm 2023, trong đó có những điểm được đánh giá là “cởi trói” cho nhà khoa học…

Sau khi nghe các tham luận, các đại biểu tham dự Hội thảo đã thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình triển khai các hoạt động về công tác tài chính – kế toán, xây dựng phương án tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập; mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản công, triển khai xử lý tài sản tại đơn vị…

Thứ trưởng Lê Xuân Định phát biểu kết luận tại Hội thảo.

Phát biểu kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Lê Xuân Định đề nghị lãnh đạo các đơn vị quán triệt các nội dung đã được trao đổi, thảo luận trong Hội thảo; xây dựng các phương án, giải pháp để triển khai trong từng đơn vị, nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng kế hoạch, quản lý tài chính của các đơn vị trong Bộ, phát huy tối đa nguồn lực, góp phần triển khai và thực hiện tốt những nhiệm vụ được giao, giúp cho công tác kế hoạch – tài chính của ngành đạt hiệu quả cao hơn nữa trong thời gian tới.

Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Giải pháp chống hàng giả từ công nghệ tem chip điện tử thông minh

Thời gian qua, lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý nhiều vụ việc về hàng giả, hàng nhái, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ của các nhãn hiệu, doanh nghiệp nổi tiếng. Viện trưởng Viện Phát triển doanh nghiệp Lương Minh Huân cho biết, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, các vụ việc vi phạm còn xuất hiện phổ biến và tinh vi hơn trên các kênh thương mại điện tử với quy mô, tốc độ ngày càng lớn. Vấn nạn này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế, quyền lợi của người tiêu dùng mà còn tác dụng đến giá trị thương hiệu của các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Để ngăn chặn tình trạng này và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tăng cường cạnh tranh lành mạnh, áp dụng giải pháp truy xuất nguồn gốc hàng hóa là giải pháp tốt và mang lại nhiều lợi ích. Trong đó, công nghệ truy xuất nguồn gốc TrueData là một giải pháp công nghệ được Công ty CP công nghệ chống giả Việt Nam nghiên cứu và phát triển.

Truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hoá là cần thiết

Để giúp các doanh nghiệp thực hiện việc truy xuất nguồn gốc hàng hóa, các cơ quan nhà nước đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý liên quan. Thời gian qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ trì, phối hợp các bộ có liên quan xây dựng và công bố 30 tiêu chuẩn quốc gia về truy xuất nguồn gốc. Trong đó, Bộ đã ban hành Thông tư số 02/2024/TT-BKHCN về quản lý truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa. Theo đó, các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, dịch vụ thực hiện truy xuất nguồn gốc hàng hóa khi xây dựng dữ liệu phải đảm bảo tối thiểu 10 thông tin cơ bản về: tên, hình ảnh sản phẩm, tên đơn vị sản xuất kinh doanh, địa chỉ, công đoạn trong sản xuất, thời gian sản xuất, mã truy xuất nguồn gốc, thương hiệu, thời hạn sử dụng, các tiêu chuẩn quốc gia… Thông tin này được in mã gắn trên bao bì sản phẩm và được kết nối với Cổng thông tin truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa quốc gia. Người tiêu dùng có thể tra cứu hạn sử dụng, nguồn gốc của sản phẩm.

Việc truy xuất nguồn gốc giúp doanh nghiệp kiểm soát chặt chẽ các khâu trong quá trình sản xuất sản phẩm, các chuỗi cung ứng liên quan, góp phần hỗ trợ hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa từ khi sản xuất khi đến tay người tiêu dùng. Điều này giúp hạn chế tình trạng sản phẩm, hàng hóa kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ lưu thông trên thị trường. Truy xuất nguồn gốc cũng giúp ngăn chặn việc sao chép không hợp pháp và sản xuất hàng giả. Các thông tin chi tiết về nguồn gốc và quá trình sản xuất giúp phân biệt sản phẩm chính hãng với hàng giả.

 

Giải pháp công nghệ truy xuất nguồn gốcTrueDate là gì?

 

Truedata là một giải pháp toàn diện, kết hợp giữa việc thu thập dữ liệu tự động bằng chip (RFID)  và công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) cùng Blockchain để ghi nhận, lưu trữ và quản lý thông tin của sản phẩm. Đây là công nghệ nhận dạng đối tượng bằng sóng vô tuyến (sóng ngắn HF tương tác với công nghệ kết nối không dây trong phạm vi tầm ngắn – NFC để đưa dữ liệu vào chip, sóng dài UHF nhận diện đối tượng từ xa), giám sát, quản lý và lưu vết từng đối tượng. Xử lý và phân tích dữ liệu nhận được từ tần số vô tuyến, xác định mô hình và xu hướng của dữ liệu để kịp thời phát hiện và cảnh báo nếu phát hiện hàng giả, hàng nhái. Thiết bị sử dụng để đọc và ghi dữ liệu là điện thoại có tích hợp công nghệ NFC.

Công nghệ này giúp tăng cường tính bảo mật và đảm bảo an toàn cho hệ thống quản lý dữ liệu; đảm bảo tính nhất quán, chính xác của dữ liệu. Đồng thời, chống xâm nhập, tấn công và thay đổi thông tin từ bất cứ bên nào.

Nền tảng của tem chip điện tử TrueData là thu thập dữ liệu tự động, xử lý dữ liệu bằng AI và chuỗi khối Blockchain. Tem chip điện tử TrueData ghi lại đường đi của sản phẩm (từ nguyên liệu, chế biến, đóng gói, dán tem nhãn, vận chuyển tới nhà phân phối, người tiêu dùng). Đường đi của sản phẩm song song với đường đi của dữ liệu – “chạm là xong”.

Sản phẩm cũng dễ dàng nâng cấp thiết bị ghi dữ liệu hàng loạt, tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và đối tác. Các đơn vị sử dụng sẽ được tư vấn thiết bị phù hợp với nhu cầu, kết hợp với dây truyền sản xuất, đóng gói hiện có nhằm đảm bảo tính kinh tế tối ưu nhất cho doanh nghiệp và đối tác sử dụng.

Giá trị của TrueData trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hoá

Giải pháp công nghệ TrueData giúp: định danh được chủ thể đưa thông tin lên hệ thống, xác định được người truy cập vào hệ thống dữ liệu; truy vết đường đi của hàng hoá, kiểm tra, kiểm soát và quy trách nhiệm được sự giả mạo; xác thực được toàn bộ các hoạt động nuôi trồng, sản xuất, vận chuyển và xúc tiến thương mại; định vị vị trí duy nhất cho mỗi người dùng khi quét tem chip điện tử trên sản phẩm.

Dữ liệu hành trình của sản phẩm: Qua đường đi của sản phẩm, dữ liệu (A, AB, ABC, ABCD) sẽ được ghi, tự động cập nhật thông tin của sản phẩm đến tay người tiêu dùng.

Cụ thể, công nghệ tem chip điện tử hỗ trợ thị trường trở nên minh bạch, giúp chống hàng giả, hàng nhái, chống gian lận thương mại, thất thu thuế cũng như giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà. Công nghệ này cũng giúp dễ dàng truy vết và quy trách nghiệm đối với các đối tượng vi phạm. Tem chip điện tử giúp người tiêu dùng phân biệt được hàng thật, hàng giả, từ đó thay đổi nhận thức và hành vi mua sắm, tiêu dùng, biến mình trở thành người tiêu dùng thông thái giữa ma trận hàng giả, hàng nhái đang bủa vây trên thị trường. Doanh nghiệp cũng có phương pháp tốt hơn trong quản trị sản xuất và hệ thống phân phối; bảo vệ thương hiệu, hỗ trợ chuyển đổi số và hội nhập kinh tế quốc tế.

Hiện đã có nhiều công ty tin dùng của tem chip điện tử TrueData như Công ty cổ phần sâm Ngọc Linh, Tập đoàn Tole Sunsco, Công ty cổ phần Queen BB Group, Công ty cổ phần TM&DV An Khang Group…

Trịnh Mạnh Tuyên

Thuốc phóng xạ của Việt Nam được điều chế thế nào?

Vật liệu không có phóng xạ được đưa đến Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt chiếu xạ, sau đó sẽ tách chiết để lấy hạt nhân phóng xạ cần cho chẩn đoán và điều trị ung thư.

Hiện Viện nghiên cứu hạt nhân là đơn vị duy nhất trong cả nước ứng dụng Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt để sản xuất thuốc phóng xạ. Các dược chất phóng xạ đang được điều chế tại đây có I-131 dung dịch và viên nang dùng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý về tuyến giáp (basedow, ung thư tuyến giáp…); P-32 dung dịch dùng điều trị giảm đau ung thư do di căn xương; P-32 dạng tấm áp dùng điều trị u mạch máu cho trẻ em; Tc-99m gắn với các hợp chất đánh dấu đặc hiệu (MDP: xạ hình xương; DTPA: xạ hình thận; Phytec: xạ hình gan) cho 25 khoa y học hạt nhân trên toàn quốc trong chẩn đoán và điều trị ung thư. Một số sản phẩm cũng được xuất khẩu sang Campuchia.

TS Phạm Thành Minh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Điều chế đồng vị phóng xạ, Viện nghiên cứu hạt nhân cho biết, quy trình sản xuất được thực hiện bằng cách đưa vật liệu không có phóng xạ đem chiếu xạ trên lò phản ứng hạt nhân sẽ thành vật liệu phóng xạ. Sau đó các kỹ thuật viên sẽ tiến hành tách chiết để lấy hạt nhân phóng xạ quan tâm, kiểm tra chất lượng và phân phối đến các bệnh viện.

Có 2 loại thuốc phóng xạ gồm chu kỳ bán rã ngắn và dài ngày. Tại Việt Nam có Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (HIC) và một số bệnh viện sử dụng máy gia tốc chủ động sản xuất dược chất phóng xạ có thời gian bán rã ngắn, phục vụ chẩn đoán ung thư. Riêng Viện nghiên cứu hạt nhân chủ yếu sản xuất dược chất phóng xạ có thời gian bán rã dài.

Phòng điều chế  dược chất I-131. Ảnh: Viện nghiên cứu hạt nhân

Phòng điều chế dược chất I-131. Ảnh: Viện nghiên cứu hạt nhân

TS Minh cho biết, việc chẩn đoán và điều trị bệnh bằng các thuốc phóng xạ là phương pháp không thể thay thế đối với một số bệnh ung thư hiện nay. Hiện thuốc phóng xạ sử dụng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đang đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu. “Việc chủ động sản xuất các thuốc phóng xạ trong nước giúp giá sản phẩm rẻ bằng 1/3 so với nhập khẩu và góp phần hình thành và phát triển mạng lưới y học hạt nhân trong nước”, TS Minh cho biết. Tuy nhiên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt có công suất thấp (500 kW) nên chưa cung cấp đủ nhu cầu trong nước. Ngoài ra, Việc nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thuốc cũng gặp khó khăn do vướng các quy định của Bộ Y tế.

Khoa Y học Hạt nhân, bệnh viện Chợ Rẫy (TP HCM) là một trong 25 đơn vị trong cả nước sử dụng thuốc phóng xạ điều trị cho khoảng 200 bệnh nhân mỗi tháng. Bệnh viện hiện đang sử dụng thuốc phóng xạ I-131 từ Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt và từ nước ngoài để điều trị các loại ung thư tuyến giáp, bệnh cường giáp như Basedow…

TS.BS Nguyễn Xuân Cảnh, Trưởng khoa Y học hạt nhân, bệnh viện Chợ Rẫy nhận định, trong vài năm trở lại đây nhu cầu bệnh nhân sử dụng thuốc phóng xạ trong điều trị và chẩn đoán ngày càng cao. Bệnh viện được trang bị máy gia tốc vòng Cyclotron sản xuất thuốc phóng xạ F-18 FDG sử dụng trong ghi hình PET/CT chẩn đoán và theo dõi các bệnh lý ung bướu và thần kinh. Thuốc phóng xạ F-18 FDG có thời gian bán rã 2 giờ, thời gian sử dụng 8 giờ, có thể cung cấp cho một số bệnh viện trong thành phố. Theo bác sĩ Cảnh, thiết bị đã 15 năm, công suất giảm, dẫn đến khó đáp ứng đủ cho nhu cầu ghi hình PET/CT cho các bệnh viện.

Hiện bệnh viện Chợ Rẫy có thể chủ động pha chế thuốc phóng xạ Ga-68 PSMA dùng trong ghi hình PET/CT cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và thuốc Ga-68 Dotatate dùng trong ghi hình PET/CT cho bệnh nhân u thần kinh nội tiết. Thuốc chỉ sử dụng nhanh trong bệnh viện sau khi pha chế vì hai loại thuốc này thời gian bán rã ngắn (68 phút). Thực tế, các loại thuốc phóng xạ có thời gian sử dụng rất ngắn nên khi sản xuất xong phải sử dụng ngay.

Tại bệnh viện Chợ Rẫy, ngoài thuốc phóng xạ Iod I-131 được sản xuất và sử dụng trong nước, các thuốc phóng xạ khác dùng trong điều trị bệnh phải nhập khẩu từ nước ngoài với chi phí có thể từ vài trăm triệu đồng cho một đợt điều trị 6-8 tuần. Bác sĩ Cảnh nói, nếu sản xuất thuốc phóng xạ trong nước, có thể chủ động trong việc điều tiết sản xuất, tức có thể yêu cầu ngừng sản xuất ngay khi bệnh nhân vì lý do nào đó không thể sử dụng, tránh lãng phí.

TS.TS Nguyễn Xuân Cảnh bên trong phòng sản xuất thuốc phóng xạ tại bệnh viện Chợ Rẫy. Ảnh: Hà An

TS.BS Nguyễn Xuân Cảnh bên trong phòng sản xuất thuốc phóng xạ tại bệnh viện Chợ Rẫy. Ảnh: Hà An

Bác sĩ Cảnh nhận định xu hướng hiện nay là điều trị nhắm trúng đích bằng thuốc phóng xạ cho một số bệnh lý ung thư tuyến tiền liệt, ung thư di căn xương, ung thư biểu mô tế bào gan, u thần kinh nội tiết… Ông mong muốn nhà khoa học trong nước nghiên cứu gắn kết đồng vị phóng xạ trên thuốc nhắm trúng đích để ghi hình, đánh giá khả năng hấp thụ của thuốc tới các tổn thương ung thư, làm cơ sở giúp bác sĩ ra quyết định điều trị. “Các thuốc nhắm trúng đích có thể cung ứng cho các bệnh viện giúp chi phí cho việc điều trị có thể giảm hơn 50%”, bác sĩ Cảnh nói.

Với dự đoán nhu cầu dược chất phóng xạ tăng cao trong thời gian tới, Viện Nghiên cứu hạt nhân đang có kế hoạch bổ sung thanh nhiên liệu U-235 độ giàu thấp (19,75%) để tăng cường chạy lò sản xuất các dược chất phóng xạ trong 10 năm tới nhằm cung ứng khoảng 80% nhu cầu cho các bệnh viện trong và ngoài nước. Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đang thúc đẩy triển khai dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân (CNST) với lò phản ứng hạt nhân có công suất lớn 10 MWt, trong đó ứng dụng lò để sản xuất đồng vị phóng xạ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội sẽ là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.

Viện cũng dự định xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh, đầu ngành thuốc phóng xạ (ít nhất 10 người), để nghiên cứu và phát triển sản phẩm ứng dụng vào thực tế.

Bảo Chi – Hà An

Triển lãm Sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Triển lãm Sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) diễn ra từ ngày 13 – 18/5/2024 tại Trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN). Đây là một trong những hoạt động trong khuôn khổ Triển lãm chào mừng Ngày KH&CN Việt Nam 18/5 và Kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN.

Trong khuôn khổ sự kiện, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đã tham quan Triển lãm Sách KH,CN&ĐMST. Tiếp Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng đoàn lãnh đạo các cấp tham quan Triển lãm sách, Cục trưởng Cục Thông tin KH&CN quốc gia (Cục Thông tin) Trần Đắc Hiến cho biết, số lượng tài liệu trưng bày tại Triển lãm chiếm một phần rất nhỏ số lượng tài liệu đang lưu giữ, phục vụ tại Thư viện của Cục Thông tin. Hiện số tài liệu quý hiếm đã được Cục Thông tin số hóa để phục vụ bạn đọc truy cập mọi lúc, mọi nơi.

Triển lãm Sách KH,CN&ĐMST  trưng bày, giới thiệu sách in, sách điện tử nhằm tái hiện con đường KH&CN gắn liền với con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiến tạo tương lai. Triển lãm sách được chia làm 3 khu vực gồm:

Khu vực trung tâm Triển lãm sách là mô hình bản đồ Việt Nam trên nền cuốn sách mở với 3 giai đoạn của “Con đường 65 năm đổi mới”:

Giai đoạn trước năm 1975: Trưng bày những cuốn sách quý của các nhà khoa học nổi tiếng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di… Trong đó, có những cuốn sách độc bản chỉ còn duy nhất tại Thư viện của Cục Thông tin KH&CN quốc gia.

Giai đoạn 1975 – 2002: Trưng bày sách của các nhà khoa học, chính trị, quân sự, y dược có đóng góp lớn vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh như: Võ Nguyên Giáp, Trần Đức Lương, Nguyễn Tài Thu, Nguyễn Văn Đạo, Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền…

Giai đoạn 2002 – 2024: Trưng bày những cuốn sách quan trọng về lý luận và thực tiễn giai đoạn từ 2002 tới nay, nổi bật là bộ sách của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Hai bên triển lãm là khu vực tài liệu in và tài liệu số về KH&CN. Khu vực tài liệu in chọn lọc trưng bày những cuốn sách tiêu biểu thuộc 5 lĩnh vực: khoa học tự nhiên; khoa học kỹ thuật và công nghệ; khoa học y, dược; khoa học nông nghiệp; khoa học xã hội và nhân văn. Trong đó có nhiều cuốn sách của các tác giả đã đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nhà nước về KH&CN như: Đỗ Tất Lợi, Đặng Thai Mai, Phan Huy Lê…

Khu vực tài liệu số giới thiệu các nguồn tin KH&CN trong nước và quốc tế đã được Bộ KH&CN đầu tư kinh phí xây dựng và phát triển như: cơ sở dữ liệu quốc gia về KH&CN và các các cơ sở dữ liệu KH&CN quốc tế của các nhà xuất nổi tiếng thế giới như ScienceDirect, Springer Nature, IEEE, ACS, OECD, ProQuest Central, Scopus, InCites…

Với 3 khu vực trưng bày sách được bố trí khoa học và hệ thống, Triển lãm đã tái hiện con đường phát triển KH&CN của Việt Nam trong suốt 65 năm qua. Từ những cuốn sách quý của các nhà khoa học nổi tiếng trước năm 1975, sách về công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh đến những tài liệu lý luận và thực tiễn của giai đoạn hiện đại, Triển lãm đã mang đến cái nhìn toàn diện về những đóng góp to lớn của KH&CN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Triển lãm sách còn là dịp để cộng đồng nhìn lại và tôn vinh những nỗ lực và đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam, góp phần lan tỏa tinh thần sáng tạo, khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu và khuyến khích các thế hệ trẻ tiếp tục theo đuổi con đường khoa học, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Giáo sư Việt săn tìm ‘hạt ma quái’

GS.TS Phùng Văn Đồng cùng cộng sự phát hiện ra mô hình có thể dự đoán khối lượng neutrino và sự tồn tại phổ biến của vật chất tối nhằm khai phá những bí ẩn vũ trụ.

GS.TS Phùng Văn Đồng (43 tuổi) hiện là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tiên tiến Phenikaa, Trường Đại học Phenikaa. Anh là Giáo sư trẻ nhất Việt Nam (năm 2021, ngành Vật lý) và nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu 2016 nhờ công trình nghiên cứu xuất sắc. Nhìn lại gần 20 năm nghiên cứu, sở hữu 70 công trình công bố trên tạp chí uy tín thuộc danh mục ISI/Scopus, GS Đồng chưa quên cơ duyên đến với Vật lý lý thuyết rồi trở thành nhà khoa học.

Kể với VnExpress, GS Đồng cho hay ban đầu thời phổ thông vốn rất mê Toán. Song năm 1999 khi đăng ký hồ sơ vào trường thích nhất, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội, cậu buộc phải chuyển sang Vật lý “vì chỉ tiêu vào Toán ít hơn nên sợ trượt”. Tốt nghiệp năm 2003, anh Đồng muốn trở thành giáo viên vật lý nhưng xin việc khó khăn do cần phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm. “Thế là tôi quyết định quay trở lại làm nghiên cứu, một chuỗi sự ngẫu nhiên dẫn đến cơ duyên trở thành nhà khoa học như hiện tại”, anh nhớ lại.

GS.TS Phùng Văn Đồng. Ảnh: NVCC

GS.TS Phùng Văn Đồng. Ảnh: NVCC

Hướng nghiên cứu của GS Đồng tập trung giải quyết bài toán cốt lõi về cấu trúc và sự vận động vũ trụ, trong đó vấn đề khối lượng neutrino và sự tồn tại phổ biến của vật chất tối là bài toán hóc búa có liên quan với nhau, ảnh hưởng ý nghĩa đến sự hình thành và diễn tiến của vũ trụ.

Công trình mô hình 3-3-1-1 dựa trên nguyên lý đối xứng chuẩn nhằm dự đoán sự tồn tại của vật chất tối. GS Đồng giải thích, ước lượng trong thiên hà có tới 85% thành phần là vật chất tối, có đặc điểm không hấp thụ hay bức xạ ánh sáng và tương tác rất yếu với vật chất thông thường. Chúng ta hoàn toàn chưa hiểu về cấu trúc và thành phần của vật chất tối, đây là lý do GS Đồng nghiên cứu đề xuất các mô hình nhằm vén mở những bí ẩn đó.

Để nghiên cứu về loại vật chất tối bí ẩn này, các nhà nghiên cứu cần song hành lý thuyết định hướng và thực nghiệm tìm kiếm. Ban đầu nhóm nghiên cứu “mô hình 3-3-1” mở rộng từ mô hình chuẩn, song sớm nhận ra mô hình không giải thích cho vật chất tối. Nhóm tiếp tục mở rộng thành mô hình 3-3-1-1. “Nguyên lý 3-3-1-1 phân loại vật chất tối, làm vật chất tối bền, xác định mật độ tàn dư vật chất tối ngày nay, dự đoán tín hiệu của vật chất tối trong thực nghiệm tìm kiếm trực tiếp, gián tiếp, và máy gia tốc”. Đây là lý thuyết nhất quán đầu tiên chỉ ra rằng vật chất tối do tương tác chuẩn chi phối, tương tự các tương tác điện từ, yếu, mạnh, hấp dẫn. GS Đồng cho biết thêm, lý thuyết này còn cho dự đoán khối lượng neutrino liên quan đến vật chất tối, bên cạnh giải quyết các giả thuyết khác như lạm phát vũ trụ sớm và bất đối xứng vật chất – phản vật chất.

Mô hình 3-3-1-1 cho vật chất tối được đăng tải trên Tạp chí Physical Review D, một trong những tạp chí ảnh hưởng nhất chuyên ngành vật lý năng lượng cao và vũ trụ học. Công trình nhận được sự quan tâm từ cộng đồng nghiên cứu quốc tế, với hơn 100 lượt trích dẫn, mở ra hướng nghiên cứu mới về vật chất tối dựa trên nguyên lý thống nhất đối xứng chuẩn và đang tiếp tục phát triển.

Trong cuộc trò chuyện, GS Đồng say sưa nói về công trình nghiên cứu nhưng hiếm nhắc đến bản thân. Chỉ khi được hỏi về việc lựa chọn làm nghiên cứu sinh tiến sĩ trong nước, anh giải thích đơn giản vì mong muốn tìm kiếm cái mới dẫn tới “thực tế đi trước sự học”. Dù làm nghiên cứu sinh hoàn toàn trong nước, anh Đồng hoàn thành luận án tiến sĩ với hàng chục công bố, được đặc cách bảo vệ luận án cấp cơ sở. Năm 2007, anh làm postdoc (nghiên cứu sau tiến sĩ) tại Trung tâm Nghiên cứu Gia tốc Năng lượng cao Nhật Bản (KEK, Japan), sau đó là Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu (CERN) và Viện Hàn lâm Khoa học Đài Loan (AS, Taiwan), nhằm mở rộng các hướng nghiên cứu.

GS Đồng chụp tại tòa nhà 1-0-1 Taiwan. Ảnh: NVCC

GS Đồng chụp tại tòa nhà 1-0-1 Taiwan. Ảnh: NVCC

Chia sẻ kinh nghiệm tới người trẻ, GS Đồng nói việc đẩy mạnh phát triển nghiên cứu và duy trì nghiên cứu chuyên nghiệp phụ thuộc rất lớn bản thân nhà khoa học, phải luôn cập nhật kiến thức, kiên trì đủ dù khi nghèo cũng như khi sung túc, phản biện đủ đến nhận ra hay dở, đúng sai. Anh cho rằng nếu tiếp cận đúng và lao động đủ người làm nghiên cứu sẽ đi rất nhanh trên con đường khoa học. Ngược lại nếu tiếp cận sai hoặc không có môi trường, định hướng từ người thầy, đồng nghiệp sẽ rất khó thành công. “Learning by working” (vừa học vừa làm) song hành trên con đường khoa học giúp nhà nghiên cứu phát triển nhanh, đồng thời tìm môi trường khoa học tốt để phát triển tích cực, tránh bị sai lệch, anh cho hay.

Với GS Đồng, được nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu 2016 với công trình mô hình 3-3-1-1 cho vật chất tối là “bước đệm vàng son để phát triển nghiên cứu vượt bậc”. Anh cho hay, nghiên cứu cũng trở thành nền tảng cơ sở giúp anh định hướng xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh về vật lý năng lượng cao và vũ trụ học khi anh về công tác tại trường Đại học Phenikaa năm 2019.

Nói về giải thưởng Tạ Quang Bửu, GS Đồng cho biết giải thưởng có quá trình xét duyệt rất khắt khe, được bình chọn bởi các chuyên gia nghiên cứu tích cực và vận hành bởi Quỹ Nafosted uy tín. Việc giải thưởng đề cao chất lượng nghiên cứu và đóng góp ý nghĩa của nhà khoa học sẽ tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Là thành viên Hội đồng Nafosted ngành Vật lý, anh nhận thấy để đạt được giải thưởng ngoài chất lượng của công trình, nhà khoa học cần đạt mức uy tín và liêm chính nhất định trong ngành. Anh nhìn nhận “giải rất cao quý và mô hình này nên nhân rộng lĩnh vực khác, duy trì trao hàng năm”.

VNExpress

Hội thảo Cộng đồng Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo EU – Việt Nam

Hội thảo không chỉ đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình hợp tác của Việt Nam – EU mà còn là diễn đàn để tăng cường hợp tác giữa cộng đồng khoa học và doanh nghiệp. Hai bên sẽ tiếp tục nỗ lực chung trong việc nâng cao năng lực của các nhà khoa học cũng như đóng góp vào hợp tác Việt Nam – EU trong lĩnh vực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo (ĐMST).

Ngày 21/5/2024, tại Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam (18/5), Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam phối hợp với Bộ KH&CN và EURAXESS ASEAN tổ chức “Hội thảo Cộng đồng Nghiên cứu và ĐMST EU – Việt Nam”. Tham dự Hội thảo có Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy, Đại sứ EU tại Việt Nam Julien Guerrier; cùng đại diện Đại sứ quán các quốc gia thành viên EU và đông đảo cộng đồng nhà khoa học Việt Nam – EU.
Toàn cảnh Hội thảo.
Hội thảo dựa trên những thành quả hợp tác thành công giữa EU và Việt Nam trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST trong năm qua. Đặc biệt trong đó, Cộng đồng Nghiên cứu và ĐMST EU – Việt Nam được khởi xướng vào tháng 5/2023 nhằm tạo ra một nền tảng độc đáo cho mạng lưới các nhà nghiên cứu và cựu du học sinh Việt Nam và châu Âu, tận dụng những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của cộng đồng để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển ĐMST giữa EU – Việt Nam.
Các chuyên gia thảo luận tại Hội thảo.
Tiếp nối tinh thần đó, Hội thảo cũng giới thiệu các cơ hội hợp tác về KH&CN từ các quốc gia thành viên EU; thảo luận chuyên đề từ các chuyên gia các nước nhằm khám phá những kết nối giữa cộng đồng nghiên cứu và doanh nghiệp trong nền kinh tế tuần hoàn.
Phát biểu tại Hội thảo, Đại sứ EU tại Việt Nam, ông Julien Guerrier cho biết, giống như Việt Nam, tại EU cũng chung quan điểm rằng nghiên cứu, KH,CN&ĐMST là ưu tiên hàng đầu. Những tiến bộ khoa học là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội và phát triển bền vững. Nghiên cứu và ĐMST thúc đẩy các giải pháp cho những thách thức cấp bách, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và mở đường cho một tương lai bền vững.
Đại sứ EU tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.
“Hội thảo hôm nay đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác của chúng tôi, cho thấy vai trò quan trọng của nghiên cứu KH,CN&ĐMST trong việc củng cố mối quan hệ giữa Việt Nam – EU.”, Đại sứ khẳng định.
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy khẳng định, Hội thảo không chỉ là điểm nhấn củng cố những dự án hợp tác trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam – EU mà còn là diễn đàn để tăng cường hợp tác giữa cộng đồng khoa học và doanh nghiệp. Hai bên sẽ tiếp tục nỗ lực chung trong việc nâng cao năng lực của các nhà khoa học cũng như đóng góp vào hợp tác Việt Nam – EU trong lĩnh vực nghiên cứu và ĐMST.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy phát biểu tại Hội thảo.
Thứ trưởng cho biết, cần tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế thông qua việc nâng cao các chương trình và dự án hợp tác về KH,CN&ĐMST bao gồm năng lượng, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững với các đối tác quan trọng như EU và các nước thành viên EU.
Các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm tại Hội thảo.
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Trao giải Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chính sách, pháp luật của ngành KH&CN và Liên hoan văn nghệ kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN

Nằm trong chuỗi hoạt động chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam 18/5, kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN, ngày 18/05/2024, tại Hà Nội, Bộ KH&CN đã tổ chức Lễ trao giải Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chính sách, pháp luật của ngành KH&CN; Liên hoan văn nghệ kỷ niệm 65 năm thành lập.

Lễ trao giải Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chính sách, pháp luật của ngành KH&CN là sự kiện quan trọng nhằm biểu dương cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong việc nghiên cứu, học tập và tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong ngành KH&CN. Đây cũng là dịp để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong ngành KH&CN giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực thi nhiệm vụ, công vụ.
Phát biểu tại buổi Lễ, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt chúc mừng Cuộc thi đã đạt được mục tiêu, mục đích, yêu cầu đề ra nhằm tìm hiểu về ngành KH&CN; tạo điều kiện để đoàn viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tham gia dự thi có nhận thức sâu sắc, chính xác hơn về hoạt động của ngành KH&CN.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt biểu dương các tập thể, cán bộ công đoàn viên tại buổi Lễ.
Bộ trưởng cũng biểu dương cán bộ công đoàn viên đã tích cực tham gia Cuộc thi, các tập thể tham gia dự thi đã xây dựng, đôn đốc thực hiện kế hoạch cụ thể, chỉ đạo, hướng dẫn, tuyên truyền vận động đoàn viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tham gia Cuộc thi, qua đó, đã lan tỏa Cuộc thi tới đông đảo của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của đơn vị mình.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt trao Giải Nhất cho các cá nhân đoạt giải.
Ban tổ chức đã trao 6 Giải Nhất, 9 Giải Nhì 15 Giải Ba và 30 Giải Khuyến khích cho các cá nhân đoạt Giải.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và Thứ trưởng Lê Xuân Định trao giải cho các tập thể tham dự Cuộc thi.
Giải thưởng dành cho tập thể bảo gồm: Giải Nhất thuộc về Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Giải Nhì thuộc về Viện Ứng dụng công nghệ, Công ty Cổ phần FPT; Giải Ba thuộc về Sở KH&CN TP. Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
Bên cạnh các hoạt động hướng tới chào mừng 65 năm thành lập Bộ KH&CN, Liên hoan văn nghệ là nơi để các công chức, viên chức và người lao động trong ngành KH&CN bằng lời ca, tiếng hát của mình thể hiện được truyền thống yêu quê hương, đất nước, cũng như đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ; tăng cường mối quan hệ gắn bó khăng khít, đoàn kết giữa các đơn vị. Qua đó, góp phần động viên cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nâng cao đời sống tinh thần, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ. Liên hoan văn nghệ còn là một sân chơi bổ ích để trau dồi nghệ thuật, phát huy tính sáng tạo, bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước, yêu ngành, yêu nghề, tạo sự đoàn kết, gắn bó trong tập thể người lao động tại các đơn vị.
Với 44 tiết mục đa dạng đến từ 22 đơn vị thuộc Bộ KH&CN và các sở KH&CN từ hợp xướng, tam ca, song ca, đơn ca, múa, đến độc tấu nhạc cụ… liên hoan văn nghệ đã góp phần tôn vinh Đảng, Bác Hồ, tình yêu quê hương, đất nước và ngành KH&CN. Các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Bộ KH&CN đã thể hiện những giai điệu vui tươi, hào hùng, sôi nổi và đầy “tinh thần KH&CN”. Sức trẻ, đam mê, tinh thần tập thể và sự cống hiến đã tạo nên một liên hoan văn nghệ thành công rực rỡ.
Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN Hà Quốc Trung cho biết, qua Cuộc thi có thể thấy, các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những nghệ sĩ trong phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng. Hy vọng trong thời gian tới, Công đoàn các đơn vị sẽ tiếp tục đồng hành, giao lưu, chia sẻ và tăng cường sự đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau để phát huy các hoạt động chuyên môn, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.
Một số hình ảnh biểu diễn tại buổi Liên hoan văn nghệ của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật