Việt Nam dùng công nghệ mới giám định ADN hài cốt liệt sĩ

Viện Công nghệ sinh học sử dụng công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới (NGS) nhằm xác định danh tính hài cốt liệt sĩ, người mất tích trong chiến tranh.

Tại cuộc họp kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) chiều 12/7, PGS.TS Phí Quyết Tiến, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học cho hay tính từ năm 2019 đến nay, Trung tâm giám định ADN phát triển 13 quy trình phân tích ADN từ mẫu xương lâu năm.

Trung tâm thực hiện 800 đợt tách chiết ADN nhân, tương đương khoảng 8.000 mẫu hài cốt liệt sĩ. “Tỷ lệ tách thành công và bàn giao đạt 22%, tương đương khoảng 1.600 mẫu bàn giao cho Cục Người có công, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội”.

Viện đã nghiên cứu hoàn thiện quy trình mẫu và 2 quy trình giám định ADN thường quy, tức là cải tiến trên nền tảng công nghệ cũ vốn được công nhận và áp dụng.

PGS Phí Quyết Tiến chia sẻ thông tin tại họp báo. Ảnh: QD

PGS Phí Quyết Tiến chia sẻ thông tin tại họp báo. Ảnh: QD

Theo PGS Tiến, trước đây các đơn vị đang sử dụng công nghệ giám định ADN cho mẫu hài cốt liệt sĩ dựa trên phân tích ADN ty thể. Tuy nhiên với chất lượng mẫu ngày càng khó khăn, nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu ứng dụng giám định công nghệ ADN ty thể vào quy trình giám định thường quy.

Nhưng nay xu hướng thế giới với sự phát triển công nghệ phân tích hiện đại với máy giải trình tự gene thế hệ mới kết hợp công nghệ phân tích vi sinh học, việc giám định ADN từ mẫu xương cổ được phân tích theo gene nhân. “Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã phê duyệt triển khai nhiệm vụ giải trình tự thế hệ gene theo tham số người Việt để có được tham chiếu ADN xương cổ nói chung và công tác ADN người Việt”, PGS Tiến nói.

Ông cho hay, ứng dụng công nghệ mới về khai thác ADN xương cổ được phối hợp Viện khảo cổ học nhằm xác định nguồn gốc di truyền với mẫu xương có niên đại vài trăm năm đến nghìn năm. Đây là cơ sở tiếp tục phát triển giám định mẫu ADN xương cổ các liệt sĩ có thời gian chôn lấp đưa vào giám định từ 40-80 năm.

Để tăng cường năng lực giám định ADN hài cốt liệt sĩ theo công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới (NGS), Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) và Ủy ban Quốc tế về Người mất tích (ICMP) phối hợp triển khai dự án ODA. Viện cử đoàn công tác mang 100 mẫu hài cốt liệt sĩ sang Hà Lan triển khai tách chiết ADN nhân và giám định ADN. Ông đánh giá kết quả bước đầu cho thấy kỹ năng chuyên môn, khả năng tiếp cận khoa học công nghệ có thể làm chủ và hợp tác với ICMP.

Ông Tiến cho biết, giai đoạn tới, Trung tâm giám định ADN sẽ hoàn thiện cơ sở vật chất trên cơ sở tiếp nhận máy giải trình thế hệ mới tài trợ, cải tiến, ứng dụng công nghệ mới vào công tác giám định, nghiên cứu tối ưu thử nghiệm phương pháp khác nhau. Bên cạnh Viện cũng tăng cường hợp tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực, gửi cán bộ tiếp nhận công nghệ, tham gia công tác giám định từ Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á.

Huyền Anh

Hơn 40 kỹ sư làm phần mềm hỗ trợ dự án đầu tư công

Các kỹ sư Việt tham gia thiết kế phần mềm hỗ trợ báo cáo, giám sát tiến độ dự án đầu tư công, giúp tăng hiệu quả giải ngân vốn, sớm hoàn thành công trình.

Phần mềm quản lý dự án đầu tư công được ông Hoàng Trọng Kha, Giám đốc sản phẩm công ty cổ phần hệ thống số thông minh (SDT) giới thiệu tại hội nghị về chuyển đổi số do Công viên phần mềm Quang Trung tổ chức sáng 11/7. Theo ông Kha, phần mềm được đội ngũ hơn 40 kỹ sư Việt phát triển trong hơn 3 năm, đang chạy thử nghiệm tại một số dự án công tại Hải Phòng, TP HCM.

Chia sẻ lý do thực hiện giải pháp, ông Kha nói giải ngân vốn cho các dự án đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm của quốc gia, địa phương để sớm đưa các công trình vào hoạt động, phục vụ người dân. Tuy nhiên, nhiều dự án đầu tư tiến độ giải ngân rất chậm.

Lấy ví dụ, ông Kha nói hiện TP HCM tính đến cuối tháng 6 mới chỉ giải ngân hơn 12% vốn đầu tư công của năm 2024. Nhóm đã phát triển phần mềm hỗ trợ giám sát, điều hành tiến độ cho lãnh đạo, nhân viên thực hiện từ giai đoạn chuẩn bị, thực hiện và hoàn thành dự án. Từ ba giai đoạn chính này nhóm phát triển thành gần 100 bước nhỏ hơn, phù hợp với quy mô, tính chất từng dự án.

Ông Hoàng Trọng Kha, đại diện SDT chia sẻ phần mềm quản lý dự án đầu từ công tại hội nghị, sáng 11/7. Ảnh: Hà An

Ông Hoàng Trọng Kha chia sẻ phần mềm quản lý dự án đầu từ công tại hội nghị, sáng 11/7. Ảnh: Hà An

Theo ông Kha, phần mềm có lõi thiết kế tương thích với kiến trúc chính quyền điện tử của từng địa phương. Sản phẩm có chức năng hỗ trợ nhân viên báo cáo tiến độ bằng các công cụ tùy biến. Người thực hiện có thể cập nhật liên tục các dữ liệu lên hệ thống, mọi lúc mọi nơi giúp cấp lãnh đạo có cái nhìn trực quan và kịp thời chỉ đạo. Dữ liệu về dự án được đồng bộ liên thông giữa các cơ quan như kế hoạch đầu tư, tài chính, kho bạc… cập nhật tiến độ giải ngân vốn.

Hệ thống có các tầng dự án cấp tỉnh, thành phố, sở ngành, quận huyện và phường xã. Nhóm cũng thiết kế tích hợp tính năng dành cho HĐND địa phương để cơ quan này giám sát, đôn đốc tiến độ dự án.

Do các tính năng được tùy biến, cấu hình động trên hệ thống, phần mềm có thể đáp ứng nghiệp vụ chi tiết theo từng đơn vị khác nhau. Phần mềm có thể sử dụng, theo dõi và hiện thông báo trên màn hình laptop, điện thoại giúp cán bộ quản lý, nhân viên cập nhật thông tin dự án nhanh nhất.

Với sản phẩm này, ông Kha mong muốn sau quá trình thử nghiệm tại một số địa phương sẽ nhận được sự đồng hành của các cấp chính quyền trong chia sẻ dữ liệu để triển khai hiệu quả tại các tỉnh thành, giúp chuyển đổi số quốc gia.

Giao diện phần mềm quản lý dự án đầu tư công do nhóm phát triển.

Giao diện phần mềm quản lý dự án đầu tư công do nhóm phát triển.

Đánh giá cao các giải pháp của doanh nghiệp, bà Phạm Thị Kim Phượng, Phó giám đốc Công viên phần mềm Quang Trung (QTSC), cho rằng ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số đang hiện diện mọi lĩnh vực của kinh tế, xã hội, trong đó có hoạt động về quản lý, cung cấp dịch vụ công, hành chính… của chính quyền.

Theo bà Phượng, ứng dụng công nghệ giúp chính quyền và người dân tiết kiệm nguồn lực và thời gian. Các giải pháp chuyển đổi số giúp thông tin minh bạch và hiệu quả trong quản lý. Công nghệ cũng giúp nhà quản lý cập nhật các dữ liệu, thông tin toàn diện để đưa ra định hướng chính sách phù hợp.

Hà An

Kỹ sư cơ điện làm máy gieo hạt năng suất 0,2 ha mỗi giờ

Nhóm nhà khoa học Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long chế tạo máy gieo hạt, làm đất, năng suất 0,1 – 0,2 ha mỗi giờ, thay thế 10 lao động.

Nghiên cứu do thạc sĩ Nguyễn Ngọc Hoàng, Trưởng bộ môn cơ điện và công nghệ sau thu hoạch, Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long và các cộng sự thực hiện.

Theo nhóm nghiên cứu, vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện hầu như chưa có máy gieo trồng đậu, bắp trên nền đất liếp hoặc đất lúa.Trong khi đó, diện tích canh tác cây màu ngày càng ít do chi phí lao động thủ công tăng cao và bị thiếu hụt. Nhóm nghiên cứu muốn tạo ra mẫu máy mới phục vụ chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong sản xuất màu trên nền đất lúa tại Hậu Giang và các tỉnh Tây Nam Bộ. “Sản phẩm hướng tới ứng dụng sản xuất nông nghiệp 4.0 toàn diện”, thạc sĩ Hoàng nói.

Máy gieo hạt đa năng có 6 bộ phận chính gồm động cơ diesel công suất 16 HP, liên kết khung máy, hệ thống điều khiển thủy lực, cụm gieo hạt, khung liên kết cụm gieo, bộ phận phay đất.

Để chế tạo, nhóm tận dụng các bộ phận có sẵn như động cơ diesel, hộp số máy công nông, hệ thống di chuyển. Phần còn lại, nhóm tập trung thiết kế bộ phận xới theo hàng, bộ phận gieo, lấp hạt và bộ phận nâng hạ.

Máy có chức năng thực hiện đồng thời việc phay đất, rạch hàng, gieo hạt, lấp đất với khoảng cách hàng gieo và loại hạt giống thay đổi linh hoạt. Ưu điểm là máy khá gọn, gieo nhiều loại hạt, trong đó kể cả hạt bắp đã qua ngâm ủ.

Trước khi gieo người dùng xác định loại hạt giống, khoảng cách hàng, mật độ để chọn đĩa gieo thích hợp và điều chỉnh khoảng cách hàng phay, độ sâu phay. Khi máy làm việc, hệ dao sẽ phay đất tạo luống. Đĩa có nhiệm vụ rạch hàng tạo rãnh giữa luống phay. Đĩa gieo hạt nhận chuyển động từ bánh gieo thông qua bộ truyền động làm cho đĩa quay và các lỗ gieo nhận hạt từ khoang phụ dịch chuyển đến vị trí nhả hạt. Tại đây có cơ cấu nhấn hạt cưỡng bức tránh hạt kẹt trong lỗ đĩa. Hạt sẽ trượt trong ống gieo và rơi vào giữa hai đĩa rạch hàng và được cần gạt kéo đất phủ lên hạt.

Máy có bề rộng làm việc 1,2 m, số hàng gieo từ 2 – 4 hàng với khoảng cách điều chỉnh 300 – 800 mm, độ sâu phay 30 – 100 mm. Máy có tỷ lệ sót (hốc không hạt) dưới 3%, có thể điều chỉnh được số lượng hạt mỗi hốc và khoảng cách hốc theo loại đĩa gieo. Năng suất khi gieo bắp là 0,1 ha mỗi giờ (2 hàng gieo) và với đậu nành là 0,2 ha mỗi giờ (4 hàng gieo). Máy thay thế được cho khoảng 10 lao động.

Thiết kế các bộ phận của máy gieo hạt đa năng. Ảnh: NVCC

Thiết kế các bộ phận của máy gieo hạt đa năng. Ảnh: NVCC

Về kỹ năng điều khiển máy, theo thạc sĩ Hoàng, người sử dụng không cần lo lắng vì máy vận hành đơn giản, dễ thao tác. Nông dân từng sử dụng các máy làm đất, sau khi hướng dẫn sử dụng sẽ dễ dàng vận hành. Tuy nhiên, người dùng cần được đào tạo cơ bản về cơ khí để khâu bảo trì, bảo dưỡng vận hành được hiệu quả, đúng kỹ thuật và an toàn. Máy gieo hạt đa năng có giá dự kiến khoảng 80 triệu đồng.

Theo thạc sĩ Hoàng, ưu điểm máy gieo được nhiều loại hạt, mật độ, khoảng cách thay đổi nhưng việc này khiến người sử dụng phải mất thời gian chỉnh tổ hợp lưỡi phay, mũi rạch hàng, cửa nhả lấp hạt trên một đường thẳng. Để giảm tải trọng máy, nhóm không thiết kế ghế ngồi lái cho người vận hành. Họ phải đi bộ sau máy.

Máy đã thử nghiệm thực tế ở Cần Thơ và Hậu Giang. Tuy nhiên ông Hoàng cho rằng “cần phải triển khai nhiều vụ để có đánh giá ở nhiều tỉnh khác”.

Kỹ sư Lê Trung Hiếu, Giám đốc công ty công nghệ Ewater đánh giá, sản phẩm của nhóm đáp ứng nhu cầu cơ giới hóa nông nghiệp tại miền Tây Nam Bộ giúp tăng năng suất, giải phóng sức lao động. Tuy nhiên, theo ông cơ chế chạy bằng bánh lốp của máy chỉ có thể hoạt động trên đất khô. Ở các khu vực ẩm ướt, sình lầy, máy khó hoạt động. Ông Hiếu góp ý tác giả thay đổi một số cơ cấu như bánh lồng để phù hợp hoạt động trên đất ướt . Ngoài ra, máy cần được thiết kế gọn nhẹ hơn để có tính cơ động, dễ vận chuyển.

Hà An

Kỹ sư Việt chế tạo hệ thống quan trắc giá bằng ⅔ nhập khẩu

Anh Nguyễn Văn Tiến (44 tuổi, Hà Nội) dành hơn 10 năm để nghiên cứu phát triển hệ thống giám sát y tế và quan trắc môi trường ứng dụng trong đo mưa, giám sát chất lượng nước…

Từ những năm 2010, sau khi nghe bạn bè trong lĩnh vực y tế chia sẻ về nhu cầu trong giám sát nhiệt độ tủ vaccine, anh Tiến nung nấu ý tưởng nghiên cứu hệ thống quan trắc. Vốn là cử nhân Điện tử và Kỹ thuật máy tính trường Đại học Công nghệ (Đại học Quốc gia Hà Nội) và từng có 2 năm làm việc tại Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, anh Tiến có sẵn nền tảng kiến thức để triển khai ý tưởng.

Hệ thống quan trắc, giám sát gồm 3 phần chính: bộ thu thập dữ liệu (data logger), thiết bị đo/cảm biến (sensor) và phần mềm hệ thống (system software). Trong đó data logger được coi là bộ não – trung tâm ghi, lưu trữ, phân tích và truyền dữ liệu. Anh Tiến mất khoảng một năm để viết phần mềm, thiết kế phần cứng, nghiên cứu sản xuất bộ data logger đầu tiên. Sau 2 năm nghiên cứu, phát triển hệ thống quan trắc, giám sát và cảnh báo được đưa vào sử dụng.

Kỹ sư Nguyễn Văn Tiến tại phòng nghiên cứu. Ảnh: Mai Ngọc

Kỹ sư Nguyễn Văn Tiến tại phòng nghiên cứu. Ảnh: Mai Ngọc

Thực tế, các nước châu Âu đã sản xuất hệ thống quan trắc từ lâu nhưng giá thành cao, khó sử dụng, không hỗ trợ lắp đặt hay bảo hành kịp thời khi có sự cố. Ngoài ra, hệ thống quan trắc ngoại nhập thường tích hợp toàn bộ tham số đo lường, không bóc tách thành từng chức năng độc lập. Với các hệ thống quan trắc do Trung Quốc sản xuất giá thành rẻ, nhưng thường gặp vấn đề về server khi sử dụng tại Việt Nam. Do đó, hệ thống quan trắc được thiết kế riêng cho nhu cầu sử dụng bản địa trở thành giải pháp được nhiều đơn vị đón nhận.

Anh Tiến cho biết, hiện hệ thống được ứng dụng tại gần 500 địa điểm, gồm bệnh viện, cơ sở y tế, khu công nghiệp, vườn quốc gia, đập thủy điện, ao hồ, trang trại… trên khắp các tỉnh thành.

Ông Nguyễn Văn Hà, Giám đốc công ty CP đầu tư cơ điện và thương mại Hải Hà, đã sử dụng hệ thống quan trắc môi trường 5 năm đánh giá các hệ thống hoạt động khá ổn định, phần mềm tiếng Việt dễ dùng. “Chi phí rẻ 30% so với hệ thống Inventia của Phần Lan trước đây công ty sử dụng”, ông Hà nói.

Tại Bệnh viện Việt Đức, Thu Cúc, Hồng Ngọc, Nhiệt đới TP HCM, Sản nhi Hải Phòng, Sản nhi Long An, bệnh viện quốc tế Thành Đô… ứng dụng hệ thống để kiểm soát nhiệt độ tủ vaccine, bảo quản bệnh phẩm và đảm bảo nhiệt độ phòng sạch.

Hệ thống đo mưa, đo mực nước và cảnh báo mưa bão, lũ lụt được lắp đặt tại Thủy điện Thác Bà, Bản Vẽ, Nậm Chiến, Thống Nhất… hay trạm quan trắc nước thải tại KĐT Tây Hồ Tây, KCN Nội Bài, KCN Thăng Long, KCN Đồng Văn…

TS Nguyễn Quốc Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Khoa học Công nghệ và Bảo vệ môi trường đánh giá, ưu điểm của hệ thống quan trắc nước thải nhóm nghiên cứu là phần cứng tự sản xuất và viết phần mềm của data logger tương thích với quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Đây là phần mềm mở, sẵn sàng nâng cấp khi có sự thay đổi. Data logger tương thích với hầu hết các sensor đo trên thế giới, có độ bền cao chịu được môi trường khắc nghiệt.

Hệ thống quan trắc nước thải cũng được tích hợp để truyền dữ liệu trực tiếp đến hệ thống giám sát của Sở Tài nguyên và Môi trường, từ đó liền mạch hóa quy trình kiểm tra nước trên toàn quốc.

Mô hình hệ thống quan trắc nước thải

Mô hình hệ thống quan trắc nước thải

Không dừng ở việc thu thập dữ liệu, tác giả còn phát triển tính năng cảnh báo cho đội ngũ vận hành khi các tham số sắp vượt ngưỡng cho phép theo hai mức độ: warning (cảnh báo) và alarm (báo động). Tính năng cảnh báo sẽ được phát đi thông qua hệ thống đèn còi (cảnh báo gần) và thông qua tin nhắn, cuộc gọi, email, thông báo trên ứng dụng (cảnh báo xa).

Các hệ thống quan trắc và giám sát, cảnh báo sử dụng data logger cũng được thiết kế giải quyết bài toán của từng đơn vị. “Mỗi đơn vị đưa một yêu cầu riêng về hệ thống quan trắc. Tôi cố gắng thiết kế giải pháp riêng cho từng bên, đồng thời tích hợp các tính năng nổi trội để nâng cấp data logger dần qua từng phiên bản”.

Điểm hạn chế của các hệ thống quan trắc và giám sát của Việt Nam là hình thức chưa được bắt mắt và tinh gọn như các thiết bị nhập khẩu. Cảm biến (sensor) vẫn phải nhập từ nước ngoài. Ngoài ra, các hệ thống quan trắc chủ yếu mới dừng ở mức thu thập, lưu trữ và phân tích cơ bản dữ liệu. Kỹ sư Nguyễn Văn Tiến cho biết sẽ nghiên cứu phân tích dữ liệu chuyên sâu để hệ thống đưa ra dự báo thay vì chỉ cảnh báo đơn thuần như hiện nay.

Mai Ngọc

Phát hiện khoáng sản mới ở mỏ đất hiếm lớn nhất thế giới

Các nhà địa chất học Trung Quốc phát hiện hai khoáng sản mới ở mỏ đất hiếm Bayan Obo, nâng số khoáng sản được ghi nhận tại đó lên 20.

Mỏ đất hiếm Bayan Obo ở khu tự trị Nội Mông. Ảnh: CFP

Mỏ đất hiếm Bayan Obo ở khu tự trị Nội Mông. Ảnh: CFP

Hai khoáng chất niobium – scandium mới có tên Oboniobite và Scandio – fluoro – eckermannite được phát hiện ở mỏ Bayan Obo tại khu tự trị Nội Mông. Phát hiện này là kết quả hợp tác giữa Viện địa chất học và địa vật lý thuộc Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc (CAS), Công ty liên đoàn thép Baotou Nội Mông, Viện nghiên cứu đất hiếm Baotou và Đại học Trung Nam, Interesting Engineering hôm 7/7 đưa tin. Li Xianhua, học giả ở CAS, đại diện cho Viện địa chất học và địa vật lý CAS, thông báo phát hiện. Hiệp hội khoáng vật học quốc tế xác nhận sự tồn tại của khoáng sản mới và thông qua tên gọi của chúng.

Cả niobium và scandium đều là kim loại chủ chốt cực kỳ hiếm gặp. Niobium chủ yếu được sử dụng trong các loại thép đặc biệt, vật liệu siêu dẫn và ngành công nghiệp hàng không vũ trụ, trong khi scandium được dùng rộng rãi trong hợp kim nhôm – scandium và pin nhiên liệu oxit rắn. Theo Li, khoáng chất mới chứa nhiều nguyên tố giá trị, có ứng dụng quan trọng trong lĩnh vực như vật liệu mới, năng lượng, công nghệ thông tin, quốc phòng và quân sự, giúp tăng cường phát triển kinh tế xã hội.

Li Xiao, tổng giám đốc Công ty liên đoàn thép Nội Mông, một nhà sản xuất thép lớn ở Trung Quốc, cho biết Bayan Obo có nguồn dự trữ khoáng sản dồi dào như sắt, niobium, scandium, thorium và fluorite. Từ năm 1959, 18 khoáng sản mới đã được phát hiện ở mỏ này. Oboniobite và Scandio – fluoro – eckermannite là khoáng sản thứ 19 và 20 tìm thấy tại đây.

Fan Hongrui, nhà nghiên cứu ở Viện địa chất và địa vật lý CAS, chia sẻ Oboniobite có màu từ nâu vàng tới nâu. Nó có dạng phiến dẹt với kích thước từ 20 đến 100 micromet (1 micromet bằng 0,001 milimet). Scandio – fluoro – eckermannite là khoáng chất chứa scandium đầu tiên phát hiện ở Trung Quốc, được đặt theo tên học giả Zhai Mingguo ở CAS để vinh danh đóng góp xuất sắc của ông trong nghiên cứu mỏ khoáng sản ở Trung Quốc. Khoáng sản có màu vàng nhạt hoặc xanh dương, hình trụ với kích thước lên tới 350 micromet.

An Khang (Theo Interesting Engineering/China Daily)

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy tham dự Đại hội đồng các quốc gia thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

Kỳ họp lần thứ 65 của Đại hội đồng các quốc gia thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã khai mạc sáng nay 09/7/2024 tại Geneva, Thụy Sĩ. Kỳ họp thu hút sự tham dự kỷ lục của hơn 1400 đại biểu, trong đó có gần 20 Bộ trưởng/Thứ trưởng từ 191 quốc gia thành viên và các quan sát viên.

Đoàn công tác Việt Nam gồm đại diện của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch, Văn phòng Chính phủ và Phái đoàn đại diện thường trực của Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva, Thụy Sĩ do ông Bùi Thế Duy, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ KH&CN dẫn đầu.


Đoàn Việt Nam tham dự kỳ họp lần thứ 65 Đại hội đồng WIPO.

Đại sứ Alfredo Suescum, Đại sứ, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực của Panama tại Geneva điều hành Phiên họp. Kỳ họp lần này sẽ thông qua báo cáo của các Ủy ban, Hội đồng của WIPO như Ủy ban Sở hữu trí tuệ và phát triển (CDIP), Ủy ban thường trực về quyền tác giả và quyền liên quan (SCCR), Ủy ban liên chính phủ về sở hữu trí tuệ và nguồn gen, tri thức truyền thống và văn hóa dân gian (IGC), Ủy ban thường trực về luật sáng chế (SCP), Ủy ban thường trực về nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp và chỉ dẫn địa lý (SCT), Ủy ban thường trực về công nghệ thông tin (SCIT), Ủy ban tư vấn về thực thi (ACE), Hội đồng Liên minh PCT, Hội đồng Liên minh Madrid; và rà soát báo cáo của WIPO về các hoạt động của Tổ chức từ kỳ họp Đại hội đồng lần trước.

Một số nội dung chính thu hút được sự quan tâm của các Thành viên bao gồm: báo cáo về kết quả Hội nghị ngoại giao thông qua Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, nguồn gen, tri thức truyền thống liên quan đến nguồn gen; triệu tập Hội nghị Ngoại giao để thông qua Hiệp ước Luật kiểu dáng công nghiệp (DLT) và việc thi hành các khuyến nghị liên quan đến Chương trình phát triển của WIPO.

Thay mặt đoàn công tác của Việt Nam, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy đã phát biểu tại phiên khai mạc Đại hội đồng WIPO. Thứ trưởng chúc mừng các thành tựu nổi bật của WIPO liên quan đến công tác xây dựng thể chế, cụ thể là đã thông qua Điều ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, nguồn gen, tri thức truyền thống liên quan đến nguồn gen và việc sẽ triệu tập Hội nghị Ngoại giao để thông qua Hiệp ước DLT tháng 11 tới. Trong bài phát biểu, Thứ trưởng cũng nhấn mạnh việc Việt Nam đã ban hành Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia đến năm 2030, trong đó huy động mọi đối tượng trong xã hội tham gia vào hoạt động sở hữu trí tuệ, xác định rõ doanh nghiệp đóng vai trò trung tâm. Thứ trưởng cũng thông báo việc lần đầu tiên, Việt Nam đã xây dựng thành công và công bố báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2023.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy phát biểu tại Đại hội đồng WIPO 2024.

Bên lề hội nghị, Thứ trưởng Bùi Thế Duy đã có buổi làm việc với Tổng Giám đốc WIPO Daren Tang. Tại buổi gặp, Thứ trưởng đã thông báo với Tổng Giám đốc WIPO các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và sở hữu trí tuệ. Nhân dịp này, Thứ trưởng cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc về những đóng góp quý báu của WIPO dành cho Bộ KH&CN trong thời gian vừa qua. Cụ thể là, WIPO đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng phương pháp luận về cách tính toán Chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương, hỗ trợ Việt Nam xây dựng và triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia và một số dự án quan trọng khác… Thứ trưởng đề nghị trong thời gian tới WIPO mở rộng hợp tác với Việt Nam về nghiên cứu mối quan hệ giữa bảo hộ sở hữu trí tuệ đối với kết quả sáng tạo được tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo, vấn đề xử lý đơn tồn đọng.

Tổng Giám đốc WIPO Daren Tang chúc mừng các thành tựu phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam trong thời gian gần đây, đánh giá cao sự quan tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, sở hữu trí tuệ. Nhiều lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã thăm và làm việc với WIPO, trong đó có chuyến thăm của Chủ tịch nước tới WIPO năm 2021. Tổng Giám đốc WIPO chúc mừng Việt Nam đã có sự thăng tiến ổn định trong bảng xếp hạng Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu; Việt Nam là một trong số ít nước trên thế giới đã xây dựng được phương pháp luận và công bố Chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương. Tổng Giám đốc WIPO cũng đánh giá cao chiến lược nhất quán của Chính phủ Việt Nam đối với vấn đề tăng cường bảo hộ sở hữu trí tuệ và cảm ơn sự phối hợp chặt chẽ của Bộ KH&CN trong triển khai các dự án hợp tác kỹ thuật với WIPO như dự án TISC, đào tạo giảng viên, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, tối ưu hóa quy trình xử lý đơn sở hữu công nghiệp, hỗ trợ triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ quốc gia. Tổng Giám đốc WIPO cam kết sẵn sàng triển khai các nội dung hợp tác mới như Thứ trưởng đề xuất.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy chào xã giao Tổng Giám đốc WIPO Daren Tang.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy tặng quà lưu niệm Tổng Giám đốc WIPO Daren Tang.

Cuộc họp Đại hội đồng WIPO 2024 dự kiến sẽ kết thúc vào ngày 17/7/2024.

Nguồn: Vụ Hợp tác quốc tế, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Xây dựng nguyên tắc phát triển trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm

Để đảm bảo trí tuệ nhân tạo (AI) không bị lạm dụng vào mục đích xấu, không đe dọa quyền riêng tư và an toàn của con người, cần có một hệ thống thể chế, chính sách, nguyên tắc điều chỉnh với sự kết hợp chặt chẽ giữa các quy định pháp luật “cứng” mang tính ràng buộc với các quy tắc “mềm” như đạo đức, hướng dẫn, khuyến nghị.
Trên cơ sở hỗ trợ của Chương trình Đối tác Đổi mới sáng tạo Australia – Việt Nam (Aus4Innovation), ngày 5/7/2024, Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia (ĐHQG) Hà Nội tổ chức Hội thảo quốc tế “Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng bộ nguyên tắc thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng của trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm”. Mục tiêu của Hội thảo nhằm thảo luận kinh nghiệm quốc tế về xây dựng bộ nguyên tắc thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng AI có trách nhiệm, tổng hợp khuynh hướng, mô hình điển hình trên thế giới và bước đầu rút ra một số hàm ý chính sách về phát triển AI có trách nhiệm ở Việt Nam.
Toàn cảnh Hội thảo.
Công nghệ vì lợi ích cộng đồng
Tại Hội thảo, các chuyên gia cho rằng, để phát triển AI có trách nhiệm, cần hệ thống thể chế, chính sách, nguyên tắc điều chỉnh, với sự kết hợp chặt chẽ giữa các quy định pháp luật “cứng” mang tính ràng buộc với các quy tắc “mềm” như đạo đức, hướng dẫn, khuyến nghị. Pháp luật thường đi sau sự phát triển công nghệ, đối với các công nghệ mới nổi, cách tiếp cận kết hợp giữa luật cứng và luật mềm là sự lựa chọn phù hợp nhất.
Trong khuôn khổ nhiệm vụ xây dựng bộ nguyên tắc và một số hướng dẫn phát triển AI có trách nhiệm ở Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh, Hiệu trưởng Trường Đại học Luật, ĐHQG Hà Nội cho biết, AI ngày càng phát triển nhanh chóng và tác động tới mọi mặt kinh tế, giáo dục, xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích to lớn, sự phát triển của AI đang làm dấy lên những quan ngại về các rủi ro tiềm ẩn như: vi phạm chuẩn mực đạo đức và pháp lý; các thuật toán có thể gây ra sự thiên vị, phân biệt đối xử, bất bình đẳng; xâm phạm quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân…
PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh chia sẻ tại Hội thảo.
Theo TS. Đỗ Giang Nam, đại diện nhóm nghiên cứu Trường Đại học Luật, ĐHQG Hà Nội, việc xây dựng AI cần tuân thủ nguyên tắc chung và nguyên tắc điều chỉnh cho từng lĩnh vực cụ thể. Bên cạnh đó, cách tiếp cận “mềm hóa” đề cao các giá trị đạo đức, độ tin cậy và trách nhiệm là chìa khóa để phát triển AI một cách bền vững.
“Chúng tôi cho rằng, niềm tin là nền tảng cho sự phát triển của AI. Để đạt được điều này, cần có những công cụ đủ mạnh để đảm bảo AI được sử dụng một cách có trách nhiệm. Bên cạnh đó, cần tập trung vào các trụ cột lõi bao gồm tính hợp pháp, đạo đức và bền vững công nghệ, cách tiếp cận “vị nhân sinh” lấy con người làm trung tâm, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động phát triển AI”, TS. Đỗ Giang Nam cho biết thêm.
Đồng tình với quan điểm trên, TS. Kim Wimbush, Tham tán Tổ chức Nghiên cứu khoa học và công nghiệp Khối thịnh vượng chung Australia (CSIRO), Giám đốc Chương trình Aus4Innovation cho biết: nguyên tắc đạo đức sử dụng AI trở thành vấn đề nổi cộm, nhất là trong vấn đề quyền riêng tư với mỗi cá nhân. Do vậy bộ nguyên tắc và các hướng dẫn về AI có trách nhiệm cần mang tính linh hoạt, thích ứng, thường xuyên được đánh giá, cập nhật, bổ sung để theo kịp với sự phát triển của AI.
TS. Kim Wimbush, Giám đốc Chương trình Aus4Innovation phát biểu tại Hội thảo.
GS.TS Andy Hall, nghiên cứu viên cao cấp CSIRO nhấn mạnh, phát triển AI có trách nhiệm không chỉ đơn thuần là “làm được hay không” mà còn là “làm như thế nào” trong đó đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng về việc lựa chọn công nghệ phù hợp với giá trị xã hội và đạo đức.
“Niềm tin là yếu tố then chốt bên cạnh việc đảm bảo sử dụng AI an toàn và có trách nhiệm. Tuy nhiên, AI cũng tiềm ẩn những tác động và rủi ro không thể lường trước, bao gồm gián đoạn, tác động tiêu cực đến môi trường, rủi ro đạo đức, sử dụng công nghệ sai mục đích và tội phạm công nghệ”, GS.TS Andy Hall cho hay.
TS. Jonathan Wallace Baker, Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam cũng khẳng định, không thể phủ nhận vai trò của AI nhưng làm sao để có khung pháp lý hiệu quả cho lĩnh vực này. Năm 2021, UNESCO đã ban hành “khuyến nghị về các khía cạnh đạo đức của AI”, nhằm hướng dẫn các quốc gia giải quyết một cách có trách nhiệm những tác động của AI đối với con người, xã hội, môi trường và hệ sinh thái. Các nguyên tắc đã có từ nhiều năm nhưng cần đi vào chi tiết và có các hành động cụ thể”, TS. Jonathan Wallace Baker khẳng định.
TS. Jonathan Wallace Baker, Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam mong muốn có khung pháp lý hiệu quả cho lĩnh vực AI.
Phát triển “AI có trách nhiệm” từ kinh nghiệm quốc tế
Trong giai đoạn từ 2019 – 2024, các tổ chức quốc tế, các quốc gia và khu vực đã có những động thái tích cực, khẩn trương trong việc xây dựng thể chế, chính sách và các nguyên tắc để các đơn vị phát triển AI nhưng vẫn còn hạn chế rủi ro hay các tác động tiêu cực do AI mang lại.
Hiện nhiều quốc gia có bộ nguyên tắc chung như: EU, UNESCO, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, bên cạnh đó còn có bộ nguyên tắc ở từng lĩnh vực như: giáo dục, y tế. Những nội dung cốt lõi về bộ nguyên tắc đảm bảo tính tự chủ và giám sát con người, an toàn, quyền riêng tư và quản trị dữ liệu, tính minh bạch, đa dạng và bao trùm, không phân biệt đối xử và công bằng, cùng tính trách nhiệm giải trình.
Điểm chung của các bộ nguyên tắc AI có trách nhiệm là các nguyên tắc nền tảng: vị nhân sinh, vì lợi ích của con người; tôn trọng tính tự chủ và sự giám sát của con người; bền vững và an toàn; bảo đảm quyền riêng tư và quản trị dữ liệu; minh bạch và có thể giải thích được; đa dạng, bao trùm; bình đẳng, không phân biệt đối xử; trách nhiệm và trách nhiệm giải trình… Đó là những kinh nghiệm có giá trị tham khảo đối với Việt Nam, tuy nhiên khi áp dụng cần xem xét đến những đặc thù kinh tế – xã hội để có quy định phù hợp.
Năm 2021, 193 quốc gia thành viên UNESCO đã thông qua Khuyến nghị về Đạo đức AI. Đồng thời xây dựng bộ công cụ thực hành Khuyến nghị đạo đức AI  đánh giá mức độ sẵn sàng của các quốc gia – RAM (Readiness Assessment Methodology) bao gồm 5 lĩnh vực chứa chỉ số chính khác nhau gồm: pháp lý, xã hội, khoa học giáo dục, kinh tế và bao trùm công nghệ. Tới nay đã có 50 quốc gia áp dụng bộ công cụ, phân tích liên tục tính đa dạng nhằm đưa ra hoạch định riêng cho từng quốc gia, dự đoán cụ thể tác động AI đến môi trường, văn hoá, những tác động hữu hình bởi AI.
Tại Việt Nam, năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI đến năm 2030, trong đó nêu rõ định hướng “Phát triển và ứng dụng AI lấy con người và doanh nghiệp làm trung tâm, tránh lạm dụng công nghệ và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân”. Đây là định hướng quan trọng và xuyên suốt phải bảo đảm trong việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hành lang pháp lý liên quan đến AI.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, ngày 11/6/2024 , Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã ban hành Quyết định số 1290/QĐ-BKHCN hướng dẫn một số nguyên tắc về nghiên cứu, phát triển các hệ thống AI có trách nhiệm. Ngoài ra, cơ quan, tổ chức KH&CN, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động nghiên cứu, thiết kế, phát triển, cung cấp các hệ thống AI được khuyến khích áp dụng các nội dung trong tài liệu hướng dẫn.
Theo ông Trần Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao, Bộ KH&CN, cần thúc đẩy áp dụng, thực hành các nguyên tắc này vào thực tiễn. Tiếp tục nghiên cứu kinh nghiệm các nước, khuyến nghị của các tổ chức quốc tế về AI; hướng dẫn để phát triển AI có trách nhiệm trong các ngành/lĩnh vực, dựa trên đặc thù của từng lĩnh vực như y tế, giáo dục, nông nghiệp…
Hiện Bộ KH&CN đang làm việc với UNESCO để thử nghiệm bộ công cụ RAM tại Việt Nam. Đồng thời, tiếp tục hợp tác với Australia trong nghiên cứu, đề xuất các nguyên tắc phát triển AI có trách nhiệm.
Ngoài ra, Bộ KH&CN cũng tăng cường nghiên cứu, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia để phục vụ phát triển AI tại Việt Nam; chủ động xác định các vấn đề khoa học, thực tiễn liên quan đến AI cần giải quyết và ưu tiên nguồn lực từ các Chương trình KH&CN trọng điểm cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 để triển khai các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể về AI…
Ông Trần Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao phát biểu tại Hội thảo.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Sử dụng nền tảng IPPlatform kết nối chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo

Ngày 03/07/2024, tại Hà Nội, Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ (SHTT) – Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức Hội nghị “Kết nối chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trên Nền tảng IPPlatform với các chủ thể của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (ĐMST) khu vực miền Bắc”.

Hội nghị được Viện Khoa học SHTT tổ chức là sự kiện nằm trong chuỗi các hoạt động thuộc khuôn khổ triển khai nhiệm vụ “Hỗ trợ phát triển thị trường cho doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST; phát triển các nền tảng trực tuyến liên kết, kết nối các thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST” thuộc Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST quốc gia đến năm 2025” được phê duyệt tại Quyết định số 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì thực hiện.

Toàn cảnh Hội nghị.

Hội nghị được tổ chức với mục đích kết nối các chủ thể quyền SHTT trên Nền tảng IPPlatform với các vườn ươm, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, doanh nghiệp, tập đoàn và các nhà đầu tư thuộc Hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST; tiếp nhận yêu cầu và thực hiện tư vấn về các vấn đề liên quan tới khởi nghiệp ĐMST như bảo hộ tài sản trí tuệ (TSTT), thương mại hóa TSTT, định giá TSTT, kêu gọi vốn….

Tại Hội nghị, chuyên gia của Viện Khoa học KHSHTT đã chia sẻ về các chủ đề: nhận dạng TSTT phục vụ hoạt động khởi nghiệp ĐMST; hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST.

Các đại biểu tham dự Hội nghị.

Cũng tại Hội nghị, các chuyên gia của Viện Khoa học SHTT và đối tác sẽ tiếp nhận yêu cầu tư vấn và thực hiện tư vấn miễn phí cho doanh nghiệp khởi nghiệp ĐMST, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, trường đại học, viện nghiên cứu tại khu vực miền Bắc về các vấn đề liên quan đến SHTT và khởi nghiệp ĐMST.

Trong năm 2024, ngoài Hội nghị tại Hà Nội, Viện Khoa học SHTT sẽ tổ chức 02 Hội nghị tại khu vực miền Nam (dự kiến 12/07/2024) và miền Trung (dự kiến 26/07/2024) nhằm góp phần hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp ĐMST tại 2 khu vực này.

L.H

Hoàn thành lò phản ứng hạt nhân lớn nhất thế giới

ITER, lò phản ứng nhiệt hạch 27 tỷ USD ở Pháp, đã lắp xong cuộn nam châm cuối cùng và dự kiến vận hành sau 15 năm nữa.

Mô phỏng thiết kế của lò ITER. Ảnh: ITER

Mô phỏng thiết kế của lò ITER. Ảnh: ITER

Lò phản ứng nhiệt hạch lớn nhất thế giới đã hoàn thành, nhưng sau 15 năm nữa mới hoạt động, theo các nhà khoa học phụ trách dự án. Lò phản ứng nhiệt hạt nhân thử nghiệm quốc tế (ITER) bao gồm 19 cuộn khổng lồ tạo thành nhiều nam châm hình xuyến giống chữ D, ban đầu dự kiến chạy thử đầy đủ năm 2020. Thế nhưng nhóm nghiên cứu trong dự án cho biết lò sẽ hoạt động sớm nhất năm 2039. Điều này có nghĩa năng lượng nhiệt hạch nhiều khả năng không thể trở thành giải pháp giúp đối phó khủng hoảng khí hậu kịp thời, Live Science hôm 3/7 đưa tin.

Là lò phản ứng hạt nhân lớn nhất thế giới và sản phẩm hợp tác giữa 35 quốc gia, bao gồm các nước trong Liên minh châu Âu, Anh, Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ, ITER chứa nam châm mạnh nhất thế giới, giúp sản xuất từ trường mạnh gấp 280.000 lần từ trường bảo vệ Trái Đất. Thiết kế ấn tượng của lò phản ứng đi kèm chi phí lớn không kém. Từ mức dự kiến ban đầu là 5 tỷ USD, hiện nay, dự án vấp phải nhiều trì hoãn và chi phí thiết kế chế tạo đội lên 22 tỷ USD, cùng 5 tỷ USD nữa cho những khoản phát sinh. Do đó, dự án bị chậm 15 năm so với kế hoạch.

Giới khoa học đang tìm cách khai thác năng lượng từ phản ứng nhiệt hạch, quá trình ở lõi các ngôi sao, trong hơn 70 năm. Thông qua hợp nhất nguyên tử hydro để tạo ra heli dưới áp suất và nhiệt độ cực cao, những ngôi sao dãy chính biến đổi vật chất thành ánh sáng và nhiệt, sản sinh năng lượng khổng lồ mà không tạo ra khí nhà kính hay chất thải phóng xạ tồn tại lâu. Nhưng mô phỏng điều kiện bên trong lõi sao không phải công việc đơn giản. Thiết kế lò phản ứng nhiệt hạch phổ biến nhất, tokamak, hoạt động bằng cách tạo plasma siêu nóng (một trong 4 trạng thái vật chất, bao gồm ion dương và electron tự do tích điện âm), trước khi giữ chúng bên trong buồng lò phản ứng hình bánh vòng có từ trường mạnh.

Tuy nhiên, giữ dòng plasma siêu nóng và hỗn loạn tại chỗ đủ lâu để phản ứng nhiệt hạch xảy ra là một thách thức. Nhà khoa học Liên Xô Natan Yavlinsky thiết kế lò tokamak đầu tiên năm 1958, nhưng sau đó chưa có ai tạo thành công lò phản ứng có thể sản xuất nhiều năng lượng hơn mức sử dụng. Một trong những trở ngại chính là xử lý plasma. Lò phản ứng nhiệt hạch yêu cầu nhiệt độ rất cao (nóng gấp nhiều lần Mặt Trời) do cần hoạt động ở áp suất thấp hơn nhiều so với bên trong lõi sao. Ví dụ, lõi của Mặt Trời nóng tới 15 triệu độ C nhưng có áp suất gấp 340 tỷ lần áp suất khí quyển ở mực nước biển trên Trái Đất. Làm nóng plasma tới nhiệt độ như trên là giải pháp tương đối an toàn, nhưng rất khó tìm ra cách kìm giữ nó. Điều này thường được thực hiện bằng laser hoặc từ trường.

An Khang (Theo Live Science)

Tại sao hầu hết tên lửa phóng gần xích đạo?

Phần lớn tên lửa đều phóng từ cảng vũ trụ nằm gần xích đạo để tận dụng lực từ Trái Đất giúp tăng đáng kể tốc độ và giảm lượng lớn nhiên liệu.

Tên lửa Ariane 5 phóng từ vùng Guiana thuộc Pháp chỉ cách xích đạo 500 km. Ảnh: ESA

Tên lửa Ariane 5 phóng từ vùng Guiana thuộc Pháp chỉ cách xích đạo 500 km. Ảnh: ESA

Nếu theo dõi một vụ phóng tên lửa gần đây, bất kể từ NASA, SpaceX hay Cơ quan Vũ trụ Trung Quốc, bạn sẽ nhận thấy một số điểm tương đồng về địa điểm cũng như hình dáng tên lửa. Lý do phía sau những điểm tương đồng đó liên quan tới bảo vệ an toàn cho người dân và phóng tên lửa vào không gian với ít sức lực nhất, theo IFL Science.

Đầu tiên, địa điểm phóng phải gần biển. Vài phút đầu tiên sau khi phóng rất quan trọng. Nếu tên lửa phóng thất bại, sẽ tốt hơn nếu nó rơi xuống đại dương vắng vẻ thay vì khu dân cư đông đúc. Một số cảng vũ trụ không gần biển như Baikonur ở Kazakhstan nhưng tên lửa bay theo lộ trình không ngang qua nơi người dân sinh sống.

Một yêu cầu về địa điểm khó chú ý hơn là vĩ độ của cảng vũ trụ. Trung tâm vũ trụ Kennedy của NASA tại Florida nằm ở 28 độ vĩ bắc. Cơ sở Starbase của SpaceX nằm ở 25 độ vĩ bắc. Bãi phóng vũ trụ Văn Xương nằm ở 19 độ vĩ bắc. Trung tâm ở Guiana của Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) nằm ở 5 độ vĩ bắc. Lý do cho đặc điểm chung này là tên lửa dễ bay vào không gian hơn nếu có trợ lực từ Trái Đất.

Ở xích đạo, Trái Đất quay 1.650 km/h so với tâm hành tinh. Càng gần xích đạo, nhiên liệu cần dùng để bay vào không gian càng ít do có thể tận dụng tốc độ quay này. Bay vào không gian đòi hỏi tốc độ lớn. Do Trái Đất quay quanh trục, bạn có thể tăng tốc đáng kể nếu phóng ở nơi Trái Đất rộng nhất là xích đạo, theo ESA. ESA sẽ phóng tên lửa mới Ariane 6 lần đầu tiên từ Trung tâm vũ trụ Guiana tuần tới. Phóng gần xích đạo có nghĩa tên lửa sẽ bắt đầu bay ở 5% tốc độ cần thiết để lên tới quỹ đạo. Con số này có vẻ không nhiều nhưng nó có thể giảm đáng kể nhiên liệu, giúp tăng đáng kể khối lượng hàng.

Tàu vũ trụ Soyuz của Nga từng phóng từ Trung tâm vũ trụ Guiana trước khi chiến sự Nga – Ukraine nổ ra. Hiện nay, tàu Soyuz tiếp tục phóng từ Baikonur ở 45 độ vĩ bắc. Tàu Soyuz phóng từ xích đạo mang nhiều hàng hóa hơn 60% so với tàu phóng từ Kazakhstan.

Tuy nhiên, quy tắc trên cũng có ngoại lệ và không chỉ do địa chính trị. Có những cảng vũ trụ nằm xa hơn về phương bắc do không cần tăng cường tốc độ. Việc phóng gần xích đạo rất hữu ích đối với nhiều quỹ đạo nhưng không phải tất cả. Quỹ đạo cực như quỹ đạo đồng bộ Mặt Trời hoặc quỹ đạo Molniya để nghiên cứu những vĩ tuyến cao hơn, là ví dụ về quỹ đạo ngoại lệ như vậy.

An Khang (Theo IFL Science)