.jpg)
Nguồn: Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
Nguồn: Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia
Ngày 16/07/2024, Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) phối hợp với Tập đoàn Qorvo (Qorvo), Hoa Kỳ và Tập đoàn Cadence, Hoa Kỳ (Cadence) tổ chức Lễ khai giảng Chương trình đào tạo thiết kế vi mạch và Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa NIC và Qorvo. Sự kiện này đánh dấu khởi đầu cho chương trình đào tạo quan trọng nhằm nâng cao năng lực nguồn nhân lực trong lĩnh vực thiết kế vi mạch bán dẫn – lĩnh vực đang thiếu hụt nguồn nhân lực tại Việt Nam.
Theo thỏa thuận hợp tác, Qorvo cung cấp giảng viên, chuyên gia cấp cao trong lĩnh vực thiết kế vi mạch và chương trình đào tạo của Tập đoàn, theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ; trong khi đó, Cadence hỗ trợ toàn bộ bản quyền phần mềm thiết kế vi mạch phục vụ chương trình đào tạo. Các học viên tham gia học tập trung tại NIC cơ sở Hà Nội trong 3 tháng. Tham gia khóa học, học viên có cơ hội kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, được đào tạo bài bản về công nghệ bán dẫn và thiết kế vi mạch Analog thông qua phần mềm tiêu chuẩn công nghiệp Cadence Virtuoso. Ngoài ra, khóa học giúp học viên nuôi dưỡng tư duy liên tục học hỏi sáng tạo và cập nhật các xu hướng của ngành thiết kế mạch Analog, đáp ứng nhu cầu của ngành công nghiệp điện tử và vi mạch bán dẫn trong nước và quốc tế. Các học viên hoàn thành khóa học sẽ được ưu tiên cơ hội thực tập, việc làm từ Qorvo và các doanh nghiệp đối tác hàng đầu của NIC trong lĩnh vực thiết kế vi mạch. Việc tuyển dụng này cũng phù hợp với xu thế mở rộng kinh doanh, tăng cường đầu tư tại Việt Nam của Qorvo cũng như các doanh nghiệp bán dẫn lớn trên thế giới trong thời gian qua.
Trong bối cảnh xu hướng của chuỗi giá trị bán dẫn đang dần dịch chuyển sang các nước Đông Nam Á, Việt Nam có đầy đủ điều kiện và yếu tố cần thiết để phát triển công nghiệp bán dẫn như vị trí địa lý thuận lợi, lực lượng lao động trẻ am hiểu công nghệ, cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại, đặc biệt là cơ sở hạ tầng số phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, môi trường đầu tư thuận lợi. Chính vì vậy, việc chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực kỹ thuật công nghệ nói chung và công nghiệp bán dẫn nói riêng sẽ tạo ra động lực to lớn, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới.
Sự hợp tác giữa NIC và Qorvo đánh dấu một bước tiến quan trọng trong phát triển ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam. Chương trình đào tạo chuyên sâu về thiết kế vi mạch cùng các hoạt động hợp tác khác được kỳ vọng sẽ góp phần nâng cao năng lực nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn, đồng thời thu hút đầu tư và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực này, góp phần đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và thiết kế vi mạch có tên tuổi trong khu vực và trên thế giới trong thời gian tới.
VVH
Vài năm trở lại đây, thiên tai diễn biến mỗi lúc càng trở nên bất thường, trái quy luật. Tuy nhiên, sự hỗ trợ đắc lực của KHCN và CÐS góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, nhất là công tác dự báo, cảnh báo thiên tai từ sớm, từ xa và ngày một chính xác hơn. Nhờ đó, các ngành, đơn vị, địa phương có đầy đủ thông tin để chỉ đạo, điều hành, giúp người dân hạn chế thấp nhất các rủi ro, thiệt hại, đặc biệt là thiệt hại về người.
Nhờ công nghệ mà công tác theo dõi tình trạng sạt lở bờ biển trở nên dễ dàng và kịp thời hơn. (Trong ảnh: Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp (bìa phải) trao đổi về thực trạng sạt lở bờ biển trên địa bàn tỉnh thông qua bản đồ được chụp từ vệ tinh, ảnh chụp ngày 12/1/2024).
“Khả năng hiện tượng La Nina sẽ xuất hiện trong nửa cuối năm 2024, số lượng cơn bão, áp thấp nhiệt đới sẽ tập trung nhiều vào nửa cuối mùa mưa bão, tức từ tháng 9 đến tháng 11 và có dấu hiệu tương tự mùa mưa bão năm 2020, trên địa bàn tỉnh sẽ xuất hiện nhiều loại hình thiên tai như mưa lớn, ngập lụt, lốc xoáy, gió giật mạnh… Cần chủ động phòng chống” – để có được thông tin cảnh báo thời tiết đáng chú ý này từ rất sớm như hiện nay là một trong những thành quả của việc ứng dụng KHCN vào công tác phòng chống thiên tai (PCTT) thời gian qua.
Theo ông Trịnh Xuân Hưng, Giám đốc Ðài Khí tượng thuỷ văn tỉnh, cho biết, hiện trên địa bàn tỉnh đã được đầu tư 49 trạm khí tượng thuỷ văn, 2 trạm cảnh báo ngập lụt. Nhờ hệ thống quan trắc khí tượng thuỷ văn được quan tâm đầu tư ngày một tăng về số lượng và theo hướng đo tự động, cùng với CÐS đã giúp việc bám sát các bản tin dự báo, cảnh báo của các cơ quan khí tượng khu vực, quốc gia và tham khảo trang thông tin dự báo quốc tế dễ dàng hơn.
Theo đó, công tác dự báo, cảnh báo thiên tai của tỉnh đạt độ tin cậy khá tốt, sát thực tế, cơ bản đáp ứng yêu cầu trong công tác chỉ đạo, điều hành ứng phó với thiên tai trên địa bàn tỉnh.
Chất lượng dự báo, cảnh báo thiên tai ngày càng được tăng lên nhờ KHCN. Tuy nhiên, làm thế nào để truyền tải thông tin này đến với cơ sở, từng người dân, tránh bị động trong các tình huống thiên tai xảy ra càng trở nên quan trọng. Một lần nữa KHCN, CÐS lại được tận dụng và phát huy hiệu quả.
Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chi cục trưởng Chi cục Thuỷ lợi, Chánh Văn phòng Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn (PCTT&TKCN) tỉnh, cho biết, song song với việc tiếp tục duy trì thực hiện truyền tải thông tin dự báo, cảnh báo thiên tai qua các kênh truyền tải thông tin truyền thống (văn bản giấy, fax, truyền thanh, loa di động…) thì hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin, viễn thông, viễn thám như truyền hình, điện thoại di động, email, Zalo, mạng xã hội… giữ vai trò quan trọng để đảm bảo thông tin, cảnh báo thiên tai đến người dân đầy đủ, kịp thời.
Các thiết bị công nghệ được ứng dụng để kiểm soát quản lý tàu cá khai thác trên biển.
Riêng đối với tàu thuyền trên biển, Ban Chỉ huy PCTT&TKCN tỉnh tiếp tục sử dụng các hệ thống thông tin, truyền tin, liên lạc qua các thiết bị vô tuyến điện, bộ đàm, liên lạc viễn thám. Ðồng thời, duy trì việc sử dụng thiết bị giám sát hành trình để tăng cường kênh thông tin, liên lạc truyền tin, xử lý các tình huống kêu gọi, kiểm đếm tàu thuyền khi có bão, tìm kiếm người, tàu thuyền bị nạn trên biển một cách nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất.
Ðiều này đã được minh chứng rõ hơn khi trong năm 2023, Ban Chỉ huy PCTT&TKCN tỉnh đã phối hợp với lực lượng của Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân, Cảnh sát biển, Trung tâm Phối hợp tìm kiếm, cứu nạn hàng hải khu vực III, Ban Chỉ huy PCTT&TKCN các tỉnh lân cận xử lý đối với các vụ việc thuyền viên bị mất tích, tai nạn trên biển. Thông qua các nền tảng công nghệ đã thông báo, phát 5.900 lượt thông tin thời tiết, cảnh báo hàng hải, bão, áp thấp nhiệt đới cho tàu cá trên biển, đồng thời thông báo, kêu gọi gần 13.442 tàu cá vào nơi trú ẩn an toàn. Ðặc biệt, kịp thời huy động lực lượng, phương tiện tìm kiếm, cứu sống được 83 người gặp nạn trên biển.
Trên đất liền, nhờ công nghệ số và các ứng dụng KHCN mà tình hình thiên tai được dự báo sớm và luôn được cập nhật liên tục, làm cơ sở cho công tác chỉ đạo, điều hành ứng phó. Trong khoảng một năm qua, đã có 3.317 lực lượng cán bộ, chiến sĩ quân sự, biên phòng, công an, dân quân tự vệ… được huy động phối hợp với chính quyền địa phương giúp dân, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả các vụ thiên tai và tai nạn trên đất liền. Qua đó, giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản cho người dân.
Công nghệ số cũng được ứng dụng vào công tác quản lý bảo vệ rừng, nhất là trong việc kiểm soát người vào rừng nhằm giảm nguy cơ cháy rừng vào mùa khô cũng như khai thác nguồn tài nguyên rừng trái phép. (Trong ảnh: Hệ thống camera giám sát được lắp đặt tại Vườn Quốc gia U Minh Hạ).
Công nghệ hỗ trợ để thông tin dự báo, cảnh báo ngày một chính xác hơn, đồng thời cũng giúp có thêm nhiều kênh đưa những thông tin ấy đến với người dân một cách nhanh chóng nhất, giúp việc huy động lực lượng trang bị, phương tiện được kịp thời hơn…, từ đó góp phần giảm thiểu thiệt hại, tăng tính chủ động của các ngành, các cấp cũng như người dân trong việc bảo vệ tài sản, sản xuất và cả tính mạng trước thiên tai.
Ðặc biệt, trong thời đại số, công tác ứng dụng các nền tảng công nghệ nhằm nâng cao kỹ năng chủ động PCTT cũng được nhiều cơ quan chức năng quan tâm thực hiện. Trong năm 2023, nhằm số hoá công tác thống kê, theo dõi, báo cáo tình hình thiệt hại do thiên tai các cấp trên địa bàn, tỉnh tiến hành nghiên cứu, thiết lập phần mềm thống kê thiệt hại trực tuyến, với 121 tài khoản đã được cấp quyền, hệ thống bước đầu hoạt động thông suốt, liên tục. Qua đó, số liệu thiệt hại được cập nhật tức thời, dữ liệu được sao lưu thường xuyên phục vụ công tác thống kê, tổng hợp số liệu thiệt hại, hỗ trợ công tác trực ban PCTT các cấp, là nguồn dữ liệu hỗ trợ ra quyết định chỉ đạo ứng phó, khắc phục thiệt hại do thiên tai…
Với sự phát triển nhanh của KHCN, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ vệ tinh, ngoài việc giúp chính quyền cơ sở, cộng đồng nắm bắt kịp thời, chính xác thông tin dự báo, cảnh báo thiên tai từ các cơ quan chức năng mà còn có thể tham khảo nhiều trang dự báo trực tuyến mọi lúc, mọi nơi, từ đó luôn chủ động phòng tránh hiệu quả. “Bên cạnh đó, các trang thiết bị công nghệ trong lĩnh vực PCTT từng bước được đầu tư ngày một kiện toàn, góp phần quan trọng phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, ứng phó cũng như khắc phục hậu quả thiên tai và hỗ trợ người dân chủ động hơn trong các tình huống thiên tai”, ông Tùng cho biết thêm./.
Nguyễn Phú
Các dự án neutrino – hạt hạ nguyên tử có thể xuyên qua vật chất thông thường mà không để lại dấu vết – được các chuyên gia chia sẻ tại Trường học Việt Nam về Neutrinos lần thứ 8 (VSON8).
VSON8 diễn ra từ 16 – 26/7 tại Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành ((ICISE), Quy Nhơn. Sự kiện hội tụ nhiều nhà khoa học, nghiên cứu đầu ngành trong lĩnh vực vật lý neutrino, gồm GS Yuichi Oyama (Viện KEK, Nhật Bản), GS Atsumu Suzuki (Đại học Kobe, Nhật Bản), GS Tsuyoshi Nakaya và GS Makoto Miura (Đại học Tokyo, Nhật Bản), GS Jennifer Thomas (Đại học College London, Anh), GS Sanjib Kumar Agarwalla (Viện Vật lý (IOP), Bhubaneswar, Ấn Độ), GS Junting Huang (Đại học Shanghai Jiao Tong, Trung Quốc).
Các nhà khoa học sẽ giảng kiến thức về vật lý hạt và vật lý neutrino, các nguyên lý cơ bản và kỹ thuật hiện đại để phát hiện ra chúng; phát kiến khoa học có thể đạt được với các thí nghiệm này. Học viên cũng được tiếp cận với kỹ năng chạy mô phỏng các tương tác neutrino; phân loại tương tác thông qua hình ảnh thu được từ máy dò Super-Kamiokande (một thí nghiệm đã đóng góp trực tiếp cho giải thưởng Nobel vật lý năm 2015) hay trực tiếp vận hành, quan sát và đo đạc với một hệ đo các tia vũ trụ đơn giản.
Cũng tại trường học neutrinos, 32 nhà khoa học, nhà nghiên cứu và học viên đến từ Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Ý, Anh, Việt Nam sẽ thực hành trực tiếp với các phần mềm và phần cứng sử dụng trong các thí nghiệm neutrino quốc tế. Nhóm nghiên cứu Vật lý Neutrino tại Trung tâm ICISE là nhóm nghiên cứu thực nghiệm duy nhất, tiên phong ở Việt Nam tham gia các thí nghiệm quốc tế được đặt ở Nhật Bản, trong đó có kết quả nghiên cứu của thí nghiệm T2K (một trong mười phát kiến khoa học thế giới năm 2020).
GS Trần Thanh Vân chia sẻ tại buổi học. Ảnh: Trọng Nhân
GS Trần Thanh Vân, Chủ tịch hội Khoa học Gặp gỡ Việt Nam, Giám đốc Trung tâm ICISE cho biết vật lý neutrino trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng có nhiều phát kiến mới trong chương trình nghiên cứu Vật lý hạt cơ bản của thế giới. Tuy nhiên việc nghiên cứu chuyên sâu về vật lý neutrino chưa được đưa vào chương trình đào tạo sau đại học tại Việt Nam. Theo đó Trường học cung cấp cho học viên nền tảng về neutrino “để phát triển nguồn nhân lực các nhà nghiên cứu của Việt Nam trong lĩnh vực này”, ông nói.
Trường học Việt Nam về neutrino được tổ chức lần đầu năm 2017, với sự giúp đỡ từ các chuyên gia vật lý neutrino hàng đầu Nhật Bản. Trải qua 8 lần tổ chức, chương trình thu hút nhiều học viên quốc tế từ châu Âu, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á. Thông qua trường học, nhiều học viên Việt Nam và quốc tế theo đuổi nghiên cứu và nhận bằng tiến sĩ trong lĩnh vực neutrino.
Các sinh viên Việt Nam cùng học tập, trải nghiệm với sinh viên quốc tế và các nhà khoa học tại Trường học Việt Nam về neutrino. Ảnh: Trọng Nhân
Như Quỳnh
Startup 44.01 đẩy nhanh quá trình khoáng hóa CO2 tự nhiên từ hàng thập kỷ xuống còn chưa đầy một năm. Ảnh: 44.01
Startup Oman 44.01 phát triển một quy trình mới có thể giam giữ CO2 vĩnh viễn dưới lòng đất, giúp loại bỏ một lượng lớn loại khí làm ấm hành tinh này khỏi khí quyển, Interesting Engineering hôm 15/7 đưa tin. 44.01, được đặt tên theo khối lượng phân tử của CO2, đã kiểm chứng công nghệ tại Oman và hy vọng sẽ mở rộng ra toàn cầu.
Startup này trộn CO2 với nước trước khi bơm xuống lỗ khoan sâu 1 km. Từ đây, hỗn hợp sẽ thấm vào các vết nứt trong peridotite, một loại đá bị nứt tự nhiên. Đá cô lập CO2 thông qua quá trình khoáng hóa carbon, trong đó một số khoáng chất phản ứng với CO2 để tạo thành carbonate rắn. Điều này đồng nghĩa, carbon bị giữ lại dưới lòng đất và không thể bay trở lại vào khí quyển.
Peridotite thường nằm sâu trong lòng đất, nhưng tại Oman, các mỏ đá ở gần bề mặt hơn. Chúng cho phép các nhà khoa học quan sát khả năng cô lập carbon của peridotite. Công nghệ của 44.01 giúp đẩy nhanh quá trình cô lập bằng cách bơm nước chứa CO2 vào những vết nứt của peridotite. “Thay vì mất hàng thập kỷ như trong tự nhiên, chúng tôi chỉ mất vài tháng”, Talal Hasan, nhà sáng lập kiêm CEO của startup này cho biết.
44.01 đặt mục tiêu thương mại hóa công nghệ của mình tại Oman và UAE trước khi mở rộng ra toàn cầu. Công ty đã hoàn thành các dự án thử nghiệm tại hai quốc gia này. Những thử nghiệm ban đầu cho thấy công nghệ mới hiện có thể cô lập khoảng 50 – 60 tấn CO2 mỗi ngày. Khi thương mại hóa, 44.01 đặt mục tiêu cô lập 100 tấn CO2 mỗi ngày với mỗi lỗ khoan.
Dù công nghệ cô lập và thu giữ carbon có thể đóng vai trò quan trọng giúp hạn chế tác động của biến đổi khí hậu, nhiều nhà khoa học cảnh báo rằng không nên coi đây là giải pháp thực sự. Thay vào đó, các nước cần giảm mạnh việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch – nguồn tạo ra khí thải. Lượng CO2 cần loại bỏ khỏi khí quyển sẽ vô cùng lớn, đòi hỏi nỗ lực lớn trên toàn cầu, kể cả khi ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch ngừng thải CO2 vào khí quyển ngay hôm nay.
Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)
Toàn cảnh Hội nghị tập huấn.
Hình thành mạng lưới truyền thông KH,CN&ĐMST
Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Khải, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN cho biết, Hội nghị được tổ chức với mục tiêu tăng cường kỹ năng của đội ngũ cán bộ phụ trách truyền thông KH,CN&ĐMST trong việc nâng cao hiệu quả công tác truyền thông KH,CN&ĐMST; đồng thời, tăng cường phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ, các Sở KH&CN với các cơ quan thông tấn báo chí để hình thành mạng lưới truyền thông KH,CN&ĐMST. Qua đó, cung cấp thông tin chính xác, kịp thời về chính sách mới, các thành tựu KH,CN&ĐMST; lan tỏa những điểm sáng; làm thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của nhiều đối tượng công chúng đóng góp vào sự phát triển chung của ngành KH&CN.
Ông Nguyễn Văn Khải, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN phát biểu tại Hội nghị.
Tại Hội nghị, TS. Phan Văn Kiền, Viện trưởng Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã trao đổi về Phương pháp truyền thông KH,CN&ĐMST trên mạng xã hội. Theo đó, để sử dụng mạng xã hội một cách hiệu quả, cần đảm bảo tính kịp thời, đa dạng thông tin; tăng lượng tương tác với công chúng trên fanpage; xây dựng, tìm kiếm và sáng tạo những nội dung mới, hấp dẫn để cập nhật hằng ngày; thiết kế những hình ảnh đẹp, bắt mắt để thu hút công chúng; kiểm tra, bảo vệ sự an toàn cho fanpage…
Trao đổi về Kỹ năng xử lý khủng hoảng truyền thông trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST, PGS.TS. Đỗ Thị Thu Hằng, Trưởng Ban Nghiệp vụ Hội Nhà Báo Việt Nam cho biết, mục tiêu chính của quản trị khủng hoảng là kiểm soát được tình huống khủng hoảng nhằm giảm thiểu hoặc ngăn chặn được những tác động tiêu cực; bảo vệ uy tín, hình ảnh của tổ chức và sự ủng hộ tích cực từ các nhóm công chúng khác nhau thông qua việc quản lý thông tin và truyền thông hiệu quả trong tình huống khủng hoảng. Theo bà Đỗ Thị Thu Hằng, để xử lý khủng hoảng trong trường hợp khẩn cấp cần xây dựng thông điệp và tổ chức họp báo khẩn cấp (nếu cần); hỗ trợ cho phát ngôn viên chính thức trong họp báo; tư vấn, thúc đẩy và giám sát tiến trình khắc phục sự cố…
Cũng tại Hội nghị, bà Lê Thị Loan, Trưởng phòng Tổng hợp – Thư ký, Văn phòng Bộ KH&CN đã trao đổi về Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của Bộ KH&CN. Qua đó, đề nghị các đơn vị phối hợp tốt trong việc cung cấp thông tin cho báo chí và cổng thông tin điện tử của Bộ.
Trao đổi về hoạt động truyền thông KH,CN&ĐMST của địa phương, ông Phan Quốc Chính, Giám đốc Sở KH&CN tỉnh Thái Nguyên đã chia sẻ những ví dụ thực tiễn trong hoạt động truyền thông và xử lý khủng hoảng truyền thông tại địa phương. Qua đó khuyến nghị các giải pháp thúc đẩy hoạt động này trong thời gian tới.
Các báo cáo viên trình bày tại Hội nghị.
Tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các đơn vị
Tại Hội nghị, đại diện các đơn vị thuộc Bộ KH&CN đã thảo luận, chia sẻ những thuận lợi, khó khăn và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả truyền KH,CN&ĐMST trong thời gian tới. Ông Nguyễn Đắc Bình Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng cho biết, trong thời gian qua, Viện đã tăng cường hoạt động truyền thông trên các nền tảng như đăng tải các hoạt động nghiên cứu lên cổng thông tin điện tử của Bộ, xây dựng fanpage của đơn vị…; tuy nhiên, công tác này cũng còn nhiều hạn chế. Ông Nguyễn Đắc Bình Minh mong muốn, Bộ KH&CN thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, trao đổi về công tác truyền thông để Viện cũng như các đơn vị trong Bộ có cơ hội trau dồi và đẩy mạnh truyền thông cho đơn vị, cho ngành.
Đồng quan điểm, bà Nguyễn Thị Thu Hiền, Giám đốc Trung tâm Thông tin sở hữu công nghiệp, Cục Sở hữu trí tuệ hy vọng ngoài tập huấn cho cán bộ truyền thông các đơn vị thuộc Bộ, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN tăng cường Hội nghị tập huấn cho báo chí để các phóng viên hiểu hơn về ngành KH&CN, đặc biệt là sở hữu trí tuệ để truyền thông đúng, trúng và kịp thời.
Theo ông Lê Đăng Huyền, Quyền Chánh Văn phòng Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia, cần tăng cường công tác truyền thông trên báo chí, cổng thông tin của đơn vị, mạng xã hội và tại các trường đại học để truyền thông ngày càng lan tỏa sâu rộng.
Các đại biểu trao đổi tại Hội nghị.
Phát biểu kết luận Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Hoàng Giang cho rằng, thời gian qua, KH,CN&ĐMST đã từng bước khẳng định vai trò động lực quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội và an ninh quốc phòng. Để KH,CN&ĐMST thực sự trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, là nền tảng và động lực để đổi mới mô hình tăng trưởng, công tác truyền thông KH,CN&ĐMST đóng vai trò hết sức quan trọng.
“Thời gian qua, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN đã có nhiều đổi mới sáng tạo trong hoạt động truyền thông, tạo được hiệu ứng tích cực, lan toả cộng đồng về KH,CN&ĐMST; đóng góp vào thành công chung của ngành KH&CN”, Thứ trưởng cho biết.
Theo Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang, để hoạt động truyền thông KH,CN&ĐMST thêm phong phú, sinh động và ngày càng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng, Bộ KH&CN sẽ phối hợp chặt chẽ với các viện, trường đào tạo báo chí, truyền thông tổ chức các khóa tập huấn; tăng cường gắn kết, chia sẻ thông tin về các định hướng cơ chế chính sách, thành tựu, vấn đề thực tiễn đặt ra của ngành; xem xét, điều chỉnh quy định cung cấp thông tin theo hướng cởi mở, thuận lợi hơn… để kịp thời đáp ứng nhu cầu thông tin, nâng cao hiệu quả công tác truyền thông KH,CN&ĐMST.
Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang phát biểu tại Hội nghị.
Đồng thời Thứ trưởng đề nghị các đơn vị của Bộ, các sở KH&CN tăng cường phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, các cơ quan báo chí nhằm đẩy mạnh truyền thông chính sách về KH,CN&ĐMST, hoạt động xây dựng thể chế, pháp luật, đặc biệt là việc sửa đổi Luật KH&CN, các đạo luật chuyên ngành; những đóng góp của KH,CN&ĐMST đối với kinh tế – xã hội… góp phần khẳng định và lan tỏa vai trò quốc sách hàng đầu của KH,CN&ĐMST trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
Việt Nam chưa làm chủ được công nghệ chế biến sâu, tách chiết ra sản phẩm đất hiếm, cần nghiên cứu và có chính sách để doanh nghiệp tham gia chuyển giao công nghệ, theo chuyên gia.
PGS. TS Hoàng Anh Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu nêu đề xuất tại cuộc họp kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) chiều 12/7.
Theo ông Sơn, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn (22 triệu tấn – theo Cục Khảo sát địa chất Mỹ), đứng thứ hai thế giới sau Trung Quốc (44 triệu tấn). Song đến nay Việt Nam chưa có nhà máy chế biến từ tinh quặng đất hiếm thành sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Nguyên nhân được ông chỉ ra do các doanh nghiệp được cấp mỏ chưa làm chủ được công nghệ chế biến ra sản phẩm đạt yêu cầu như đất hiếm tổng hợp có hàm lượng tối thiểu 95%, đồng thời chưa có công nghệ tách chiết ra các sản phẩm đất hiếm riêng rẽ.
Ông cho hay, công nghệ phân chia riêng rẽ oxit đất hiếm và làm sạch đến độ sạch cao, mặc dù đã có nghiên cứu từ rất sớm nhưng phần lớn mới triển khai trong phòng thí nghiệm, chưa có công nghệ nào áp dụng vào thực tế. Việc chuyển giao công nghệ từ các nước có công nghệ chế biến sâu đất hiếm cũng gặp khó do đòi hỏi trình độ cao, các nước giữ bí mật, hạn chế chuyển giao.
PGS.TS Hoàng Anh Sơn chia sẻ tại buổi họp báo. Ảnh: QD
Dẫn với đất hiếm Lai Châu, chuyên gia cho biết các công trình nghiên cứu đến nay đều dừng lại ở quy mô phòng thí nghiệm, vấn đề về thuốc tuyển chưa giải quyết được nên chất lượng tuyển không cao, chất lượng quặng tinh đất hiếm cuối cùng không được như mong muốn. Hay như quặng đất hiếm mỏ Đông Pao có thành phần vật chất phức tạp, quặng bị phong hóa mạnh, tỉ lệ cấp hạt mịn trong quặng lớn. “Mỗi thân quặng của mỏ có đặc trưng riêng về cấu trúc và thành phần vật chất, do đó công nghệ tuyển làm giàu đòi hỏi phải có nghiên cứu kỹ”, ông nói.
Theo PGS Sơn, quá trình chế biến quặng đất hiếm lý tưởng nhất là đạt đến sản phẩm có gia trị gia tăng cao, song tùy thuộc vào trình độ công nghệ, khả năng đầu tư và có thể thực hiện theo từng giai đoạn. Hiện một số đơn vị trong và ngoài nhà nước đã nghiên cứu thành công chế biến sâu ở quy mô phòng thí nghiệm. “Để triển khai ra thực tế đòi hỏi yêu cầu gắt gao từ yếu tố công nghệ, an toàn môi trường và mức cạnh tranh phát triển kinh tế”, PGS Sơn nói.
Để gỡ nút thắt, ông kiến nghị khảo sát đánh giá trữ lượng và giá trị của các thành phần nguyên tố đất hiếm trong các mỏ đã cấp phép, trong đó ưu tiên ứng dụng công nghệ. Theo PGS Sơn, Việt Nam cần xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ bằng cách hình thành các trung tâm nghiên cứu mạnh về đất hiếm, tập hợp đội ngũ nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành, đầu tư hạ tầng, trang thiết bị, nghiên cứu công nghệ khai thác, chế biến sâu đất hiếm và xử lý môi trường.
Ông đề xuất hình thành các nhiệm vụ theo hướng nghiên cứu phát triển được công nghệ chế biến có khả năng áp dụng, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này. Bên cạnh đó xây dựng chương trình khoa học công nghệ trọng điểm ưu tiên hướng chế biến và ứng dụng đất hiếm trong các lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao, công nghệ lõi. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tham gia nghiên cứu phát triển công nghệ chế biến sâu đất hiếm, phân chia riêng các oxit đất hiếm độ sạch cao, công nghệ chế tạo nam châm đất hiếm cho ngành công nghiệp ôtô điện, điện gió để sớm đưa vào thực tế sản xuất trong vòng 10 năm tới.
Các nhà khoa học cũng kiến nghị cơ chế, chính sách riêng để phát triển công nghiệp đất hiếm phù hợp với tiềm năng, trong đó gắn nghiên cứu, phát triển công nghệ và triển khai sản xuất, chế biến sâu. “Việt Nam cũng cần tạo cơ chế thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào khai thác, chế biến sâu đất hiếm kèm theo điều khoản về chuyển giao công nghệ”, ông nhấn mạnh.
Như Quỳnh
Tại buổi tọa đàm “Xây dựng tạp chí khoa học đạt chuẩn Scopus, AIC” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức sáng 15/7, nhiều ý kiến trong việc nâng cao chất lượng tạp chí khoa học được chia sẻ.
GS Nguyễn Trọng Hoài, Tổng biên tập tạp chí Nghiên cứu Kinh tế Kinh doanh châu Á (Đại học Kinh tế TP HCM) cho biết đơn vị ông gia nhập danh mục WoS (Web of Science) năm 2021, Scopus năm 2022 và xếp hạng Q1 năm 2023. Mục tiêu này được đặt ra từ 2012 – 2019 trong chương trình tài trợ của Bộ Giáo dục Đào tạo. Lý do được ông Hoài nêu “hội đồng biên tập có cả người Việt Nam và các nhà khoa học trên thế giới, phù hợp với phạm vi, tôn chỉ của tạp chí”. Hội đồng biên tập có nhiệm vụ bình duyệt bài, tham gia các hội thảo quốc tế, tư vấn cho tạp chí.
Theo GS Hoài để có sự tham gia của nhà khoa học quốc tế phụ thuộc vào mạng lưới kết nối của trường đại học và cá nhân người làm việc tại tạp chí hoặc thông qua các hội thảo học thuật. “Hội đồng biên tập đa dạng sẽ thu hút được bài của nhiều quốc gia, giúp nâng cao vị thế của tạp chí”, GS Hoài nói, thêm rằng đơn vị hướng tới các chỉ mục quốc tế phải đa dạng tác giả ngoài Việt Nam.
Nghiên cứu khoa học tại Đại học Quốc tế – Đại học Quốc gia TP HCM. Ảnh:Văn Tân
GS Hoài cũng thông tin, với tạp chí khoa học để vào WoS, hay Scopus cần được kiểm chứng các bài báo có phù hợp với phạm vi, lĩnh vực tham gia vào chỉ mục. Nếu không đạt các yếu tố về tính phù hợp sẽ rất khó cho việc công nhận tạp chí. Ông kiến nghị, cần có nhà xuất bản quốc tế trong nước nhằm giúp các tạp chí của Việt Nam cùng hướng mục tiêu đạt chuẩn mực quốc tế. Đây là cơ hội để các tạp chí của Việt Nam tiệm cận độ uy tín với khu vực và thế giới.
Đồng quan điểm, GS Lê Quốc Hội, Tổng biên tập Tạp chí Kinh tế và Phát triển (Đại học Kinh tế Quốc dân) nói, đơn vị đặt mục tiêu xây dựng tạp chí tầm khu vực vào năm 2015, sau đó gia nhập Scopus cuối năm 2023. Trường đặt mục tiêu xây dựng mạng lưới hợp tác với nhà khoa học là Việt kiều, người nước ngoài đang nghiên cứu trên thế giới.
Để thu hút lực lượng này, GS Hội cho biết đơn vị có cơ chế khuyến khích, đặt hàng nhà khoa học là Việt kiều. Đây được coi là một trong những chiến lược để tạp chí đạt các chuẩn mực quốc tế.
Theo PGS. TS Đinh Văn Thuật, Tổng biên tập Tạp chí Khoa học công nghệ xây dựng (Đại học Xây dựng Hà Nội), để nhiều tạp chí trong nước nâng cấp gia nhập quốc tế cần được đầu tư về tài chính để đáp ứng tiêu chí gia nhập danh mục ACI, tiến đến Scopus, WoS. Về lâu dài ông cho rằng cần xây dựng hệ thống chỉ mục trích dẫn tạp chí Việt Nam (Vietnam Citation Index) để phân loại, xếp hạng các tạp chí trong nước theo các mức độ khác nhau về tiêu chí đánh giá. Đây là cơ sở tạo độ tin cậy, khách quan hơn để tính điểm tạp chí trong nước.
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Văn Phúc dẫn thực tế nhiều nghiên cứu trong nước thường phải gửi đăng bài báo ở các tạp chí của nước ngoài. Kinh nghiệm các nước châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… cho thấy họ có nhiều tạp chí gia nhập hệ thống trích dẫn như Scopus, WoS, ISI. Điều này khiến các bài đăng tạp chí trong nước được xem là bài báo quốc tế, chất lượng không thua kém các nước phát triển. “Thời gian qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hỗ trợ 18 tạp chí xây dựng kế hoạch đạt chuẩn AIC (ASEAN Citation Index)) và 2 tạp chí đã đạt chuẩn Scopus”, ông cho biết.
Thứ trưởng Phúc cho rằng các tạp chí của Việt Nam cần phát triển hội nhập với xu hướng thế giới. Điều này giúp cho các bài báo khoa học đăng trong nước nhưng chất lượng, chuẩn mực của quốc tế.
Danh mục Scopus là cơ sở dữ liệu của Nhà Xuất bản Elsevier (Hà Lan). Đến tháng 3/2023, Scopus đưa vào danh mục tổng số 43.400 tạp chí khoa học trên thế giới, trong đó, gần 28.000 tạp chí còn hiệu lực. Trong danh mục này, có 8 tạp chí khoa học Việt Nam. Danh mục Web of Science (WoS) là cơ sở dữ liệu của Institute for Scientific Information, Mỹ. Việt Nam có 8 tạp chí thuộc danh mục này.
Hà An
Thông tin được Trưởng ban nghiên cứu các chỉ số tổng hợp, Vụ Phân tích dữ liệu và kinh tế, WIPO, Sacha Wunsch-Vincent nói tại Hội thảo “Đo lường và thúc đẩy kết quả đổi mới sáng tạo cấp địa phương: Vai trò của các chỉ số đổi mới sáng tạo tại khu vực” hôm 12/7.
Sự kiện do Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) tổ chức, nằm trong khuôn khổ kỳ họp lần thứ 65 của Đại hội đồng các quốc gia thành viên, với tham gia của các đại biểu từ các quốc gia thành viên WIPO, chuyên gia về xây dựng chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương.
Ông Sacha Wunsch-Vincent (trái) cùng ông Carsten Fink, Kinh tế trưởng của WIPO (giữa) điều hành Hội thảo. Ảnh chụp màn hình
Theo ông Sacha Wunsch-Vincent đánh giá Việt Nam sáng tạo khi “đưa vào một Trụ cột về Tác động trong đo lường về đổi mới sáng tạo”. Ông cho hay trước đây, Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) không có trụ cột về Tác động ở cấp quốc gia mà chỉ có công cụ để đo lường tác động của đổi mới sáng tạo cấp toàn cầu. Theo đó “có nhiều điều học hỏi được từ kinh nghiệm xây dựng chỉ số PII của Việt Nam”. Trong báo cáo GII sẽ công bố vào tháng 9 tới sẽ có các chỉ số về tác động của đổi mới sáng tạo cấp độ quốc gia.
Trong bài chia sẻ tại hội thảo, ông Nguyễn Võ Hưng, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, Học viện Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo, cho biết Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) của Việt Nam được xây dựng dựa trên khung GII của WIPO với phương pháp xây dựng chỉ số tổng hợp theo chuẩn quốc tế, dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia của WIPO về mặt chuyên môn, phương pháp luận.
Chỉ số PII của Việt Nam có điểm mới và sự sáng tạo so với GII khi đưa vào trong khung chỉ số một trụ cột Tác động, thể hiện tác động của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến hoạt động sản xuất-kinh doanh và đến phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
Ông Hưng cho biết, kết quả PII năm 2023 đã được báo cáo Chính phủ và được các địa phương đón nhận. Nhiều địa phương đã tích cực tìm hiểu nội hàm, ý nghĩa của khung chỉ số và của từng chỉ số, các điểm mạnh, điểm yếu và thảo luận các giải pháp cải thiện phù hợp.
Chuyên gia về xây dựng chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương từ Bộ Khoa học và Công nghệ chia sẻ tại hội thảo. Ảnh chụp màn hình
Các đại diện đến từ Brazil, Colombia, Ấn Độ và Liên minh châu Âu cũng chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng chỉ số đánh giá đổi mới sáng tạo trong nước, nhằm cải thiện hiệu suất đổi mới, thiết kế chính sách tăng trưởng kinh tế cho từng khu vực.
Ông Rodrigo Ventura, kinh tế trưởng Viện Sở hữu Công nghiệp quốc gia Brazil (INPI) cho hay năm 2024 Brazil lần đầu tiên công bố Chỉ số đổi mới sáng tạo Brazil (BII), dự kiến vào tháng 8 tới. Bộ chỉ số do INPI xây dựng dựa theo cấu trúc của GII, được thiết kế với hai nhóm đầu vào đổi mới sáng tạo (gồm 5 trụ cột) và kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo (2 trụ cột), với tổng cộng 74 chỉ số thành phần. Các chỉ số thành phần cũng được điều chỉnh nhằm phù hợp với quy mô kinh tế xã hội, dân số, đất đai của từng tiểu bang. Bên cạnh xếp hạng theo bang và chia thành 5 khu vực, BII còn vinh danh nhà lãnh đạo đổi mới.
Theo ông Rodrigo Ventura, báo cáo giúp địa phương nhìn ra “chìa khóa” để xây dựng và thực thi chính sách, tận dụng thế mạnh, vượt qua thách thức. Dẫn chứng, ông cho biết kết quả xếp hạng cho thấy các tiểu bang có cơ sở giáo dục mạnh thì chỉ số vốn nhân lực, đầu tư R&D, tổ chức nghiên cứu xuất sắc được chú trọng. Trong khi việc cải thiện cơ sở hạ tầng, kỹ thuật số vẫn là ưu tiên hàng đầu đối với khu vực kém phát triển. “Báo cáo cung cấp thông tin môi trường kinh doanh, hỗ trợ pháp lý giúp các nhà đầu tư, doanh nghiệp, nhất là các công ty khởi nghiệp có quyết định phù hợp”, ông nhấn mạnh.
Còn ông Ashok A. Sonkusare, Viện Nghiên cứu Chuyển đổi quốc gia Ấn Độ (NITI Aayog) cho biết “III – Chỉ số đổi mới sáng tạo Ấn Độ” giúp thúc đẩy năng lực cạnh tranh, đánh giá hiệu suất đổi mới sáng tạo tại địa phương, đồng thời cải thiện thứ hạng của Ấn Độ trong xếp hạng GII toàn cầu”.
Tháng 10/2019, NITI Aayog lần đầu công bố III với kỳ vọng đưa bộ công cụ giúp các nhà hoạch định chính sách có chiến lược tốt tạo môi trường thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Giới chức có thể nhận ra các thách thức cần giải quyết, xác định điểm yếu và điểm mạnh cần tập trung khi thiết kế chính sách tăng trưởng kinh tế cho từng khu vực.
Các tính chỉ số III của Ấn Độ tương tự GII. Với 60 chỉ số thành phần, công cụ đo lượng đổi mới dựa được chia thành 2 nhóm đầu vào và đầu ra và được tính dựa trên điểm trung bình của 7 trụ cột. Song do sự đa dạng địa lý kinh tế, lẫn khác biệt ngôn ngữ giữa các địa phương, họ chia thành 3 nhóm xếp hạng riêng gồm các bang lớn; bang phía bắc và miền núi; các bang nhỏ, thành phố và lãnh thổ liên minh.
Đến nay, Ấn Độ đã công bố III 3 lần, cho năm 2019, 2020 và 2021. Kết quả của các lần đánh giá cho thấy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo tại nước này khá mạnh ở phía Nam và phía Tây.
Ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của các quốc gia, ông Marco M. Aleman, Trợ lý Tổng Giám đốc WIPO cho biết các chỉ số đóng vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách ở cả cấp địa phương và cấp quốc gia. Phía WIPO cam kết hỗ trợ quốc gia, thông qua hoạt động hội thảo về đánh giá đổi mới sáng tạo cấp địa phương để các quốc gia chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm, thảo luận phương pháp quản lý dữ liệu, tính toán chỉ số tổng hợp.
Như Quỳnh
Thông tin được TS Lê Xuân Huy, Phó Tổng giám đốc Trung tâm Vũ Trụ Việt Nam (VNSC) nói tại họp báo kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm của Viện Hàn lâm khoa học và công nghệ Việt Nam, ngày 12/7. Theo TS Huy sau quá trình thử nghiệm vệ tinh, Chính phủ Nhật Bản sẽ bàn giao quyền quản lý cho Việt Nam vào tháng 6/2025, vận hành trong 5 năm. Việc phóng vệ tinh LOTUSat- 1 thuộc dự án “Phòng chống thiên tai và biến đổi khí hậu sử dụng vệ tinh quan sát Trái Đất”.
Mô phỏng vệ tinh LOTUSat-1. Ảnh:VNSC
Theo TS Huy, đơn vị đang hoàn thiện lắp đặt các thiết bị mặt đất để vận hành, chuyển dữ liệu ảnh từ vệ tinh LOTUSat- 1. Các thiết bị này đã lắp đặt tại Việt Nam từ đầu năm, đang tích hợp thử nghiệm hệ thống, dự kiến đến tháng 9 hoàn thành.
Ngoài ra, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đang xây dựng trung tâm phổ biến kiến thức trong đó có khu bảo tàng khoa học công nghệ vũ trụ, kính thiên văn… dự kiến tháng 12 hoàn thành và đưa vào sử dụng. Cùng với đó, các trung tâm nghiên cứu triển khai, thử nghiệm, vận hành vệ tinh nhỏ đến 180 kg đang thực hiện. TS Huy cho biết, việc đầu tư xây dựng các công trình trên là cơ sở để đơn vị thực hiện đề án tăng cường năng lực quan sát trái đất sử dụng vệ tinh nhỏ, xây dựng chùm vệ tinh nhỏ “made in Việt Nam”.
LOTUSat- 1 có trọng lượng 600 kg, là vệ tinh công nghệ radar mới nhất với nhiều ưu điểm như phát hiện các vật thể kích thước từ 1 m trên mặt đất, khả năng quan sát cả ngày lẫn đêm. Vệ tinh LOTUSat-1 sẽ chụp ảnh và cung cấp các thông tin chính xác để ứng phó giảm thiểu tác động của thảm họa thiên nhiên, biến đổi khí hậu, quản lý nguồn tài nguyên và giám sát môi trường. Khác với các vệ tinh quang học, vệ tinh radar có thể chụp ảnh trong mọi điều kiện thời tiết, đặc biệt khi thời tiết có mây, sương mù, điều kiện thiếu ánh sáng. Dữ liệu cung cấp từ vệ tinh radar này sẽ đóng góp quan trọng cho Việt Nam, trong điều kiện môi trường khí hậu có nhiều mây.
Vĩnh Hà