Ra mắt Mạng lưới Đại sứ Đổi mới sáng tạo Việt Nam

Mạng lưới Đại sứ Đổi mới sáng tạo Việt Nam được hình thành nhằm hỗ trợ các địa phương và doanh nghiệp giải quyết khó khăn về truyền thông.

Sự kiện công bố các hoạt động của mạng lưới diễn ra sáng 2/12. Mạng lưới Đại sứ Đổi mới sáng tạo Việt Nam (Vietnam In2spire Network) là cộng đồng người có khả năng kể chuyện, truyền đi thông điệp đến đúng đích mong muốn thông qua các kênh phù hợp, đại diện cho các startup kể câu chuyện của chính mình với các cộng đồng khác nhau. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các Đại sứ của mình để tăng độ nhận biết, kêu gọi nguồn lực, tìm kiếm đối tác, xúc tiến thị trường.

Thông qua việc liên kết báo chí, truyền hình với internet và mạng xã hội trong một mô hình truyền thông kết hợp kênh cá nhân với kênh báo chí chính thống, mạng lưới đại sứ giúp nói lên các vấn đề của các địa phương, doanh nghiệp trong nhiều ngành nghề, trên nhiều địa bàn; đề xuất và thảo luận chính sách. Mô hình truyền thông liên kết đa kênh, thông điệp từ mạng lưới có thể được chuyển tải đến các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp đối tác, các quỹ đầu tư, khách hàng tiềm năng.

Với việc hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng mô hình truyền thông Đại sứ đổi mới sáng tạo, các địa phương cũng tự tạo nguồn cung cấp thông tin rộng rãi phục vụ công tác quản lý, có thêm công cụ tác động chính sách vĩ mô, tăng thêm tiếng nói cho địa phương trong đối thoại với các cơ quan chính sách trung ương.

Ra mắt Mạng lưới Đại sứ Đổi mới sáng tạo Việt Nam

Tọa đàm và công bố các hoạt động của Mạng lưới Đại sứ Đổi mới sáng tạo Việt Nam diễn ra sáng 2/12, trong khuôn khổ Techfest Vietnam 2022. Ảnh: TTTT

Mạng lưới Đại sứ Đổi mới sáng tạo Việt Nam (Vietnam In2spire Network) là dự án truyền thông do Làng Công nghệ Giải trí và Truyền thông (E&M Village) chủ trì, trong khuôn khổ các hoạt động của mạng lưới Truyền thông Quốc gia về Đổi mới Sáng tạo (ĐMST).

Bắt đầu với một series truyền hình thực tế đồng hành cùng chuỗi sự kiện Techfest và các hoạt động thúc đẩy hệ sinh thái sáng tạo mở, Mạng lưới Đại sứ đổi mới sáng tạo Việt Nam có kế hoạch liên kết phối hợp với gần 100 đối tác truyền thông báo chí trong và ngoài nước, nhằm tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của doanh nghiệp như nguồn vốn, chính sách, đối tác thị trường, và nguồn lực đổi mới công nghệ.

Mạng lưới hướng tới nâng cao năng lực khu vực tư nhân trong các hoạt động đổi mới sáng tạo, phát huy tiềm năng về truyền thông hỗ trợ ươm tạo, kết nối, gọi vốn và phát triển thị trường trong khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Đặc biệt mạng lưới góp phần nâng cao năng lực truyền thông cho doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, giúp thúc đẩy số lượng và chất lượng giao dịch đầu tư vốn.

Mạng lưới Đại sứ Đổi mới sáng tạo Việt Nam được kỳ vọng trở thành một mô hình truyền thông hiệu quả, đặc biệt phù hợp với nhu cầu truyền thông của các địa phương và các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay.

Sự kiện tổ chức trong khuôn khổ Ngày hội khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo Quốc gia (Techfest Vietnam 2022) do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức thường niên từ năm 2015 và trở thành sân chơi lớn nhất về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo Việt Nam. Năm nay chương trình diễn ra từ ngày 2 đến 4/12.

Nguồn: Vnexpress.net

Những sản phẩm công nghệ giới thiệu tại Techfest Vietnam 2022

Hàng chục gian hàng công nghệ, startup và sản phẩm mới của các doanh nghiệp tiềm năng được giới thiệu trong ngày hội khởi nghiệp sáng tạo.

Sáng 2/12, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp UBND tỉnh Bình Dương khai mạc triển lãm Techfest Vietnam tại TP Thủ Dầu Một. Đây là một trong những sự kiện khởi đầu cho ngày hội Techfest Vietnam 2022.

Thứ trưởng Khoa học Công nghệ Trần Văn Tùng (thứ hai từ bên phải qua) thăm quan một gian hàng tại buổi khai mạc triển lãm.

Triển lãm có hàng chục gian hàng các sản phẩm, dịch vụ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong đó có 10% là các gian hàng trưng bày các sản phẩm của doanh nghiệp khoa học và công nghệ, 70% các sản phẩm, mô hình ý tưởng của các startup, còn lại là các gian hàng trưng bày sản phẩm mới của các doanh nghiệp tiềm năng.

Xe tự hành vận chuyển hàng hóa di chuyển tự động bên trong không gian triển lãm khiến nhiều đại biểu thích thú.

Công ty cổ phần và truyền thông Việt Nam giới thiệu nhiều sản phẩm công nghệ 4.0 như cung cấp Trung tâm dữ liệu (Datacenter) đến với các công ty.

Giảng viên Lê Anh Gin, Trường Cao đẳng nghệ Việt Nam – Singapore giới thiệu Robot xếp phôi tự động máy phay CNC.

“Sau khi sáng chế thì các sản phẩm nhà trường điều chuyển giao cho các doanh nghiệp đưa vào vận hành, sản xuất”, anh Gin cho biết.

Nhân viên Công ty TNHH Viec.Co giới thiệu sản phẩm chấm công cho đại biểu tham gia triển lãm sáng nay.

“Tôi thấy triển lãm năm nay có nhiều sản phẩm hay, rất thực tế nên muốn đi xem sao để áp dụng vào trong vận hành quản lý của công ty”, anh Nguyễn Hùng Quang, TP Thủ Dầu Một tham quan triển lãm cho biết.

Không chỉ có những công ty công nghệ lớn, nhiều sinh viên đam mê khoa học cũng có môi trường để “trình làng” các sản phẩm công nghệ của mình.

Trong ảnh, nhóm sinh viên trường ĐH Kinh tế Kỹ thuật Bình Dương giới thiệu máy hút đinh do nhóm chế tạo.

Đồ dùng “vừa học vừa chơi” dành cho trẻ em của một công ty công nghệ được nhiều khách hàng thích thú. Chị Hoàng Oanh (TP HCM, áo xanh) cho biết, đến với triển lãm rất thích thú các sản phẩm công nghệ, đặc biệt liên quan đến giáo dục trẻ em.

Công ty Điện Quang giới thiệu đến triển lãm các sản phẩm hệ thống điện thông minh. Trong ảnh là các công tắc cảm ứng trong không gian nhà hiện đại.

Ngoài các gian hàng công nghệ, triển lãm còn trưng bày sản phẩm mới của các doanh nghiệp tiềm năng. Nguyên liệu dùng sáng chế ra màu nhuộm cho lụa từ công ty Mộc Nhiên giới thiệu tại triển lãm.

Tại sự kiện Thứ trưởng Trần Văn Tùng trao giải nhất cuộc thi Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong sản xuất kinh doanh cho anh Hồ Xuân Vinh (Nghệ An) với đề án Muối dược liệu.

Tối mai Chương trình Dấu ấn Techfest Vietnam 2022 sẽ truyền tải thông điệp về một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở, liên kết và thúc đẩy đổi mới, sáng tạo.

Techfest Vietnam là hoạt động được Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức thường niên từ năm 2015 và trở thành sân chơi lớn nhất về khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo Việt Nam. Năm nay chương trình diễn ra từ ngày 2 đến 4/12.

Nguồn: Vnexpress.net

Công bố báo cáo hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo mở Việt Nam 2022

Báo cáo tổng hợp nghiên cứu từ hơn 60 chuyên gia kinh tế hàng đầu, đưa ra bức tranh toàn cảnh về hệ sinh thái đổi mới sáng tạo các quốc gia và bản đồ khởi nghiệp tại Việt Nam.

Báo cáo “Hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo mở Việt Nam 2022” được công bố trong Diễn đàn Đổi mới sáng tạo mở lần 2, thuộc khuôn khổ Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo Quốc gia Techfest 2022 tại Bình Dương, chiều 2/12. Ấn phẩm do Nền tảng kết nối đổi mới sáng tạo BambuUP xây dựng giới thiệu, bảo trợ bởi Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp khoa học công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) và Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia (NSSC).

Báo cáo được xây dựng dựa trên nghiên cứu, phân tích từ hội đồng cố vấn hơn 60 chuyên gia hàng đầu trong các lĩnh vực kinh tế trong và ngoài nước, cho thấy bức tranh toàn cảnh về hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của các quốc gia và thực trạng khởi nghiệp tại Việt Nam. Với độ dày 256 gồm 8 phần, trình bày ba ngôn ngữ Việt, Anh và Hàn Quốc.

Công bố báo cáo hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo mở Việt Nam 2022

Báo cáo Hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo mở Việt Nam 2022. Ảnh: BambuUP

Báo cáo chỉ ra xu hướng đổi mới, khắc họa bức tranh đổi mới sáng tạo mở tại Việt Nam với những đặc điểm hệ sinh thái cùng phân tích thị trường đầu tư công nghệ.

Các phân tích cho thấy, hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu sụt giảm rõ rệt về cả lượng đầu tư mạo hiểm lẫn số lượng kỳ lân mới. Tuy nhiên có thể kỳ vọng vào tiềm năng và sự ổn định của các công ty khởi nghiệp. Các quốc gia đứng đầu hệ sinh thái khởi nghiệp khu vực châu Á- Thái Bình Dương 2022 thuộc về Singapore, Australia và Trung Quốc. Việt Nam được xếp là quốc gia có mức tăng trưởng nhanh và trên đà phát triển (theo số liệu xếp hạng từ Starup Blink).

Báo cáo 2022 có nhiều điểm mới, cung cấp chuyên sâu và đa chiều về thực trạng khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam theo các lĩnh vực và nhóm ngành kinh tế. Bên cạnh bức tranh kinh doanh, báo cáo nêu bật xu hướng đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong 5 lĩnh vực trọng điểm gồm công nghệ sản xuất thông minh, công nghệ tài chính và bảo hiểm, công nghệ nông nghiệp và thực phẩm, tiếp thị và bán hàng, công nghệ Blockchain, Web3 và vũ trụ ảo Metaverse. Đây cũng là lần đầu tiên báo cáo khảo sát đánh giá mức độ sẵn sàng của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở theo tỉnh thành.

Bên cạnh tạo “bản đồ khởi nghiệp” ở các lĩnh vực, báo cáo còn tổng hợp những câu chuyện điển hình, công bố những đề bài, thách thức của doanh nghiệp và tập đoàn lớn để mời gọi sáng kiến công nghệ, từ các công ty khởi nghiệp.

Các dữ liệu cho thấy mức độ đổi mới, quan tâm và đầu tư ứng dụng theo từng xu hướng công nghệ hàng đầu. Như trong 14 xu hướng, ứng dụng AI được ghi nhận là công nghệ có mức đổi mới cao nhất, trong khi công nghệ năng lượng sạch thu hút sự quan tâm nhất. Các chuyên gia cũng ước tính giá trị thị trường các công nghệ tiên phong được dự đoán tăng trưởng tới hơn 3,2 nghìn tỷ USD vào năm 2025.

Ông Phạm Hồng Quất, Cục trưởng Cục phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) kỳ vọng báo cáo góp phần xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia có liên kết chặt chẽ với khu vực và thế giới, phát triển hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia – ngành – vùng và trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, hình thành cụm liên kết với khu công nghệ cao, viện trường nhằm thu hút nguồn lực đầu tư trong nước và quốc tế.

Báo cáo Hệ sinh thái Đổi mới sáng tạo Mở Việt Nam 2022 được khởi động từ tháng 9. Đây là năm thứ hai Báo cáo được xây dựng. Trước đó, báo cáo năm 2021 với độ dày hơn 250 trang đã đánh giá về bản đồ hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, chỉ ra các xu hướng đổi mới sáng tạo trong giai đoạn bình thường mới, đồng thời giới thiệu mô hình đổi mới sáng tạo mở tiềm năng từ startup Việt tiêu biểu trong các lĩnh vực trọng điểm.

Nguồn: Vnexpress.net

Techfest Vietnam 2022: Đổi mới sáng tạo mở – Khơi nguồn tư duy mới

Sáng 2/12/2022, tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm tỉnh Bình Dương, UBND tỉnh Bình Dương phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cùng các cơ quan liên quan tổ chức Lễ khai mạc triển lãm và chuỗi các hoạt động của Ngày hội khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia (Techfest Vietnam) 2022. Tham dự sự kiện có ông Trần Văn Tùng – Thứ trưởng Bộ KH&CN; ông Nguyễn Văn Lộc – Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh; ông Nguyễn Lộc Hà – Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cùng lãnh đạo các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ KH&CN, các sở, ban ngành tỉnh Bình Dương. Sự kiện diễn ra từ 2-4/12/2022 với chủ đề “Đổi mới sáng tạo mở – Khơi nguồn tư duy mới”.

Các đại biểu cắt băng khai mạc Techfest Vietnam 2022

Ngày hội của cộng đồng khởi nghiệp

Triển lãm Techfest Vietnam 2022 gồm hàng trăm gian hàng trưng bày các sản phẩm, dịch vụ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trong đó có 10% là các gian hàng trưng bày các sản phẩm của doanh nghiệp KH&CN, 70% các sản phẩm, mô hình ý tưởng của các startup, còn lại các gian hàng trưng bày sản phẩm mới của các doanh nghiệp tiềm năng. Chuỗi sự kiện dự kiến thu hút hơn 8.000 người là đại diện cộng đồng khởi nghiệp trong nước và các vị khách quốc tế đến từ 20 quốc gia.

Trong khuôn khổ chuỗi hoạt động của sự kiện có khoảng 30 hội nghị, hội thảo chuyên đề về xu hướng công nghệ, kết nối đầu tư, chia sẻ kinh nghiệm phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; chia sẻ kinh nghiệm, bài học về chuyển đổi mô hình nhằm thích ứng và bứt phá sau đại dịch. Đặc biệt, các chương trình hội thảo với những chủ đề về doanh nghiệp KH&CN, đổi mới sáng tạo mở và công nghiệp 4.0, chung kết “Cuộc thi khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia”, “Diễn đàn chính sách cấp cao về phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo”, “Dấu ấn Techfest”… hứa hẹn mang lại nhiều điều thú vị cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, đặc biệt là các bạn trẻ.

Các đại biểu thăm các gian hàng tại triển lãm.

Riêng gian hàng triển lãm của tỉnh Bình Dương quy tụ những doanh nghiệp điển hình của tỉnh trong những hoạt động KH&CN như Tổng Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghiệp Becamex IDC, Công ty Minh Long; các viện nghiên cứu/trường đại học… và các hoạt động hợp tác nổi bật như Block71 Sài Gòn với những doanh nghiệp khởi nghiệp thành viên tiêu biểu. Tại không gian này, khách thăm quan có cơ hội tiếp cận các công nghệ tiên tiến điển hình đang được doanh nghiệp và các trường đại học đầu tư, như hệ thống công nghiệp 4.0; máy móc thiết bị công nghệ in 3D; những sản phẩm khởi nghiệp đã hoàn thiện và thương mại hoá; định hướng phát triển thành phố thông minh Bình Dương… nhằm hoàn thiện, thúc đẩy mạnh mẽ những chính sách và cơ sở hỗ trợ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo toàn tỉnh.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Nguyễn Lộc Hà phát biểu tại sự kiện.

Phát biểu tại sự kiện, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương Nguyễn Lộc Hà chia sẻ: Thông qua Techfest 2022, Bình Dương mong muốn giới thiệu về Hệ sinh thái khởi nghiệp tiềm năng đã được tỉnh Bình Dương ươm mầm và hỗ trợ; những hoạt động cụ thể và chiến lược sâu rộng của tỉnh trong công cuộc thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; cơ sở vật chất, hạ tầng và các chương trình cụ thể đã và đang được tỉnh Bình Dương và Becamex IDC xây dựng và hoàn thiện để hỗ trợ tối đa cho hệ sinh thái các doanh nghiệp khởi nghiệp; đồng thời đề xuất những chính sách chiến lược cụ thể nhằm thu hút, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại địa phương và trên toàn quốc.

Những điểm nhấn của Techfest Vietnam 2022

Phát biểu tại Lễ khai mạc Techfest Vietnam 2022, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cho biết: Điểm nhấn của chuỗi sự kiện là Diễn đàn chính sách đa phương cấp cao về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và chuỗi các hội thảo điểm nhấn (còn gọi là Stage).

Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng phát biểu tại Lễ khai mạc.

Đó là IPO Stage – Đường băng sáng tạo, kỳ lân cất cánh, là một trong những tọa đàm chiến lược ươm tạo và tăng tốc kỳ lân cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp KH&CN và đổi mới sáng tạo có tiềm năng và được khẳng định về thị trường cũng như năng lực phát triển, IPO thúc đẩy thị trường vốn quy mô quốc gia và hướng đến thị trường IPO quốc tế như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản và Hoa Kỳ… IPO stage là cơ hội để cộng đồng nhà đầu tư, các doanh nghiệp có cơ hội kết nối với các định chế tài chính, quy trình phương pháp IPO tiêu chuẩn quốc tế và rộng hơn là tạo ra sân chơi mới, đường băng sáng tạo mới cho kỳ lân cất cánh trong kỷ nguyên số.

Open Innovation Stage – Diễn đàn đổi mới sáng tạo mở lần 2, là sự kiện mong muốn thay đổi nhận thức về định hướng phát triển có chiều sâu cho hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi nền kinh tế tri thức sau gần 10 năm xây dựng, thông qua các nền tảng, công cụ mở và chuỗi liên kết hợp tác giữa viện nghiên cứu/trường đại học – doanh nghiệp – Chính phủ – truyền thông.

Mentor Stage là hội thảo chuyên đề về chủ đề cố vấn cho khởi nghiệp sáng tạo, tổng kết chương trình cố vấn khởi nghiệp toàn cầu giai đoạn 1 – chương trình được phát động bởi Bộ KH&CN và Bộ Ngoại giao để tập hợp 21 hội trí thức người Việt Nam tại nước ngoài hỗ trợ cho khởi nghiệp sáng tạo, phối hợp cùng các cố vấn trong nước để hình thành mạng lưới cố vấn đồng hành, tư vấn cho UBND các tỉnh, thành phố phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của địa phương, phát hiện và giải quyết các vấn đề, thách thức của địa phương bằng các giải pháp công nghệ, đổi mới sáng tạo. VC Stage – hội thảo chuyên đề về việc phối hợp, liên kết các nguồn lực từ khối các tập đoàn và các quỹ đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước mong muốn thúc đẩy, tìm ra các hướng/hoạt động mới trong việc đẩy mạnh các nguồn vốn đầu tư cho đổi mới sáng tạo, đồng thời mang lại những góc nhìn mới, mở ra các cơ hội hợp tác để đẩy thúc đẩy sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Innovation Hub Stage – hội thảo chuyên đề về các trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Chương trình Dấu ấn Techfest Vietnam 2022 năm nay quy tụ và tổng kết chuỗi hoạt động Techfest đã được triển khai trên khắp cả nước trong năm 2022, với hơn 10 Techfest địa phương, Techfest vùng đã được hợp lực tổ chức tại các tỉnh, thành phố trên cả nước. Chương trình truyền tải thông điệp về một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở, liên kết chặt chẽ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong từng cá nhân, tổ chức, cơ quan trong cả nước. Năm nay, Techfest địa phương, vùng, quốc gia đã thu hút được nhiều đại diện tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, Cơ quan Phát triển Liên hợp quốc (UNDP); đại diện đại sứ quán/lãnh sự quán của Ấn Độ, Canada, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Phần Lan, Italia, Vương quốc Anh; đại diện khoảng 50 quỹ đầu tư quốc tế cùng nhiều tập đoàn đa quốc gia như Qualcomm, Amazon, Niras Global, Samsung, Shinhan…

Nguồn: https://vjst.vn/

 

Công tác nghiên cứu khoa học và xuất bản

Đối với BTLSQG, hoạt động nghiên cứu khoa học có vai trò quan trọng, phục vụ hiệu quả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chuyên môn của bảo tàng.

Cùng với các nhà sử học, chuyên gia bảo tàng học và các cơ quan chuyên ngành khác, hoạt động nghiên cứu khoa học của BTLSQG đã góp phần làm sáng rõ nhiều vấn đề về bảo tàng học, về lịch sử, văn hóa từ thời tiền, sơ sử đến đương đại.

Hội đồng khoa học BTLSQG do Giám đốc quyết định thành lập; là tổ chức tư vấn cho Giám đốc về định hướng chiến lược phát triển ngắn, trung và dài hạn và những vấn đề khoa học liên quan đến hoạt động của Bảo tàng. Hội đồng khoa học có các nhiệm vụ nhưTổ chức và đồng tổ chức các hội thảo khoa học; Tham gia các hội thảo, hội nghị khoa học trong và ngoài nước; Xây dựng các đề tài nghiên cứu khoa học ngắn hạn và dài hạn cấp cơ sở và cấp Bộ; Phối hợp với các cơ quan trong nước và quốc tế tổ chức nghiên cứu các đề tài về lịch sử – văn hoá Việt Nam; Nghiên cứu, biên soạn và xuất bản ấn phẩm. Trong thời gian tới, Hội đồng khoa học sẽ từng bước được bổ sung, kiện toàn thành phần gồm các thành viên là chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực như: bảo tàng học, sử học, văn hóa học, khảo cổ học… nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động tư vấn, phản biện, thẩm định khoa học các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của BTLSQG.

1

Hội đồng nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2013 tại BTLSQG.

2

Hội thảo khoa học báo cáo kết quả nghiên cứu và khai quật khảo cổ học 2 năm 2012- 2013, ngày 31-7-2013.

3

Hội thảo khoa học “Văn hóa Đông Sơn – 90 năm phát hiện và nghiên cứu (1924-2014), ngày 18-11-2014.

Công tác xuất bản là một phần kết quả của hoạt động khoa học của BTLSQG. Qua mỗi ấn phẩm, độc giả và các nhà nghiên cứu có thêm nguồn tư liệu tham khảo đáng tin cậy về lịch sử, văn hóa, về bảo tàng học… Những kết quả nghiên cứu được công bố dưới các hình thức:

– Kỷ yếu khoa học các hội thảo, hội nghị.

– Thông báo khoa học, công bố những công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết nghiên cứu của cán bộ bảo tàng.

– Ấn phẩm thuộc các lĩnh vực như: bảo tàng, di tích, lịch sử, văn hóa, khảo cổ học …

– Phối hợp với các đối tác nước ngoài (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Mỹ, Đức…) xuất bản ấn phẩm gắn với các cuộc trưng bày tại nước ngoài.

Những năm gần đây, phần lớn các ấn phẩm được BTLSQG xuất bản và dịch sang tiếng Anh, Pháp, Trung, Hàn… giúp độc giả nước ngoài tiếp cận trực tiếp với nguồn sử liệu, với các kết quả nghiên cứu của Bảo tàng. Nhiều ấn phẩm của Bảo tàng đoạt giải: “Trống đồng Việt Nam – giá trị lịch sử và nghệ thuật” được Hội đồng giải thưởng sách Việt Nam thuộc Hội Xuất bản Việt Nam lựa chọn và trao tặng giải Đồng – Sách hay; giải Vàng – Sách đẹp năm 2016; “Báu vật khảo cổ học Việt Nam” đoạt giải Ba – Giải thưởng toàn quốc về thông tin đối ngoại năm 2016. Các ấn phẩm của bảo tàng luôn được giới nghiên cứu và độc giả trong và ngoài nước đánh giá cao về chất lượng nội dung và hình thức.

456

7

 

8

Nguồn: https://baotanglichsu.vn/

Việt Nam học nhìn từ ngành xuất bản

Tác giả: Nguyễn Quang Diệu

Những công trình nghiên cứu về văn hóa – lịch sử Việt Nam nhìn từ bên ngoài được tổ chức dịch sang Việt ngữ và xuất bản trong 30 năm qua không nhiều, thiếu vắng sự hiện diện của nhiều nhà Việt Nam học lớn và các tuyến đề tài quan trọng.

Những công trình nghiên cứu của giới Việt Nam học quốc tế đã được dịch

Thời gian gần đây, độc giả trong nước ngày càng quan tâm nhiều hơn đến dòng sách khoa học nhân văn và lịch sử, đặc biệt là dòng sử Việt. Các cơ sở xuất bản (gồm nhà xuất bản và công ty sách) ở Việt Nam đã cố gắng khai thác dịch mới, hoặc tái bản, một số công trình nghiên cứu của các nhà Việt Nam học liên quan đến Việt Nam.

Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến: Đỉnh cao đế quốc: Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp của Eric T. Jennings, Làng báo Sài Gòn 1916-1930 của Philippe M.F. Peycam, Công giáo Việt Nam: Từ đế chế đến quốc gia của Charles Keith;[1] Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng (1820-1841): Chính sách của triều đình và phản ứng của địa phương của Choi Byung Wook, Quan và lại ở miền Bắc Việt Nam của Emmanuel Poisson, Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn của George Dutton, De Gaulle và Việt Nam (1945-1969) của Pierre Journoud, Đầm lầy: Kiến tạo quốc gia và tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long của David Biggs, Liên minh sai lầm: Ngô Đình Diệm, Mỹ và số phận Nam Việt Nam của Edward Miller; Rút quân – Nhìn lại những năm cuối cùng của Mỹ tại Việt Nam của Gregory A. Daddis, Việt Nam thời dựng nước của Keith Weller Taylor, Lịch sử Hà Nội của Philippe Papin, Xứ Đàng Trong: Lịch sử Kinh tế – Xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18 của Li Tana, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa của Tsuboi Yoshinaru, Đề Thám (1846-1913): Một nghĩa sĩ Việt Nam chống lại thuộc địa Pháp của Claude Gendre, Buổi đầu quan hệ Mỹ-Việt (1787-1941) của Robert Hopkins Miller, Từ điển lịch sử Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh của Justin Corfield, Paul Doumer: Toàn quyền Đông Dương (1897-1902), bàn đạp thuộc địa của Amaury Lorin. Trong đó, một số sách được phát triển từ luận án tiến sĩ của tác giả, 2/3 là sách dịch mới.

Ngoài ra, các cơ sở xuất bản cũng tổ chức dịch những công trình nghiên cứu của các nhà Việt Nam học thời kỳ trước, họ là những nhà nghiên cứu tiên phong và đã gặt hái được không ít thành tựu trong quá khứ. Những nghiên cứu ấy đến nay ít nhiều vẫn còn giá trị, là tài liệu tham khảo, trích dẫn cần thiết, như: Nghiên cứu bản đồ các cửa sông, hải cảng Việt Nam thế kỷ XV,[2] Tiểu luận về dân Bắc kỳ và Nghi thức tang lễ của người An Nam của Gustave Dumoutier, Kỹ thuật của người An Nam của Henri Oger, Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Pierre Gourou, Vương quốc Champa của Georges Maspero, Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt của Léopold Cadière, Những người châu Âu ở nước An Nam của Charles Maybon, Phù thuật và tín ngưỡng An Nam và Tâm lý dân tộc An Nam của Paul Giran, Hội kín xứ An Nam của Georges Coulet, Đế quốc An Nam và người dân An Nam do Jules Silvestre cập nhật và chú thích, Đời Tổng giám mục Puginier của Louis-Eugène Louvet, Lịch sử Nam kỳ thuộc Pháp của Prosper Cultru, Nghệ thuật xứ An Nam của Henri Gourdon, Làng xã của người An Nam ở Bắc kỳ của Paul Ory, Đường sắt Pháp ở Đông Dương và Vân Nam của Frédéric Hulot, Điện thần và nghi thức hầu đồng Việt Nam của Maurice Durand.

Một số tác phẩm khác được viết theo lối du ký, hồi ký, ký sự hành trình nhưng ít nhiều có giá trị sử liệu về con người, xã hội và phong tục Việt Nam một thời cũng được dịch sang Việt ngữ gần đây: Hồi ký Xứ Đông Dương của Toàn quyền Paul Doumer, Hồi ký của một ông già Việt học của Cố Cả Léopold Cadière, Một chiến dịch ở Bắc kỳ của bác sĩ Hocquard, Du ký Trung kỳ theo đường cái quan của Camille Paris, Nam kỳ viễn chinh ký 1861 của Léopold Pallu, Đông Dương ngày ấy của Claude Bourrin, Hồi ức về kinh thành Huế đầu thế kỷ XIX của Michel Đức Chaigneau, Nhà đoan, thuế muối, rượu cồn của nhóm tác giả, Nam biều ký của Shihōken Seishi… Trước đó nữa là các ghi chép, hồi ức của Châu Đạt Quan (周達觀), Christoforo Borri, Alexandre de Rhodes, Samuel Baron, William Dampier, Chu Thuấn Thủy (朱舜水), Thích Đại Sán (釋大汕), Pierre Poivre, John Barrow…

Cũng không quên nhắc đến những công trình nghiên cứu có giá trị đã xuất bản từ lâu nhưng đến nay đã tuyệt bản, hoặc vì in lưu hành nội bộ với số lượng hạn chế, nên độc giả rất khó tiếp cận như: Việt Nam 1946: Chiến tranh bắt đầu như thế nào? của Stein Tønnesson, Diễn tiến câu chuyện Vương Thúy Kiều: Từ sự kiện lịch sử Trung Hoa đến kiệt tác văn chương Việt Nam của Charles Benoit, Người Mường: Địa lý nhân văn và xã hội học của Jeanne Cuisinier, Người Pháp và người An Nam bạn hay thù của Philippe Devillers, Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông của Georges Cœdès, Hiểu biết về Việt Nam của Pierre Huard và Maurice Durand, Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV của A.B. Pôliacốp, Những cứ liệu mới về việc chép sử Việt Nam của A.L. Fedorin, Thế giới Hán hóa mới của Léon Vandermeersch, Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII của Insun Yu, Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859-1939) của Jean-Pierre Aumiphin, Thừa sai Công giáo Pháp và các chính sách của đế quốc tại Việt Nam (1857-1914) của Patrick J.N. Tuck, Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới (bộ 2 tập) và Quan hệ Nhật Bản – Việt Nam (1951-1987) của Masaya Shiraishi, An Tĩnh cổ lục của Hippolyte Le Breton, Tỉnh Thanh Hóa của Charles Robequain, Lịch sử một thế kỷ nghiên cứu – Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Việt Nam của Olivier Tessier và Pascal Bourdeaux, Thuốc phiện và chính quyền thuộc địa ở châu Á của Philippe Le Failler, Hà Nội: Tiểu sử một đô thị của William Logan…

Tây Nguyên là mảng tư liệu riêng khác, ở đó các nhà truyền giáo, nhân học, dân tộc học người Pháp đã đến định cư, định đô và để lại những di sản đồ sộ về văn hóa – lịch sử một vùng đất đặc biệt mà đến nay muốn tìm hiểu chúng ta buộc phải đọc các nghiên cứu, ghi chép của họ. Kể từ khi công trình kinh điển Pötao, một lý thuyết về quyền lực ở người Jörai Đông Dương của Jacques Dournes được dịch và xuất bản ở Việt Nam năm 2013, mãi đến năm 2021 mới có một nghiên cứu khác về Tây Nguyên được dịch mới, đó là Tọa độ: Cấu trúc gia đình và xã hội của người Jörai.[3]

Các công trình nghiên cứu của học giả người Việt

Bên cạnh những công trình của giới Việt Nam học quốc tế được liệt kê ở trên, các cơ sở xuất bản cũng đã tổ chức dịch những công trình nghiên cứu của các học giả người Việt đang sống và làm việc ở nước ngoài. Họ chủ yếu viết bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh, mới nhất có hợp tuyển Việt Nam vận hội[4] của sử gia Nguyễn Thế Anh được in ở Việt Nam.

Một số luận án tiến sĩ được bảo vệ ở nước ngoài như: Hát đối của nam nữ thanh niên ở Việt Nam của Nguyễn Văn Huyên, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) của Nguyễn Xuân Thọ, Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII của Nguyễn Thanh Nhã, Hoạt động ngoại giao của nước Pháp củng cố cơ sở tại Nam kỳ (1862-1874) của Trương Bá Cần, Giáo sĩ Thừa sai và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam (1857-1914) của Cao Huy Thuần, Giáo dục Việt Nam dưới thời thuộc địa: Huyền thoại đỏ và huyền thoại đen (phần 1 của luận án) của Nguyễn Thụy Phương… đều đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam trong nhiều năm qua.

Vài công trình nghiên cứu khác của các thế hệ học giả người Việt sống và làm việc ở nước ngoài như: Lịch sử Việt Nam: Từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX của Lê Thành Khôi, Nhà trường Pháp ở Đông Dương và Ba thế hệ trí thức người Việt (1862-1954): Nghiên cứu lịch sử xã hội của Trịnh Văn Thảo, Thiếu tiền: Văn hóa tiêu tiền trong các gia đình xuyên quốc gia với mức thu nhập thấp của Thái Cẩm Hưng,[5] Phan Châu Trinh và các tác phẩm chính luận của Vĩnh Sính đã có bản dịch Việt ngữ. Trong đó, công trình của Lê Thành Khôi và Nhà trường Pháp ở Đông Dương của Trịnh Văn Thảo vẫn luôn được xem là những nghiên cứu nền tảng.

Một số công trình được xuất bản dưới dạng hợp tuyển, hoặc hợp tác nghiên cứu giữa các học giả người Việt với giới Việt Nam học quốc tế, có thể kể đến: Từ Đông sang Tây: Tập biên khảo về khoa học xã hội và nhân văn (hợp tuyển), Sư tử và rồng: Bốn thế kỷ quan hệ Hà Lan – Việt Nam (hợp tuyển), Phan Thanh Giản – Nhà ái quốc, người mở đường cho nước Việt Nam hiện đại: Những năm cuối đời (1862-1867) của Phan Thị Minh Lễ và Pierre Ph. Chanfreau, Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam của Văn Tạo và Furuta Moto, mới đây nhất là ấn phẩm Phật bà bể Nam: Truyên Quán Âm Diệu Thiện tại Việt Nam của Nguyễn Tô Lan và Rostislav Berezkin.

Ngoài ra, còn một số bản dịch, hoặc trích dịch, của các nhà nghiên cứu người Việt liên quan đến sử liệu Việt Nam, như: Minh thực lục: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XIV-XVII và Thanh thực lục: Quan hệ Trung Quốc – Việt Nam thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XX của Hồ Bạch Thảo, Khâm định An Nam kỷ lược của Nguyễn Duy Chính, An Nam truyện do Châu Hải Đường dịch và biên soạn, Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa của Cao Tự Thanh, Xiêm La quốc lộ trình tạp lục do Phạm Hoàng Quân dịch, chú.

Nhìn chung, trong nhiều năm qua, ngành xuất bản trong nước có xu hướng tập trung dịch thuật những công trình khảo cứu lịch sử chuyên sâu của giới nghiên cứu quốc tế, mang đến cho học giới và độc giả trong nước những góc nhìn mới từ bên ngoài, quan điểm tiếp cận mới, nhiều nguồn tài liệu sơ cấp cũng như phương pháp viết sử mới. Song song đó là tổ chức dịch thuật những sử liệu cũ liên quan đến Việt Nam từ nhiều nguồn giúp bổ sung, bổ khuyết cho chính sử. Ngoài ra, nguồn sử liệu về hình ảnh gần đây cũng được chú trọng khai thác.

Những tiềm năng và triển vọng còn bỏ ngỏ

Nhìn vào danh sách ấn phẩm đã xuất bản, chúng ta thấy thiếu vắng nhiều tác giả, sử gia uy tín: Philippe Langlet, Charles Fourniau, Pierre Brocheux, Daniel Hémery, Georges Taboulet, Étienne François Aymonier, Henri Parmentier, Jean Przyluski, Paul Pelliot, John Whitmore, David Marr, William J. Duiker, Alexander Woodside, Shawn McHale, Victor Leiberman, Peter Zinoman, Nola Cooke, Christopher Goscha, Bernard Fall, Stanley Karnow, Joseph Buttinger, Peter Phan, Matsumoto Nobuhiro, Fujiwara Riichiro, Yamamoto Tatsuro, Trần Kinh Hòa, Kim Vĩnh Kiện… Với các tác giả người Việt, vẫn còn đó những nghiên cứu (và luận án) của: Bùi Quang Tung (EFEO), Tạ Trọng Hiệp, Nhung Tuyet Tran, Hồ Tài Huệ Tâm, Ngô Vĩnh Long, Trương Bửu Lâm, Đặng Phương Nghi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Thị Hạnh, Bùi Trân Phượng, Nguyễn Văn Ký, Phạm Thị Kiều Ly, Hoàng Anh Tuấn, Trần Quốc Anh… chưa được dịch.

Với sử gia Keith Weller Taylor, mãi đến năm 2020 ở Việt Nam mới chính thức ấn hành bản Việt ngữ Việt Nam thời dựng nước (Thiếu Khanh dịch), nguyên là luận án tiến sĩ được ông bảo vệ năm 1983. Hai mươi năm sau khi bảo vệ, chính Taylor đã hoài nghi những gì mình từng nhận thức về lịch sử Việt Nam, ông đã viết lại cuốn sách với quan niệm, nhận thức khác và đặt nhan đề là A history of the Vietnamese (Lịch sử của người Việt, Cambridge University Press, 2013). Năm 2003, K. Taylor trả lời trong một bài báo rằng, “trước kia tôi chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã nghĩ rằng không có quan điểm quan trọng gì giữa thời cận đại và thời quá khứ. Tôi đã nghĩ rằng chúng ta có thể nói về người Việt trong những thế kỷ trước kia như ta nói về người Việt hiện nay. Nhưng bây giờ tôi không nghĩ như thế nữa. […] Tôi nghi ngờ về ý kiến phát triển lịch sử liên tục, một lịch sử thống nhất liên tục, tức là lịch sử của một nhóm lấy quyền hành chính trị muốn dùng chuyện lịch sử để giảng dạy và tuyên truyền dân chúng phải theo chính sách quốc gia của chính phủ. Lịch sử thống nhất liên tục là lịch sử bị chính trị hóa, không là lịch sử khoa học.”[6]

Taylor lâu nay được nhìn nhận là nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất trong giới Việt học, để tìm thấy chính mình trong một khoảnh khắc vào 49 năm trước (năm 1972), ông đã đặc biệt cảm ơn và vinh danh một người, đó là giáo sư John Kremers Whitmore (1940-2020).[7] Đáng tiếc là cho đến bây giờ, chưa có công trình nào của Whitmore được xuất bản chính thức ở Việt Nam. Theo thống kê, John K. Whitmore đã xuất bản một chuyên khảo, có ba bộ sách viết chung, đứng tên chủ biên hoặc đồng chủ biên ba cuốn sách khác và là tác giả của hơn 40 bài báo khoa học. Luận án tiến sĩ The development of Le government in 15th century Vietnam (Sự phát triển của chính quyền Lê thế kỷ XV) được ông bảo vệ tại Đại học Cornell năm 1968 hoặc chuyên khảo Vietnam, Hồ Quý Ly, and the Ming (1371-1421) (Việt Nam, Hồ Quý Ly và nhà Minh (1371-1421))[8] là hai trong số những công trình nghiên cứu của Whitmore được trích dẫn rất nhiều.[9]

Đối với trường hợp Nguyễn Thế Anh, ông là một trong những sử gia người Việt nổi tiếng trên thế giới, được giới Việt Nam học quốc tế nể trọng, những công trình viết bằng tiếng Việt của ông từ trước năm 1975 vẫn được tái bản nhiều lần trong nước, nhưng Nguyễn Thế Anh đâu chỉ có vậy. Nguyễn Thế Anh có hơn 100 bài nghiên cứu, tiểu luận được viết bằng tiếng Anh và Pháp, Việt Nam vận hội (Nguyễn Thanh Hải, Trần Phương Hoa, Trần Hoài, Huỳnh Thị Anh Vân và Việt Anh dịch) chỉ là một phần rất nhỏ trong di sản đồ sộ của vị sử gia lão thành này. Đặc biệt, công trình Monarchie et fait colonial au Viêt-Nam (1875-1925): Le crépuscule d’un ordre traditionnel (Chế độ quân chủ và yếu tố thuộc địa tại Việt Nam (1875-1925): Buổi hoàng hôn của một trật tự truyền thống, L’Harmattan, 1992) của ông là một nghiên cứu mẫu mực về triều Nguyễn, rất cần được dịch sang Việt ngữ.

Indochine, la colonisation ambiguë 1858-1954 (Đông Dương: Một nền thuộc địa nhập nhằng, giai đoạn 1858-1954, La Découverte, 1995) của hai sử gia Pierre Brocheux và Daniel Hémery có thể nói là cuốn sách gối đầu giường của mọi nhà nghiên cứu về Đông Dương thuộc Pháp; công trình nghiên cứu mẫu mực, khoa học và toàn diện về thực dân hóa của Pháp ở Đông Dương này đến nay vẫn chưa được tổ chức xuất bản chính thức ở Việt Nam. Khi nói đến hệ thống giáo dục (chính sách, chương trình, phương pháp, đội ngũ giáo viên…) của Liên bang Đông Dương, công trình nghiên cứu Une colonisation éducatrice: L’expérience indochinoise, 1860-1945 (Một chế độ thuộc địa vì giáo dục: Kinh nghiệm của Đông Dương (1860-1945), L’Harmattan, 2002) của Pascale Bezançon chắc chắn là tài liệu tham khảo, trích dẫn hữu ích không thể bỏ qua. Với chủ đề chính trị – xã hội Đông Dương, các ấn phẩm La vie quotidienne des français en Indochine 1860-1910 (Đời sống thường ngày của người Pháp tại Đông Dương (1860-1910), Hachette, 1985) của Charles Meyer, La société vietnamienne face à la modernité: Le Tonkin de la fin du XIXe siècle à la seconde guerre mondiale (Xã hội Việt Nam trước ngưỡng cửa hiện đại: Bắc kỳ từ cuối thế kỷ XIX đến đệ nhị thế chiến, L’Harmattan, 1995) của Nguyen Van Ky (tức Nguyễn Văn Ký) và Vietnam: domination coloniale et résistance nationale (1858-1914) (Việt Nam: Đô hộ thực dân và kháng chiến dân tộc (1858-1914), Les Indes savantes, 2003) của Charles Fourniau đều là những tài liệu tham chiếu quan trọng cần phải dịch.

Với Đầm lầy: Kiến tạo quốc gia và tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long (David Biggs) đã được Trịnh Ngọc Minh dịch sang Việt ngữ năm 2019, độc giả trong nước có cơ hội thưởng thức một công trình nghiên cứu độc đáo về lịch sử môi trường, chủ đề khá xa lạ trong đời sống sách vở ở Việt Nam. Một nghiên cứu khác có nhan đề Rubber and the making of Vietnam: An ecological history, 1897-1975 (Cao su và nguyên nhân thành công của Việt Nam: Lịch sử về sinh thái giai đoạn 1897-1975, University of North Carolina Press, 2018) của sử gia môi trường Michitake Aso cũng là một dạng sách như vậy – lịch sử nhìn từ sinh thái học. Rubber and the Making of Vietnam: An Ecological History, 1897-1975, hiện chưa có bản Việt ngữ, nằm trong loạt sách “Flows, Migrations, and Exchanges” (Nhập hàng, Di chuyển và Trao đổi) do Mart A. Stewart và Harriet Ritvo biên tập, tập trung “xuất bản những công trình mới về lịch sử môi trường nhằm khám phá những hoạt động xuyên biên giới của con người và vật chất, hình thành nên một thế giới hiện đại, cũng như nhiều nỗ lực khác nhau của con người để tìm hiểu, điều hòa và quản trị những hoạt động đó.”[10]

Đỉnh cao đế quốc: Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp của Eric T. Jennings (Phạm Viêm Phương và Bùi Thanh Châu dịch), Công giáo Việt Nam: Từ đế chế đến quốc gia của Charles Keith (Phạm Nguyên Trường dịch), Việt Nam 1946: Chiến tranh bắt đầu như thế nào? của Stein Tønnesson (Lê Đức Hạnh, Phạm Đức Tuệ, Nguyễn Văn Sự và Nguyễn Xuân Thắng dịch) nằm trong loạt sách “From Indochina to Vietnam: Revolution and war in a global perspective”[11] (gồm tám ấn phẩm) để tưởng nhớ và tôn vinh biên tập viên Philip E. Lilienthal của University of California Press “nổi tiếng trong lĩnh vực sách nghiên cứu về châu Á bởi chất lượng công việc xuất sắc và sự ưu ái dành cho các tác giả trẻ”, do hai sử gia Christopher E. Goscha (Université du Québec à Montréal) và Fredrik Logevall (Cornell University) tổ chức, là bộ sách rất quan trọng về lịch sử Việt Nam cận hiện đại. Công việc của các cơ sở xuất bản Việt Nam với bộ sách này vẫn chưa thể kết thúc.

Những tác giả đã từng được in ở Việt Nam như Gustave Dumoutier, Charles Maybon, Louis Malleret, Léopold Cadière, Maurice Durand, Pierre Gourou, Georges Coulet, Henri Maspéro, Auguste Bonifacy, Insun Yu, Li Tana, Philippe Papin, Andrew Hardy, David Biggs… vẫn còn những công trình quan trọng khác chưa được khai thác.

Những chủ đề về chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Việt Nam, di dân và nhà nước ở vùng cao, khảo cổ học Đông Dương, mỹ thuật Đông Dương, công việc chép sử của người Việt xưa và hoạt động của Quốc sử quán, lịch sử chữ quốc ngữ, Phật giáo Á Đông và Việt Nam, chiến tranh Pháp – Thanh… vẫn còn đó những mảng trống lớn, hoặc vùng cấm, cần phải tổ chức dịch thuật những nghiên cứu từ bên ngoài.

Có những ấn phẩm khi dịch sang Việt ngữ không còn hoàn chỉnh, hoặc bị lược dịch, hoặc bị cắt bỏ nhiều ý, nhiều đoạn, một chương… so với nguyên bản. Điều này vô tình phá hỏng đi không khí phản biện, tranh luận, trao đổi học thuật từ học giới trong nước đối với các học giả quốc tế bởi cái nhìn từ bên trong và bên ngoài luôn cần bổ khuyết cho nhau.

Một vấn đề nữa, hiện tại các cơ sở xuất bản có xu hướng tập trung khai thác dòng sách viết bằng tiếng Pháp và Anh, nhưng Việt Nam học đâu chỉ có mỗi giới học giả phương Tây. Ở Nhật Bản, học giả Yamamoto Tatsuro (山本達郎, Sơn Bản Đạt Lang) đã rất nổi tiếng với bộ sách安南史研究 (An Nam sử nghiên cứu, 1950), học giả Momoki Shirou (桃木至朗, Đào Mộc Chí Lãng) với công trình中世大越國家の成立と变 (Sự hình thành và tiếp biến của nhà nước Đại Việt thời trung đại, Hội xuất bản Đại học Osaka, 2011). Ở Đài Loan, học giả Trịnh Vĩnh Thường (鄭永常) đã xuất bản血紅的桂冠:十六至十九世紀越南基督教政策研究 (Vòng nguyệt quế màu đỏ: Nghiên cứu chính sách Công giáo Việt Nam thế kỷ XVII-XIX, Đạo Hương xuất bản xã, 2015) và 征戰與棄守:明代中越關係研究 (Chinh chiến và từ bỏ: Nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đời Minh, Tổ xuất bản Đại học Quốc lập Thành Công, 1998). Nhà Việt Nam học lừng danh từng sống và nghiên cứu ở Việt Nam là giáo sư Chen Ching Ho (陳荆和, Trần Kinh Hòa), hoặc giáo sư Kim Vĩnh Kiện (金永鍵, nghiên cứu Nhật Bản tại EFEO) với công trình印度支那と日本との関係 (Quan hệ Đông Dương và Nhật Bản, Fuzanbo, 1943) đến nay vẫn chưa được dịch và giới thiệu bài bản ở Việt Nam. Từ Trung Quốc, nhà Hán học Nhiêu Tông Di (饒宗頤), nhà sử học Trương Tú Dân (张秀民) cũng rất đáng chú ý…

Sự chung tay của giới xuất bản và nghiên cứu

Ở Hoa Kỳ chẳng hạn, có nhiều nhà xuất bản trực thuộc trường đại học, quy tụ được các chuyên gia tổ chức xuất bản hoặc biên tập viên có trình độ, đã cho ra đời những công trình nghiên cứu mang tính tiên phong, ví dụ: Vietnam and the Chinese model: A comparative study of Nguyen and Ch’ing civil government in the first half of the nineteenth century (Việt Nam và mô hình Trung Hoa: Nghiên cứu so sánh về chính quyền dân sự nhà Nguyễn và nhà Thanh nửa đầu thế kỷ XIX, Harvard University Press, 1971, chưa có bản Việt ngữ) của Alexander Woodside, Vietnamese anticolonialism, 1885-1925 (Việt Nam chống chủ nghĩa thực dân (1885-1925), University of California Press, 1971, chưa có bản Việt ngữ) của David Marr, hay Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the seventeenth and eighteenth centuries (Chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Miền Nam Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Cornell University Southeast Asia Program, 1998, chưa có bản dịch trọn vẹn từ nguyên bản) của Li Tana…

Trong nhiều năm qua, một số Viện/Trung tâm nghiên cứu, Khoa sử ở Việt Nam đã tổ chức dịch một số sách dưới dạng dịch tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ, hoặc phục vụ cho công tác biên soạn những bộ quốc sử. Gần đây, vài tài liệu được đem ra xuất bản dưới hình thức liên kết, ví dụ: An Nam chí nguyênChân Lạp phong thổ kýVương quốc Champa. Vẫn còn đó những bản dịch quan trọng khác đang lưu hành nội bộ cần nâng cấp, tổ chức hiệu đính để xuất bản rộng rãi thay vì phủ chiếu đắp chăn trong bối cảnh nguồn lực của cả hai phía đều khá hạn chế.

Dịch sách và biên tập sách khảo cứu chưa bao giờ là công việc dễ dàng, dịch giả chỉ biết tiếng (Anh hoặc Pháp) thôi chưa đủ, cần phải có kiến thức nền, có sự tìm/am hiểu về chủ đề, lĩnh vực, thuật ngữ liên quan trong công trình mình dịch, đối với biên tập viên cũng vậy. Dịch sách lịch sử cũng khó làm việc độc lập, vẫn cần có sự hỗ trợ ít nhiều từ các chuyên gia/giới nghiên cứu biết Hán Nôm đối với một dịch giả chuyên dịch tiếng Anh và Pháp… Đối với các nguồn sử liệu Hán Nôm được tác giả dịch sang tiếng Tây khi viết sách, đôi khi được dịch ngược lại trong các bản Việt ngữ, khi đó nội dung trích dẫn chỉ còn diễn ý, khác biệt so với nguyên bản ít nhiều, điều này thường gặp trong các ấn phẩm đã xuất bản.[12]

Ngành xuất bản không chỉ thiếu dịch giả có chuyên môn mà còn đang rất thiếu chuyên gia thẩm định, khai thác, tư/cố vấn bản thảo. Độc giả mảng văn hóa – lịch sử trong nước cũng ít được đọc hoặc tiếp cận sớm (bản dịch) những nghiên cứu mới của thế giới hơn so với mảng kinh tế – quản trị hay văn chương. Trách nhiệm chính đến từ các cơ sở xuất bản, từ định hướng kinh doanh, từ thị trường, từ nghiên cứu dòng sản phẩm phù hợp tránh rủi ro tồn kho… và một phần là trách nhiệm của giới nghiên cứu. Cả hai bên chưa chủ động tìm đến nhau để hình thành sợi dây liên kết, để có những tham mưu, tư vấn, hình thành nên một dạng hội đồng cố vấn trong việc chọn sách, tổ chức dịch thuật, hiệu đính, viết lời giới thiệu/dẫn nhập… trong từng lĩnh vực, thay vì chỉ có những người có nhiều ảnh hưởng trên mạng xã hội (KOL) giúp truyền thông, quảng bá sản phẩm như hiện nay.

Dịch sách triết học, văn hóa – lịch sử từ lâu đã là nhu cầu cấp thiết đối với nhiều quốc gia, người Nhật đã triển khai quy mô bài bản từ thời Minh Trị; người Trung Quốc cũng đã làm trăm năm nay với những dự án tùng thư dài hơi về các chủ đề lịch sử, chính trị, kinh tế, quân sự Đông Á nói chung, trong đó có không ít tác giả Việt Nam được dịch sang tiếng Trung; ở Đài Loan, quá trình dịch thuật đã diễn ra sôi nổi từ thập niên 1920[13]… Ở Việt Nam, cho đến nay, quá trình giao lưu dịch thuật hay nói khác đi là giao lưu học thuật qua con đường phiên dịch gần như là rất chậm.

Một tuyến đề tài khác chưa thấy các cơ sở xuất bản ở Việt Nam triển khai, rất cần được tổ chức, đó là tuyển chọn những bài tiểu luận/nghiên cứu lịch sử theo chủ đề đã đăng trên các tạp chí chuyên ngành uy tín trên thế giới, quy tụ những góc nhìn của các chuyên gia Việt Nam học hàng đầu trong một cuốn sách. Có thể tổ chức dịch một số sách dạng “Tiểu luận” có sẵn, hoặc tự tổ chức riêng theo quan điểm tuyển chọn của nhóm cố vấn và ban biên tập từng cơ sở xuất bản cụ thể.

Viết sử, làm sử, nghiên cứu sử, phê bình sử không thể đi con đường độc đạo, không thể thiếu giao lưu học hỏi lẫn nhau. Dịch sách Pháp, Mỹ, Nhật, Trung, Hàn trước hết là để học hỏi từ họ những quan điểm mới, phương pháp, lối viết, học từ nhà nghiên cứu cho đến độc giả, sau là để hiểu thế giới họ đang nghiên cứu gì và nghĩ gì về mình. Chỉ khi tiếp cận được những công trình đỉnh cao để học tập, để giảng dạy, thì khi đó mới cải thiện được trình độ, mặt bằng chung của nền sử học nước nhà, ngành xuất bản cũng được hưởng lợi từ đó.

Xuất bản và nghiên cứu có mối dây liên kết chặt chẽ, không thể tách rời, đặc biệt trong ngành Việt Nam học. Với sự dịch chuyển trong nội bộ ngành xuất bản, sự vươn lên của các công ty sách tư nhân trong quan hệ liên kết với các nhà xuất bản nhà nước, vai trò tổ chức xuất bản (mua bản quyền, tổ chức dịch, hiệu đính, phát hành) đang thuộc về khối xuất bản tư nhân năng động. Để đi xa, phải đi cùng thay vì “độc hành kỳ đạo” như lúc này.

Nguồn: https://nghiencuuquocte.org/

Đồng tác giả, xác định chủ sở hữu quyền tác giả là đồng tác giả

Tôi và một đồng nghiệp cùng tham gia thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học, kết quả là một cuốn sách khoa học được xuất bản. Tôi thực hiện chính, đồng nghiệp chỉ tham gia một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu đó và thực hiện các công việc theo yêu cầu của tôi. Trong trường hợp này, đồng nghiệp của tôi có là tác giả của cuốn sách khoa học đó hay không? Việc xác định chủ sở hữu quyền tác giả trong trường hợp này như thế nào?

Trả lời:

Theo Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP, tác giả là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Trong trường hợp có nhiều tác giả cùng trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học thì những người này là đồng tác giả đối với tác phẩm đó.

Trong trường hợp bạn hỏi, nếu đồng nghiệp của bạn trực tiếp tham gia sáng tạo ra cuốn sách, dù tham gia một phần nhỏ nhưng cả bạn và bạn đồng nghiệp sẽ được công nhận là đồng tác giả. Trong trường hợp, nếu đồng nghiệp của bạn chỉ hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho bạn sáng tạo ra cuốn sách đó thì bạn đồng nghiệp sẽ không được công nhận là đồng tác giả (Theo Điều 6 Nghị định 22/2018/NĐ-CP).

Việc xác định chủ sở hữu quyền tác giả trong trường hợp này sẽ tuân theo Điều 38 Luật Sở hữu trí tuệ. Theo đó, các đồng tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật của mình để cùng sáng tạo ra tác phẩm có chung các quyền nhân thân quy định tại Điều 19 và quyền tài sản quy định tại Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm đó. Các đồng tác giả sáng tạo ra tác phẩm, nếu có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác thì có các quyền quy định tại Điều 19 và Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ đối với phần riêng biệt đó.

Nguồn: https://trogiupluat.vn/

Sách chuyên khảo của hai cựu sinh viên Khoa Sinh học, Trường Đại học Đà Lạt vừa được xuất bản bởi Nhà Xuất bản Quốc tế Springer

Theo thông tin từ nhà xuất bản Springer, nhóm tác giả “Dương Tấn Nhựt, Hoàng Thanh Tùng, Edward Chee-Tak YEUNG” đã xuất bản cuốn sách với tựa đề “Plant Tissue Culture: New Techniques and Application in Horticultural Species of Tropical Region” trong năm 2022. Đây là sách chuyên khảo thuộc lĩnh vực công nghệ sinh học, công bố những đóng góp quan trọng của GS.TS. Dương Tấn Nhựt, TS. Hoàng Thanh Tùng và các cộng sự cho ngành Sinh học – Nông nghiệp Việt Nam bằng kết quả nghiên cứu xuất sắc mang tầm quốc tế, góp phần xác lập một trường phái nghiên cứu có tầm ảnh hưởng cao trong địa hạt nuôi cấy mô thực vật nói riêng và lĩnh vực công nghệ sinh học nói chung.

Trang bìa của cuốn sách

Công trình này là kết quả của nỗ lực lao động trí tuệ trong nhiều năm của nhóm tác giả, với sự hợp tác tích cực của các đồng nghiệp trong và ngoài nước, trong đó có các nhà nghiên cứu thuộc Phòng Sinh học phân tử và Chọn tạo giống cây trồng, Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Điều gây ấn tượng nhất không chỉ là ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn của công trình nghiên cứu mà còn là ở chỗ các tác giả của công trình (GS.TS. Dương Tấn Nhựt và TS. Hoàng Thanh Tùng) đều là các cựu sinh viên Khoa Sinh học, Trường Đại học Đà Lạt.

Việc nhiều cựu sinh viên Trường Đại học Đà Lạt thành công trong nghiên cứu khoa học – có nhiều công trình xuất sắc mang tầm vóc quốc tế được công bố bởi các nhà xuất bản quốc tế uy tín – là minh chứng sinh động và thuyết phục cho chất lượng đào tạo của Trường. Với bề dày truyền thống gần 65 năm hình thành và phát triển, Trường Đại học Đà Lạt tự hào là nơi vun đắp nền tảng vững chắc, chắp cánh cho những ước mơ nghiên cứu khoa học bay xa và đạt được những kết quả quan trọng, đóng góp có ý nghĩa vào sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ của nước nhà. Những thành tựu nghiên cứu xuất sắc của các cựu sinh viên đã và sẽ tiếp tục củng cố, tăng cường uy tín và vị thế khoa học của Trường, truyền nguồn cảm hứng lớn lao cho các thế hệ sinh viên kế tục, góp phần vào nỗ lực xây dựng Trường Đại học Đà Lạt sớm trở thành một trong những cơ sở giáo dục đại học uy tín hàng đầu của khu vực Đông Nam Á.

- GS.TS. Dương Tấn Nhựt, cựu sinh viên Khoa Sinh học, Trường Đại học Đà Lạt, hiện là Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học Tây Nguyên, Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Ủy viên Hội đồng trường, Trường Đại học Đà Lạt; Thành viên Hội đồng Biên tập Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt.
 
 - TS. Hoàng Thanh Tùng, cựu sinh viên Khoa Sinh học, Trường Đại học Đà Lạt, hiện là nghiên cứu viên tại Phòng Sinh học phân tử và Chọn tạo giống cây trồng, Viện Nghiên cứu Khoa học Tây Nguyên – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Chuyên gia phản biện độc lập cho Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt. 
Nguồn: https://dlu.edu.vn/

NASA hợp tác với các nhà xuất bản làm sách khoa học viễn tưởng

NASA đang hợp tác với các nhà xuất bản để làm hàng loạt tiểu thuyết khoa học viễn tưởng.

Trung Tâm Không gian Goddard của NASA và nhà xuất bản Tor/Forge dự định sẽ phát hành những cuốn sách làm nổi bật các khái niệm liên quan đến nhiệm vụ và hoạt động hiện tại cũng như tương lai của NASA.

“Sách ra đời sẽ mang lại kiến thức cho công chúng về những thành tựu trong quá khứ, hiện tại về vũ trụ cùng thách thức yêu cầu trong tương lai của NASA”, Nona Cheeks, GĐ của Goddard cho biết trong một thông báo ngày 22/8.

Các nhà khoa học và kỹ sư tại Goddard mong muốn có thể nâng cao được nhận thức của mọi người về vai trò của NASA trong cuộc sống hàng ngày. Cả NASA và Tor/Forge đều hy vọng sẽ truyền cảm hứng cho thế hệ các nhà khoa học và kỹ sư trẻ tiếp theo của Mỹ.

Ảnh minh họa một căn cứ trên mặt trăng trong tương lai. Sinh vật tổng hợp nhân tạo có thể giúp các phi hành gia tự sản xuất lương thực và nhiên liệu (Ảnh: Space.com)
Ảnh minh họa một căn cứ trên mặt trăng trong tương lai. Sinh vật tổng hợp nhân tạo có thể giúp các phi hành gia tự sản xuất lương thực và nhiên liệu (Ảnh: Space.com)

Tom Doherty, người sáng lập nhà xuất bản Tor, nói: “Khi tôi còn là một cậu bé, những cuốn sách của Isaac Asimov, Robert Heinlein và các đồng nghiệp của họ đã khiến tôi rất thích thú. Chúng đã truyền cho tôi niềm đam mê suốt đời với vũ trụ, khoa học và kỹ thuật.

Từ Fulton với phát minh đầu máy hơi nước đến Alexander Graham Bell, Edison Silicon Valley và sự ra đời của Internet đã đưa Mỹ trở thành một cường quốc khoa học kỹ thuật dẫn đầu thế giới”.

Tor/Forge sẽ thăm Goddard 2 ngày vào tháng 11 để tìm hiểu và học hỏi các nhà khoa học và kỹ sư làm việc tại trung tâm. NASA cũng sẽ cho phép nhà xuất bản truy cập dữ liệu, sử dụng cơ sở vật chất, trao đổi với các chuyên gia…để lấy tư liệu viết sách.

Theo Đất Việt

Xuất bản Việt Nam với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

rên chặng đường phát triển của mình, xuất bản với tính chất là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hóa, tư tưởng có nhiệm vụ quan trọng trong phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội qua đó góp phần nâng cao dân trí, xây dựng nền tảng văn hóa tinh thần của con người Việt Nam, đồng thời thông qua các xuất bản phẩm không chỉ giới thiệu với thế giới các giá trị văn hóa truyền thống người Việt, các thành tựu phát triển của Việt Nam, mà còn trực tiếp góp phần xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

1
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cùng các đại biểu nghe giới thiệu về triển lãm sách kỷ niệm 70 ngày truyền thống ngành Xuất bản, In và Phát hành.

1. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định chủ nghĩa Mác – Lênin là cốt, là gốc, là nền tảng tư tưởng của Đảng. Đến Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Luận điểm này đã tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện qua các kỳ đại hội của Đảng. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII nêu rõ: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”(2).

Đi lên CNXH là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng phù hợp với khát vọng của người dân Việt Nam vươn tới ấm no, tự do, hạnh phúc. Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích giai cấp và lợi ích cá nhân của không ít phần tử suy thoái, bất mãn, đã chống đối lại con đường tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển mà Đảng, Bác và nhân dân ta lựa chọn. Họ đã không từ thủ đoạn nào hòng làm chuyển hướng, làm thất bại công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Và đương nhiên, họ tập trung công kích, xuyên tạc, phủ định cái gốc của Đảng – nền tảng tư tưởng của Đảng ngay từ khi Đảng ta ra đời, lãnh đạo nhân dân thực hiện các cuộc trường chinh kháng chiến và công cuộc xây dựng CNXH ngày nay.

Trên con đường xây dựng xã hội mới, chúng ta phải thường xuyên, liên tục đấu tranh chống lại các hoạt động cả trên bình diện lý luận và thực tiễn để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động có sứ mệnh xây dựng thành công xã hội mới, điều đó cũng có nghĩa cuộc đấu tranh này là liên tục, gắn liền với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Cuốn sách tuyển chọn 48 bài tham luận khoa học của các đồng chí lãnh đạo, chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu đầu ngành; lãnh đạo một số tỉnh, thành phố, các cơ quan báo chí Trung ương và một số cơ quan khác.
Cuốn sách tuyển chọn 48 bài tham luận khoa học của các đồng chí lãnh đạo, chuyên gia, nhà khoa học, nhà nghiên cứu đầu ngành; lãnh đạo một số tỉnh, thành phố, các cơ quan báo chí Trung ương và một số cơ quan khác.

Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ liên tục về thời gian, mà còn liên tục về không gian, có nghĩa rằng cuộc đấu tranh này không chỉ trên phạm vi quốc gia mà cả trên bình diện quốc tế. Cuộc đấu tranh này luôn quyết liệt, phức tạp, là cuộc đấu tranh mất còn với thế lực thù địch phản động của những người cộng sản đi theo con đường mà các nhà kinh điểm Macxit đã chỉ ra.

Trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta không ngừng hoàn thiện đường lối xây dựng, phát triển chủ nghĩa xã hội. Do vậy, xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là xây dựng và bảo vệ cái gốc của Đảng, là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.

Việc xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Mỗi ngành, lĩnh vực tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của mình tham gia vào trọng trách xây dựng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. “Chúng ta cần chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, xác định đúng đắn mục tiêu, quan điểm chỉ đạo và các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, khả thi để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”(3).

2. Xuất bản là một hoạt động sản xuất kinh doanh và đồng thời là hoạt động thuộc lĩnh vực văn hoá, tư tưởng thông qua việc sản xuất, phổ biến những xuất bản phẩm đến nhiều người. Hoạt động này có mục đích(4): Phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế – xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Với mục đích hoạt động của mình, hoạt động xuất bản có vai trò quan trọng trong xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các nội dung chính sau:

Thứ nhất, thông qua các hoạt động xuất bản góp phần truyền bá, phổ biến tri thức, nâng cao trình độ dân trí. Nâng cao dân trí chính là nâng cao trình độ nhận thức hay mặt bằng văn hóa chung của một cộng đồng hay nhóm dân cư ở một phạm vi nhất định, đó là nhận thức về thế giới, về tự do dân chủ, hiểu biết về quyền công dân, quyền con người, nâng cao mức độ quan tâm của người dân trước các vấn đề xã hội. Hoạt động xuất bản góp phần nâng cao dân trí chính là tạo ra môi trường thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ nền tảng của Đảng. Với một quốc gia có trình độ dân trí ngày càng cao, chính là “kháng thể” tốt nhất trước luận điệu sai trái, xuyên tạc của kẻ thù về Đảng, về chế độ, về con đường và thành tựu phát triển của Việt Nam.

Thứ hai, bằng các hoạt động của mình, với các xuất bản phẩm đa dạng góp phần tuyên truyền, làm rõ tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối xây dựng đất nước của Đảng và Nhà nước ta. Đây là hoạt động trực tiếp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Với hoạt động của mình, xuất bản kịp thời cung cấp thông tin, làm rõ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận dụng sáng tạo của Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta, góp phần tuyên truyền, giáo dục để mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân nhận thức đầy đủ, ngày càng sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời vận dụng, phát triển sáng tạo, làm cho lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là nền tảng tư tưởng vững chắc của Đảng, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần toàn xã hội.

Thứ ba, các công trình xuất bản góp phần làm rõ tiềm năng, cơ hội phát triển của đất nước. Các nhà xuất bản hằng năm có hàng trăm đầu sách trên các lĩnh vực khác nhau thông tin, nghiên cứu phân tích các nguồn lực cho phát triển, cơ hội, thách thức và triển vọng phát triển. Thông qua các công trình xuất bản tạo cơ sở nâng cao niềm tin của người dân vào con đường phát triển của đất nước đã được Đảng ta xác định trong Cương lĩnh và cụ thể hoá qua các kỳ đại hội. Hơn nữa qua thông tin từ sách và các ẩn phẩm khác chính là cơ sơ dữ liệu quan trọng cho các hoạt động sáng tạo của mỗi công dân trên các vị trí, công việc của chính mình. Việc đọc sánh làm trí tuệ con người sâu sắc hơn và sáng sủa hơn(5) và vì vậy họ làm việc sáng tạo hơn, có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Chính Lênin cũng đã từng nói: Không có sách thì không có tri thức, không có tri thức thì không có chủ nghĩa cộng sản.

Thứ tư, qua các xuất bản phẩm, nhất là các xuất bản phẩm thuộc lĩnh vực lý luận, chính trị không chỉ trực tiếp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, mà còn làm rõ hạn chế khách quan, sự bất công trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn trên con đường phát triển đi lên văn minh hiện đại của xã hội loại người. Ngày nay với việc tận dụng sự phát triển của khoa học công nghệ, chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh đưa lại sự phát triển nhất định. Tuy nhiên, với một quá trình phát triển kinh tế – xã hội chạy theo mục tiêu tối thượng là lợi nhuận, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội đã đẩy xã hội đến những cuộc khủng hoảng như khủng hoảng sản xuất thừa, khủng hoảng nguyên nhiên liệu và môi trường, y tế… “Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa”(6). Như vậy, bằng chính các công trình xuất bản sẽ góp phần chỉ rõ những hạn chế mà chủ nghĩa tư bản không thể vượt qua, đồng thời khẳng định tính tất yếu và đúng đắn của con đường đi lên CNXH mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Thứ năm, sách và các xuất bản phẩm góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau các dân tộc, các quốc gia, tạo ra môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.

Thông qua các xuất bản phẩm các giá trị văn hoá truyền thống, đất nước và con người Việt Nam, các thành tựu phát triển…được giới thiệu với thế giới và ngược lại. Ngày nay với những thành tựu mới trong xuất bản việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau ngày càng thuận lợi. Thực tế phát triển cho thấy, một quốc gia muốn phát triển bền vững cần có môi trường hoà bình và để có môi trường hoà bình, thuận lợi cho sự phát triển của quốc gia mình thì cần tham gia tạo ra môi trường hoà bình chung cho phát triển. Trong thế giới phẳng ngày nay an ninh quốc gia, an ninh con người là an ninh tương tác. Không thể bảo đảm an ninh cho riêng mình khi bỏ qua an ninh đối tác. Chính bằng các xuất bản phẩm cùng với các phương tiện thông tin nói chung sẽ góp phần gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau, tạo ra môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển. Điều này càng khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động xuất bản trong xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

3. Xuất bản Việt Nam có truyền thống xây dựng và phát triển qua 70 năm, luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của mình, góp phần quan trọng trong phục vụ chính trị, tư tưởng, văn hóa, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường, ngành xuất bản có nhiều đổi mới, tiếp tục phát triển rất mạnh mẽ, trở thành vũ khí sắc bén, góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia trực tiếp vào xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Xuất bản Việt Nam trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình đã có nhiều đóng góp và sáng tạo trong các hoạt động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Ngoài hệ thống sách và xuất bản phẩm chuyên ngành các lĩnh vực góp phần nâng cao dân trí, ngành xuất bản đã triển khai, bán sát các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong nâng cao chất lượng hoạt động xuất bản, nhất là hoạt động xuất bản sách và ấn phẩm lý luận, chính trị. Cụ thể, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cùng nhiều nhà xuất bản trong nước đã xuất bản được nhiều cuốn sách phục vụ trực tiếp cuộc đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. “Tổng số sách lý luận, chính trị trong 10 năm qua đạt khoảng 60.000 đầu sách với trên 200 triệu bản, chiếm khoảng 6-8% số đầu sách và 8-10% số bản sách hằng năm. Các nhà xuất bản: Chính trị quốc gia Sự thật, Lý luận chính trị, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Tư pháp… luôn có tỷ lệ sách lý luận, chính trị cao với khoảng 30-35% trong tổng số sách được xuất bản. Một số nhà xuất bản địa phương như: Nhà xuất bản Hà Nội, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Nghệ An, Nhà xuất bản Thanh Hóa… cũng luôn quan tâm đến việc xuất bản sách lý luận, chính trị, vừa thực hiện tốt nhiệm vụ do cơ quan chủ quản giao phó, vừa đáp ứng đầy đủ nhu cầu tìm hiểu, học tập, nghiên cứu của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân”(7). Trong những năm qua Hội đồng Lý luận Trung ương cũng đã chủ động phối hợp với các Nhà xuất bản, biên tập xuất bản nhiều đầu sách trực tiếp góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng(8).

Bên cạnh các sách truyền thông, ngành xuất bản cũng đã tích cực triển khai ứng dụng công phệ, phát hành sách và các ấn phẩm phiên bản điện tử. Đặc biệt, trong những ngày đại dịch bùng phát, các đơn vị xuất bản, in, phát hành đã có những cách làm đổi mới, sáng tạo, ứng dụng nhanh quá trình chuyển đổi số như: Xuất bản sách truyền thống kèm các sản phẩm sách điện tử, phát hành sách trực tuyến qua Internet, mạng xã hội nhằm thích ứng và phát huy hiệu quả kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh, đáp ứng nhu cầu đọc của người dân(9).

Đi liền với hoạt động xuất bản, hoạt động phát hành và các hình thức giới thiệu, quảng bá sách cũng được đẩy mạnh với nhiều hình thức quảng bá quy mô, sáng tạo, thu hút độc giả thuộc mọi lứa tuổi, nâng cao hiệu quả tuyên truyền và kết quả kinh doanh. Ví dụ, Chương trình giới thiệu sách trên các kênh truyền hình “Sách hay thay đổi cuộc đời” do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo; hay Hội sách trực tuyến; Triển lãm sách chuyên đề “Dấu ấn Hồ Chí Minh”; Tọa đàm giới thiệu quyển sách: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng; Triển lãm sách khoa học và công nghệ với sự phát triển kinh tế-xã hội do Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) tổ chức…Những hoạt động này góp phần phát triển văn hóa đọc, định hướng thông tin và nâng cao dân trí.

Hoạt động sáng tạo rất đáng chú ý trong hoạt động tuyên truyền phát hành sách là việc hình thành Tủ sách chuyên đề về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tủ sách này được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xây dựng và ra mắt bạn đọc ngày 3/2/2022, tập hợp hơn 160 đầu sách chia thành các mảng đề tài: Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sách viết về Người; sách về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay; sách về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; sách về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tủ sách tiếp tục được bổ sung và là kho thông tin thực sự tiện ích giúp cho người đọc quan tâm về mảng nội dung này và đây cũng là hình thức góp phần trực tiếp vào hoạt động xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

4. Trong những năm tới đây, bối cảnh khu vực và quốc tế có những biến chuyển, đặt ra cả cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam nói chung, đối với hoạt động xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng. Với thế và lực mới, với việc ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ chúng ta có điều kiện giải quyết các nhiệm vụ đặt ra trên bước đường phát triển, góp phần đẩy nhanh hiện thực hoá mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tuy nhiên, trên bước đường phát triển của chúng ta, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng thành tựu công nghệ để chống phá với những phương thức ngày càng tinh vi, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng quyết liệt và phức tạp, không chỉ là nội dung quan trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; mà đó chính là nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, trong đó có những người làm công tác xuất bản.

Quá trình hội nhập và mở của các nền kinh tế quốc gia dân tộc một mặt là điều kiện cho quá trình hợp tác phát triển, mở rộng sự hiểu biết, giao lưu văn hóa, gắn kết cộng đồng vì sự phát triển chung, mặt khác cũng là không gian cho các thế lực thù địch lợi dụng đẩy mạnh các hoạt động chống phá cả trên phương diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi chúng ta cần tăng cường hoạt động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Hơn nữa, chính quá trình hội nhập và phát triển cũng đặt ra nhiều vấn đề lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết làm sáng tỏ. Đây chính là cơ sở, căn cứ lý luận cho hoạt động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Trong bối cảnh cơ hội và thách thức đan xen, để hoàn thành nhiệm vụ chung của ngành xuất bản, hoạt động xuất bản cần tập trung thực hiện tốt, toàn diện nội dung Thông báo số 19-TB/TW ngày 29/12/2016 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25/8/2004 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản, cũng như thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 16/4/2020 của Ban Bí thư về đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xuất bản, phát hành và nghiên cứu, học tập sách lý luận, chính trị. Trong tổng thể các nhiệm vụ đặt ra, cần lưu ý đếm một số vấn đề liên quan trực tiếp đến xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng như sau:

Thứ nhất, tập trung nâng cao chất lượng các xuất bản phẩm nói chung, trong đó có các xuất bản phẩm lĩnh vực lý luận, chính trị. Để thực hiện điều này cần có kế hoạch xây dựng bản thảo, thực hiện cơ chế đặt hàng để có những bản thảo đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới hiện nay.

Thứ hai, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị. Do vậy ngành xuất bản, cần xuất phát từ nhiệm vụ và lợi thế của mình, phối hợp đồng bộ với các ngành, lĩnh vực khác, mà trước hết là lĩnh vực báo chí, truyền thông để cung cấp kịp thời, hệ thống và đầy đủ thông tin, làm cơ sở cho hoạt động xây dựng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ngày càng hiệu quả.

Thứ ba, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngành xuất bản có điều kiện đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và hiệu quả xuất bản. Do vậy cần tiếp tục nghiên cứu đẩy mạnh, đa dạng hoá các loại hình xuất bản phẩm: sách in, sách chữ nổi, tranh ảnh, lịch…kể cả bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc và tiếng nước ngoài để đáp ứng yêu cầu tuyên truyền và nhu cầu bạn đọc cả trong và ngoài nước. Bên cạnh xuất bản phẩm truyền thống cần chú ý đẩy mạnh hơn nữa loại hình xuất bản phẩm điện tử, nhất là sách điện tử để tận dụng thế mạnh của loại hình này cũng như phục vụ nhu cầu văn hoá đọc ngày càng đa dạng.

Thứ tư, tiếp tục nghiên cứu, mở rộng các kênh và hình thức phát hành. Bên cạnh các hình thức phát hành truyền thống qua các cửa hàng sách, cần thiếp tục sáng tạo các hình thức tuyên truyền, quảng bá sách và các ấn phẩm dựa trên nền tảng công nghệ mới, tiếp tục mở rộng hình thức tủ sách chuyên đề, câu lạc bộ trẻ đọc sách…Đi liền với đó kết hợp chặt chẽ giữa vận động, giáo dục, thuyết phục với kiên quyết xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật đối với các đối tượng truyền bá các quan điểm sai trái, thù địch, các văn hoá phẩm không lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục. Mở rộng, nâng cao chất lượng trong hoạt động xuất- nhập khẩu và biên dịch các xuất bản phẩm nước ngoài, đáp ứng nhu cầu thông tin, mở rộng giao lưu với thế giới, góp phần tạo ra môi trường hòa bình và ổn định cho phát triển.

Thứ năm, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiên các quy chế, quy định pháp luật trong lĩnh vực xuất bản cho phù hợp với chủ trương tích cực, chủ động và toàn diện trong hội nhập. Cùng với đó cần đầu tư đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công tác xuất bản, phát hành, cả về chuyên môn và đạo đức, phẩm chất chính trị, trách nhiệm nghề nghiệp, trong đó chú trọng công nghệ mới, xu hướng phát triển mới của xuất bản.

Thứ sáu, cần tiếp tục quán triệt và có kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới trong ngành xuất bản cũng như ở mỗi đơn vị, cơ sở trong toàn ngành.

PGS.TS. Vũ Văn Hà/TG

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội,1991, tr.21

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 180

(3)Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới

(4) Theo Luật xuất bản năm 2012.

(5) Nhà triết học nổi tiếng thời kỳ Khai sáng người Đức G. Letxinh (1729-1781) nói: Sách làm trí tuệ con người sâu sắc hơn và sáng sủa hơn.

(6) Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. NXB Chính trị Quốc gia sự thật, H.2022, tr.20.

(7) Hoàng Vĩnh Bảo: Đổi mới và nâng cao hiệu quả xuất bản, phát hành sách lý luận, chính trị, (mic.gov.vn), ngày 12/5/2021

(8) Hội đồng Lý luận Trung ương, từ năm 2002 đến nay, đã phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản 8 cuốn sách: Vững bước trên con đường đã chọn (2002); Lẽ phải của chúng ta (2004); Dân chủ, nhân quyền – Giá trị toàn cầu và đặc thù quốc gia (2011); Đảng Cộng sản Việt Nam – Trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử (2011); Kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta (2013); Luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch (2014); Phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam (2015); Phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị trong Đảng (2017). Mới đây, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương xuất bản cuốn Bảo vệ nền tảng tư tưởng trong tình hình mới (2020.

(9) Tính đến hết ngày 31/12/2021, tổng số xuất bản phẩm nộp lưu chiểu là 32.948 xuất bản phẩm (giảm 9%) với 400.610.118 bản (giảm 0,7%). Trong đó: Xuất bản phẩm dạng sách in đạt 29.274 cuốn (giảm 9%) với 350.000.000 bản (giảm 3,6%); Xuất bản phẩm dạng điện tử là 2.300 xuất bản phẩm (tăng 12,2%) với ước tính khoảng 25 triệu bản (tăng 16 lần). Xuất bản phẩm khác (đĩa DVD, tranh ảnh, bản đồ, lịch các loại…) đạt 1.374 xuất bản phẩm (giảm 31,6%) với 25.610.118 bản (giảm 34%)

Nguồn: Tuyengiao.phuyen.gov.vn