Các nhà khoa học hàng đầu thế giới thảo luận về Vũ trụ học

Tại Hội nghị khoa học quốc tế lần thứ 29 “PASCOS – Hạt, Dây và Vũ trụ học”, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt khẳng định, để tiếp tục thúc đẩy nghiên cứu khoa học cơ bản ở Việt Nam hướng đến các kết quả nghiên cứu xuất sắc, bên cạnh việc đẩy mạnh nuôi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học cơ bản cần tăng cường đầu tư hạ tầng nghiên cứu KH&CN và tài trợ các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN.

Hội nghị được tổ chức trong khuôn khổ Chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” lần thứ 20, tại Trung tâm Quốc tế khoa học và Giáo dục liên ngành (Trung tâm ICISE), tỉnh Bình Định từ ngày 8-13/7/2024 với sự tham dự của hơn 100 nhà khoa học trong lĩnh vực vật lý hạt và vũ trụ học đến từ 27 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học cơ bản

Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao ý nghĩa khoa học và tầm quan trọng của Hội nghị đã được tổ chức liên tục từ năm 1990 đến nay và là một trong những chuỗi hội nghị quốc tế uy tín về vũ trụ học trên thế giới. Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm phát triển ngành khoa học cơ bản. Các chương trình nghiên cứu khoa học cơ bản trong nhiều lĩnh vực đã được triển khai từ nhiều năm nay.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại Hội nghị.

Từ năm 2009 Quỹ Phát triển KH&CN Quốc gia (Nafosted) luôn ưu tiên dành phần lớn kinh phí tài trợ các đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản, đồng hành hỗ trợ các nhà khoa học thực hiện và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học cơ bản.

Các chương trình phát triển khoa học cơ bản cấp quốc gia, trong đó bao gồm Chương trình phát triển vật lý đã được thực hiện liên tục từ năm 2016, với các hướng ưu tiên trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh như: vật lý lý thuyết và tính toán, vật lý các chất đậm đặc, quang lượng tử, vật lý hạt nhân… Đồng thời, chương trình cũng đẩy mạnh nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng như quan trắc xử lý môi trường, khoa học vật liệu… Ngoài ra, ứng dụng các phương pháp, kỹ thuật vật lý trong các đề tài nghiên cứu thuộc các chương trình KH&CN cấp quốc gia trong thời gian qua đã gia tăng và đạt nhiều kết quả tốt, có thể kể tới như ứng dụng hạt nhân trong công nghiệp, ứng dụng vật lý – kỹ thuật hạt nhân trong môi trường, ứng dụng đồng vị phóng xạ trong ngành thủy văn, trong xác định tuổi mẫu vật; và ứng dụng vật lý trong y khoa…

Bộ trưởng cho rằng, để tiếp tục thúc đẩy nghiên cứu khoa học cơ bản ở Việt Nam hướng đến các kết quả nghiên cứu xuất sắc, đóng góp tích cực cho phát triển bền vững đất nước cũng như đóng góp chung vào kho tàng tri thức của nhân loại, bên cạnh việc đẩy mạnh nuôi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực nghiên cứu khoa học cơ bản cần từng bước tăng cường đầu tư hạ tầng nghiên cứu KH&CN và tài trợ cho các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN. Một trong số những giải pháp quan trọng Chính phủ Việt Nam, Bộ KH&CN luôn quan tâm, ưu tiên là tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế thông qua trao đổi khoa học, tổ chức các nhiệm vụ nghiên cứu chung giữa nhà khoa học Việt Nam và quốc tế, tổ chức các hội nghị, hội thảo quốc tế lớn, thu hút các nhà khoa học xuất sắc đến thực hiện nghiên cứu và trình bày các báo cáo khoa học tại Việt Nam ở tất cả các ngành, lĩnh vực, trong đó có khoa học vật lý.

Hội nghị có sự tham dự của Lãnh đạo Bộ KH&CN, Lãnh đạo UBND tỉnh Bình Định và hơn 100 nhà khoa học trên thế giới.

Theo xếp hạng của tổ chức Scimago, dựa trên số lượng bài báo quốc tế trong lĩnh vực vật lý và thiên văn học của các quốc gia, Việt Nam từ vị trí thứ 60 năm 2013 vươn lên vị trí thứ 46 vào năm 2023. Việt Nam có 01 Trung tâm Vật lý quốc tế được UNESCO công nhận và bảo trợ từ năm 2018. Để có được những thành tựu trên, bên cạnh những chính sách được đề cập, Bộ KH&CN luôn ghi nhận và đánh giá cao những nỗ lực và đóng góp quan trọng của các nhà khoa học trong và ngoài nước, tiêu biểu là GS. Trần Thanh Vân và GS. Lê Kim Ngọc.

Đặc biệt, Bộ KH&CN luôn quan tâm, đánh giá cao hoạt động của Trung tâm ICISE, trân trọng, tôn vinh tâm huyết của GS. Trần Thanh Vân và Hội Khoa học Gặp gỡ Việt Nam đối với hoạt động nghiên cứu khoa học của Việt Nam.  Trung tâm ICISE đã và đang thực hiện tốt sứ mệnh là nơi phát triển khoa học và giáo dục, giúp đỡ các sinh viên và nhà khoa học trẻ Việt Nam hội nhập vào cộng đồng khoa học quốc tế, mang lại cơ hội cho các thế hệ trẻ Việt Nam nâng cao trình độ hiểu biết thông qua việc tham dự các cuộc gặp gỡ và chia sẻ ý tưởng với các đồng nghiệp quốc tế có trình độ cao.

“Tôi mong các nhà khoa học trẻ tham dự Hội nghị hôm nay sẽ được các Giáo sư, các nhà khoa học uy tín trực tiếp chia sẻ, cập nhật những kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực, cũng như những kinh nghiệm trong hành trinihf làm khoa học. Qua đó, các nhà khoa học trẻ sẽ càng thêm yêu khoa học, dám dấn thân vào con đường khoa học và tự tin khám phá những chân trời mới”, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt bày tỏ tin tưởng.

Chia sẻ kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực Vật lý

GS. Trần Thanh Vân, Chủ tịch Hội Khoa học Gặp gỡ Việt Nam, Giám đốc Trung tâm ICISE cho biết, Hội nghị là diễn đàn cho các nhà khoa học, nhà nghiên cứu cùng nhìn lại và thảo luận sâu hơn về các tiến bộ trong lĩnh vực vật lý hạt, lý thuyết dây, vũ trụ học và những khám phá quan trọng được thực hiện trong vài năm gần đây như tính chất của các hỗn hợp neutrino, hạt Higgs và sóng hấp dẫn. GS. Trần Thanh Vân cũng đặc biệt gửi lời cảm ơn tới Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và Bộ KH&CN đã luôn quan tâm, hỗ trợ và đồng hành với Hội Khoa học Gặp gỡ Việt Nam trên con đường phát triển khoa học và giáo dục để TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trở thành thành phố khoa học đầu tiên của cả nước.

GS. Trần Thanh Vân phát biểu tại Hội nghị.

Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bình Định Nguyễn Tuấn Thanh, Hội nghị được tổ chức với mục đích tập hợp các nhà khoa học từ khắp nơi trên thế giới để chia sẻ kết quả nghiên cứu mới nhất về các vấn đề liên quan đến vật lý hạt cơ bản, vũ trụ học và tiếp tục củng cố sự hợp tác cho nghiên cứu, giáo dục giữa các nhà khoa học giữa các quốc gia.

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Bình Định Nguyễn Tuấn Thanh phát biểu tại Hội nghị.

“Sau Hội nghị, các chuyên gia, nhà khoa học sẽ quay trở lại Bình Định, không chỉ để tham dự các cuộc gặp gỡ khoa học mà còn hỗ trợ, giúp đỡ Bình Định phát triển khoa học, giáo dục và các lĩnh vực kinh tế – xã hội khác để Bình Định thực sự trở thành một điển hình phát triển bền vững dựa trên nền tảng KH&CN”, ông Nguyễn Tuấn Thanh bày tỏ mong muốn.

Đánh giá Trung tâm ICISE là một địa điểm quan trọng đánh dấu mối quan hệ hữu nghị giữa hai quốc gia Pháp và Việt Nam, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet cho biết, mối quan hệ giữa hai nước trong lĩnh vực khoa học trong ba thập kỷ qua đã chứng kiến sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả. Trong đó, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp là một đối tác quan trọng với hơn 200 dự án trao đổi khoa học giữa các nhà khoa học Pháp và Việt Nam mỗi năm từ các lĩnh vực: sinh thái học nhiệt đới đến toán học và vật liệu composite. Ngoài ra, Pháp còn có các tổ chức nghiên cứu có mặt thường xuyên tại Việt Nam như: Viện Nghiên cứu và Phát triển Pháp (IRD) hợp tác chặt chẽ với nhiều nhà khoa học Pháp và Việt Nam về các chủ đề cấp thiết và quan trọng trong hải dương học, chống kháng thuốc và nhiều lĩnh vực liên quan đến phát triển; Trung tâm Hợp tác Quốc tế Nghiên cứu Nông nghiệp phục vụ Phát triển Pháp (CIRAD) – một tổ chức nghiên cứu nông học, gắn bó mật thiết với các nhà nghiên cứu Việt Nam để tìm kiếm các giải pháp sinh thái nông nghiệp giúp Việt Nam tiếp tục phát triển đồng thời bảo tồn đa dạng sinh học…

Các đại biểu tham dự Hội nghị.

Trong khuôn khổ Hội nghị, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt gặp gỡ, trao đổi về hoạt động của Trung tâm ICISE với GS. Trần Thanh Vân, Chủ tịch Hội Gặp gỡ Việt Nam.

Hội nghị PASCOS “Hạt, Dây và Vũ trụ học lần thứ 29” quy tụ nhiều diễn giả là chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà khoa học hàng đầu thế giới trong lĩnh vực vật lý: GS. Atish Dabholkar (Giám đốc Trung tâm Vật lý Lý thuyết Quốc tế Abdus Salam (ICTP), Ý), GS. David Kaplan (Đại học Washington, Mỹ), GS. Pran Nath (Đại học Northeastern, Mỹ), GS. James Pinfold (Đại học Alberta, Canada), GS. Michael Ramsey-Musolf (Đại học Massachusetts Amherst, Mỹ).

Trước đó, vào năm 2016, Hội nghị quốc tế PASCOS – Hạt, Dây và Vũ trụ học lần thứ 22 cũng đã được tổ chức thành công tại Quy Nhơn với sự tham gia của GS. Takaaki Kajita (Nhật Bản) – nhà khoa học từng đoạt giải Nobel Vật lý năm 2015.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Đoàn công tác Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Khoa học và Công nghệ

Sáng ngày 05/7/2024, Đoàn công tác Tiểu ban Văn kiện Đại hội XIV do đồng chí Nguyễn Xuân Thắng – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thường trực Tiểu ban Văn kiện, Tổ trưởng Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XIV làm Trưởng đoàn đã làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN).

Báo cáo kết quả thực hiện chủ trương, định hướng, chiến lược, nhiệm vụ về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), đồng chí Nguyễn Hoàng Giang, Thứ trưởng Bộ KH&CN, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, thành viên Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XIV cho biết, những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến phát triển KH,CN&ĐMST; các chủ trương, định hướng lớn phát triển KH,CN&ĐMST đã được nhất quán khẳng định rõ trong nhiều văn bản như: Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 29-NQ/TW về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 45-NQ/TW về phát triển đội ngũ trí thức; Kết luận số 69-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Với vai trò là cơ quan tham mưu cho Chính phủ quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST, Bộ KH&CN đã cụ thể hoá, triển khai các chủ trương, đường lối phát triển KH,CN&ĐMST, đặc biệt là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thông qua việc ban hành mới, sửa các luật trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST; sửa đổi, hoàn thiện chính sách, pháp luật, thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST, phục vụ hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Cụ thể: Bộ đã tham mưu, trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW năm 2023 về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển bền vững đất nước trong tình hình mới; trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 189/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW; trình Ban Bí thư dự thảo Chỉ thị về công tác tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia đến năm 2030 và những năm tiếp theo; phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 45-NQ/TW năm 2023 về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới; trình Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 69-KL/TW năm 2024 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Đồng chí Nguyễn Hoàng Giang, Thứ trưởng Bộ KH&CN, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, thành viên Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XIV báo cáo tại buổi làm việc.

Bộ đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030; Quy hoạch mạng lưới tổ chức KH&CN công lập thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời, Bộ đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022. Hiện Bộ đang xây dựng, hoàn thiện các luật chuyên ngành như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật KH&CN (sửa đổi); Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) và tích cực xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện các cơ chế, chính sách trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST.

Báo cáo cũng đã nêu bật được các kết quả đạt được về khoa học xã hội và nhân văn; khoa học tự nhiên; KH,CN&ĐMST phục vụ phát triển kinh tế – xã hội; tiềm lực KH,CN&ĐMST; Chỉ số ĐMST toàn cầu của Việt Nam (GII); Chỉ số ĐMST cấp địa phương (PII); Hệ thống ĐMST quốc gia; Hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST… Đồng thời chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và đề xuất những định hướng giải pháp lớn về phát triển KH,CN&ĐMST trong giai đoạn mới.

Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng – Trưởng đoàn công tác khẳng định: KH&CN là quốc sách hàng đầu; là quan điểm chiến lược đúng đắn của Đảng và Nhà nước; là nguồn lực và động lực có ý nghĩa then chốt đối với sự phát triển nhanh, bền vững đất nước trong bối cảnh hiện nay. Qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, KH,CN&ĐMST của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu to lớn và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; tỉ lệ đầu tư cho KH&CN từ xã hội đã có sự dịch chuyển mạnh và ngày càng tăng; từ chỗ lệ thuộc vào công nghệ bên ngoài đã làm chủ được nhiều công nghệ, trong đó có những công nghệ tiên tiến, hiện đại; từ lực lượng cán bộ KH&CN mỏng đã xây dựng được một đội ngũ khá toàn diện, có đủ các ngành, lĩnh vực; từ chỗ trang thiết bị, cơ sở vật chất lạc hậu đã được đầu tư, phát triển tương đối đồng bộ.



Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng – Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Thường trực Tiểu ban Văn kiện, Tổ trưởng Tổ biên tập Văn kiện Đại hội XIV phát biểu tại buổi làm việc.

Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng đánh giá cao những kết quả nổi bật, ấn tượng, tinh thần chủ động, sáng tạo của toàn ngành KH&CN và đề nghị ngành KH&CN tiếp tục nỗ lực để hoàn thành ở mức cao nhất các mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Bộ KH&CN, ngành KH&CN, nền KH&CN quốc gia phải chuyển được những thông điệp mạnh mẽ nhất về vai trò, vị trí của KH,CN&ĐMST. KH,CN&ĐMST không phát triển thì không tận dụng được cơ hội, không vượt qua thách thức…, đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, ngành KH&CN thời gian tới cần tiếp tục tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế, chính sách liên quan đến vấn đề tài chính, thu hút và trọng dụng nhân tài, huy động nguồn lực cho KH,CN&ĐMST, xã hội hoá các kết quả nghiên cứu, cơ chế chấp nhận rủi ro…; chú trọng nghiên cứu các lĩnh vực công nghệ mới của thế giới liên quan đến các xu hướng chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng, trí tuệ nhân tạo, cơ sở dữ liệu lớn, y sinh, công nghiệp bán dẫn…; phát huy mạnh mẽ vai trò của khoa học lý luận chính trị, khoa học xã hội và nhân văn trong tư vấn chủ trương, chính sách, pháp luật cho Đảng và Nhà nước; quan tâm sâu sắc đến đội ngũ cán bộ KH&CN của nước nhà.

Toàn cảnh buổi làm việc.

Tại buổi làm việc, các thành viên Đoàn công tác và các đồng chí trong Ban Cán sự Đảng Bộ KH&CN đã cùng trao đổi nhiều vấn đề liên quan đến phát triển mối quan hệ giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp; nguồn lực đầu tư cho KH,CN&ĐMST; hạ tầng KH&CN; nâng cao năng lực quản trị nhà nước về ĐMST; cơ chế Quỹ cho KH&CN; hợp tác quốc tế và việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong nước về KH,CN&ĐMST…

Đồng chí Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN phát biểu tại buổi làm việc.

Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN khẳng định, Bộ KH&CN tiếp thu các ý kiến của Đoàn công tác và sẽ tiếp tục tập trung rà soát, tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn trong hoạt động KH,CN&ĐMST. Đồng thời nghiên cứu đưa vào các chương trình, kế hoạch hoạt động của Bộ và ngành trong thời gian tới.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN.

Để doanh nghiệp khoa học và công nghệ vươn lên thành đầu tàu dẫn dắt

Tại buổi họp bàn về “Chính sách phát triển Doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DN KH&CN) Việt Nam” với Hiệp hội DN KH&CN (VTS) ngày 6/7/2024 tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh yêu cầu các đại biểu tập trung thảo luận, đề xuất các giải pháp làm thế nào để các DN KH&CN phát huy vai trò đầu tàu trong việc ứng dụng làm chủ công nghệ, nâng cao năng suất lao động, cạnh tranh, làm hình mẫu cho các loại hình DN khác.

Xây dựng chính sách đặc thù cho DN KH&CN

Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của DN trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) của đất nước, đặc biệt là những DN áp dụng KH&CN. Tuy nhiên, Thứ trưởng cũng cho rằng, mô hình hoạt động của DN tại Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào việc tăng trưởng vốn và khai thác tài nguyên đến nay đã không còn nhiều dư địa để phát triển.


 Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh phát biểu tại buổi làm việc.

Hiện nay, chủ trương của Đảng, Nhà nước và cộng đồng DN Việt Nam đang tích cực chuyển đổi hướng phát triển KT-XH dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST). Nếu không áp dụng KH,CN&ĐMST, DN không thể cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh ngay tại thị trường nội địa, cũng như tiến sâu hơn vào thị trường quốc tế. Do đó, vấn đề quan trọng đặt ra đối với DN Việt Nam là cần phải ứng dụng KH,CN&ĐMST một cách nhanh chóng và hiệu quả.

“KH&CN là một vũ khí sắc bén, là điều kiện tiên quyết đối với quốc gia và DN. Nếu không làm chủ được công nghệ, không nắm được công nghệ, không khai thác được công nghệ thì không phát triển được”, Thứ trưởng Hoàng Minh khẳng định.

Thứ trưởng cho rằng, để các DN Việt Nam đi đầu và dẫn dắt thì cần làm chủ được công nghệ, nâng cao năng suất lao động, khả năng cạnh tranh, và trở thành hình mẫu cho các DN khác học tập… Đây cũng là nhiệm vụ của ngành KH&CN, của Bộ KH&CN đối với các DN KH&CN.

Xác định vai trò và tầm quan trọng của lực lượng DN Việt Nam, đặc biệt trong áp dụng KH,CN&ĐMST, năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định số 13/2019/NĐ-CP về DN KH&CN nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, Nghị định số 13/2019/NĐ-CP và Thông tư 10/2021/TT-BKHCN hướng dẫn Nghị định này cũng bộc lộ những vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu của DN. Trong thực tế, chính sách chỉ tập trung vào việc cấp Giấy phép chứng nhận DN KH&CN, chưa có cơ chế và chính sách theo dõi, thúc đẩy hoạt động hỗ trợ khác, hoặc mới chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ các nhiệm vụ KH&CN.

Bên cạnh đó, Nghị định số 13/2019/NĐ-CP và Luật KH&CN cũng xác định, DN KH&CN được hình thành từ hai nguồn chính: nhiệm vụ nghiên cứu và từ các DN được tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên đến nay không có DN KH&CN nào được cấp Giấy chứng nhận hay đăng ký chuyển giao công nghệ. Trong khi đó các tập đoàn, DN lớn đang nhanh chóng thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ. Nếu DN KH&CN không tham gia vào chuyển giao công nghệ thì chính sách ưu đãi trên sản phẩm chuyển giao của các DN này nhận được nhiều ưu đãi hơn là sản phẩm hình thành từ quá trình nghiên cứu.

Để DN KH&CN vươn lên thành đầu tàu dẫn dắt, Bộ KH&CN xác định cần thiết phải xây dựng chính sách ưu đãi và hỗ trợ mạnh mẽ để khuyến khích DN KH&CN phát triển, đúng với quan điểm của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính là lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, chia sẻ tầm nhìn và hành động, cùng làm cùng thắng và cùng phát triển với doanh nghiệp. Do đó, cần tập trung vào việc xác định rõ vai trò, vị thế của DN KH&CN; cần tăng cường thảo luận, trao đổi về các chính sách ưu đãi cho DN KH&CN nhằm đánh giá rõ những gì có thể thực hiện được ngay và những cần tiếp tục nghiên cứu và triển khai trong tương lai.

“Trong mọi hoạt động, Bộ KH&CN không tách rời DN KH&CN với chức năng quản lý nhà nước của Bộ. Bộ KH&CN luôn xác định vai trò quan trọng của DN KH&CN cũng như trách nhiệm của VTS, của Bộ là phải xây dựng chính sách ưu đãi cho DN KH&CN”, Thứ trưởng Minh nhấn mạnh.

Kiến nghị về ưu đãi hoạt động đổi mới sáng tạo, thúc đẩy KH&CN

Trong báo cáo về hoạt động của VTS, bà Phan Thị Mỹ Yến – Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng thư ký Hiệp hội VST cho biết, trong 4 năm từ 2021-2023, VST đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Các DN của VST ngày càng khẳng định được thương hiệu của mình tại thị trường trong nước và quốc tế. Nhiều DN tiêu biểu đã được VTS vinh danh bao gồm: Công ty TNHH Minh Long 1; Công ty CP Dược Phẩm Savi – Savipharm; Công ty CP Sao Thái Dương; Công ty CP Công nông nghiệp Tiến Nông; Công ty CP Trapasaco; Công ty CP Tư vấn & Phát triển kỹ thuật Tài nguyên nước; Công ty TNHH Dược Hanvet…

Tuy nhiên, theo bà Phan Thị Mỹ Yến, hoạt động của VTS vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Một số kết quả hoạt động của DN thành viên chưa đạt được hiệu quả cao. Ngoài ra, các kế hoạch để phát triển giao lưu kết nối, mở rộng thị trường xuất khẩu và đầu tư sản xuất cũng gặp phải nhiều hạn chế.


Toàn cảnh buổi họ
p.

Tại buổi họp, các đại biểu đã thảo luận về những vấn đề liên quan chính sách ưu đãi và vướng mắc khó khăn của DN cần tháo gỡ. Đưa ra những ý kiến đóng góp cho các chính sách hỗ trợ hoạt động KH&CN. Đồng thời, đóng góp ý kiến cho Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 66/NQ-CP của Chính phủ về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới.

Theo đó, các đại biểu đại diện cho VST đề xuất các cơ quan chức năng cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn Luật Đấu thầu, trong đó thực thi các quy định về ưu đãi cho hoạt động ĐMST. Tăng cường năng lực tổ chức hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST.

Phối hợp với các sở KH&CN, cơ quan thuế của các địa phương về tổ chức tập huấn, hướng dẫn, triển khai thực hiện Nghị định số 13/2019/NĐ-CP. Qua đó, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc, bảo đảm tính khả thi của các chính sách liên quan đến hoạt động KH&CN đã ban hành.

Bộ KH&CN cần đề xuất Chính phủ xem xét thiết lập cơ chế chính sách đặc thù, theo hướng coi hoạt động đầu tư nghiên cứu KH&CN là một hoạt động đầu tư có tính rủi ro, mạo hiểm cần được Nhà nước bảo trợ. Có cơ chế phối hợp nhằm thống nhất trình tự thủ tục chống xâm phạm và bảo vệ chủ sở hữu, đặc biệt là quyền sở hữu trí tuệ độc quyền.

Đặc biệt, cần có cơ chế ưu tiên rút ngắn thời gian cấp bằng sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho các DN sản xuất thương mại hóa sản phẩm ra thị trường. Đề nghị Bộ KH&CN tạo điều kiện cho VST có thể hợp tác, tiếp cận, tiếp nhận, thụ hưởng các nguồn lực KH&CN của các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho DN KH&CN Việt Nam.

Kết luận tại buổi họp, Thứ trưởng Hoàng Minh đánh giá cao kết quả mà VST đã đạt được. Đồng thời, yêu cầu các đơn vị chức năng của Bộ KH&CN và VST phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn để thúc đẩy vị trí, vai trò của cộng đồng DN KH&CN trong nền kinh tế.

“Bộ KH&CN và VTS cần thiết lập nhiệm vụ cụ thể cho việc phối hợp hoạt động trong giai đoạn 2024 – 2025. Mục tiêu là hỗ trợ, tạo điều kiện cho cộng đồng DN KH&CN chứng minh được sức mạnh và vai trò của mình. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực rất nhiều từ Bộ KH&CN cũng như VST thời gian tới”.


 Thứ trưởng Hoàng Minh thay mặt Lãnh đạo Bộ KH&CN tặng hoa chúc mừng VST 5 năm thành lập.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Điều hòa có thể thất thủ vì quá tải lưới điện

Nắng nóng cực đoan đang trở nên ngày càng phổ biến toàn cầu, đe dọa gây mất điện nhiều ngày khiến điều hòa nhiệt độ trở nên vô dụng.

Điều hòa nhiệt độ sử dụng nhiều điện hơn bất kỳ thiết bị nào trong gia đình. Ảnh: AKP Photos

Điều hòa nhiệt độ sử dụng nhiều điện hơn bất kỳ thiết bị nào trong gia đình. Ảnh: AKP Photos

Nhu cầu điều hòa nhiệt độ đang bùng nổ, dự kiến tăng gấp ba trên khắp thế giới vào năm 2050 khi nhiệt độ toàn cầu tăng vọt và thu nhập cao hơn. Vấn đề là không có điện, con người không thể sử dụng điều hòa nhiệt độ. Nhiều lưới điện đang bị dồn đến điểm tới hạn do thời tiết cực đoan trở nên phổ biến.

Ví dụ, khi bão Ida tràn qua bang Louisiana (Mỹ) với gió mạnh và ngập lụt nghiêm trọng vào tháng 8/2021, hơn một triệu người mất điện. Theo sau đó là đợt nắng nóng. Nhiệt độ tăng tới trên 32,2 độ C, đe dọa những cư dân không thể bật điều hòa do tình trạng mất điện kéo dài nhiều ngày.

Sự kết hợp giữa bão, nắng nóng và mất điện nhiều ngày trở thành cơn ác mộng, nhưng hoàn cảnh này sẽ trở nên ngày càng phổ biến khi con người tiếp tục khiến Trái Đất ấm lên, châm ngòi cho thời tiết cực đoan có sức tàn phá nặng nề. Nó cũng hé lộ sự thật không mấy dễ chịu về điều hòa, giải pháp bảo vệ con người trước nắng nóng.

Thời tiết chiếm 80% trong số vụ mất điện lớn ở Mỹ từ năm 2000 đến năm 2023 theo báo cáo từ Climate Central, một tổ chức nghiên cứu phi lợi nhuận. Tại Mỹ, lưới điện cũ kỹ được thiết kế cho thời tiết trong quá khứ thay vì tương lai, theo Michael Webber, giáo sư kỹ thuật cơ khí ở Đại học Texas, Austin.

Mối đe dọa chính là bão, có thể làm đứt đường dây truyền tải và đổ cột điện. Tuy nhiên, nắng nóng cũng tác động tới lưới điện. Nếu ngoài trời thực sự nóng bức, hệ thống hoạt động kém hiệu quả hơn. Lưới điện cũng có thể không chịu nổi áp lực từ nhu cầu khi mọi người bật điều hòa cùng lúc để đối phó nhiệt độ cao.

Số vụ mất điện lớn ở Mỹ (ảnh hưởng tới hơn 50.000 khách hàng và kéo dài ít nhất một giờ) tăng gấp đôi từ năm 2017 đến năm 2020, Brian Stone Jr., giáo sư chuyên về quy hoạch thiết kế môi trường đô thị ở Viện Công nghệ Georgia, cho biết. Theo ông, phần lớn số vụ tăng lên xảy ra trong những tháng mùa hè.

Nhu cầu làm mát tăng vọt trong đợt nắng nóng vào tháng 8/2020 ở California thôi thúc nhà vận hành lưới điện chính của bang phải cắt điện ở hàng trăm nghìn hộ gia đình trong đợt mất điện luân phiên lần đầu tiên trong 20 năm. Năm 2021, trong đợt nắng nóng thiêu đốt vùng tây bắc Thái Bình Dương, thiết bị điện bị quá tải, dẫn tới mất điện luân phiên ở hàng chục nghìn hộ gia đình khi nhiệt độ tăng trên 37,8 độ C.

Tháng 6/2024, khi nhiệt độ ở miền nam châu Âu cán mốc 40 độ C, nhiều nơi tại Albania, Bosnia, Croatia và Montenegro trải qua tình trạng mất điện nhiều giờ do nhu cầu điện tăng đột biến. Ngay cả mất điện trong thời gian ngắn cũng có thể rất nguy hiểm, theo Webber. Nắng nóng có thể ảnh hưởng tới cơ quan nội tạng quan trọng và gây kiệt sức, sốc nhiệt, thậm chí tử vong. Nếu mất điện khi trời lạnh, mọi người chỉ cần mặc thêm quần áo, đốt lửa và quây quần cạnh nhau. Nếu trời nóng, chỉ có cách duy nhất để làm mát là sử dụng điện. Sự kết hợp của nắng nóng và mất điện là sự kiện nguy hiểm nhất liên quan tới khí hậu, theo Stone.

Stone và một nhóm nhà khoa học khám phá tác động tiềm ẩn của nắng nóng kèm theo mất điện nhiều ngày do thời tiết cực đoan hoặc tấn công mạng. Tập trung vào Atlanta, Detroit và Phoenix, họ xem xét tình huống trong nhà người dân. Con số cực kỳ ảm đạm đối với Phoenix. Trong đợt nắng nóng kèm theo mất điện kéo dài 3 – 4 ngày, một nửa dân số thành phố (gần 800.000 người) phải điều trị các bệnh liên quan tới nắng trong bệnh viện. Hơn 13.000 người sẽ tử vong. Theo Stone, khí hậu của thành phố quá cực đoan và người dân chật vật tìm cách thích nghi. Việc sử dụng điều hòa có thể khiến người dân chịu đựng kém hơn bởi họ quá phụ thuộc vào hệ thống làm mát ở nhà và nơi làm việc.

Arizona Public Service, một trong những công ty năng lượng cung cấp điện ở Phoenix, cho biết họ đã lập kế hoạch ngăn chặn mất điện quy mô lớn và thường xuyên bảo trì lưới điện. Tuy khả năng mất điện nhiều ngày trong đợt nắng nóng ở Phoenix khá thấp, điều đó có thể xảy ra và trở nên phổ biến hơn khi khủng hoảng khí hậu trầm trọng hơn. Cắt giảm ô nhiễm khiến hành tinh ấm lên là giải pháp bảo vệ dài hạn tốt nhất để đối phó nắng nóng và thời tiết cực đoan, theo Stone.

An Khang (Theo CNN)

‘Tạo thuận lợi cho nhà khoa học thực hiện Chương trình công nghệ quốc gia’

Bộ Khoa học và Công nghệ đang thực hiện tái cơ cấu Chương trình khoa học công nghệ quốc gia gắn với sửa đổi cơ chế chính sách, giúp thuận lợi hơn cho các nhà khoa học khi triển khai nhiệm vụ.

Thông tin được Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang nêu tại cuộc Họp báo thường kỳ quý II/2024 của Bộ tổ chức chiều 4/7.

Việc tái cơ cấu các nhiệm vụ khoa học công nghệ quốc gia được Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện với nhiều lý do, trong đó tập trung vào chương trình trọng tâm trọng điểm, có tính tác động lan tỏa với phát triển kinh tế xã hội đất nước trong bối cảnh nguồn lực có hạn.

Các chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2021 – 2030 được triển khai trong bối cảnh Chính phủ tiến hành nhiều đổi mới trong quản lý điều hành. “Mục đích điều chỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, tạo thuận lợi cho các nhà khoa học, doanh nghiệp trong việc triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ”, Thứ trưởng Giang nhấn mạnh.

Tái cấu trúc chương trình khoa học công nghệ quốc gia gắn với sửa đổi cơ chế chính sách

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang chủ trì cuộc họp báo chiều 4/7. Ảnh: TTTT

Ông Nguyễn Quyết Chiến, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ, làm rõ thêm về tái cơ cấu và xây dựng hàng lang pháp lý cho các chương trình. Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý 26 chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp quốc gia, trong đó có 21 chương trình khoa học công nghệ (mã số K.C) và 5 chương trình khoa học xã hội nhân văn (mã số K.X).

Theo ông Chiến, thời gian qua Bộ tập trung sửa đổi bổ sung hàng loạt thông tư, từ xác định các nhiệm vụ khoa học công nghệ sử dụng ngân sách, nghiệm thu đánh giá và xử lý tài sản, tuyển chọn…

Trong số này có thông tư 20 được ban hành (thay thế thông tư 08) trong tuyển chọn, giao trực tiếp tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ quốc gia. Theo thông tư này, kết quả tuyển chọn phải được công bố trên Hệ thống quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ quốc gia và Cổng thông tin điện tử của Bộ Khoa học và Công nghệ hoặc các phương tiện thông tin đại chúng khác, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch.

Bộ Khoa học và Công nghệ cùng với Bộ Tài chính sửa đổi Nghị định 70 trong xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học công nghệ” nhằm hướng tháo gỡ các rào cản, tạo thuận lợi tốt nhất cho phát triển khoa học công nghệ”, ông Chiến nói.

Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Tài chính Nguyễn Quyết Chiến chia sẻ thông tin về tái cơ cấu nhiệm vụ khoa học công nghệ quốc gia. Ảnh: TTTT

Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính Nguyễn Quyết Chiến chia sẻ thông tin về tái cơ cấu nhiệm vụ khoa học công nghệ quốc gia. Ảnh: TTTT

Báo cáo của Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước ký ngày 4/6 nêu nhiều kết quả thực hiện các đề tài nghiên cứu.

Trong đó tại Chương trình KC.04 (Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0) trải đều trong nhiều lĩnh vực. Ở lĩnh vực y tế có các công nghệ ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) dựa trên phân tích dữ liệu lớn, y học cá thể hóa, y học tái tạo và kỹ thuật tạo mô, công nghệ giải mã gene, công nghệ giám sát sức khỏe và chẩn đoán hình ảnh y- sinh học. Kết quả của việc ứng dụng các công nghệ này đã bước đầu ứng dụng trong hỗ trợ phục hồi chức năng vận động trên người bệnh đột quỵ não; hỗ trợ tầm soát trước sinh cho một số bất thường bẩm sinh hay gặp ở Việt Nam…

Trong lĩnh vực nông nghiệp, có các nghiên cứu ứng dụng công nghệ trong phát triển nền nông nghiệp chính xác; sử dụng AI trong phân tích, ra quyết định điều khiển tự động, tối ưu hóa lượng nước tưới và áp dụng thử nghiệm cho cây thanh long.

Trong lĩnh vực giáo dục, nhà khoa học đã chế tạo robot thông minh hình dáng giống người, hỗ trợ dạy tiếng Anh trong trường tiểu học với nhiều tính năng nổi bật cũng như sự tương tác giữa thiết bị và học sinh. Điều này giúp học sinh phát huy khả năng tự tin trong giao tiếp đồng thời có thể phát âm tiếng Anh chuẩn theo người bản ngữ. Lĩnh vực giáo dục còn ghi nhận một số kết quả của nhiệm vụ xây dựng mô hình chuyển đổi số cho trường học thông minh.

Lĩnh vực công nghiệp có các nghiên cứu phát triển tổ hợp robot ứng dụng trong dịch vụ logistics; chế tạo Cobot (Colalaborative robot) ứng dụng trong công nghiệp và một số lĩnh vực khác có sự hợp tác giữa người và máy.

Lĩnh vực phòng chống thiên tai có các công trình chế tạo, tích hợp hệ thống nhiều robot bay tự hành, dùng trong thám sát môi trường, tìm kiếm-cứu nạn, cứu hộ. Nghiên cứu xây dựng hệ thống cảnh báo ngập cho thành phố lớn dựa trên nền tảng Trí tuệ nhân tạo và hệ thống tin địa lý, ứng dụng cho TP HCM…

Còn ở nhiều chương trình khác, các nghiên cứu có tính ứng dụng cao, trải đều các lĩnh vực, phục vụ phát triển kinh tế. Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước cho biết thời gian qua có hàng nghìn đề xuất. Bộ Khoa học và Công nghệ đã tuyển chọn và phê duyệt 19 chương trình với tổng số 298 nhiệm vụ. “Thông qua các văn bản ban hành giúp hoạt động tuyển chọn mạch lạc, minh bạch. Nhiều cơ chế chính sách mới được lồng ghép khuyến khích, tạo động lực cho các nhà khoa học chủ động đề xuất”, ông Chiến nói.

Như Quỳnh

‘Việt Nam sẽ xây lò phản ứng hạt nhân mới phục vụ nghiên cứu, ứng dụng’

Việt Nam và Nga hợp tác triển khai Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân với lò phản ứng nghiên cứu mới công suất 10 MW, mục tiêu sản xuất dược chất phóng xạ, chiếu xạ silic tạo vật liệu bán dẫn sản xuất chip.

Thông tin được TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết tại buổi họp báo chí thường kỳ quý II/2024 do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức chiều 4/7.

Theo ông Thành, hồi cuối tháng 6 Tổng giám đốc Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) Alexey Likhachev và Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt đã trao đổi bản ghi nhớ về kế hoạch triển khai Dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học và công nghệ hạt nhân (CNST) tại Việt Nam. Sau đó, hai bên đã thống nhất cách thức hợp tác và triển khai để xây dựng và vận hành khai thác hiệu quả dự án này.

CNST dự kiến đặt tại TP Long Khánh, Đồng Nai. Trung tâm này sẽ có lò phản ứng hạt nhân dạng bể, công suất 10 MW, sử dụng nhiên liệu độ giàu thấp do Nga chế tạo.

Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Trần Chí Thành chia sẻ tại buổi họp báo. Ảnh: TTTT

Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Trần Chí Thành chia sẻ tại buổi họp báo. Ảnh: TTTT

Ông Thành cho hay dự án đã triển khai thiết kế lò phản ứng và khảo sát địa điểm phù hợp để xây lò mới. Lò nghiên cứu mới sẽ hướng tới sản xuất dược chất phóng xạ trong điều trị và chẩn đoán ung thư. Đây là nhiệm vụ quan trọng, bởi mỗi năm có khoảng 180.000 người bị ung thư trong khi hiệu suất chữa trị trong nước hiện đạt khoảng 40% (thế giới đạt 70%).

“Hiện lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sản xuất gần 10 loại dược chất phóng xạ, nhưng với lò mới có thể tăng công suất từ 5 đến 7 lần”, ông Thành nói.

Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ giao Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam xây dựng các nhóm chuyên môn sâu về vật lý lò, thiết kế sử dụng kênh ngang, sản xuất đồng vị phóng xạ trên lò nghiên cứu, nghiên cứu vật liệu, chiếu xạ silic làm bán dẫn, nghiên cứu phân tích kích hoạt, bảo vệ môi trường, an toàn hạt nhân… Điều này nhằm chuẩn bị nguồn cán bộ nghiên cứu, ứng dụng khai thác hiệu quả lò nghiên cứu mới, đảm bảo an toàn, khi CNST đi vào hoạt động.

Ông Thành cho biết Viện Năng lượng nguyên tử cũng đang triển khai với một số đơn vị tại nước ngoài, trong đó có Viện Liên hiệp nghiên cứu hạt nhân Dubna (JINR) trong kế hoạch dài hạn đào tạo cán bộ.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang chủ trì phiên họp. Ảnh: TTTT

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang chủ trì phiên họp. Ảnh: TTTT

Tại cuộc họp báo, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang nhấn mạnh chủ trương Việt Nam phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình gắn với phát triển kinh tế xã hội. Ông cho hay những kết quả ứng dụng trong ngành y học, nông nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hóa nông sản cho thấy nhu cầu thực tế cần năng lượng nguyên tử.

“Đi đôi với xu hướng thế giới, nhiều quốc gia tái khởi động tập trung nguồn lực năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Do đó dự án cũng cần có thời gian chuẩn bị lâu dài, hướng mục tiêu đưa năng lượng nguyên tử ứng dụng vào phát triển kinh tế xã hội”, ông nói.

Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân (CNST) được thực hiện theo Hiệp định Liên Chính phủ ký năm 2011. Dự án đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt chủ trương đầu tư năm 2018. Đây là lần đầu tiên Việt Nam triển khai một dự án về xây dựng lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu công suất lớn.

Để hỗ trợ công tác thẩm tra, thẩm định cho Báo cáo nghiên cứu khả thi, Báo cáo phân tích an toàn và hồ sơ thiết kế, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đề nghị Tập đoàn nhà nước về năng lượng hạt nhân Rosatom tạo điều kiện để một số cán bộ Việt Nam được tham gia thực hiện thiết kế cơ sở của lò phản ứng và các tính toán, phân tích an toàn đi kèm. Rosatom cũng sẽ hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo cán bộ vận hành lò phản ứng nghiên cứu.

Việt Nam hiện có Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đã vận hành 40 năm. Tiền thân của lò này là Lò phản ứng hạt nhân TRIGA Mark-2 công suất 250 kWt được Mỹ xây dựng tại Đà Lạt từ năm 1963. Trước ngày 30/4/1975 toàn bộ các thanh nhiên liệu của Lò đã được tháo dỡ để chuyển về Mỹ nên Lò không còn khả năng hoạt động. Từ năm 1982, Liên Xô (cũ) đã giúp đỡ khôi phục và mở rộng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt. Đến ngày 20/3/1984, lò phản ứng với tên mới là Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt được đưa vào vận hành với công suất danh định là 500 kWt, gấp 2 lần so với công suất của lò TRIGA trước đây. Lò phản ứng sử dụng cho nghiên cứu khoa học, phân tích mẫu, sản xuất thuốc phóng xạ cho y tế, công nghiệp và đào tạo nhân lực.

Như Quỳnh

Nhật phát hành tiền giấy 3D chống giả đầu tiên trên thế giới

Tiền giấy thiết kế lại của Nhật Bản có sọc 3D, dấu vết đặc trưng có thể sờ thấy và in chữ số lớn hơn rất khó làm giả, phát hành hôm 3/7.

Những tờ tiền mới của Nhật Bản. Ảnh: Nippon

Những tờ tiền mới của Nhật Bản. Ảnh: Nippon

Nhật Bản phát hành tiền giấy mới lần đầu tiên sau 20 năm với 3 mệnh giá lần lượt là 10.000 yen (tương đương 62 USD), 5.000 yen, và 1.000 yen, tích hợp công nghệ hologram tiên tiến, theo Interesting Engineering. Hôm 3/7, Nhật bắt đầu lưu thông tờ tiền mới sử dụng hình ảnh hologram 3 chiều (3D) phỏng theo các nhân vật lịch sử. Vận chuyển từ trụ sở của Ngân hàng trung ương Nhật Bản với các biện pháp an ninh chặt chẽ, số tiền này được phân phối nhanh chóng tới các tổ chức tài chính và có thể đến tay người tiêu dùng thông qua ngân hàng và máy rút tiền tự động (ATM). Kazuo Ueda, thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản, nhấn mạnh vai trò của tiền giấy giữa làn sóng thanh toán điện tử ngày càng phổ biến.

Ngân hàng trung ương lên kế hoạch phân phối số tiền giấy thiết kế lại trị giá 1,6 nghìn tỷ yen vào ngày phát hành. Fukaya, thành phố ở quận Saitama gần Tokyo, kỷ niệm đợt phát hành bằng sự kiện đếm ngược. Những tờ tiền mới có hình các nhân vật góp phần định hình nền văn hóa và khoa học của Nhật Bản. Nhà giáo dục Umeko Tsuda (năm 1864 – 1929), người tiên phong ủng hộ nữ quyền, xuất hiện trên tờ 5.000 yen. Nhà vi sinh vật học Shibasaburo Kitasato (năm 1864 – 1929), cha đẻ của y học hiện đại ở Nhật Bản, được vinh danh trên tờ 1.000 yen. Với tờ 10.000 yen, nhà chức trách sử dụng hình ảnh của Eiichi Shibusawa (năm 1840 – 1931), cha đẻ của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản.

Những tờ tiền mới áp dụng nhiều biện pháp an ninh để chống làm giả. Chúng sử dụng công nghệ hologram hiện đại như sọc 3D trên tờ 10.000 yen và 5.000 yen khiến hình ảnh thay đổi theo nhiều hướng tùy theo góc nhìn. Tờ 1.000 yen cũng có hình hologram ở góc dưới cùng bên trái khiến việc làm giả khó khăn hơn. Các cải tiến khác bao gồm chữ số to hơn dễ đọc hơn và dấu vết đặc biệt giúp người mù phân biệt mệnh giá khác nhau.

Nhật Bản dẫn đầu thế giới khi trở thành nước đầu tiên sử dụng hologram để làm ảnh chân dung chuyển động. Những cải tiến này đóng vai trò chủ chốt trong cuộc chiến chống tiền giả ở Nhật Bản. Cuối tháng 3/2025, dự kiến khoảng 7,5 tỷ tiền mới sẽ được đưa vào lưu thông.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

Tại sao hầu hết tên lửa phóng gần xích đạo?

Phần lớn tên lửa đều phóng từ cảng vũ trụ nằm gần xích đạo để tận dụng lực từ Trái Đất giúp tăng đáng kể tốc độ và giảm lượng lớn nhiên liệu.

Tên lửa Ariane 5 phóng từ vùng Guiana thuộc Pháp chỉ cách xích đạo 500 km. Ảnh: ESA

Tên lửa Ariane 5 phóng từ vùng Guiana thuộc Pháp chỉ cách xích đạo 500 km. Ảnh: ESA

Nếu theo dõi một vụ phóng tên lửa gần đây, bất kể từ NASA, SpaceX hay Cơ quan Vũ trụ Trung Quốc, bạn sẽ nhận thấy một số điểm tương đồng về địa điểm cũng như hình dáng tên lửa. Lý do phía sau những điểm tương đồng đó liên quan tới bảo vệ an toàn cho người dân và phóng tên lửa vào không gian với ít sức lực nhất, theo IFL Science.

Đầu tiên, địa điểm phóng phải gần biển. Vài phút đầu tiên sau khi phóng rất quan trọng. Nếu tên lửa phóng thất bại, sẽ tốt hơn nếu nó rơi xuống đại dương vắng vẻ thay vì khu dân cư đông đúc. Một số cảng vũ trụ không gần biển như Baikonur ở Kazakhstan nhưng tên lửa bay theo lộ trình không ngang qua nơi người dân sinh sống.

Một yêu cầu về địa điểm khó chú ý hơn là vĩ độ của cảng vũ trụ. Trung tâm vũ trụ Kennedy của NASA tại Florida nằm ở 28 độ vĩ bắc. Cơ sở Starbase của SpaceX nằm ở 25 độ vĩ bắc. Bãi phóng vũ trụ Văn Xương nằm ở 19 độ vĩ bắc. Trung tâm ở Guiana của Cơ quan vũ trụ châu Âu (ESA) nằm ở 5 độ vĩ bắc. Lý do cho đặc điểm chung này là tên lửa dễ bay vào không gian hơn nếu có trợ lực từ Trái Đất.

Ở xích đạo, Trái Đất quay 1.650 km/h so với tâm hành tinh. Càng gần xích đạo, nhiên liệu cần dùng để bay vào không gian càng ít do có thể tận dụng tốc độ quay này. Bay vào không gian đòi hỏi tốc độ lớn. Do Trái Đất quay quanh trục, bạn có thể tăng tốc đáng kể nếu phóng ở nơi Trái Đất rộng nhất là xích đạo, theo ESA. ESA sẽ phóng tên lửa mới Ariane 6 lần đầu tiên từ Trung tâm vũ trụ Guiana tuần tới. Phóng gần xích đạo có nghĩa tên lửa sẽ bắt đầu bay ở 5% tốc độ cần thiết để lên tới quỹ đạo. Con số này có vẻ không nhiều nhưng nó có thể giảm đáng kể nhiên liệu, giúp tăng đáng kể khối lượng hàng.

Tàu vũ trụ Soyuz của Nga từng phóng từ Trung tâm vũ trụ Guiana trước khi chiến sự Nga – Ukraine nổ ra. Hiện nay, tàu Soyuz tiếp tục phóng từ Baikonur ở 45 độ vĩ bắc. Tàu Soyuz phóng từ xích đạo mang nhiều hàng hóa hơn 60% so với tàu phóng từ Kazakhstan.

Tuy nhiên, quy tắc trên cũng có ngoại lệ và không chỉ do địa chính trị. Có những cảng vũ trụ nằm xa hơn về phương bắc do không cần tăng cường tốc độ. Việc phóng gần xích đạo rất hữu ích đối với nhiều quỹ đạo nhưng không phải tất cả. Quỹ đạo cực như quỹ đạo đồng bộ Mặt Trời hoặc quỹ đạo Molniya để nghiên cứu những vĩ tuyến cao hơn, là ví dụ về quỹ đạo ngoại lệ như vậy.

An Khang (Theo IFL Science)

Chuyển dịch năng lượng hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững

Với nhu cầu năng lượng ngày một tăng cao, đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế mạnh mẽ, chuyển dịch năng lượng không chỉ là một nhiệm vụ quan trọng đối với Việt Nam mà còn là yếu tố thiết yếu để đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Thúc đẩy chuyển dịch năng lượng
Chiều 27/6/2024, tại Hà Nội, Diễn đàn Chuyển dịch năng lượng Việt Nam năm 2024 do Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) chủ trì, phối hợp với Sở Công Thương Hà Nội và Chương trình Hỗ trợ năng lượng của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) tổ chức trong khuôn khổ Hội trợ triển lãm quốc tế Công nghệ Năng lượng – Môi trường Hà Nội 2024 (ENTECH HANOI 2024).
Toàn cảnh Diễn đàn Chuyển dịch năng lượng Việt Nam năm 2024.
Diễn đàn được tổ chức nhằm phổ biến những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và xu hướng chuyển dịch năng lượng toàn cầu; trao đổi về chính sách và chương trình hỗ trợ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam trong giai đoạn tới. Đồng thời cung cấp thông tin về xu hướng phát triển công nghệ mới trong ngành năng lượng trên thế giới, các khuyến nghị về nghiên cứu, chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ, đặc biệt là giải pháp công nghệ cho phát triển năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, góp phần đáp ứng tốt các cam kết tại Hội nghị thượng đỉnh về Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc lần thứ 26 (COP26).
Phát biểu tại sự kiện, ông Nguyễn Mai Dương, Cục trưởng Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo cho biết, theo dự báo của Bộ Công Thương, sản lượng tiêu thụ điện của Việt Nam năm 2024 tăng khoảng 15%; nhu cầu điện năng sẽ tăng trưởng khoảng 8-10%/năm trong những năm tới. Bên cạnh việc triển khai các giải pháp đồng bộ, tối ưu hóa về nguồn cung, các hệ thống truyền tải, phân phối và sử dụng năng lượng hiện có, việc đầu tư, phát triển các giải pháp năng lượng mới cũng là một yêu cầu cấp thiết đối với Việt Nam. Do đó, chuyển dịch năng lượng không chỉ là một nhiệm vụ quan trọng mà còn là yếu tố thiết yếu để đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Ông Nguyễn Mai Dương, Cục trưởng Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo phát biểu tại Diễn đàn.
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng để thúc đẩy chuyển dịch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo, trong đó phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CNĐMST) là một trong những giải pháp có tính xuyên suốt trong quá trình thực hiện. Luật sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010 là một bước ngoặt, định hướng tăng cường đầu tư và áp dụng các hình thức huy động nguồn lực để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Cùng với đó, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị cũng nêu rõ quan điểm sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội. Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 2/10/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động để cụ thể hóa các mục tiêu và giải pháp của Nghị quyết số 55-NQ/TW, Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 về Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, đặt mục tiêu ưu tiên phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện. Theo đó, tỷ lệ năng lượng tái tạo trong cơ cấu nguồn cung sẽ đạt khoảng 30-39% vào năm 2030 và thậm chí là 47% theo cam kết về chuyển đổi năng lượng công bằng với Việt Nam. Đặc biệt, ngày 11/5/2022 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 569/QĐ-TTg về Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030 xác định phát triển công nghệ năng lượng là 1 trong 10 định hướng phát triển, ứng dụng công nghệ giai đoạn tới, trong đó “Nghiên cứu ứng dụng, làm chủ các công nghệ năng lượng mới, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh, công nghệ tích trữ năng lượng tiên tiến, pin nhiên liệu…”.
Các văn bản trên đã xác định rõ vai trò, trách nhiệm của ngành KH&CN trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực năng lượng và chuyển dịch năng lượng. Với những văn bản chỉ đạo này, Bộ KH&CN đã xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai các Chương trình, Đề án cấp quốc gia tập trung vào ứng dụng, chuyển giao, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và giảm thiểu tác động môi trường như: Chương trình Nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ năng lượng (KC05); Chương trình Đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2030; Đề án “Thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên giai đoạn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” và nhiều nhiệm vụ khác.
Những nỗ lực này không chỉ hướng tới mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng mà còn góp phần quan trọng vào việc bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững. Trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ sang các nguồn năng lượng sạch, xanh và bền vững, Việt Nam cũng đang dần khẳng định vị thế, trách nhiệm của mình trong việc phát triển năng lượng xanh, hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Tuy nhiên, hiện nay tỷ trọng năng lượng tái tạo trong ngành điện còn tương đối hạn chế. Nguyên nhân đến từ một số rào cản chính như: Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng chưa được khai thác tối ưu do chính sách, tài chính cũng như năng lực chuyên môn; khả năng nối lưới của các dự án năng lượng và tính ổn định của hệ thống chuyển tải điện cần được cải thiện; chi phí đầu tư cao hơn mức trung bình do giá công nghệ và dịch vụ còn cao… Bên cạnh đó, mặc dù công nghệ là yếu tố đóng vai trò trung tâm trong chuyển dịch năng lượng, song trình độ công nghệ trong một số lĩnh vực thuộc ngành năng lượng chậm được nâng cao, việc nội địa hóa và hỗ trợ thị trường từ các dự án trong ngành năng lượng cho hàng hoá cơ khí chế tạo sản xuất trong nước còn hạn chế.
Định hướng phát triển KH&CN cho chuyển dịch năng lượng
Trước những tồn tại, hạn chế nêu trên, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và đại diện doanh nghiệp tham dự Diễn đàn đã cùng nhau thảo luận, chia sẻ về hiện trạng và định hướng phát triển KH,CN&ĐMST cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam, xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu và những kinh nghiệm trên thế giới. Đồng thời, đại diện một số doanh nghiệp cũng chia sẻ việc áp dụng thành công, hiệu quả mô hình chuyển dịch năng lượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tại sự kiện, ông Fabian Hartjes, Bí thư thứ hai phụ trách Kinh tế và Ngoại giao Khí hậu, Đại sứ quán Đức tại Việt Nam nhấn mạnh, phía Đức sẵn sàng hỗ trợ và sẽ là đối tác tin cậy của Việt Nam để đạt được mục tiêu chuyển dịch năng lượng. Thời gian tới, hai bên sẽ thúc đẩy hợp tác, trong đó vai trò của các doanh nghiệp công nghệ năng lượng là quan trọng để góp phần giúp các đối tác Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Ông Fabian Hartjes, Bí thư thứ hai phụ trách Kinh tế và Ngoại giao Khí hậu, Đại sứ quán Đức tại Việt Nam chia sẻ tại Diễn đàn.
Ông Philipp Munzinger, Giám đốc GIZ tại Việt Nam đã đưa ra dự báo, điện mặt trời và gió dự kiến sẽ chiếm phần lớn trong các nguồn bổ sung công suất điện trong bối cảnh chi phí phát điện và giá điện phát từ các nguồn tái tạo ngày càng cạnh tranh hơn. Ông Philipp Munzinger cũng khẳng định, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo đã và đang là động lực quan trọng cho chuyển dịch năng lượng.
Chia sẻ về giải pháp hỗ trợ chuyển dịch năng lượng, ông Nguyễn Sĩ Đăng, Phó Vụ trưởng Vụ Thẩm định và Giám định công nghệ cho rằng, cần ưu tiên hỗ trợ các dự án nghiên cứu và phát triển công nghệ năng lượng tái tạo; thúc đẩy chuyển giao công nghệ, nội địa hóa sản xuất thiết bị ngành công nghiệp năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, thủy điện, khí hóa lỏng tại Việt Nam. Cùng với đó cần xem xét phát triển điện hạt nhân là một biện pháp trong chuyển dịch năng lượng; thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ năng lượng sạch và hiệu quả bao gồm công nghệ lưu trữ năng lượng và lưới điện thông minh; áp dụng các chính sách thuế, trợ giá và các cơ chế khuyến khích khác để thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo, các dạng năng lượng sạch khác; đẩy mạnh hợp tác quốc tế để chia sẻ kiến thức, công nghệ và kinh nghiệm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo; khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực năng lượng tái tạo…
Theo các chuyên gia, có bốn yếu tố cốt lõi để chuyển dịch năng lượng thành công đó là: công nghệ, nền kinh tế cạnh tranh, mở cửa thị trường và chính sách hỗ trợ về KH&CN. Nhấn mạnh tới vấn đề công nghệ, ông Nguyễn Đức Hoàng, Phó Cục trưởng Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo cho rằng, đổi mới sáng tạo là động lực của chuyển dịch năng lượng, đổi mới sáng tạo diễn ra không ngừng bên cạnh việc phát triển công nghệ lõi. Do đó, chính sách phát triển KH&CN thông qua các chương trình, dự án về nghiên cứu và phát triển, làm sao có chính sách đổi mới sáng tạo để góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp nhất là trong lĩnh vực năng lượng.
Chia sẻ về hợp tác giữa hai bên thời gian qua, bà Vũ Chi Mai, Giám đốc Dự án CASE thuộc GIZ cho biết, kể từ khi phối hợp triển khai năm 2018, Dự án đã góp phần giúp Việt Nam đạt nhiều dấu mốc quan trọng về năng lượng. Thời gian tới, Dự án CASE sẽ đồng hành cùng Bộ KH&CN, đi vào các trọng tâm chính để giúp xu hướng nắm bắt công nghệ ở Việt Nam tăng lên, qua đó giúp năng lực tiếp nhận thông tin, quản lý dự án và tham gia vào chuỗi dự án sản xuất linh kiện, phụ kiện điện gió, điện mặt trời. Việt Nam cần chủ động nguồn nhân lực để vận hành và phát triển sản xuất. Trong khuôn khổ dự án, phía GIZ sẽ cùng nhìn lại thế mạnh của Việt Nam trong chuỗi giá trị điện gió, điện mặt trời để tăng tỷ lệ nội địa hóa, cùng với rà soát năng lực để lên lộ trình công nghệ giúp Việt Nam đạt được giá trị nội địa hóa tốt nhất trong chuỗi cung ứng toàn cầu về điện gió, điện mặt trời.
Phiên tọa đàm: Doanh nghiệp Việt Nam và Chuyển dịch năng lượng diễn ra trong khuôn khổ Diễn đàn.
Tại Diễn đàn, đại diện một số doanh nghiệp có mặt tại Diễn đàn cũng chia sẻ việc áp dụng thành công, hiệu quả mô hình chuyển dịch năng lượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh; vai trò và định hướng của các doanh nghiệp trong chuyển đổi xanh, phát triển năng lượng tái tạo, kinh nghiệm hợp tác và chuyển giao công nghệ, cùng các đề xuất chính sách thúc đẩy phát triển KH&CN nhằm thúc đẩy chuyển dịch năng lượng thành công ở Việt Nam.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo

4 cán bộ Công đoàn Bộ KH&CN được tuyên dương, khen thưởng

Công đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) có 4 cán bộ được nhận Quyết định tuyên dương, khen thưởng cán bộ công đoàn tiểu biểu giai đoạn 2018-2023 nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Công đoàn Viên chức Việt Nam.

Theo đó, 4 công đoàn tiêu biểu gồm: đồng chí Ngô Thị Ngọc Hà, nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn Bộ, Chủ tịch Công đoàn Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng; đồng chí Đỗ Xuân Ngọc, Phó Chủ tịch Thường trực Công đoàn Bộ KH&CN; đồng chí Trần Thị Thu Hà, Chủ tịch Công đoàn Công ty cổ phần FPT; đồng chí Trần Mạnh Thắng, Chủ tịch Công đoàn Trung tâm chiếu xạ Hà Nội.
Phát biểu tại buổi lễ, ông Ngọ Duy Hiểu, Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Công đoàn Viên chức Việt Nam cho biết: Trong 30 năm qua, các cấp công đoàn đã làm tốt nhiệm vụ đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, người lao động; động viên, khích lệ đoàn viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, đóng góp quan trọng vào kết quả chung của từng cơ quan, đơn vị và thành tựu của đất nước. Công đoàn Viên chức Việt Nam trong quá trình phát triển đã có những đóng góp đặc thù và quan trọng cho sự lớn mạnh và phát triển của Công đoàn Việt Nam, thông qua việc vận động đoàn viên tham gia xây dựng các chủ trương, chính sách, nghiên cứu khoa học về công nhân, công đoàn; tham gia truyền thông về tổ chức; tổ chức các hoạt động kiểm tra, giám sát, thực thi chính sách, pháp luật.
Ông Nguyễn Đình Khang, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, mỗi cán bộ, đoàn viên trong hệ thống Công đoàn Viên chức Việt Nam cần nhận rõ thời cơ và thách thức, không ngừng nỗ lực, tiếp tục đóng góp xứng đáng vào sự lớn mạnh, phát triển của Công đoàn Viên chức Việt Nam. Ông Nguyễn Đình Khang bày tỏ hy vọng, với tiềm năng to lớn, Công đoàn Viên chức Việt Nam sẽ tiếp tục vươn lên, đoàn kết, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong bối cảnh mới, đưa phong trào cán bộ, công chức, viên chức và hoạt động công đoàn ngày càng phát triển, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và tổ chức Công đoàn vững mạnh.
Cũng tại buổi Lễ, Ban tổ chức đã tuyên dương 100 cán bộ công đoàn tiêu biểu giai đoạn 2018 – 2023.
Một số hình ảnh tại buổi Lễ:
Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân và các đồng chí Lãnh đạo các ban, bộ, ngành đoàn thể trung ương, Tổng Liên đoàn, các đồng chí Lãnh đạo Công đoàn Viên chức Việt Nam chụp ảnh với 100 cán bộ công đoàn tiêu biểu.
Đồng chí Nguyễn Hoàng Giang, Thứ trưởng Bộ KH&CN tham dự Lễ kỷ niệm.
Đoàn đại biểu Công đoàn Bộ KH&CN tham dự Lễ kỷ niệm.
Cán bộ công đoàn tiêu biểu của Bộ KH&CN:

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN