Thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Đại sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam, mới đây, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo nghiên cứu “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) ở Việt Nam” (Báo cáo).

Tại Hội thảo, nhóm nghiên cứu đã giới thiệu về Báo cáo nghiên cứu “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV ở Việt Nam”. Báo cáo đã hệ thống hóa và làm rõ một số khái niệm cơ bản, khung phân tích về thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV; nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV, rút ra bài học cho Việt Nam; phân tích thực trạng thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV ở Việt Nam; đề xuất định hướng giải pháp thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV ở Việt Nam trong thời gian tới…

Ông Nguyễn Hoa Cương – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, đồng chủ biên Báo cáo “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” phát biểu tại Hội thảo.

Đổi mới sáng tạo xanh giúp doanh nghiệp tăng năng suất, năng lực công nghệ

Theo nhóm nghiên cứu của CIEM, đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV là bất kỳ hoạt động nào của doanh nghiệp hướng đến giảm tác hại đến môi trường, đưa doanh nghiệp đến sản xuất các hàng hóa thân thiện với môi trường hơn như giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện hiệu quả khả năng tái chế các sản phẩm qua sử dụng hoặc tận dụng các vật liệu tái chế, sử dụng tài nguyên và năng lượng hiệu quả và có trách nhiệm hơn. Hoạt động đổi mới sáng tạo xanh có thể bao gồm đổi mới thiết bị, sản phẩm, quy trình, chính sách và các dự án theo hướng xanh.

Đổi mới sáng tạo xanh giúp doanh nghiệp tiếp cận thị trường, tăng khả năng sinh lời theo chuỗi giá trị; giúp doanh nghiệp đáp ứng trước các tiêu chuẩn, quy định ngày càng nghiêm ngặt hơn, thu hút đầu tư và giúp doanh nghiệp tăng năng suất, năng lực công nghệ.

Ở Việt Nam, đổi mới sáng tạo xanh đã được các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV quan tâm thực hiện ở nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, hàng tiêu dùng, xử lý chất thải, năng lượng, chế biến thực phẩm… Tại nhiều địa phương, chính quyền và doanh nghiệp đã nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới sáng tạo theo hướng xanh, chuyển đổi xanh, chuyển đổi để bắt kịp với sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng, đặc biệt các yêu cầu của thị trường quốc tế. Nhiều mô hình kinh tế hướng tới thân thiện với môi trường được doanh nghiệp và chính quyền địa phương đã đẩy mạnh áp dụng như kinh tế dưới tán rừng, kinh tế tuần hoàn, du lịch tái tạo, du lịch sinh thái, nông nghiệp xanh, giao thông xanh… Bên cạnh đó, đổi mới sáng tạo xanh thông qua thực hành ESG (thực hiện đổi mới sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng bộ tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị), đổi mới công nghệ sản xuất sạch hơn, xanh hóa sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu phát triển bền vững cũng được nhiều doanh nghiệp quan tâm thực hiện.

Bên cạnh những kết quả đạt được bước đầu, hoạt động đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV còn khá hạn chế. Mức độ ứng dụng và cập nhật công nghệ trong doanh nghiệp còn khá thấp, các sản phẩm sản xuất ra có giá trị gia tăng không cao, sản phẩm mới với doanh nghiệp nhưng ít mới với thị trường. Phương thức đổi mới sáng tạo xanh phổ biến được nhiều DNNVV thực hiện là điều chỉnh những sản phẩm hiện có cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, phù hợp với điều kiện vận hành ở địa phương, hoặc thực hiện đổi mới quy trình dựa trên các sáng kiến cải tiến kỹ thuật nhằm khắc phục những lỗi kỹ thuật phát sinh từ thực tiễn sản xuất hay cải tiến hệ thống sản xuất hiện có. Do hàm lượng công nghệ trong các DNNVV còn thấp, các doanh nghiệp chủ yếu “đổi mới xanh” trong việc sử dụng nguyên liệu đầu vào (đối với doanh nghiệp tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp, thực phẩm), áp dụng quy trình tuần hoàn (doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản). Số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ xanh hơn thực sự chưa nhiều.

Sự đồng hành của Nhà nước

Nhóm nghiên cứu Báo cáo cho biết, thời gian qua, Nhà nước đã từng bước đồng hành, hỗ trợ, thúc đẩy các doanh nghiệp, đặc biệt DNNVV trong thực hiện đổi mới sáng tạo xanh. Khung chính sách chung thúc đẩy đổi mới sáng tạo nói chung và đổi mới sáng tạo xanh đã được hình thành với nhiều cơ chế, chính sách pháp luật liên quan được ban hành và hoàn thiện; nhiều tổ chức hỗ trợ được hình thành. Các nhóm giải pháp chính sách tài chính và chính sách phi tài chính hỗ trợ, tạo động lực cho DNNVV phát triển và thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo xanh.

Chính sách ưu đãi, hỗ trợ về thuế, phí có tỷ lệ doanh nghiệp tiếp nhận được cao nhất. Những chính sách về thuế, phí đã tạo động lực và khuyến khích doanh nghiệp thực hiện hoạt động đổi mới sáng tạo theo hướng xanh, sản xuất và tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường. Bên cạnh nguồn vốn tài chính từ ngân sách nhà nước, việc thực hiện các giải pháp chính sách tài chính thúc đẩy DNNVV đổi mới sáng tạo xanh đã thu hút, huy động thêm được các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, đặc biệt nguồn vốn đối ứng từ doanh nghiệp. Nhiều địa phương cũng huy động các nguồn lực từ các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, các tổ chức quốc tế… để tổ chức các chương trình, các cuộc thi nhằm hỗ trợ, thúc đẩy các DNNVV đổi mới sáng tạo xanh.

Toàn cảnh Hội thảo.

Trong nhóm giải pháp chính sách phi tài chính, chính sách hỗ trợ kỹ thuật, truyền thông, quảng bá, cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại đã được các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện. Phong trào khởi nghiệp gắn với đổi mới sáng tạo diễn ra mạnh mẽ. Khía cạnh, tiêu chí “xanh” đang trở thành những điểm nhấn quan trọng trong nhiều cuộc thi khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Tại nhiều địa phương, khía cạnh “xanh” và khai thác hiệu quả hơn tài nguyên bản địa đã được đặc biệt quan tâm. Nhiều địa phương đã có các chương trình, sáng kiến về mô hình phát triển xanh, huy động sự tham gia của nhiều đơn vị, tổ chức, chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình đào tạo, tập huấn, khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo hướng xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.

Hạn chế và khuyến nghị chính sách

Phân tích về những hạn chế của hệ thống giải pháp, chính sách liên quan đến thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đổi mới sáng tạo xanh trong doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng, Báo cáo khẳng định: hệ thống còn chưa thực sự đồng bộ, nhất quán, chậm được hướng dẫn và vẫn còn những khoảng trống pháp lý. Chẳng hạn như chưa có khái niệm, quy định về tiêu chí xác định doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo xanh, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Các chính sách hỗ trợ DNNVV, hỗ trợ DNNVV đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh chủ yếu là các chương trình tập huấn và đào tạo, trong khi doanh nghiệp có nhu cầu lớn về hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ, tài chính và kết nối chuỗi cung ứng. Các chính sách hỗ trợ phát triển xanh, hướng đến tiêu dùng xanh còn chưa thực sự đồng bộ. Các chính sách thúc đẩy sản xuất sản phẩm, dịch vụ xanh chưa tạo động lực mạnh mẽ cho các doanh nghiệp đầu tư thay đổi dây chuyền công nghệ để tạo ra những chuyển biến đáng kể về công nghệ và quy trình sản xuất. Tín dụng xanh chưa phổ biến, số lượng doanh nghiệp tiếp cận được tín dụng xanh còn ít. Việc phát triển thị trường tài chính xanh còn nhiều khó khăn, các bên tham gia hạn chế, thiếu vắng nhà đầu tư có tổ chức tham gia thị trường tín dụng, cổ phiếu, trái phiếu xanh. Việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, đổi mới sáng tạo xanh ở hầu hết các địa phương thường tập trung thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, chưa quan tâm đúng mức đến thúc đẩy hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của chính những doanh nghiệp đang hoạt động.

Để tiếp tục thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong DNNVV ở Việt Nam, Báo cáo khuyến nghị như:

Một là, cần nghiên cứu quy định cụ thể về đổi mới sáng tạo, đổi mới sáng tạo xanh; tiêu chí xác định doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo xanh làm cơ sở để xây dựng và thực hiện các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo xanh trong doanh nghiệp.

Hai là, tập trung hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống chính sách hỗ trợ đổi mới sáng tạo xanh, bao gồm các quy định về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; các chính sách về thuế, tài chính, đầu tư; các chính sách về thị trường, tiêu dùng; các chính sách về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu và phát triển; chính sách phát triển công nghiệp môi trường đối với các sản phẩm, thiết bị và công nghệ phục vụ cho thực hiện đổi mới sáng tạo xanh, các chính sách khuyến khích liên kết giữa ngành, lĩnh vực, địa phương trong thực hiện đổi mới sáng tạo xanh và các công cụ chính sách khác.

Bà là, xây dựng chương trình hỗ trợ DNNVV thực hiện đổi mới sáng tạo xanh, chuyển đổi xanh. Bên cạnh việc thúc đẩy phong trào khởi nghiệp đổi mới sáng tạo như hiện nay, cần đẩy mạnh các hoạt động đổi mới sáng tạo, đổi mới sáng tạo xanh trong các DNNVV hiện đang hoạt động, trong đó tập trung vào các giải pháp chính sách khuyến khích, hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển, đầu tư để nâng cao trình độ và khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp. Đây là một cách hiệu quả để củng cố sự đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng nhanh chóng dựa trên những ý tưởng và sáng kiến mới.

VVH

Việt Nam tạo hành lang pháp lý đảm bảo an toàn bức xạ hạt nhân

Hoạt động cấp phép, kiểm soát nguồn sử dụng bức xạ được Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng và ban hành, giúp quản lý và thúc đẩy ứng dụng trong các ngành, lĩnh vực mang lại hiệu quả.

Thông tin được nêu tại hội nghị Pháp quy hạt nhân toàn quốc lần thứ 6 do Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ TP Hà Nội tổ chức ngày 30-31/7. Đây cũng là dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Cục An toàn bức xạ và hạt nhân.

Theo Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt, hội nghị là dịp để đánh giá thực trạng quản lý nhà nước và đề xuất các giải pháp để Việt Nam hướng tới mục tiêu đảm bảo an toàn, an ninh cho sự phát triển bền vững của hoạt động ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình, phát triển kinh tế xã hội.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại Lễ kỷ niệm sáng 30/7. Ảnh: TTTT

Bộ trưởng phát biểu tại sự kiện sáng 30/7. Ảnh: TTTT

Cục trưởng Cục An toàn bức xạ và hạt nhân Nguyễn Tuấn Khải cho biết, những năm gần đây các kỹ thuật hạt nhân tiên tiến, thiết bị bức xạ công nghệ cao được ứng dụng trong y tế, công nghiệp, nông nghiệp và tài nguyên môi trường, xuất nhập khẩu sản phẩm, hàng hóa. Hoạt động quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và hạt nhân gồm hoạt động cấp phép, thanh tra, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật luôn được chú trọng, bảo đảm an toàn, phát triển bền vững, hiệu quả.

Đến tháng 12/2023 Việt Nam có 2.025 cơ sở tiến hành công việc bức xạ (không bao gồm X-quang chẩn đoán y tế) đang hoạt động, trong đó lĩnh vực công nghiệp chiếm 63,5%, y tế khoảng 5,8%, nghiên cứu và đào tạo 4,3% và lĩnh vực khác 26,3%. Thống kê nguồn phóng xạ đang sử dụng là 4.229, trong đó 4% trong y tế, 12% trong nghiên cứu đào tạo.

Ông Nguyễn Tiến Mạnh, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân cho hay, hiện Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện cấp phép vận hành thiết bị chiếu xạ (gia tốc, thiết bị xạ trị sử dụng nguồn phóng xạ), sản xuất phóng xạ. “Số lượng hồ sơ cấp phép tăng trung bình khoảng 10-15% mỗi năm”, ông nói.

Chia sẻ thực tế sử dụng nguồn bức xạ, bà Phan Thị Quý Trúc, đại diện Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM cho biết địa phương hiện có 783 cơ sở y tế được cấp phép, trong đó có hơn 2.000 thiết bị X-quang chẩn đoán y tế (như máy X-quang tổng hợp, thiết bị đo loãng xương). Địa phương có 420 thiết bị bức xạ ứng dụng chủ yếu trong trong máy X-quang, thiết bị PET/CT và máy gia tốc. Nguồn bức xạ được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, như thiết bị như máy xạ trị suất liều cao, thiết bị khử trùng máu trong y tế; thiết bị đo mực chất lỏng, mảng nhựa thép hay ứng dụng trong phân tích sắc ký khí dùng trong công nghiệp…

Lính phòng hóa diễn tập tẩy xạ vật thể nhiễm bẩn phóng xạ và khu vực xung quanh để bảo đảm an toàn nơi xảy ra sự cố tại Đà Nẵng. Ảnh: Nguyễn Đông

Lính phòng hóa diễn tập tẩy xạ vật thể nhiễm bẩn phóng xạ và khu vực xung quanh để bảo đảm an toàn nơi xảy ra sự cố tại Đà Nẵng. Ảnh: Nguyễn Đông

Tại hội thảo, nhiều ý kiến đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn bức xạ như kỹ thuật hoạt động hỗ trợ cơ quan quản lý về an toàn bức xạ, quản lý liều chiếu xạ trong y tế…

Trong ngày mai, các nhà quản lý, chuyên gia sẽ thảo luận về chủ đề “An ninh hạt nhân – Phóng xạ môi trường và Ứng phó sự cố”.

Như Quỳnh

Giống lúa TBR225 kháng bạc lá mang lại hiệu quả sản xuất cao

Giống lúa TBR225 có gen kháng bạc lá (KBL) được tạo ra bằng phương pháp lai, chuyển gen KBL Xa7 vào giống TBR225. Giống lúa TBR225 KBL đã khắc phục được nhược điểm của giống lúa cũ và mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp tăng thu nhập cho bà con nông dân.

Mô hình sản xuất TBR225 KBL tại xã Minh Tân, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ.

Giống lúa thuần TBR225 có thời gian sinh trưởng ngắn, có khả năng thích ứng rộng, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, tập quán canh tác của các địa phương trên cả nước. Năng suất ước đạt từ 70 đến 75 tạ/ha và có thể đạt từ 85 đến 90 tạ/ha khi được thâm canh tốt. Giống lúa này có thể cấy được cả 2 vụ, chất lượng gạo trong, cơm mềm dẻo, đậm đà, ngon miệng và có mùi thơm, được người tiêu dùng ưa chuộng. TBR225 đã thể hiện nhiều ưu thế vượt trội, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao năng suất lúa bình quân của cả nước và tăng thu nhập cho nông dân. Do đó, vào năm 2015, giống lúa TBR225 đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận là giống quốc gia. Tuy nhiên, giống lúa này có nhược điểm là dễ nhiễm bệnh bạc lá (BBL) khá nặng vào vụ mùa, gây nhiều rủi ro trong canh tác. Trước thực trạng này và nhằm duy trì, phát triển một giống lúa tốt trong sản xuất, Công ty Cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed đã lai chuyển thành công gen KBL Xa7 vào giống lúa TBR225.

Giống lúa TBR225 KBL được tạo ra bằng phương pháp lai, chuyển gen KBL vào giống TBR225. Nhờ vậy, giống lúa TBR225 KBL vẫn giữ nguyên được các đặc tính tốt của giống TBR225 như: năng suất cao, chất lượng gạo ngon, khả năng thích ứng rộng… nhưng khắc phục được nhược điểm của giống TBR225 là kháng BBL. Hiện nay, Công ty Cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed đã hoàn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất hạt giống và kỹ thuật thâm canh cho giống lúa TBR225 KBL, đã xác định được thời vụ gieo trồng, phương thức làm mạ, bón phân và mật độ cấy khuyến cáo cho sản xuất. Các quy trình thâm canh được nông dân áp dụng rộng rãi, giúp tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.

PT

Giải pháp tối ưu cho vận hành hồ chứa và phòng chống thiên tai

Trước thực tế biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng và tình hình thời tiết mưa lũ bất thường, việc nâng cao khả năng dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn là rất cần thiết. Trung tâm Động lực học Thủy khí Môi trường (CEFD), trực thuộc Công ty Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội đã phát triển Hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn (Hệ thống) để đáp ứng nhu cầu vận hành các hồ chứa và phòng chống thiên tai. Hệ thống này giúp tối ưu hóa việc khai thác và sử dụng nguồn nước, đồng thời giảm thiểu rủi ro thiên tai.

Hồ chứa Đăk Mi3 (tỉnh Quảng Nam) – một trong những hồ chứa được cung cấp bản tin dự báo trong Hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn của CEFD. Nguồn: CEFD

Cấu trúc của Hệ thống và công nghệ sử dụng

Hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn của CEFD được xây dựng dựa trên nền tảng các công nghệ hiện đại và tiên tiến nhất hiện nay, đảm bảo tính chính xác trong việc dự báo thời tiết và thủy văn. Cấu trúc hệ thống bao gồm 3 phần chính: hệ thống dự báo khí tượng, hệ thống dự báo thủy văn và công cụ hỗ trợ ra quyết định.

Hệ thống dự báo khí tượng

Hệ thống dự báo khí tượng là một trong những thành phần quan trọng nhất, được xây dựng dựa trên các công nghệ, mô hình khí tượng tiên tiến. Hệ thống này có khả năng cung cấp thông tin dự báo chi tiết và chính xác các yếu tố thời tiết như lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, gió, giúp các nhà quản lý có thể chuẩn bị tốt hơn cho các sự kiện thời tiết sắp tới.

Một trong những phương pháp quan trọng được sử dụng là phân tích hình thế Synop (quan sát tổng thể), giúp đánh giá và dự báo các hiện tượng thời tiết lớn như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn. Phương pháp này giúp nắm bắt các thay đổi lớn trong khí quyển và đưa ra cảnh báo sớm, từ đó giúp giảm thiểu tác động của thiên tai. Hệ thống dự báo khí tượng của CEFD tích hợp dữ liệu từ các hệ thống mô hình dự báo toàn cầu như ECMWF (của châu Âu) và GFS/CFS (của Hoa Kỳ). ECMWF là một trong những mô hình dự báo thời tiết toàn cầu với độ chính xác cao, GFS/CFS được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng khí tượng quốc tế. Việc kết hợp các nguồn dữ liệu này giúp hệ thống có thể đưa ra các dự báo chính xác và đáng tin cậy. Bên cạnh đó, hệ thống còn sử dụng dữ liệu từ các nguồn quan trắc hiện đại như ảnh vệ tinh và radar. Ảnh vệ tinh cung cấp cái nhìn toàn cảnh về các hiện tượng thời tiết trên diện rộng, giúp theo dõi và phân tích các thay đổi trong khí quyển một cách chi tiết. Dữ liệu radar, với khả năng quét và phát hiện mưa, bão, các hiện tượng khí tượng khác trong thời gian thực, giúp tăng cường độ chính xác của các bản tin dự báo, cảnh báo.

Nhờ sự kết hợp của các công nghệ và nguồn dữ liệu tiên tiến này, Hệ thống của CEFD đảm bảo cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, hỗ trợ hiệu quả cho công tác quản lý, ứng phó với các tình huống thiên tai phức tạp.

Hệ thống dự báo thủy văn

Hệ thống dự báo thủy văn của CEFD sử dụng các công cụ mô hình thủy văn tiên tiến để mô phỏng, dự báo dòng chảy. Một trong những mô hình chính được sử dụng là SWAT (Soil and Water Assessment Tool). SWAT cung cấp các thông tin về dòng chảy, chất lượng nước hỗ trợ việc quản lý tài nguyên nước một cách bền vững. Một số mô hình thủy văn phân bố khác là WFLOW, MARINE được sử dụng để mô phỏng dòng chảy trên các lưu vực sông có sự phân hóa cao về các yếu tố mặt đệm. Các mô hình này có khả năng mô phỏng chi tiết các quá trình thủy văn, giúp dự báo chính xác hơn cho các lưu vực này. Hệ thống cũng sử dụng các mô hình tập trung phổ biến tại Việt Nam như mô hình NAM, HEC-HMS, TANK. Đây là những công cụ dự báo thủy văn mạnh mẽ và được sử dụng rộng rãi trong dự báo, quản lý tài nguyên nước. Các mô hình này có ưu điểm về tốc độ mô phỏng, lượng thông tin đầu vào ít, do đó phù hợp với các bài toán mô phỏng, dự báo lũ, các lưu vực sông nhỏ, ít số liệu.

Để mô phỏng dòng chảy và lũ lụt trong sông và kênh rạch, Hệ thống sử dụng các mô hình thủy động lực học 1-2D như HEC-RAS, MIKE 11, MIKE 21… Các mô hình này giúp dự báo chính xác dòng chảy, mực nước, mức độ ngập lụt, cung cấp thông tin trực quan hỗ trợ công tác phòng, chống lũ lụt hiệu quả.

Hệ thống công cụ tích hợp hỗ trợ ra quyết định

Để tối ưu hóa thời gian chuẩn bị bản tin, đảm bảo việc tuân thủ các quy trình dự báo, cung cấp thông tin hỗ trợ dự báo viên ra quyết định, ngoài việc liên kết các nguồn số liệu, kết quả từ các mô hình khí tượng, thủy văn, Hệ thống đã tích hợp công nghệ máy học (ML) và trí tuệ nhân tạo (AI). Các mô hình như LSTM (Long Short-Term Memory – Bộ nhớ ngắn dài) đã được áp dụng để dự báo dòng chảy trên một số lưu vực giúp tăng cường độ chính xác của dự báo.

Ngoài ra, Hệ thống cũng đã tích hợp các kỹ thuật đồng hóa dữ liệu, cụ thể là phương pháp lọc Kalman kép, để tích hợp dữ liệu quan trắc thời gian thực với mô hình dự báo. Công nghệ này giúp cải thiện đáng kể độ chính xác của các dự báo hạn cực ngắn và hạn ngắn.

Để đảm bảo tính chủ động của công tác dự báo, đặc biệt các khu vực thiếu mạng lưới trạm quan trắc, Hệ thống cho phép tích hợp dữ liệu quan trắc vệ tinh, các sản phẩm từ viễn thám. Các nguồn dữ liệu này cung cấp các thông tin quan trọng về tình hình thời tiết và thủy văn từ không gian, bổ sung cho dữ liệu quan trắc mặt đất và cải thiện độ chính xác của các mô hình dự báo.

Kết quả vận hành của Hệ thống

Hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn của CEFD đã chính thức đi vào vận hành liên tục từ ngày 15/05/2023. Đội ngũ chuyên gia của CEFD trực 24/7 để thực hiện các quy trình dự báo và giải quyết các yêu cầu phát sinh. Máy chủ của hệ thống đặt tại CEFD, đảm bảo tính bảo mật và an toàn về thông tin, dữ liệu của đối tác.

Trong thời gian vận hành hơn 1 năm, Hệ thống đã nhận được sự tin tưởng từ nhiều nhà máy thủy điện lớn, nhỏ trên cả nước. Một số dự án tiêu biểu mà Hệ thống đã hỗ trợ bao gồm: Hồ Đắk Mi (4, 4B, 4C), Thái An, Thuận Hòa, Sông Miện 5, Sông Miện 5A, Sông Chảy 3, Nhạn Hạc… Nhờ vào Hệ thống của CEFD, các hồ chứa đã vận hành một cách hiệu quả hơn, giúp tối ưu hóa việc khai thác và sử dụng nguồn nước, đồng thời giảm thiểu rủi ro từ thiên tai. Hệ thống đã đem lại nhiều lợi ích rõ rệt, cải thiện khả năng dự báo lũ, tối ưu hóa vận hành hồ chứa đảm bảo an toàn cho các công trình và người dân vùng ảnh hưởng.

Các ứng dụng thực tiễn của Hệ thống bao gồm: dự báo, cảnh báo lũ sớm, quản lý nguồn nước, hỗ trợ vận hành hồ chứa. Hệ thống cung cấp thông tin dự báo chính xác về tình hình mưa lũ, dòng chảy, giúp các cơ quan chức năng và cộng đồng có biện pháp ứng phó kịp thời. Đồng thời, Hệ thống hỗ trợ việc quản lý và phân phối nguồn nước một cách hiệu quả, đặc biệt trong các giai đoạn khô hạn hoặc thừa nước. Điều này không chỉ giúp đảm bảo an toàn cho các công trình thủy điện, thủy lợi mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững của ngành năng lượng và nông nghiệp.

Vũ Hưng

Bảo đảm an toàn, phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình

Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) đã thực hiện tốt vai trò là cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân trong phát triển ứng dụng năng lượng nguyên tử (NLNT); cơ quan pháp quy hạt nhân – đầu mối quốc gia trong hợp tác với Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và triển khai thực hiện các điều ước quốc tế về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân…
Sáng ngày 30/7/2024, tại trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Cục ATBXHN long trọng tổ chức kỷ niệm 30 năm thành lập (30/7/1994 – 30/7/2024).
Tham  dự lễ kỷ niệm có ông Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN; Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái; nguyên Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Đình Tiến; Lãnh đạo một số Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ KH&CN; đại diện cơ quan quản lý nhà nước về ATBXHN ở trung ương và địa phương; chuyên gia trong lĩnh vực NLNT; đại biểu quốc tế (chuyên gia IAEA, chuyên gia Bộ Năng lượng Hoa Kỳ)…
Toàn cảnh Lễ kỷ niệm.
Cách đây vừa tròn 30 năm, ngày 30/7/1994, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã ký ban hành Quyết định số 389/QĐ-TTg thành lập Ban An toàn bức xạ và hạt nhân trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ KH&CN), tiền thân của Cục ATBXHN hiện nay. Lịch sử 30 năm của Cục ATBXHN trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn 1 từ 1994-2003: thành lập Ban ATBXHN; giai đoạn 2 từ 2003-2008: Cục Kiểm soát và An toàn bức xạ, hạt nhân được thành lập; giai đoạn 3 từ 2008-nay: Cục An toàn và Kiểm soát bức xạ, hạt nhân được đổi tên thành Cục ATBXHN.
Trong diễn văn kỷ niệm, ông Nguyễn Tuấn Khải, Cục trưởng Cục ATBXHN cho biết, trong 30 năm qua, công tác quản lý nhà nước về ATBXHN đã có những bước phát triển nhanh chóng, đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm an toàn, an ninh cho sự phát triển bền vững của hoạt động ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình ở nước ta. Cục ATBXHN đã trở thành cơ quan pháp quy hạt nhân ngang tầm khu vực, giúp Bộ KH&CN thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực NLNT về an toàn, an ninh, thanh sát hạt nhân, quan trắc phóng xạ môi trường và ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân, đồng thời là cơ quan đầu mối phối hợp với các bộ ngành liên quan trong việc thực hiện các cam kết, nghĩa vụ tại các điều ước quốc tế về NLNT mà Việt Nam là thành viên.
Cục trưởng Cục ATBXHN Nguyễn Tuấn Khải nhấn mạnh, bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục, đặc biệt trong giai đoạn mà KH&CN nói chung và KH&CN hạt nhân nói riêng đang có sự phát triển rất nhanh, mang lại những lợi ích to lớn cho cộng đồng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro về mất an toàn,an ninh. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và cố gắng hơn nữa của tập thể lãnh đạo và cán bộ Cục; sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Bộ KH&CN; sự phối hơp, giúp đỡ của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Bộ; sự hợp tác chặt chẽ với IAEA và các đối tác quốc tế.
Cục trưởng Cục ATBXHN Nguyễn Tuấn Khải phát biểu tại Lễ kỷ niệm.
Cục trưởng Nguyễn Tuấn Khải bày tỏ, Cục ATBXHN sẽ tiếp tục phấn đấu và cũng tin tưởng sẽ làm tốt hơn nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao, trước mắt là chủ trì sửa đổi Luật NLNT; phối hợp với các đơn vị quản lý của Bộ trong triển khai dự án xây dựng Trung tâm KH&CN hạt nhân (CNST).
Phát biểu chúc mừng nhân dịp kỷ niệm 30 ngày thành lập Cục ATBXHN, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã gửi lời chúc mừng tốt đẹp đến toàn thể các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Cục ATBXHN – những người đã nỗ lực cống hiến cho sự phát triển của Cục. Bộ trưởng ghi nhận và biểu dương những kết quả Cục đạt được trong thời gian qua. Cục đã thực hiện tốt vai trò là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ KH&CN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân trong phát triển ứng dụng NLNT.
Về xây dựng, hoàn thiện pháp luật, Luật NLNT năm 2008 và các văn bản hướng dẫn do Cục ATBXHN được Lãnh đạo Bộ giao chủ trì soạn thảo đã tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc xây dựng, tăng cường công tác quản lý nhà nước về an toàn, an ninh, thúc đẩy phát triển ứng dụng NLNT, góp phần phát triển kinh tế – xã hội đất nước trong hơn 15 năm qua. Hiện nay, Cục ATBXHN tiếp tục được tập thể Lãnh đạo Bộ tin tưởng, giao nhiệm vụ đánh giá việc triển khai Luật NLNT năm 2008 để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung luật này.
Công tác cấp giấy phép, giấy đăng ký, chứng chỉ đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an toàn, an ninh cho các cơ sở bức xạ, cơ sở hạt nhân và hoạt động dịch vụ hỗ trợ ứng dụng NLNT trong việc quản lý các nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, thiết bị hạt nhân, vật liệu hạt nhân. Qua đó, các hoạt động ứng dụng NLNT trong các lĩnh vực y tế, công nghiệp, nông nghiệp… được triển khai có hiệu quả, đảm bảo an toàn, an ninh.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại Lễ kỷ niệm.
Đồng thời, Cục ATBXHN đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong hoạt động cấp phép khi triển khai Hệ thống dịch vụ công trực tuyến toàn trình đối với hồ sơ xuất khẩu, nhập khẩu nguồn phóng xạ trên hệ thống công nghệ thông tin kết nối cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN và Hệ thống dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Cùng với công tác cấp phép, công tác thanh tra chuyên ngành ATBXHN ngày càng phát huy vai trò then chốt trong chu trình quản lý nhà nước, đồng thời, đã góp phần tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về NLNT trong thời gian qua.
Bên cạnh các hoạt động chuyên môn trong nước, trong 30 năm qua, Cục ATBXHN cũng thực hiện tốt vai trò Cơ quan pháp quy hạt nhân – đầu mối quốc gia trong hợp tác với IAEA và triển khai thực hiện các điều ước quốc tế về an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân mà Việt Nam là thành viên. Cục cũng là cơ quan thường trực của Hội đồng An toàn hạt nhân quốc gia.
Bộ trưởng bày tỏ tin tưởng, trong thời gian tới, tập thể Cục đoàn kết, nỗ lực, sáng tạo hơn nữa vượt qua mọi khó khăn, thách thức để ứng dụng NLNT đóng góp nhiều hơn cho phát triển kinh tế – xã hội đất nước, phát huy truyền thống tốt đẹp và đạt nhiều thành công hơn nữa.
Tại Lễ kỷ niệm, đại diện Bộ Tư ệnh Cảnh vệ (Bộ Công an), Bộ Tư lệnh Hóa học (Bộ Quốc phòng), Vụ các Tổ chức quốc tế (Bộ Ngoại giao) và đại diện Ban An ninh hạt nhân (IAEA), Văn phòng An ninh nguồn phóng xạ (Bộ Năng lượng Hoa Kỳ), đại diện thế hệ lãnh đạo và cán bộ Ban/Cục cũng có phát biểu chào mừng gửi đến tập thể Lãnh đạo và cán bộ, nhân viên Cục ATBXHN.
Các đại diện trong nước và quốc tế chúc mừng Cục ATBXHN nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập.
Bà Elena Buglova, Trưởng Ban An ninh hạt nhân, IAEA đã chúc mừng Cục ATBXHN nhân kỷ niệm 30 năm thành lập. Bà cũng ghi nhận những đóng góp của Cục trong việc tăng cường năng lực an ninh hạt nhân trên toàn cầu đồng thời nhấn mạnh và khích lệ mối quan hệ hợp tác lâu dài của Chính phủ Việt Nam, chủ yếu thông qua Cục ATBXHN, với IAEA đặc biệt trong lĩnh vực an ninh hạt nhân.
Tại Lễ kỷ niệm đã diễn ra Lễ trao Cờ thi đua của Bộ KH&CN cho Cục ATBXHN, trao Bằng khen Thủ tướng Chính phủ cho phòng Cấp phép và trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho 7 tập thể, 11cá nhận đạt thành tích xuất sắc trong công tác quản lý nhà nước về ATBXHN.
Thay mặt lãnh đạo Bộ, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái trao Cờ thi đua của Bộ KH&CN cho Cục ATBXHN.
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái trao tặng Bằng khen Thủ tướng Chính phủ cho phòng Cấp phép, Cục ATBXHN.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho 7 tập thể đạt thành tích xuất sắc trong công tác quản lý nhà nước về ATBXHN.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Hồng Thái trao Bằng khen của Bộ trưởng Bộ KH&CN cho 11cá nhận đạt thành tích xuất sắc trong công tác quản lý nhà nước về ATBXHN.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân

Kết nối hợp tác nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo Việt Nam – Hàn Quốc

Thông qua Dự án “Quan hệ đối tác Hàn Quốc – Việt Nam vì tương lai thông qua nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo” (Dự án), Hàn Quốc mong muốn chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam trong các lĩnh vực thế mạnh như: năng lực đánh giá công nghệ, chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu…
Đó là chia sẻ của ông Yim Deok Soon, Trưởng đoàn khảo sát Dự án tại buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt ngày 30/7/2024 tại Hà Nội.
Toàn cảnh buổi tiếp.
Tại buổi tiếp, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) là một trong những trụ cột quan trọng được Lãnh đạo cấp cao hai nước Việt Nam – Hàn Quốc ghi nhận trong Tuyên bố chung về quan hệ hợp tác, Chương trình hành động triển khai quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Hàn Quốc và cũng là một trong những nội dung trọng tâm của chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc, Yoon Suk Yeol vào tháng 6/2023.
Trong chuyến thăm này, Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol đã khẳng định, sẽ cung cấp khoản viện trợ ODA không hoàn lại 30 triệu USD cho Việt Nam nhằm hỗ trợ phát triển KH,CN&ĐMST, để triển khai Dự án quan trọng về quan hệ đối tác Hàn Quốc – Việt Nam vì tương lai thông qua nghiên cứu phát triển và ĐMST.
Trên cơ sở đó, Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) và Bộ KH&CN Việt Nam đã tích cực triển khai nhiệm vụ này. Đây là lần thứ 2 KOICA tổ chức đoàn khảo sát với thành viên là các nhà khoa học và các nhà quản lý tới Việt Nam làm việc tại Bộ KH&CN và một số cơ quan nghiên cứu có liên quan.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt tiếp và làm việc với ông Yim Deok Soon, Trưởng đoàn khảo sát Dự án.
Bộ trưởng ghi nhận những kết quả hai bên đã đạt được trong các chuyến khảo sát và đặc biệt kết quả của chuyến khảo sát lần 2 của Đoàn mang ý nghĩa quan trọng trong cách thức triển khai thực hiện của Dự án. Nội dung hai bên đã thống nhất là cơ sở quan trọng để triển khai, đẩy mạnh hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất trong thời gian tới.
Bộ trưởng cho rằng, hợp tác về KH,CN&ĐMST giữa hai cơ quan còn rất nhiều tiềm năng để phát triển và mong rằng hai bên sẽ cùng xem xét khả năng mở rộng, thúc đẩy hợp tác hơn nữa với nội dung và phương thức phù hợp với điều kiện của mỗi bên, hy vọng kết quả của chuyến khảo sát lần này sẽ là căn cứ quan trọng để triển khai Dự án quan hệ đối tác Hàn Quốc – Việt Nam vì tương lai thông qua nghiên cứu phát triển và đổi mới sáng tạo tại Bộ KH&CN.
Ông Yim Deok Soon cảm ơn Bộ trưởng đã dành thời gian tiếp Đoàn đồng thời cho biết, xu hướng các nước phát triển trên thế giới đều coi KH&CN là quốc sách hàng đầu để phát triển đất nước. Ông đánh giá Việt Nam có tiềm năng trong tương lai khi chứng kiến có nhiều du học sinh Việt Nam đến Hàn Quốc học tập, trong đó có nhiều người đang làm việc tại các công ty, tập đoàn lớn của Hàn Quốc.
Theo ông Yim Deok Soon, tại Việt Nam có nhiều nhà khoa học có năng lực làm việc tại các trường đại học, các viện nghiên cứu và có nhiều kết quả nghiên cứu về KH&CN. Tuy nhiên những kết quả này chưa được kết nối với những đơn vị có khả năng chuyển giao công nghệ cũng như thương mại hóa các kết quả.
Ông Yim Deok Soon mong muốn thông qua Dự án có thể chia sẻ kinh nghiệm của Hàn Quốc đối với Việt Nam trong một số lĩnh vực như: nâng cao năng lực đánh giá công nghệ, chuyển giao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu… Đặc biệt, có thể tạo kết nối giữa 2 khối nghiên cứu và thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm.
Hiện KOICA và Bộ KH&CN đã tiến hành 5 buổi làm việc chung, tập trung vào cơ chế chính sách KH&CN của Việt Nam, Luật KH&CN, các hướng nghiên cứu ưu tiên, quy trình tuyển chọn – triển khai và quản lý các đề tài đề án nghiên cứu, quản lý kết quả dự án, quan hệ giữa Bộ KH&CN – Viện Nghiên cứu – Trường Đại học – Doanh nghiệp, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ (bản quyền), thương mại hóa kết quả nghiên cứu, cách thành lập và vận hành Ban quản lý dự án (PMC-HQ) và Đơn vị quản lý Dự án (PMU-Việt Nam).
Dự án được chia làm 3 hợp phần: Nghiên cứu chung R&D Việt Nam- Hàn Quốc; Nhân rộng và ứng dụng kết quả nghiên cứu; Đào tạo, nâng cao năng lực.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Hợp tác quốc tế

Các sản phẩm AI nổi bật của VinBigdata

Đội ngũ phát triển của VinBigdata tạo dấu ấn với các sản phẩm AI tích hợp công nghệ xử lý ngôn ngữ và tiếng nói như ViVi, ViChat, ViVoice, ViBio.

Trợ lý ảo ViVi 2.0

“ViVi 2.0 tích hợp công nghệ AI tạo sinh khá ấn tượng. Từ câu trả lời từ lịch sử, địa lý tới tư vấn quán ăn, điểm du lịch đều không làm khó được ViVi, cách trả lời cũng linh hoạt, giống như người thật”, anh Hoàng Linh, một khách hàng trải nghiệm ViVi 2.0 trên VF 8 Lux Plus tại Hà Nội nói.

Trợ lý ảo ViVi 2.0 tích hợp trên xe VinFast VF 8 Lux Plus. Ảnh: VF

Trợ lý ảo ViVi 2.0 tích hợp trên xe VinFast VF 8 Lux Plus. Ảnh: VF

Giới chuyên gia và người dùng ấn tượng với chỉ số thông minh của ViVi 2.0 cũng như năng lực của đội ngũ phát triển – VinBigdata.

Theo đại diện của nhà sản xuất, sản phẩm AI thế hệ mới được đánh giá ưu việt hơn so với phiên bản trước đó ở khả năng tương tác linh hoạt theo từng ngữ cảnh. Thay vì hỏi – đáp với trợ lý ảo thông qua những câu lệnh mẫu có sẵn, giờ đây, người dùng có thể trò chuyện một cách tự nhiên với đa dạng các chủ đề khác nhau như lịch sử, văn hoá, địa lý, danh nhân….

Đại diện đội ngũ phát triển VinBigdata cho biết bên cạnh kho tri thức lên tới 3.500 TB dữ liệu đặc trưng, cùng hơn 30.000 giờ dữ liệu giọng nói chất lượng cao. Trợ lý ảo ViVi 2.0 còn có sự cải thiện về khả năng nhận dạng tiếng nói, hiểu và phân tích ngữ cảnh để phản hồi người dùng một cách chính xác và phù hợp.

Bên cạnh ViVi, một số sản phẩm của đội ngũ phát triển VinBigdata cũng gây chú ý về việc tích hợp công nghệ xử lý ngôn ngữ và tiếng nói như ViChat (Chatbot tích hợp AI tạo sinh), ViVoice (Callbot tích hợp AI tạo sinh), hay ViGPT (ChatGPT phiên bản Việt đầu tiên dành cho người dùng cuối).

“Các sản phẩm AI này hiện đang được triển khai tại hệ sinh thái Vingroup cùng hàng chục doanh nghiệp và cơ quan chính phủ trên cả nước như Bộ Thông tin và Truyền thông (thử nghiệm cùng Trung tâm Thông tin), Ngân hàng ACB, Lado Taxi… giúp hỗ trợ tự động hóa nhiều tác vụ thủ công”, đại diện VinBigdata nói.

Vị này cho biết thêm, các sản phẩm được đánh giá giúp doanh nghiệp, tổ chức tối ưu nguồn lực và gia tăng trải nghiệm đồng thời giúp người dùng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ một cách nhanh chóng, đơn giản và hiệu quả.

Công nghệ giọng nói của VinBigdata

Theo VinBigdata, chỉ sáu tháng sau khi công bố ra mắt ViGPT – “ChatGPT phiên bản Việt” đầu tiên dành cho người dùng cuối (tháng 12/2023), VinBigdata đã tiếp tục tiến thêm một bước trong việc nghiên cứu, kết hợp mô hình ngôn ngữ lớn nhằm nâng cao chất lượng của hệ thống nhận dạng tiếng nói.

Công nghệ sinh trắc học giọng nói ViBio. Ảnh: VinBigdata

Công nghệ sinh trắc học giọng nói ViBio. Ảnh: VinBigdata

Thành tựu khoa học này vừa được chấp thuận và sẽ được công bố tại Interspeech 2024 (Hội nghị toàn diện và lớn nhất thế giới về công nghệ xử lý tiếng nói) vào tháng 9 tới đây. “Trong nghiên cứu, VinBigdata đề xuất một kiến trúc mới có sử dụng mô hình ngôn ngữ lớn để cung cấp thông tin ngữ cảnh, giúp hệ thống AI cải thiện độ chính xác khi nhận dạng tiếng nói”, đại diện VinBigdata nói.

Nghiên cứu mở ra một hướng đi mới có khả năng giải quyết các hạn chế hiện tại của hệ thống nhận dạng tiếng nói, đặc biệt trong các điều kiện không thuận lợi như môi trường nhiều tạp âm, giọng vùng miền, thiếu thông tin ngữ cảnh và sử dụng các từ hiếm (tên riêng, từ ngoại lai…).

Kết quả thực nghiệm khẳng định hệ thống của VinBigdata cải thiện tỷ lệ lỗi từ (Word error rate – WER) trung bình lên tới 30% so với hệ thống nhận dạng tiếng nói thông thường.

“Công bố khoa học tại hội nghị hàng đầu quốc tế Interspeech thể hiện sự đầu tư của chúng tôi cho việc nghiên cứu và làm chủ công nghệ tiếng nói từ tầng lõi đang đi đúng hướng. Với nghiên cứu này, VinBigdata kỳ vọng sẽ từng bước ứng dụng công nghệ mới nhằm gia tăng hiệu quả, độ chính xác và trải nghiệm của người dùng khi tương tác với các hệ thống AI như trợ lý ảo”. TS. Nguyễn Kim Anh, Giám đốc Sản phẩm VinBigdata nói.

Bên cạnh nghiên cứu trên, ViBio – sản phẩm sinh trắc học giọng nói của VinBigdata – cũng vừa được công nhận đạt ISO 19795-1 và ISO 19795-2 theo tiêu chuẩn của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia Mỹ (NIST).

Theo công bố từ nhà sản xuất, từ kiểm thử của FIME (Phòng thí nghiệm thuộc chương trình NIST/NVLAP Hoa Kỳ), thuật toán của ViBio có độ chính xác vượt trội khi xác thực giọng nói, với tỷ lệ xác thực sai chỉ 0,00175% trên các mẫu giọng được thu thập tại Việt Nam.

Trước khi xác lập hai thành tựu mới với Interspeech hay chứng nhận của Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia của Mỹ (NIST), VinBigdata đã sở hữu gần 100 công bố khoa học tại các tạp chí, hội nghị hàng đầu thế giới. Đây là nền tảng cho sự ra đời của các sản phẩm công nghệ do VinBigdata phát triển.

“Trong tương lai, chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư nghiên cứu công nghệ, củng cố cơ sở dữ liệu và phát triển các sản phẩm AI tiên tiến, có khả năng giải quyết những bài toán hóc búa mà người dân, doanh nghiệp Việt đang gặp phải, nhằm góp phần vào công cuộc chuyển đổi số toàn diện của đất nước và khẳng định năng lực công nghệ Việt trên trường quốc tế”, TS. Nguyễn Kim Anh chia sẻ.

Hội An

Việt Nam dùng công nghệ mới giám định ADN hài cốt liệt sĩ

Viện Công nghệ sinh học sử dụng công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới (NGS) nhằm xác định danh tính hài cốt liệt sĩ, người mất tích trong chiến tranh.

Tại cuộc họp kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) chiều 12/7, PGS.TS Phí Quyết Tiến, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ sinh học cho hay tính từ năm 2019 đến nay, Trung tâm giám định ADN phát triển 13 quy trình phân tích ADN từ mẫu xương lâu năm.

Trung tâm thực hiện 800 đợt tách chiết ADN nhân, tương đương khoảng 8.000 mẫu hài cốt liệt sĩ. “Tỷ lệ tách thành công và bàn giao đạt 22%, tương đương khoảng 1.600 mẫu bàn giao cho Cục Người có công, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội”.

Viện đã nghiên cứu hoàn thiện quy trình mẫu và 2 quy trình giám định ADN thường quy, tức là cải tiến trên nền tảng công nghệ cũ vốn được công nhận và áp dụng.

PGS Phí Quyết Tiến chia sẻ thông tin tại họp báo. Ảnh: QD

PGS Phí Quyết Tiến chia sẻ thông tin tại họp báo. Ảnh: QD

Theo PGS Tiến, trước đây các đơn vị đang sử dụng công nghệ giám định ADN cho mẫu hài cốt liệt sĩ dựa trên phân tích ADN ty thể. Tuy nhiên với chất lượng mẫu ngày càng khó khăn, nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu ứng dụng giám định công nghệ ADN ty thể vào quy trình giám định thường quy.

Nhưng nay xu hướng thế giới với sự phát triển công nghệ phân tích hiện đại với máy giải trình tự gene thế hệ mới kết hợp công nghệ phân tích vi sinh học, việc giám định ADN từ mẫu xương cổ được phân tích theo gene nhân. “Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã phê duyệt triển khai nhiệm vụ giải trình tự thế hệ gene theo tham số người Việt để có được tham chiếu ADN xương cổ nói chung và công tác ADN người Việt”, PGS Tiến nói.

Ông cho hay, ứng dụng công nghệ mới về khai thác ADN xương cổ được phối hợp Viện khảo cổ học nhằm xác định nguồn gốc di truyền với mẫu xương có niên đại vài trăm năm đến nghìn năm. Đây là cơ sở tiếp tục phát triển giám định mẫu ADN xương cổ các liệt sĩ có thời gian chôn lấp đưa vào giám định từ 40-80 năm.

Để tăng cường năng lực giám định ADN hài cốt liệt sĩ theo công nghệ giải trình tự gene thế hệ mới (NGS), Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST) và Ủy ban Quốc tế về Người mất tích (ICMP) phối hợp triển khai dự án ODA. Viện cử đoàn công tác mang 100 mẫu hài cốt liệt sĩ sang Hà Lan triển khai tách chiết ADN nhân và giám định ADN. Ông đánh giá kết quả bước đầu cho thấy kỹ năng chuyên môn, khả năng tiếp cận khoa học công nghệ có thể làm chủ và hợp tác với ICMP.

Ông Tiến cho biết, giai đoạn tới, Trung tâm giám định ADN sẽ hoàn thiện cơ sở vật chất trên cơ sở tiếp nhận máy giải trình thế hệ mới tài trợ, cải tiến, ứng dụng công nghệ mới vào công tác giám định, nghiên cứu tối ưu thử nghiệm phương pháp khác nhau. Bên cạnh Viện cũng tăng cường hợp tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực, gửi cán bộ tiếp nhận công nghệ, tham gia công tác giám định từ Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á.

Huyền Anh

Việt Nam lưu giữ hơn 80.000 nguồn gene đặc hữu, quý hiếm

Đến năm 2023 Việt Nam có tổng số nguồn gene thu thập và lưu giữ được là 80.911 (gấp 2,8 lần so với năm 2010), trong đó nhiều gene quý giúp lai tạo các giống mới năng suất chất lượng, giá trị cao.

Kết quả được nêu tại hội thảo đánh giá Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene giai đoạn 2015 – 2024 và định hướng triển khai giai đoạn 2025 – 2030, do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức sáng 29/7.

Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt nhìn nhận chương trình “đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ”. Hiện nhiều nguồn gene được khai thác và ứng dụng trong sản xuất, đời sống như sâm ngọc linh, tôm mũ ni, cá hô, lúa bản địa chất lượng cao, cây vù hương, lợn ỉ, góp phần nâng cao giá trị gia tăng các ngành, lĩnh vực, đặc biệt là ngành nông nghiệp.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: La Duy

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: La Duy

Theo Bộ trưởng, quá trình triển khai các nhà khoa học có thể gặp những khó khăn, cần giải pháp, cơ chế chính sách tháo gỡ, xây dựng hành lang pháp lý để chương trình hiệu quả hơn. Ông mong muốn nhà khoa học, các chuyên gia đề xuất các định hướng khoa học và công nghệ trong bảo tồn, đánh giá, khai thác và phát triển nguồn gene sinh vật đến năm 2030.

Ông Nguyễn Phú Hùng, Vụ trưởng Vụ KH&CN các ngành kinh tế – kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho hay tính đến năm 2023 tổng số nguồn gene thu thập và lưu giữ được là 80.911 (gấp 2,8 lần so với năm 2010). Trong đó Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam) thu thập hơn 10.000 nguồn gene các nhóm cây trồng; Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và các trường đại học có khoa lâm nghiệp thu thập bảo tồn gần 2.000 nguồn gene thuộc 70 loài cây lâm nghiệp, với các nguồn gene của nhiều loài quý hiếm, 100% nguồn gene bản địa về trồng ở một số nơi địa phương như Sơn La, Lào Cai, Ba Vì, Phú Thọ, Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Thuận. Đặc biệt số lượng nguồn gene có giá trị làm thuốc được phát hiện và thu thập, bảo tồn khoảng trên 7.000.

Ông Nguyễn Phú Hùng trình bày báo cáo đánh giá kết quả Chương trình quỹ gene giai đoạn 2015-2024 và định hướng triển khai giai đoạn 2025-2030. Ảnh: La Duy

Ông Nguyễn Phú Hùng trình bày báo cáo đánh giá kết quả Chương trình quỹ gene giai đoạn 2015-2024 và định hướng triển khai giai đoạn 2025-2030. Ảnh: La Duy

Báo cáo cũng chỉ ra hơn 14.000 nguồn gene đã được đánh giá chi tiết. Với đánh giá nguồn gene cây trồng tập trung về khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện môi trường bất thuận, phân tích chất lượng. Điển hình là cây lúa, Trung tâm Tài nguyên thực vật đã đánh giá, phục tráng 3 giống lúa tẻ gạo mầu địa phương với nhiều tiềm năng, đặc tính nổi trội. Nhóm nghiên cứu phối hợp với doanh nghiệp xây dựng mô hình liên kết sản xuất lúa gạo để đưa sản phẩm ra thị trường.

Các nguồn gene quý hiếm có giá trị kinh tế thuộc lĩnh vực lâm nghiệp, dược liệu, vật nuôi, thủy sản, vi sinh vật cũng được khai thác sử dụng hiệu quả. Hiện có hơn 1.500 nguồn gene về dược liệu, nhiều công nghệ ứng dụng trong mô hình bảo tồn cây thuốc tại Sa Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Hơn 50 loài dược liệu được khai thác và thương mại, trong đó có các gene quý như Sâm Ngọc Linh, tam thất hoang, đinh lăng; bảy lá một hoa, hà thủ ô đỏ. Hơn 391 nguồn gene của 80 loài thủy hải sản được lưu trữ, trong đó nhiều gene sử dụng cho chọn giống mang lại kinh tế cao. Các kết quả nghiên cứu đã góp phần nâng cao giá trị xuất khẩu thủy sản 6,7 tỷ USD năm 2015 lên 8,97 tỷ USD năm 2023, theo báo cáo.

“Hơn 300 nguồn gene động, thực vật và trên 700 nguồn gene vi sinh vật được đưa vào khai thác, làm chủ được 178 quy trình công nghệ, kỹ thuật về nhân giống, chọn tạo giống”, ông Hùng nói.

Tại hội thảo, 9 báo cáo tham luận từ đại diện Bộ, ngành, địa phương từ Thái Nguyên, Hà Nội, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, thành phố Cần Thơ cũng cho thấy các kết quả nổi bật. Thông qua các nhiệm vụ, sản phẩm OCOP 5 sao quốc gia như ngọc trai Hạ Long xuất khẩu sang Anh, Ấn Độ, Nhật Bản với giá trị khoảng 6-8 tỷ đồng/năm; Trà hoa vàng Quy hoa đang đàm phán để doanh nghiệp Hàn Quốc phân phối toàn cầu; Hồi Bình Liêu xuất khẩu đạt trên 50 tỷ đồng/năm. Một số nguồn gene đã phát triển thành sản phẩm hàng hóa tập trung, được xây dựng và bảo hộ thương hiệu như cam xã đoài, bưởi diễn, quýt Bắc Kạn, hồng không hạt, miến dong, vịt bầu cổ xanh, gạo bao thai Chợ Đồn, Khẩu nua lếch Ngân Sơn, Chè shan tuyết Bằng Phúc huyện Chợ Đồn.

Định hướng giai đoạn 2025-2030 Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết sẽ hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm khai thác tốt nhất nguồn gene quý hiếm và đặc hữu, có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh thu thập bảo tồn đến năm 2030 có trên 100.000 nguồn gene, cần tiếp tục xác định giá trị nguồn gene đã thu thập được. “Lựa chọn và đánh giá tiềm năng duy trì nguồn gene sinh vật có giá trị khoa học, kinh tế, xây dựng bản đồ gene của nguồn đặc hữu hoặc sản phẩm lực trọng điểm của Việt Nam”, ông Hùng cho hay.

Theo GS.TS Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, trong xu thế Việt Nam hướng tới phát triển kinh tế nền tảng sinh học kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, cách mạng công nghiệp 4.0, cho thấy tầm quan trọng và vai trò của nguồn gene bản địa trong phát triển kinh tế, xã hội dựa trên thế mạnh phát triển nông nghiệp và đa dạng nguồn gene bản địa. Do đó giai đoạn tới cần tiếp tục ưu tiên phát triển nghiên cứu cơ bản chuyên sâu về nguồn gene (số hóa nguồn gene theo chuẩn quốc tế, duy trì bảo tồn, đăng ký sở hữu trí tuệ…) kết hợp với nghiên cứu truyền thống trên các nguồn gene động vật, thực vật và vi sinh vật học.

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt (ở giữa) cùng các đại biểu dự hội thảo. Ảnh: La Duy

Các đại biểu dự hội thảo. Ảnh: La Duy

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái đánh giá chương trình đạt được 4/5 mục tiêu đặt ra, với hơn 80.000 nguồn gene đặc hữu, quý hiếm được lưu trữ, bảo tồn. Các báo cáo cho thấy sự đóng góp trong nhiều lĩnh vực khác nhau như tạo giống cây trồng vật nuôi mới, giống thủy sản mới hay cân nhắc ứng dụng thêm các công nghệ mới như đồng vị bức xạ, năng lượng nguyên tử tạo thế hệ gene mới. Với các địa phương, Thứ trưởng cho hay nghiên cứu nguồn gene góp phần tạo cây trồng chủ lực, hướng tới kinh tế xanh phát triển bền vững kết hợp du lịch, giúp công nghệ y dược phát triển.

Ghi nhận các ý kiến từ đại biểu, chuyên gia, Thứ trưởng ghi nhận những điểm tồn tại phải được khắc phục để triển khai tốt hơn trong giai đoạn tới. Ông nhấn mạnh cần hoàn thiện cơ chế, kêu gọi phê duyệt triển khai và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp và người dân. Thứ trưởng mong muốn cùng đề xuất phương pháp, quy trình, chia sẻ kinh nghiệm tri thức quốc tế, kết nối trung ương tới địa phương trong xây dựng, triển khai khung chương trình để không bị gián đoạn. Ông nhấn mạnh các kiến nghị từ địa phương cần được lưu tâm và cần có sự đồng hành từ doanh nghiệp.

Như Quỳnh

Lò phản ứng hút nước biển để sản xuất hydro trên tàu

Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) phát triển phương pháp mới để sản xuất nhiên liệu hydro với nước biển và bã cà phê.

Hai nhà nghiên cứu MIT Aly Kombargi (trái) và Niko Tsakiris (phải) với lò phản ứng hydro mới. Ảnh: Tony Pulson

Hai nhà nghiên cứu MIT Aly Kombargi (trái) và Niko Tsakiris (phải) với lò phản ứng hydro mới. Ảnh: Tony Pulson

Phương pháp sản xuất hydro của MIT có thể ứng dụng để cung cấp năng lượng cho động cơ hoặc pin nhiên liệu trong các phương tiện hàng hải, New Atlas hôm 28/7 đưa tin. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Cell Reports Physical Science.

Hydro là một yếu tố quan trọng trong sứ mệnh khử carbon do đốt cháy sạch, giàu năng lượng và khi dùng cho pin nhiên liệu thì chỉ thải ra nước. Nhưng một trở ngại lớn là hydro khó bảo quản và vận chuyển vì những phân tử tí hon có xu hướng rò rỉ qua thùng chứa và đường ống. Điều này không chỉ gây thất thoát mà lượng hydro dư thừa còn có thể gây hại trong khí quyển.

Công nghệ mới của MIT giúp sản xuất hydro ngay tại chỗ. Thứ duy nhất cần vận chuyển và bảo quản là viên nhôm, ổn định và dễ sử dụng hơn nhiều. Khi thử nghiệm, một viên nhôm nặng 0,3 g đặt trong nước ngọt khử ion đã tạo ra 400 ml hydro chỉ trong 5 phút. Khi tăng quy mô, nhóm nghiên cứu ước tính 1 g viên nhôm có thể tạo ra tới 1,3 lít hydro. Điều này dựa trên việc nhôm phản ứng rất mạnh với oxy. Do đó, khi cho nhôm vào nước, nó nhanh chóng tước O khỏi H2O và để H2 thoát ra.

Nhóm nghiên cứu đã xử lý trước viên nhôm với hợp kim gali và indi, cho phép phản ứng kéo dài hơn. Có một nhược điểm là gali và indi rất hiếm và đắt, nhưng nhóm nghiên cứu phát hiện rằng thực hiện phản ứng trong dung dịch ion khiến hợp kim kết tụ thành dạng có thể vớt ra và tái sử dụng. Nước biển chính là một dung dịch ion.

Vấn đề tiếp theo là tốc độ phản ứng trong nước biển rất chậm. Nhóm nghiên cứu khắc phục bằng cách thêm bã cà phê, giúp rút ngắn thời gian đáng kể, từ 2 tiếng xuống chỉ còn 5 phút. Chìa khóa ở đây là imidazole, một hợp chất trong caffeine.

Nhóm chuyên gia cho rằng phương pháp mới đặt nền tảng cho một lò phản ứng hydro thiết thực, cung cấp năng lượng cho các phương tiện trên biển. “Phương pháp này rất thú vị với các phương tiện hàng hải như thuyền hoặc tàu ngầm vì không cần mang theo nước biển. Nước biển luôn có sẵn”, Aly Kombargi, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết.

Thử nghiệm đầu tiên sẽ diễn ra với một tàu lượn dưới nước nhỏ. Nhóm nghiên cứu ước tính, con tàu có thể chạy liên tục 30 ngày bằng cách bơm nước biển từ môi trường xung quanh qua một lò phản ứng chứa khoảng 18 kg viên nhôm.

“Chúng tôi đang chứng minh một phương pháp mới để sản xuất nhiên liệu hydro, không cần mang hydro mà mang theo nhôm. Tiếp theo, chúng tôi cần tìm ra cách ứng dụng cho xe tải, tàu hỏa, có thể cả máy bay. Có lẽ thay vì mang theo nước, chúng tôi sẽ chiết xuất nước từ hơi ẩm xung quanh để sản xuất hydro”, Kombargi chia sẻ.

Thu Thảo (Theo New Atlas)