Australia chi 1,45 triệu AUD hỗ trợ đổi mới nông nghiệp bền vững tại Việt Nam

Kinh phí 1,45 triệu AUD tài trợ cho ba dự án để áp dụng các công nghệ tiên tiến có khả năng nâng cao năng suất nông nghiệp và thúc đẩy các thực hành nông nghiệp bền vững.

Chiều 1/8, Chính phủ Australia cùng Bộ Khoa học và Công nghệ công bố ba dự án công nghệ nông nghiệp tiên tiến nhận tài trợ thông qua quỹ Đối tác Đổi mới sáng tạo thuộc Chương trình Aus4Innovation. Ba dự án gồm:

“Nâng cao năng lực giám sát cây trồng và khả năng tiếp cận thông tin cho nông hộ nhỏ và cán bộ quản lý tại Việt Nam” của Đại học Southern Queensland hợp tác Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (VNSC). Dự án sử dụng công nghệ không gian địa lý, dữ liệu thực địa và thuật toán AI để tạo bản đồ ở quy mô trang trại cho cây lúa và cây ăn quả. Công nghệ giúp thu thập, cung cấp thông tin quan trọng về cây trồng nhằm nâng cao năng suất.

“Canh tác carbon chủ động ứng dụng trí tuệ nhân tạo và bản sao số để phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Thanh Hóa” do Đại học Griffith và Đại học Bách khoa Hà Nội nghiên cứu. Dự án phát triển nền tảng số được hỗ trợ bởi AI, cho phép định lượng khí thải nhà kính chính xác hơn và thúc đẩy ngành nông nghiệp carbon, từ đó góp phần vào các thực hành nông nghiệp bền vững và mang lại cơ hội tạo nguồn thu mới từ tín chỉ carbon.

“Tăng cường năng lực cho các nông hộ nhỏ thông qua hệ thống chứng nhận tiêu chuẩn và truy xuất nguồn gốc dựa vào AI nhằm hướng tới nông nghiệp bền vững tại Việt Nam” do Đại học Griffith và Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia thực hiện. Giải pháp dự án là nâng cao tiêu chuẩn nông nghiệp thông qua hệ thống AI và số hóa, đảm bảo giám sát nông trại hiệu quả, tăng khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Thông qua cảm biến từ drone và vệ tinh, dự án sẽ thu thập dữ liệu về sức khỏe và thuộc tính của cây trồng, sau đó xử lý bằng trí tuệ nhân tạo để phân loại. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Thông qua cảm biến từ drone và vệ tinh, dự án sẽ thu thập dữ liệu về sức khỏe và thuộc tính của cây trồng, sau đó xử lý bằng trí tuệ nhân tạo để phân loại. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Ông Andrew Goledzinowski, Đại sứ Australia tại Việt Nam, cho biết những sáng kiến không chỉ giải quyết các thách thức mới nổi mà còn đầu tư vào sự bền vững lâu dài của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ ông Bùi Thế Duy nhấn mạnh việc triển khai thành công các dự án này sẽ đánh dấu bước tiến quan trọng trong tham vọng của Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong việc ứng dụng các giải pháp công nghệ cao trong nông nghiệp.

Quỹ tài trợ Đối tác Đổi mới sáng tạo của Chương trình Aus4Innovation là một sáng kiến chiến lược nhằm thúc đẩy các giải pháp công nghệ đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Chương trình Aus4Innovation do CSIRO, cơ quan khoa học quốc gia Autralia, quản lý, tập trung vào chủ đề “Đổi mới sáng tạo công nghệ cao nhằm giải quyết các thách thức trong nông nghiệp, hướng đến phát triển bền vững”.

Tại vòng tài trợ 4, các dự án được tìm kiếm cần đáp ứng ứng dụng giải pháp công nghệ cao nhằm nâng cao năng suất nông nghiệp, phát triển thị trường cho nông sản, thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, thúc đẩy tính bao trùm xã hội.

Trong ba vòng tài trợ trước, 12 dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau như như nông nghiệp và thực phẩm, y tế, quản lý thiên tai và môi trường đã nhận được tổng cộng 5,3 triệu AUD. Các dự án này đã đóng góp đáng kể vào việc giải quyết các thách thức mới nổi trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam.

Chương trình Aus4Innovation thực hiện trong 10 năm (2018-2028) với tổng ngân sách 33,5 triệu AUD, nhằm củng cố hệ thống đổi mới sáng tạo của Việt Nam hướng đến phát triển kinh tế xã hội bền vững và bao trùm. Chương trình được tài trợ bởi Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia, đồng tài trợ và quản lý bởi CSIRO -cơ quan khoa học quốc gia Australia với đối tác chiến lược là Bộ Khoa học và Công nghệ.

Như Quỳnh

Trung Quốc phát triển robot hình người biểu cảm chân thực

Nhằm tăng khả năng tương tác cảm xúc giữa robot với người dùng, các chuyên gia tìm cách tăng số lượng động cơ và biểu cảm trên khuôn mặt robot.

Giáo sư Liu Xiaofeng nói chuyện với một nghiên cứu sinh về robot hình người tại Đại học Hà Hải. Ảnh: Xinhua

Giáo sư Liu Xiaofeng nói chuyện với một nghiên cứu sinh về robot hình người tại Đại học Hà Hải. Ảnh: Xinhua

Liu Xiaofeng, giáo sư tại Đại học Hà Hải, tỉnh Giang Tô, miền đông Trung Quốc, cùng nhóm nghiên cứu của mình đang phát triển robot hình người với gương mặt có khả năng biểu cảm cao, Xinhua hôm 2/8 đưa tin. Nghiên cứu mới, xuất bản trên tạp chí quốc tế IEEE Transactions on Robotics, hướng đến tối ưu hóa công nghệ tương tác cảm xúc giữa người và robot.

Robot hình người thường gặp khó khăn khi truyền tải những biểu cảm khuôn mặt phức tạp và chân thực đặc trưng của con người. Điều này có thể cản trở khả năng tương tác với người dùng, Liu cho biết. “Để xử lý thách thức này, chúng tôi giới thiệu phương pháp toàn diện gồm hai giai đoạn nhằm trao cho robot tự động và giàu cảm xúc của chúng tôi khả năng thể hiện biểu cảm gương mặt một cách phong phú, tự nhiên”, ông nói.

Liu giải thích rằng trong giai đoạn đầu, phương pháp của họ tạo ra hình ảnh biểu cảm gương mặt của robot theo chỉ dẫn của các Đơn vị hành động (AU). Giai đoạn tiếp theo, họ hiện thực hóa một robot giàu cảm xúc với nhiều mức độ cử động gương mặt tự do, cho phép robot thể hiện những biểu cảm chi tiết.

Mọi người có thể quen thuộc hơn với “người kỹ thuật số” và “biên tập viên ảo” với khả năng tạo ra nhiều biểu cảm thời gian thực, theo Ni Rongrong, chuyên gia tại Đại học Thường Châu, đồng tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, robot hình người gặp phải những hạn chế nhất định, ví dụ như kích thước và số lượng động cơ, khiến việc này trở nên khó khăn hơn. “Ví dụ, robot hình người mà chúng tôi sử dụng trước đây chỉ có 9 động cơ siêu nhỏ bên dưới khuôn mặt, ít hơn nhiều so với số lượng cơ của mặt người”, Ni nói.

Do đó, nhóm nghiên cứu đã chia 9 động cơ trên khuôn mặt robot hình người thành 17 AU để mang lại những biểu cảm phong phú hơn và sự chuyển tiếp mượt mà hơn thông qua những cử động phối hợp. Họ dự định tiếp tục tăng số lượng AU trên khuôn mặt và trang bị cho robot khả năng tự động biểu cảm tinh tế.

Liu tin rằng khi khả năng tương tác cảm xúc của robot hình người tiếp tục tiến bộ, những robot với chỉ số cảm xúc và trí tuệ đều cao sẽ được sử dụng rộng rãi trong các viện dưỡng lão, trường mẫu giáo, trường giáo dục đặc biệt và các cơ sở khác. “Robot hình người sẽ không chỉ hỗ trợ hoặc thay thế con người hoàn thành một số nhiệm vụ mà còn mang lại nhiều giá trị cảm xúc hơn”, ông nói.

Thu Thảo (Theo Xinhua)

TP HCM tạo mọi điều kiện cho sinh viên nghiên cứu, sáng tạo

Chính quyền TP HCM luôn tạo điều kiện cho sinh viên phát huy tối đa năng lực, từ hỗ trợ học tập, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo…

Thông điệp được Phó chủ tịch UBND TP HCM Trần Thị Diệu Thúy nói tại lễ khai mạc Liên hoan Sinh viên Thế giới lần 1 và Diễn đàn Khoa học Sinh viên Quốc tế lần 8, năm 2024 tổ chức sáng 2/8. Sự kiện thu hút gần 180 đại biểu là sinh viên tiêu biểu của Việt Nam, Nga, Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Campuchia…

Phó chủ tịch UBND TP HCM khẳng định ở bất cứ quốc gia, vùng lãnh thổ nào, thanh niên luôn được quan tâm và có vai trò quan trọng, tiên phong tạo ra những con đường rộng mở, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững vì cộng đồng. Các đại biểu trẻ tham dự là sinh viên đam mê nghiên cứu khoa học, trăn trở về nhiều vấn đề trong cuộc sống và nỗ lực tìm kiếm giải pháp. Có bạn là những lãnh đạo trẻ của các tổ chức thanh niên, sinh viên. “Mỗi người có những sứ mệnh khác nhau nhưng tựu chung đều mong muốn để lại những giá trị tốt đẹp cho cộng đồng”, bà Thúy nói.

Phó chủ tịch UBND TP HCM Trần Thị Diệu Thúy phát biểu khai mạc diễn đàn, sáng 2/8. Ảnh: BTC

Phó chủ tịch UBND TP HCM Trần Thị Diệu Thúy phát biểu khai mạc diễn đàn, sáng 2/8. Ảnh: BTC

Dẫn số liệu gần nhất, lãnh đạo TP HCM cho biết, dân số thanh niên toàn cầu khoảng 1,8 tỷ người (tuổi từ 10 – 24). Trong khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, có hơn 30% dân số là lực lượng trẻ đang trong độ tuổi lao động, dồi dào về số lượng, không ngừng được nâng cao về chất lượng và trình độ chuyên môn. Do đó, theo bà Thúy thanh niên luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển mỗi quốc gia. Thanh niên, luôn tràn đầy năng lượng tích cực, lý tưởng, khát vọng, dấn thân với lẽ sống mình vì mọi người đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Họ cũng có đóng góp quan trọng cho hòa bình, an ninh và gắn kết tình hữu nghị giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ.

Phó chủ tịch TP HCM cam kết, chính quyền thành phố luôn nỗ lực tạo điều kiện để các bạn sinh viên, thanh niên phát huy tối đa tiềm năng, năng lực của mình, từ việc đẩy mạnh các hoạt động tình nguyện, tham gia giải quyết các vấn đề cộng đồng, đến việc hỗ trợ học tập, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo…

Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam, Phó bí thư Thành đoàn TP HCM Trần Thu Hà cho biết, thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội, khủng hoảng kinh tế, y tế… Những vấn đề này đang cần những sáng kiến để giải quyết hiệu quả. Bà tin tưởng thanh niên với năng lực tư duy sáng tạo, khả năng tiếp cận và áp dụng tri thức, công nghệ mới, tinh thần dấn thân, sẽ cùng nhau tạo nên những thay đổi tích cực hơn.

Các đại biểu là sinh viên quốc tế tham dự diễn đàn. Ảnh; BTC

Các đại biểu là sinh viên quốc tế tham dự diễn đàn. Ảnh; BTC

Liên hoan Sinh viên Thế giới lần 1 và Diễn đàn Khoa học Sinh viên Quốc tế lần 8, năm 2024 do Hội Sinh viên Việt Nam TP HCM, Thành đoàn phối hợp Đại học Quốc gia TP HCM tổ chức nhằm thúc đẩy các hoạt động kết nối, trao đổi kinh nghiệm hoạt động, học thuật giữa sinh viên thành phố với sinh viên các quốc gia. Trong khuôn khổ sự kiện, các bạn trẻ có các hoạt động tập huấn kỹ năng lãnh đạo, các chương trình thảo luận, nghị sự sinh viên. Các phiên báo cáo poster sẽ giới thiệu kết quả nghiên cứu và diễn đàn sinh viên với nghiên cứu khoa học là nơi các bạn trẻ chia sẻ kiến thức học thuật. Đại biểu cũng sẽ được tham gia hoạt động giao lưu, tham quan, trải nghiệm văn hóa, qua đó quảng bá, lan tỏa những nét đẹp văn hóa, thành tựu phát triển của TP HCM đến bạn bè quốc tế.

Hà An

Luật Khoa học công nghệ mới sẽ gỡ ‘điểm nghẽn’ thương mại hóa kết quả nghiên cứu

Luật Khoa học và Công nghệ 2013 sẽ được sửa, đổi tên thành Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, giúp gỡ vướng mắc về thể chế, thúc đẩy kết quả nghiên cứu ra thị trường.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy chia sẻ thông tin khi nói về Luật Khoa học và Công nghệ 2013 (sửa đổi) sẽ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến vào tháng 5/2025.

Thứ trưởng Bùi Thế Duy. Ảnh: Tùng Đinh

Thứ trưởng Bùi Thế Duy. Ảnh: Tùng Đinh

Theo Thứ trưởng, một trong những “điểm nghẽn” khiến kết quả nghiên cứu khó ra thực tiễn liên quan đến hành lang pháp lý. Trong đó về luật khoa học công nghệ cùng nhiều luật liên quan chưa chấp nhận việc các nhà khoa học nghiên cứu mà không cho ra kết quả. Điều này dẫn đến khi đăng ký nhiệm vụ, các nhà khoa học không dám đăng ký nội dung mới, chủ yếu làm nội dung mức an toàn cho nên không có tính mới và không đưa được vào cuộc sống. Bên cạnh đó, kết quả khoa học công nghệ cũng cần thời gian dài, phải từ 10-20 năm, mới đưa được vào cuộc sống, do đó nếu chỉ đánh giá kết quả thương mại hóa trong 1-5 năm, chưa thực sự đầy đủ.

Nguyên nhân thứ hai do sự tách biệt giữa khối nghiên cứu phát triển và sản xuất kinh doanh. Ông Duy cho hay, Luật Khoa học và Công nghệ 2013 đã nêu về vấn đề đặt hàng nghiên cứu, song việc đặt hàng phải từ doanh nghiệp hay gắn kết với trường đại học và doanh nghiệp phải thông qua hoạt động trao đổi cán bộ. Trong khi hiện nay hành lang trao đổi cán bộ chưa thuận lợi, chưa là hoạt động bắt buộc đối với giảng viên, nhà nghiên cứu. “Luật sửa đổi dự kiến đề xuất đưa ra hành lang để các nhà khoa học được sang làm việc với doanh nghiệp vẫn được coi là hoạt động nghiên cứu, giảng dạy”, ông nói.

Việc xác định rõ các khâu trong hoạt động nghiên cứu phát triển và hoạt động đổi mới sáng tạo, cũng là vấn đề lưu tâm trong sửa đổi luật. Hiện việc đặt vấn đề các nghiên cứu trường đại học phải được chuyển giao cho doanh nghiệp, chưa thực sự phù hợp thực tiễn. Do đó luật sửa đổi cần phải hướng thúc đẩy sản xuất thử nghiệm trong doanh nghiệp, phân tích thị trường để đưa ra sản phẩm cuối cùng. Ông lưu ý việc biến kết quả nghiên cứu thành hàng hóa dưới dạng tài sản trí tuệ để chuyển giao. “Luật sửa đổi sẽ tạo hàng lang tổ chức trung gian bảo hộ tài sản trí tuệ và hình thành thị trường khoa học công nghệ mới tạo thuận lợi để chuyển giao kết quả”.

Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ cũng gợi ý các chương trình quốc gia cần có cơ chế giao kết quả cho tổ chức chủ trì thuận lợi nhất, cần coi đầu tư khoa học công nghệ là đầu tư lâu dài, tự động giao quyền cho cơ quan chủ trì để tiếp tục sử dụng thương mại hóa, đầu tư thêm để tạo ra sản phẩm mới.

Trong các đề xuất sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ, Thứ trưởng Bùi Thế Duy nhấn mạnh vào các nhóm chính sách vấn đề mới. Theo đó các trường đại học dần trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh tương đương các viện nghiên cứu. Theo đó muốn phát triển được hoạt động khoa học công nghệ trong trường đại học cần có nội dung nghiên cứu, hoạt động, kinh phí đầu tư cho trường đại học. Ví dụ cần có chương trình đào tạo nghiên cứu sinh bằng nguồn kinh phí từ khoa học công nghệ.

Ông cho hay nhiều quốc gia trên thế giới coi nghiên cứu sinh là lực lượng nghiên cứu chủ yếu bởi ở độ tuổi trẻ trung, sáng tạo và hoạt động say mê trong công việc. Do đó cần phải xây dựng chương trình đào tạo, coi họ là nhà nghiên cứu, người lao động nghiên cứu chứ không chỉ là người đi học. “Cần có chương trình hỗ trợ sau khi nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình học, điều này giúp họ tiếp tục tự chủ triển khai hoạt động nghiên cứu”, ông Duy nhấn mạnh.

Thứ trưởng cho biết mong muốn đề xuất tách biệt đội ngũ nghiên cứu trường đại học, viện nghiên cứu khỏi quan niệm coi họ như cán bộ của đơn vị sự nghiệp công lập. Theo kinh nghiệm của thế giới, giảng viên, nghiên cứu viên được khuyến khích tham gia điều hành doanh nghiệp do Viện nghiên cứu, trường đại học thành lập dựa trên kết quả nghiên cứu và sở hữu trí tuệ của họ. Điều này giúp đưa hoạt động đổi mới sáng tạo về gần trường đại học, cũng như khuyến khích thành lập doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) trong trường đại học, vừa giúp mang lại nguồn thu vừa thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

GS.TS Nguyễn Hữu Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội kỳ vọng luật sửa đổi sẽ tạo ra một hành lang pháp lý mới, tạo điều kiện phát triển và khuyến khích đổi mới sáng tạo. “Đây là lần đầu tiên chúng ta chính thức hóa khái niệm đổi mới sáng tạo, sẽ giúp xây dựng một văn hóa mới cho người Việt Nam”, ông nói. Hiện Đại học Quốc gia Hà Nội chú trọng đầu tư khởi nghiệp sáng tạo sinh viên. Theo GS Đức, cần phải chuẩn bị nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo, bắt đầu ngay từ bổ sung môn học về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo thành môn học chung để học trò có kỹ năng, năng lực đổi mới sáng tạo.

Ông Nguyễn Phương Tuấn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội nhìn nhận Luật Khoa học và Công nghệ 2013 đã lạc hậu và không đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Các luật sửa đổi và bổ sung gần đây, như về đất đai, quy hoạch, giao dịch điện tử, và căn cước công dân, đã được ban hành nhằm dự báo và thích ứng với tình hình mới. Do đó, “nếu chúng ta tiếp tục trì hoãn việc sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ 2013 sẽ không còn phù hợp với thông lệ quốc tế và các pháp luật hiện hành”, ông nói.

Kỹ sư Viettel nghiên cứu Khối vô tuyến trạm thu phát sóng 5G. Ảnh: T. Hương

Kỹ sư Viettel nghiên cứu Khối vô tuyến trạm thu phát sóng 5G. Ảnh: T. Hương

Đồng bộ các quy định của Luật với các chính sách tài chính

Hiện cơ chế đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Thứ trưởng Duy cho biết Bộ Khoa học và Công nghệ đã nghiên cứu và đánh giá toàn bộ hệ thống pháp luật, bao gồm rất nhiều luật liên quan. Thực tế cho thấy còn thiếu sự đồng bộ giữa pháp luật về khoa học công nghệ và pháp luật về tài chính.

Theo đó, việc đầu tiên cần giải quyết là làm thế nào để đồng bộ các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ với các chính sách tài chính hiện có, nhằm tận dụng tối đa tất cả các chính sách này.

Thứ hai là, khi đã có đầu tư và nguồn lực, cần phải sử dụng một cách hiệu quả, thông thoáng và nhanh chóng. “Để đạt được điều này, ngành khoa học và công nghệ cần phải sửa đổi mạnh mẽ các quy định liên quan đến nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đề tài, dự án, phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính…”, ông Duy nói. Mục tiêu là để công khai, minh bạch, từ đó chọn lựa những đề tài và nhiệm vụ tốt nhất một cách nhanh chóng và thuận lợi.

Bên cạnh đó cần phải điều chỉnh các quy định về mua sắm và đấu thầu khi sử dụng kinh phí đầu tư cho công nghệ, bao gồm cả kinh phí đầu tư công của Nhà nước và kinh phí của doanh nghiệp. Điều này sẽ khuyến khích các cơ chế hỗ trợ của Nhà nước. “Cần thiết phải nghiên cứu các vấn đề mới, công nghệ lõi, và thậm chí mua các kết quả nghiên cứu và sáng chế từ nước ngoài, sau đó chuyển giao cho doanh nghiệp để họ có thể sử dụng và phát triển”, Thứ trưởng Duy nói.

Ở góc độ “tìm tiếng nói chung giữa các nhà quản lý, nhà đầu tư tài chính và nhà khoa học”, Thứ trưởng Duy cho rằng cần chia sẻ quan điểm kinh phí nhà nước đầu tư cho kết quả khoa học và công nghệ nên được xem là nguồn đầu tư lâu dài. Thay vì yêu cầu thanh toán ngay, nên giao kinh phí cho các đơn vị chủ trì và đơn vị sản xuất để họ có thể đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Khi các đơn vị này tạo ra việc làm và đóng thuế cho Nhà nước, chúng ta sẽ thu hồi nguồn vốn qua thuế và tái đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ. Để đạt được điều này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan khoa học và công nghệ và cơ quan tài chính để hiểu nhau và phối hợp hiệu quả.

Theo đó Bộ sẽ đề xuất trong Luật các quy định về việc xác định cái gì là tài sản và cái gì không phải là tài sản trong kết quả khoa học và công nghệ. Ví dụ, những kết quả đã được công bố rộng rãi và trở thành tri thức của nhân loại không thể coi là “tài sản riêng”. “Chúng tôi tin rằng việc chia sẻ quan điểm này sẽ giúp điều chỉnh hành lang pháp lý của Luật Khoa học và Công nghệ” cũng như các luật khác, để chúng trở nên phù hợp và hoạt động hiệu quả hơn, từ đó tạo ra một môi trường thông thoáng cho hoạt động Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo”, ông Duy nhấn mạnh.

Như Quỳnh

Sách mới của Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật

1. Sổ tay thuật ngữ viết tắt Anh – Việt dùng trong ngành dược

Trong quá trình tiếp cận với các tài liệu dược học tiếng Anh, đặc biệt là tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các cơ quan quản lý dược như: Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (US FDA), Cơ quan Quản lý Dược châu Âu (EMA), sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học… bạn đọc sẽ gặp rất nhiều thuật ngữ dưới dạng viết tắt (Acronyms & Abbreviations). Cùng với quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, thuật ngữ viết tắt đang được công nhận và sử dụng ngày càng phổ biến trong nhiều ngành khoa học và lĩnh vực kinh tế – kỹ thuật, trong các ấn phẩm và tạp chí chuyên ngành. Được cấu tạo từ các ký tự đầu của một tổ hợp từ khoa học – kỹ thuật tiếng Anh, thuật ngữ dưới dạng viết tắt có khả năng chuyển tải thông tin nhanh và làm cho văn bản, tài liệu được ngắn gọn, sáng sủa hơn, tránh lặp lại… Tuy nhiên, nhiều khi thuật ngữ dưới dạng viết tắt lại là thách thức cho người đọc. Ghi nhớ các thuật ngữ viết tắt đối với những người đọc bận rộn là một việc khó khăn.

Các thuật ngữ viết tắt trong tài liệu này được chỉnh lý và biên soạn trên cơ sở Phụ lục I – Thuật ngữ Dược học viết tắt của ấn phẩm Thuật ngữ Dược học Anh – Việt tái bản lần thứ nhất năm 2020, được bổ sung khoảng 1.500 thuật ngữ mới. Tác giả hy vọng cuốn sách này có thể giúp các sinh viên dược khoa, dược sỹ… làm quen với các thuật ngữ viết tắt thường dùng và có thể tra cứu dạng  đầy đủ (tổ hợp từ nguyên dạng) các thuật ngữ này khi tiếp cận với các tài liệu tiếng Anh chuyên ngành dược học, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý dược và công nghiệp dược.

2.  Sức bền vật liệu

Sức bền vật liệu là môn học cơ sở cho các ngành kỹ thuật cơ khí, công nghệ chế tạo máy, kỹ thuật cơ điện tử, kỹ thuật nhiệt và kỹ thuật xây dựng ở trình độ đại học. Môn học cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản về thiết kế các cấu kiện xây dựng hay các chi tiết máy nhằm đáp ứng các yêu cầu về an toàn và tính kinh tế. Để đáp ứng sự thay đổi trong chương trình đào tạo và tích hợp giữa lý thuyết và thực hành, nhóm tác giả đã biên soạn lại giáo trình môn học cho phù hợp với nội dung giảng dạy của các chương trình đào tạo thuộc Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.

Giáo trình “Sức bền vật liệu” được tích hợp thêm phần thực hành thí nghiệm trong mỗi chương để sinh viên có thể vận dụng phần lý thuyết đã học vào giải thích kết quả của quá trình thí nghiệm. Nhóm tác giả đã chọn lọc nhiều bài tập từ các tình huống thực tế để sinh viên có thể vận dụng tốt hơn các kiến thức được học trong việc mô hình hóa, lựa chọn phương pháp tính toán phù hợp. Bên cạnh đó, giáo trình còn đưa thêm các ví dụ mô phỏng bằng các phần mềm hiện đại như Abaqus để sinh viên có thể vận dụng so sánh với lý thuyết được học và làm quen với các thuật ngữ tiếng Anh liên quan đến tính toán thiết kế bền.

Rà soát mức độ sẵn sàng thực hiện quy định về chống phá rừng của Liên minh châu Âu

Ngày 30/07/2024, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) đã phối hợp với Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn) tổ chức Hội thảo rà soát mức độ sẵn sàng thực hiện quy định về chống phá rừng của Liên minh châu Âu (EUDR) cho ngành cà phê và gỗ ở Việt Nam. Hội thảo nhằm cập nhật những thông tin mới nhất về EUDR và thảo luận về kết quả rà soát, đánh giá mức độ sẵn sàng thực hiện EUDR được tiến hành ở cả cấp quốc gia và cấp tỉnh.

Các đại biểu tham dự Hội thảo.

EUDR có hiệu lực từ ngày 29/06/2023, trong đó có quy định, các sản phẩm được đưa vào hoặc xuất khẩu từ thị trường châu Âu phải có thể truy xuất được nguồn gốc, không phá rừng và được sản xuất hợp pháp. Các công ty lớn hơn nhập khẩu các mặt hàng này vào châu Âu phải tuân thủ EUDR từ ngày 30/12/2024, trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) phải tuân thủ từ ngày ngày 30/06/2025. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cùng các bên liên quan tại Việt Nam đã chủ động thích ứng với EUDR thông qua xây dựng và ban hành Khung kế hoạch hành động nhằm tuân thủ quy định này. Khung kế hoạch này cung cấp hướng dẫn toàn diện cho các tổ chức cấp quốc gia và cấp tỉnh, đảm bảo các hành động thiết thực được thực hiện để hỗ trợ các quy trình thẩm định. Hội thảo nêu bật những nỗ lực của Việt Nam trong tiến trình thực hiện EUDR, đặc biệt là trong lĩnh vực cà phê và gỗ, đồng thời cung cấp những thông tin thực tế hỗ trợ cho các kế hoạch hành động theo các yêu cầu của EUDR.

Ông Patrick Haverman – Phó Đại diện thường trú của UNDP Việt Nam, cho biết: Những phát hiện của đánh giá độ sẵn sàng sẽ cung cấp thông tin cho các chiến lược và hành động đảm bảo rằng, Việt Nam vẫn là quốc gia đi đầu trong sản xuất bền vững và không gây mất rừng. Ông cũng nhấn mạnh rằng, trước hết, việc chia sẻ dữ liệu và bản đồ là điều cần thiết. Cần thiết lập các giao thức rõ ràng về cách Chính phủ sẽ chia sẻ dữ liệu và bản đồ với các bên, bao gồm các nền tảng sẽ được sử dụng và các loại dữ liệu có thể được chia sẻ. Đồng thời cần phát triển các phương pháp phân tích định nghĩa rừng, không mất rừng và phân tích rủi ro…

Tại Hội thảo, các đại biểu đã chia sẻ kinh nghiệm của một số quốc gia. Theo đó, hệ thống mã nông hộ quốc gia của Peru bao gồm các điểm GPS cho hơn 2 triệu nông dân đã đăng ký với mục tiêu thu thập 500.000 định vị đa giác vào tháng 12/2024 cho các nhà sản xuất cà phê và ca cao. Nông dân sử dụng ứng dụng tự mô tả để thêm thông tin về quyền sử dụng đất, năm trồng và dữ liệu sản xuất, hỗ trợ các hệ thống truy xuất nguồn gốc trong tương lai. Nền tảng quốc gia SatuData của Indonesia cung cấp nhiều bản đồ sử dụng đất và sự thay đổi của đất, được liên kết với một trang web truy xuất nguồn gốc mới cho dầu cọ, giúp các bên truy cập dữ liệu và phương pháp này cho mục đích giải trình. Bờ Biển Ngà và Ghana đều đã thiết lập các hệ thống truy xuất nguồn gốc ca cao quốc gia với mã nông hộ và định vị đa giác các vườn ca cao, hỗ trợ kiểm soát chất lượng, dịch vụ khuyến nông và kiểm tra tuân thủ thông qua thông tin chuỗi lưu ký được số hóa.

Hội thảo là một trong những hoạt động của Dự án “Quản lý cảnh quan bền vững toàn diện thông qua cách tiếp cận địa bàn phát triển bền vững không gây mất rừng tại Lâm Đồng và Đắk Nông của Việt Nam” (gọi tắt là dự án iLandscape) do Liên minh châu Âu tài trợ.

VH

Phát triển nhân lực là yếu tố then chốt thu hút đầu tư ngành bán dẫn

Việt Nam có nhiều tiềm năng và cơ hội phát triển ngành công nghiệp bán dẫn với sự gia nhập của các tập đoàn hàng đầu thế giới và sự tham gia của nhiều doanh nghiệp lớn trong nước. Khu Công nghệ cao Hòa Lạc (CNC) kết hợp với các viện trường, doanh nghiệp chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ hoạt động nghiên cứu, đáp ứng nhu cầu khi các dự án lớn vào đầu tư.
Thông tin trên được ông Trần Đắc Trung, Phó Ban quản lý Khu CNC chia sẻ tại Hội thảo “Phát triển nhân lực cho công nghiệp bán dẫn” ngày 30/7/2024, tại Hà Nội.
Ông Trần Đắc Trung cho biết, CNC và công nghiệp bán dẫn là ưu tiên hàng đầu trong thu hút đầu tư. Để thu hút đầu tư ngành bán dẫn, phát triển nhân lực là yếu tố then chốt. Muốn làm việc này cần làm tốt việc kết nối ba nhà gồm: Nhà nước, nhà trường và doanh nghiệp.
Ông Trần Đắc Trung phát biểu tại Hội thảo.
Theo ông Trần Đắc Trung, trong thời gian tới, Khu CNC sẽ xây dựng danh mục các dự án hạ tầng xã hội cần thiết để thu hút, đáp ứng nhu cầu làm việc và học tập của chuyên gia, nhà nghiên cứu, sinh viên, doanh nghiệp. Đây cũng là nơi đặt trụ sở của nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn như FPT, Viettel, VKIST, NIC… Các đơn vị này sẽ tham gia vào việc kết nối, đào tạo nhân lực bán dẫn đáp ứng nhu cầu thực tế.
Đặt công nghiệp bán dẫn là 1 trong 9 ngành mũi nhọn phát triển, theo đại diện Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST), trong thời gian tới, cùng với sự hỗ trợ của Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc, VKIST sẽ tập trung  đào tạo nhân lực và xây dựng trang thiết bị cho phòng nghiên cứu vi mạch, bán dẫn tại Việt Nam. VKIST cũng có kế hoạch hợp tác với công ty Accretech (Nhật Bản) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chất bán dẫn và hệ thống đo lường chính xác để xây dựng phòng nghiên cứu.
Trong khuôn khổ Hội thảo diễn ra Tọa đàm về thế mạnh, cơ hội, thách thức của Khu CNC; vai trò, nhiệm vụ của Ban Quản lý/doanh nghiệp/viện nghiên cứu/trường đại học trong việc thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp bán dẫn Khu CNC; những định hướng phát triển nhân lực ngành bán dẫn tại Khu CNC.
Các đại biểu tham gia Tọa đàm chia sẻ thế mạnh, cơ hội, thách thức trong việc thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
TS Võ Xuân Hoài, Phó Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) cho biết, Đề án “Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050” dự báo cần khoảng 50 nghìn kỹ sư ngành công nghiệp bán dẫn. Trên thực tế, qua khảo sát các trường đại học lớn của Việt Nam cho thấy, Việt Nam hoàn toàn có khả năng đào tạo 50 nghìn kỹ sư ngành công nghiệp bán dẫn. Do vậy, thời gian tới, các chương trình đào tạo của Việt Nam cần được đa dạng hóa, chú trọng nâng cao, chuyển đổi và liên thông; việc hợp tác đào tạo quốc tế cần được triển khai bài bản, hiệu quả, có trọng tâm; xây dựng nguồn nhân lực phải đi đôi với xây dựng hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn và dựa trên thế mạnh và lộ trình phát triển của Việt Nam.
Đồng quan điểm trên, TS Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học FPT cho rằng, có 3 thách thức lớn trong đào tạo nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn, đó là: Đào tạo số lượng lớn cho một ngành công nghiệp; thời gian đào tạo ngắn bởi trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam có cơ hội trong 3 năm là tối đa; và nguồn nhân lực này buộc phải “nhảy” vào cuộc chơi toàn cầu, nghĩa là phải đào tạo chuẩn quốc tế để có thể làm việc và học tập ở nước ngoài.
Theo TS. Lê Trường Tùng, trường Đại học FPT năm 2024 dự kiến tuyển 1.000 chỉ tiêu liên quan đến thiết kế vi mạch. Nhà trường cũng đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các trường đại học ở Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản…

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Công bố khung Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương năm 2024

PII 2024 vẫn giữ đánh giá, điểm số và xếp hạng theo 52 chỉ số song được thay đổi cách tính toán chỉ số thành phần, nguồn thu thập dữ liệu để thuận lợi cho các địa phương.

Thông tin được Bộ Khoa học và Công nghệ công bố tại hội thảo sáng 1/8. Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh nhấn mạnh Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) hiện là bộ chỉ số duy nhất tổng hợp và đa ngành phản ánh tổng thể hiện trạng kinh tế. Thứ trưởng cho hay khi PII 2023 công bố, nhiều địa phương còn gặp một số khó khăn và chưa thực sự khai thác được bộ chỉ số này.

Theo ông Minh, việc xếp hạng PII không phải chỉ quan tâm về thứ hạng, mà thông qua các chỉ số về thể chế, con người, môi trường kinh doanh, nghiên cứu phát triển, các địa phương nhìn nhận được các điều kiện nào giúp thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Ông cũng thẳng thắn chỉ ra các địa phương vẫn tập trung mạnh phát triển kinh tế dựa trên sản xuất, chưa có nhiều hoạt động khai thác phát triển dựa trên khoa học công nghệ.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh phát biểu khai mạc hội thảo sáng 1/8. Ảnh: TTTT

Thứ trưởng Hoàng Minh phát biểu khai mạc hội thảo sáng 1/8. Ảnh: TTTT

Để giúp các địa phương khai thác hiệu quả bộ chỉ số này, Học viện Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức hội thảo cung cấp thông tin, làm rõ cách khai thác kết quả, cách tính toán, hướng dẫn cách thu thập, khai thác dữ liệu, đặc biệt tài liệu minh chứng phục vụ tính toán chỉ số.

“Từ thành công của PII 2023, Bộ Khoa học và Công nghệ mong muốn các UBND tỉnh có điều chỉnh, nhận thức nhằm phát huy thực sự bộ chỉ số trở thành công cụ hữu hiệu trong quản lý điều hành cho mỗi địa phương”, ông nói.

Khung chỉ số PII 2024 vẫn giữ đánh giá, điểm số và xếp hạng theo 52 chỉ số thành phần, thiết kế hai nhóm chỉ số đầu vào và đầu ra (7 trụ cột). Trong đó các dữ liệu được thu thập từ địa phương là 13 chỉ số, đồng thời sử dụng kết quả từ các bộ chỉ số khác như cải cách hành chính; Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; Chuyển đổi số; Hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh.

Ông Nguyễn Võ Hưng, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, Học viện Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo, cho biết cấu trúc và tiêu chí về khung chỉ số gần như giữ nguyên “dựa theo lời khuyên từ chuyên gia quốc tế”. Tuy nhiên bộ chỉ số có thay đổi một số tính toán chỉ số thành phần, nguồn thu thập dữ liệu.

Cụ thể, ở trụ cột thể chế, liên quan đến việc ban hành và thực hiện các chính sách thúc đẩy phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo được bổ sung thêm lĩnh vực chính sách phát triển văn hóa, nghệ thuật và du lịch. Ở trụ cột vốn con người và nghiên cứu phát triển, điểm trung bình các môn thi tốt nghiệp THPT cũng có thay đổi bằng cách tính điểm trung bình 5 môn thi, bổ sung thêm lĩnh vực nhân văn bên cạnh kỹ thuật, khoa học. Hay các chỉ số về tỷ lệ học sinh phổ thông tham gia cuộc thi nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hay nguồn nhân lực, chi cho nghiên cứu phát triển cũng được bổ sung số liệu từ Tổng cục thống kê, Bộ ngành liên quan thay vì chỉ địa phương cung cấp như trước.

PII 2024 cũng tìm các chỉ số mới trong cách đánh giá để phù hợp thực tiễn và xu hướng phát triển như hạ tầng chung, quản trị môi trường, trình độ phát triển doanh nghiệp như giữa các địa phương có chênh lệch về số lượng doanh nghiệp chế biến chế tạo với doanh nghiệp dịch vụ. Theo ông Hưng, việc điều chỉnh bổ sung này dựa trên góp ý xếp hạng hiện tại còn thiên về đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất, công nghiệp mà chưa chú trọng các chỉ số dịch vụ, văn hóa. “Bộ chỉ số cũng điều chỉnh liên quan đến số đơn đăng ký và chỉ dẫn địa lý bằng việc xem xét cả số đơn đã nộp thay vì chỉ lấy số lượng đơn đã cấp”, ông nêu.

Đại biểu đơn vị Sở khoa học và Công nghệ địa phương tham dự hội thảo. Ảnh: Xuân Bình

Đại biểu đơn vị Sở khoa học và Công nghệ địa phương tham dự hội thảo. Ảnh: Xuân Bình

Tại hội thảo, đại diện các Sở Khoa học và Công nghệ cũng thảo luận về phương pháp, tiêu chí tính toán về tỷ lệ doanh nghiệp, chỉ số về sở hữu trí tuệ hay tính toán theo chỉ số tương đương… đồng thời được hướng dẫn thu thập và cung cấp dữ liệu, tài liệu minh chứng.

Theo PGS.TS Vũ Văn Tích, Giám đốc Học viện Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo, các địa phương cần lưu ý trong thu thập dữ liệu, cung cấp tài liệu minh chứng đầy đủ về chỉ số. Ông mong muốn việc tiếp cận bộ chỉ số theo cách xếp hạng ranking (thứ hạng) được chuyển sang cách xếp hạng rating (xếp hạng theo đánh giá cấp độ sao) để thấy hiện trạng của từng địa phương, qua đó so sánh được với các địa phương khác.

Một hội thảo nội dung tương tự cũng được tổ chức tại TP HCM vào ngày 8-9/8.

Năm 2023, lần đầu tiên bộ chỉ số được Học viện Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng trên toàn quốc. Bộ chỉ số hướng đến cung cấp bộ công cụ có cơ sở khoa học và thực tiễn cho lãnh đạo các cấp để ra quyết định, xây dựng và thực thi chính sách, cũng như cung cấp thông tin tham khảo hữu ích về môi trường đầu tư, điều kiện nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh ở địa phương.

Ở lần xếp hạng đầu tiên, trong 10 địa phương dẫn đầu có 5 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội (xếp hạng 1), TP HCM (hạng 2), Hải Phòng (hạng 3), Đà Nẵng (hạng 4), Cần Thơ (hạng 5) và 5 địa phương có công nghiệp phát triển nhất là Bắc Ninh (hạng 6), Bà Rịa- Vũng Tàu (hạng 7), Bình Dương (hạng 8), Quảng Ninh (hạng 9) và Thái Nguyên (hạng 10).

Như Quỳnh

Sửa đổi toàn diện Luật KH&CN nhằm thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KH,CN&ĐMST trong thời gian tới

Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) sửa đổi sẽ thiết kế đầy đủ, toàn diện các giải pháp thúc đẩy không chỉ hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ mà còn thực sự chú trọng hơn tới các giải pháp thúc đẩy ứng dụng và truyền bá tri thức trong thực tiễn. Không phân biệt đối xử công – tư, khuyến khích, thúc đẩy để huy động sự vào cuộc mạnh mẽ hơn của khu vực ngoài công lập, khu vực tư nhân trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Phóng viên của Trung tâm NC&PT truyền thông KH&CN đã có buổi trao đổi với  Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Bùi Thế Duy về các nội dung liên quan đến Luật KH&CN sửa đổi.

Sửa đổi Luật KH&CN theo kịp xu hướng chung của thế giới

Bối cảnh hiện tại đặt ra những thách thức gì đối với việc hoàn thiện hành lang pháp lý về KH&CN thưa Thứ trưởng?

Luật KH&CN 2013 đã cập nhật những thách thức và xu hướng mới, phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng và Chính phủ nhằm thúc đẩy KH&CN trong giai đoạn 2015-2020.

Tuy nhiên, sau 10 năm triển khai, bối cảnh trong nước và quốc tế đã có nhiều thay đổi, tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của KH&CN và sự bùng nổ của công nghệ số. Những thay đổi này đã đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ. Các quốc gia đầu tư mạnh mẽ vào KH&CN đã nhanh chóng vượt qua bẫy thu nhập trung bình để trở thành quốc gia thu nhập cao. Cùng với đó, khái niệm “nghiên cứu, phát triển” đã dần được thay thế bằng “nghiên cứu phát triển và ĐMST”. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới, hoạt động này không chỉ diễn ra tại các viện nghiên cứu, trường đại học mà còn phổ biến trong các doanh nghiệp (DN). Nhiều DN, đặc biệt là DN tư nhân thậm chí đầu tư vào nghiên cứu cơ bản để tạo nền tảng cho các phát minh và ứng dụng công nghệ trong kinh doanh.

Bên cạnh đó, với yêu cầu ngày càng cao từ thực tiễn, trong 10 năm qua Đảng và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản thể hiện quan điểm và chủ trương mới liên quan đến khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST), đòi hỏi cần được thể chế hóa để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Vì vậy, các nội dung này cần được thể chế hóa kịp thời vào trong Luật.

Thứ trưởng Bùi Thế Duy: Luật KH&CN sửa đổi sẽ thiết kế đầy đủ, toàn diện các giải pháp thúc đẩy không chỉ hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.

Luật KH&CN 2013 sẽ được đổi tên thành Luật KH,CN&ĐMST. Tuy nhiên, các quy định về ĐMST đã được đề cập trong một số luật hiện hành như Luật KH&CN 2013 và Luật Chuyển giao công nghệ. Vậy, Dự thảo luật mới sẽ quy định về nội dung ĐMST như thế nào, và liệu có một chính sách riêng biệt về ĐMST trong Luật không?

Khái niệm ĐMST đã được định nghĩa trong Luật KH&CN 2013, và cũng có thể xuất hiện trong một số luật khác. Tuy nhiên, nội hàm đầy đủ của ĐMST cùng các thành tố liên quan đến nó vẫn chưa được quy định rõ ràng trong bất kỳ văn bản pháp luật nào.

Để thúc đẩy hoạt động ĐMST, cần có sự kết nối chặt chẽ giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và DN. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao, cần sự tham gia hỗ trợ từ nhiều thực thể khác. Ví dụ như các quỹ đầu tư tài chính, các cơ quan nhà nước, các tổ chức trung gian, các dịch vụ tài chính, các tổ chức về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, cũng như các tổ chức dịch vụ sở hữu trí tuệ đều đóng vai trò quan trọng trong hoạt ĐMST.

Ngoài việc ứng dụng công nghệ, ĐMST còn yêu cầu phải thay đổi quy trình quản lý, sản phẩm, dịch vụ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chỉ việc mua sắm dây chuyền máy móc công nghệ mới mà không thay đổi các yếu tố khác sẽ không tạo ra giá trị gia tăng đáng kể. Hoạt động ĐMST cần phải gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu phát triển và sản xuất kinh doanh.

Trên thế giới, đã hình thành một phong trào về ĐMST, dẫn đến việc phát triển các khái niệm như hệ thống ĐMST quốc gia, hệ thống ĐMST ngành và các mô hình kết nối khác. Việt Nam cũng đang chuyển mình theo xu hướng toàn cầu này, chuyển sang mô hình phát triển hệ thống ĐMST quốc gia, trong đó DN đóng vai trò trung tâm và viện nghiên cứu, trường đại học là các chủ thể nghiên cứu chính. Bên cạnh việc ứng dụng KH&CN, hoạt động ĐMST còn tập trung vào việc cải tiến quy trình sản xuất.

Luật KH&CN lần này dự kiến sẽ thiết lập các hành lang pháp lý đầy đủ để thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ĐMST quốc gia, đồng thời khuyến khích hoạt động ĐMST trong DN, cộng đồng và trong các cơ quan quản lý nhà nước. Những quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các luật khác, như Luật Thuế, Luật Đất đai…, cung cấp các ưu đãi nhằm thúc đẩy hoạt động KH,CN&ĐMST.

Tăng cường nguồn nhân lực KH,CN&ĐMST

Con người đóng vai trò then chốt và quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đây cũng là mục tiêu quan trọng của Chiến lược KH,CN&ĐMST đến năm 2030. Vậy, Luật KH&CN sửa đổi sẽ đưa ra những giải pháp như thế nào để tăng cường nguồn nhân lực NC&PT, nhằm đạt được các mục tiêu của Chiến lược này?

Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, để phát triển dựa trên KH,CN&ĐMST, số lượng cán bộ NC&PT cần đạt khoảng 12 người/vạn dân. Để đạt được mục tiêu tăng cường số lượng cán bộ nghiên cứu phát triển cũng như nâng cao mức đầu tư xã hội, cần phải thực hiện các cải cách toàn diện, bao gồm việc tích hợp các hoạt động NC&PT vào trong Luật.

Để tăng cường đầu tư cho KH&CN, các quốc gia phát triển đã tìm cách nâng cao tỷ lệ đầu tư từ xã hội. Thông thường, tỷ lệ đầu tư từ nhà nước sẽ giảm từ mức 100% xuống còn khoảng 30%, và  tỷ lệ đầu tư từ xã hội sẽ tăng lên khoảng 70%.

Trong Luật KH&CN chúng tôi dự kiến trình Chính phủ và sau đó trình Quốc hội nhằm mục tiêu tăng số lượng cán bộ nghiên cứu từ 7 lên 12 người/vạn dân. Giải pháp là theo mô hình các quốc gia đã thực hiện, nhằm thúc đẩy đầu tư từ xã hội, DN và khu vực tư nhân vào KH&CN. Đầu tư này sẽ bao gồm tài chính và việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển, các viện nghiên cứu, cũng như hình thành các đội ngũ NC&PT trong các DN.

Vì vậy, Luật KH&CN lần này cần có những chính sách để tăng cường thu hút đầu tư từ xã hội. Trước tiên, Nhà nước sẽ triển khai các chương trình hỗ trợ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao kết quả nghiên cứu và kết nối các trường đại học với DN.

Thứ hai, cần thiết lập các cơ chế khuyến khích, chẳng hạn như ưu đãi thuế và giảm tiền thuê đất cho các DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu khó khăn.

Tôi cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng cường số lượng cán bộ nghiên cứu và nguồn đầu tư xã hội, Luật KH&CN cần được sửa đổi toàn diện, bao gồm việc tích hợp các hoạt động NC&PT của toàn xã hội vào trong Luật, không chỉ dựa vào các quy định hiện tại.

Việc sửa đổi Luật KH&CN nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ĐMST quốc gia, trong đó DN là trung tâm và viện nghiên cứu cũng như trường đại học đóng vai trò là các chủ thể nghiên cứu mạnh. Vậy, những chính sách nào sẽ được đề xuất trong Luật sửa đổi sắp tới để hỗ trợ các đối tượng này?

Xin nhấn mạnh rằng trong các đề xuất sửa đổi Luật KH&CN, chúng tôi đã đề xuất các nhóm chính sách và vấn đề mới. Theo đó, các trường đại học đang dần trở thành những chủ thể nghiên cứu mạnh, tương đương với các viện nghiên cứu. Để phát triển hoạt động KH&CN trong các trường đại học, cần có nội dung nghiên cứu, nội dung hoạt động, và thậm chí là kinh phí đầu tư cho các trường đại học.

Ví dụ, chúng ta cần có những chương trình đào tạo nghiên cứu sinh bằng nguồn kinh phí từ KH&CN; cần có các chương trình hỗ trợ sau khi nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình học. Điều này giúp họ có thể tiếp tục tự chủ trong việc triển khai các hoạt động nghiên cứu. Đồng thời, cần xây dựng các trung tâm xuất sắc về KH&CN, kết nối chặt chẽ giữa nghiên cứu và đào tạo.

Rạng Đông là một doanh nghiệp sử dụng nguồn kinh phí sau thuế để đầu tư cho R&D.

Chúng tôi rất mong muốn đề xuất tách biệt đội ngũ nghiên cứu của các viện nghiên cứu và trường đại học khỏi quan niệm coi họ như cán bộ của đơn vị sự nghiệp công lập. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, giảng viên và nghiên cứu viên được khuyến khích tham gia điều hành các DN do viện nghiên cứu và trường đại học thành lập, dựa trên kết quả nghiên cứu và sở hữu trí tuệ của họ. Điều này giúp đưa hoạt động ĐMST từ DN đến gần hơn với trường đại học, thậm chí ngay trong trường đại học.

Chúng ta cũng khuyến khích thành lập các DN khởi nguồn (spin-off) trong trường đại học. Những DN này không chỉ tạo nguồn thu cho trường đại học mà còn giúp thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.

Đồng bộ các quy định của Luật với các chính sách tài chính hiện hành

Ngoài vấn đề về quỹ, cơ chế đầu tư tài chính cho KH&CN hiện còn nhiều bất cập và chưa phù hợp giữa quy định của Luật KH&CN với pháp luật về tài chính, bao gồm các lĩnh vực như đầu tư, đấu thầu, quản lý và sử dụng tài sản công. Vậy, Bộ đã đề xuất những giải pháp gì để giải quyết các bất cập này?

Chúng tôi cũng đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá kỹ lưỡng toàn bộ hệ thống pháp luật, bao gồm rất nhiều luật liên quan, không chỉ giới hạn trong Luật KH&CN. Tuy nhiên, các quy định này chưa thực sự đi vào cuộc sống cũng như chưa khuyến khích được các DN đầu tư vào KH&CN. Nguyên nhân là do vẫn còn thiếu sự đồng bộ giữa pháp luật về KH&CN và pháp luật về tài chính.

Việc đầu tiên cần giải quyết là làm thế nào để đồng bộ các quy định của Luật KH&CN với các chính sách tài chính hiện có, nhằm tận dụng tối đa tất cả các chính sách này.

Vấn đề thứ hai là, khi đã có đầu tư và nguồn lực, cần phải sử dụng một cách hiệu quả, thông thoáng và nhanh chóng. Để đạt được điều này, ngành KH&CN cần phải sửa đổi mạnh mẽ các quy định liên quan đến nhiệm vụ KH&CN, đề tài, dự án, phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính…

Thêm vào đó, cần phải điều chỉnh các quy định về mua sắm và đấu thầu khi sử dụng kinh phí đầu tư cho công nghệ, bao gồm cả kinh phí đầu tư công của Nhà nước và kinh phí của DN.

Đặc biệt, cần thiết phải nghiên cứu các vấn đề mới, công nghệ lõi, và thậm chí mua các kết quả nghiên cứu và sáng chế từ nước ngoài, sau đó chuyển giao cho DN để họ có thể sử dụng và phát triển.

Một vấn đề quan trọng khác là nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của DN thông qua các biện pháp cụ thể như: tập huấn, đào tạo nhân lực về chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ. Đồng thời, cần đưa các nhà khoa học vào DN để hỗ trợ và nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ.

Hiện nay, việc tìm tiếng nói chung giữa các nhà quản lý, nhà đầu như tư tài chính và nhà khoa học đang gặp nhiều khó khăn. Các nhà quản lý thường yêu cầu chi tiêu và quản lý ngân sách phải được thực hiện rất chặt chẽ, với việc thu chi và báo cáo thường xuyên. Trong khi đó, các nhà khoa học cho rằng lĩnh vực KH&CN thường có nhiều rủi ro, độ trễ và tính mạo hiểm, không phải lúc nào cũng cho kết quả ngay lập tức. Ông có ý kiến gì về nhận định này?

Nhận định này khá là phù hợp, đặc biệt khi xã hội và đất nước ngày càng phát triển. Những vấn đề mới phát sinh không thể được giải quyết ngay lập tức mà cần sự đồng thuận từ tất cả các lĩnh vực. Do đó, cần tìm cách cân bằng giữa hoạt động KH&CN với những yêu cầu này. Đây là một trong những nhiệm vụ mà chúng tôi đang thực hiện thường xuyên.

Ví dụ về vấn đề quản lý tài sản công, cần chia sẻ quan điểm rằng kinh phí nhà nước đầu tư cho kết quả KH&CN nên được xem là nguồn đầu tư lâu dài. Thay vì yêu cầu thanh toán ngay, nên giao kinh phí cho các đơn vị chủ trì và đơn vị sản xuất để họ có thể đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Khi các đơn vị này tạo ra việc làm và đóng thuế cho Nhà nước, chúng ta sẽ thu hồi nguồn vốn qua thuế và tái đầu tư cho hoạt động KH&CN. Để đạt được điều này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan KH&CN và cơ quan tài chính để hiểu nhau và phối hợp hiệu quả.

Chúng tôi dự kiến sẽ đề xuất sửa đổi bổ sung trong Luật các quy định về nguyên tắc chấp nhận rủi ro, độ trễ trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; quy định về miễn trách nhiệm dân sự cho tổ chức thực hiện nhiệm vụ KH&CN đã thực hiện đầy đủ quy định nhưng không đi đến các kết quả đã định trước hay bổ sung cơ chế đặc thù, chấp nhận rủi ro, thất bại trong nghiên cứu…

Chúng tôi tin rằng việc chia sẻ quan điểm này sẽ giúp điều chỉnh hành lang pháp lý của Luật KH&CN cũng như các luật khác, để chúng trở nên phù hợp và hoạt động hiệu quả hơn, từ đó tạo ra một môi trường thông thoáng cho hoạt động KH,CN&ĐMST.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Phát triển nhân lực bán dẫn hút ‘ông lớn’ vào Khu CNC Hòa Lạc

Khu công nghệ cao Hòa Lạc kết hợp với các viện trường, doanh nghiệp chuẩn bị nguồn nhân lực phục vụ hoạt động nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu khi các dự án lớn vào đầu tư.

Thông tin được ông Trần Đắc Trung, Phó ban quản lý Khu công nghệ cao Hòa Lạc (HHTP) nói tại hội thảo phát triển nhân lực cho công nghiệp bán dẫn, chiều 30/7. Theo ông Trung, công nghệ cao và công nghiệp bán dẫn là ưu tiên hàng đầu trong thu hút đầu tư. Sắp tới HHTP dự kiến thu hút một số doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực bán dẫn, vi mạch…

Ông cho rằng, ngành bán dẫn, phát triển nhân lực là yếu tố then chốt. Muốn làm việc này cần làm tốt việc kết nối ba nhà gồm nhà nước, nhà trường và nhà doanh nghiệp. “Hoạt động này đang được HHTP tập trung triển khai”, ông Trung nói.

Phó ban quản lý Khu công nghệ cao Hòa Lạc Trần Đắc Trung phát biểu tại hội nghị. Ảnh: BTC

Phó ban quản lý Khu công nghệ cao Hòa Lạc Trần Đắc Trung phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Thu Hường

Ông Trung cho biết, trong năm nay và sang năm, HHTP xây dựng danh mục thu hút các dự án hạ tầng xã hội cần thiết đáp ứng nhu cầu của chuyên gia, nhà nghiên cứu, sinh viên, doanh nghiệp làm việc, học tập. Nơi đây cũng là trụ sở của nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn như FPT, Viettel, VKIST, NIC… Các đơn vị này cũng tham gia vào việc kết nối, đào tạo nhân lực bán dẫn đáp ứng nhu cầu thực tế.

VKIST – đơn vị hoạt động trong Khu công nghệ cao Hòa Lạc đặt công nghiệp bán dẫn là một trong 9 ngành mũi nhọn phát triển. Theo đại diện VKIST trong thời gian tới, cùng với sự hỗ trợ của Viện Khoa học Công nghệ Hàn Quốc, sẽ đào tạo nhân lực, xây dựng phòng thí nghiệm cho nghiên cứu vi mạch tại Việt Nam. Việc xây dựng phòng thí nghiệm tại VKIST dự kiến sẽ hợp tác cùng công ty Accretech đơn vị hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chất bán dẫn và hệ thống đo lường chính xác.

Thủ tướng Phạm Minh Chính (thứ hai từ phải sang) tham quan triển lãm sản phẩm vi mạch tại Đại học Quốc gia Hà Nội, cơ sở tại Khu CNC Hòa Lạc hồi tháng 4/2023. Ảnh:Tùng Đinh

Thủ tướng Phạm Minh Chính (thứ hai từ phải sang) tham quan triển lãm sản phẩm vi mạch tại Đại học Quốc gia Hà Nội, cơ sở tại Khu CNC Hòa Lạc hồi tháng 4/2023. Ảnh:Tùng Đinh

Lãnh đạo HHTP xác định luôn đồng hành và chia sẻ với các viện trường, doanh nghiệp trong hoạt động đầu tư, đặc biệt trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu phát triển nhân lực bán dẫn phục vụ sự phát triển khu công nghệ cao Hòa Lạc và các doanh nghiệp trong đơn vị. “Điều này tạo sức lan tỏa, sự dẫn dắt trong phát triển nhân lực bán dẫn cho TP Hà Nội và cả nước”, ông nói.

Chia sẻ bên lề hội thảo, ông Trung cho biết thêm, hiện đã có nhiều chính sách ưu đãi, trong đó với những dự án đầu tư quy mô lớn (tổng vốn đầu tư trên 4000 tỷ đồng) được ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong 30 năm thay vì 15 năm như trước đây cùng với các cơ chế về hạ tầng xã hội. Luật Thủ đô được thông qua cũng có thêm nhiều ưu đãi khác giúp các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong quá trình đầu tư. Ngoài ra, HHTP đang phối hợp ngành điện lực hoàn thiện trung tâm điều phối điện giúp ổn định điện áp, đảm bảo điện sạch. Về kết nối ba nhà, theo ông Trung nhà nước có vai trò xây dựng cơ chế chính sách vừa để đảm bảo việc quản lý vừa thúc đẩy trường viện và doanh nghiệp. Nhà nước cũng đóng vai trò điều phối, kết nối các nhà còn lại không để phát triển rời rạc, chồng chéo, tạo ra mạng lưới đủ mạnh.

Lãnh đạo Khu công nghệ cao Hòa Lạc kỳ vọng với lợi thế có nhiều doanh nghiệp công nghệ đang hoạt động sẽ tập hợp thành công, cùng phát triển những sản phẩm mang tầm quốc gia, phục vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương và cả nước.

Thành lập năm 1998, Khu công nghệ cao Hòa Lạc hiện có 108 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng ký trên 5 tỷ USD, quy mô lao động khoảng 25.000 người.

Vĩnh Hà