Australia quyết tâm đẩy lùi dị ứng thực phẩm

Australia – nơi được mệnh danh là “thủ đô dị ứng của thế giới”, đã khởi động chương trình điều trị toàn quốc miễn phí đầu tiên trên thế giới dành cho trẻ em dị ứng đậu phộng (lạc). Mục tiêu của chương trình nhằm xây dựng sự dung nạp an toàn đối với loại hạt này để trẻ không cần phải lo lắng về khả năng xảy ra phản ứng đe dọa tính mạng.

Phương pháp điều trị miễn dịch qua đường miệng (OIT) như một lựa chọn để điều trị dị ứng thực phẩm ở trẻ em. Nó bao gồm việc tăng dần lượng thực phẩm gây dị ứng hàng ngày của trẻ dưới sự giám sát y tế cho đến khi đạt được “liều duy trì mục tiêu”. “Liều duy trì mục tiêu” có nghĩa là đối tượng sẽ tiêu thụ thực phẩm gây dị ứng hàng ngày tại nhà như một phương pháp điều trị trong thời gian dài. Mục tiêu để làm cho cơ thể không phản ứng mạnh với chất gây dị ứng hoặc, trong kịch bản tốt nhất, là “không phản ứng kéo dài” hoặc thuyên giảm triệu chứng.

Quan trọng là, OIT không phải là phương pháp chữa bệnh, nó được thiết kế để giúp cơ thể trẻ quen dần với thực phẩm mà thông thường sẽ gây phản ứng dị ứng. Trong khi một số dị ứng thực phẩm sẽ tự hết khi trẻ 12 tháng tuổi, những dị ứng khác – đặc biệt là đậu phộng (lạc), hạt cây, vừng và hải sản – có xu hướng tồn tại suốt đời vì chúng ít có khả năng tự giải quyết một cách tự nhiên.

GS Kirsten Perrett – Giám đốc Trung tâm Dị ứng Quốc gia (NACE) Australia, người đứng đầu Chương trình ADAPT OIT cho biết, phương pháp điều trị miễn dịch qua đường miệng đang được triển khai trên toàn thế giới bằng các phương pháp khác nhau, làm cho việc đánh giá kết quả, bao gồm cả kết quả dài hạn cho trẻ em, gia đình và hệ thống y tế, trở nên khó khăn.

Lý giải về lý do tại sao Australia lại được chọn làm bối cảnh cho Chương trình này, GS Kirsten Perrett cho biết, Australia đang được đặt cho danh hiệu là “thủ đô dị ứng của thế giới”. Theo ước tính, cứ 10 trẻ em Australia thì có 1 trẻ phát hiện dị ứng thực phẩm trong những năm đầu đời, trong khi khoảng 6/100 trẻ có dị ứng thực phẩm khi 10 tuổi. Tuy nhiên, trẻ em Australia không phải là duy nhất; đã có sự gia tăng dị ứng thực phẩm trên toàn thế giới. Nguyên nhân của sự gia tăng này chưa được biết chắc chắn. Các yếu tố đóng góp có thể bao gồm sự thay đổi trong chế độ ăn uống của mẹ và trẻ sơ sinh cũng như việc tăng cường vệ sinh làm giảm sự tiếp xúc với vi khuẩn “tốt” và do đó không cho phép hệ thống miễn dịch phát triển khả năng miễn dịch. Ở Australia, đặc biệt là sự thiếu hụt vitamin D ngày càng tăng đã được chứng minh có mối liên kết với dị ứng thực phẩm ở trẻ em.

NACE đã hợp tác với 10 bệnh viện nhi khoa trên 5 bang của Australia để khởi động đợt triển khai đầu tiên của Chương trình ADAPT OIT. Chương trình nhằm sử dụng OIT để xây dựng sự dung nạp an toàn của trẻ em đối với đậu phộng (lạc) và hy vọng đạt được sự thuyên giảm thay vì yêu cầu họ phải tránh hoàn toàn thực phẩm này. Nếu thành công, Chương trình sẽ có khả năng mở rộng ra nhiều bệnh viện và phòng khám tư nhân. Chương trình ADAPT OIT được tài trợ bởi Chính phủ Liên bang, miễn phí cho trẻ em dưới 1 tuổi đã được chẩn đoán dị ứng đậu phộng (lạc) và đang được chăm sóc bởi một chuyên gia dị ứng tại một trong các bệnh viện tham gia. Trong vòng 2 năm, đối tượng tham gia sẽ tuân theo một lịch trình để sử dụng một liều lượng bột đậu phộng (lạc) nhất định. Phương pháp này được thực hiện tại nhà và kết hợp với các lần thăm khám định kỳ tại phòng khám dị ứng bệnh viện. Mặc dù OIT đậu phộng (lạc) đã được chứng minh là an toàn, tuy nhiên, khi tham gia chương trình, các đối tượng tham gia vẫn được lên kế hoạch để đối phó với việc sốc phản vệ – một phản ứng dị ứng nghiêm trọng đe dọa tính mạng – và được cấp một bộ tiêm adrenaline (epinephrine). Cha mẹ của đối tượng tham gia sẽ được giáo dục toàn diện và có kết nối với một chuyên gia dị ứng trực tại bệnh viện.

GS Kirsten Perrett chia sẻ, sau khi được triển khai rộng rãi, những trẻ em này sau đó sẽ được theo dõi chăm sóc lâm sàng định kỳ trong ít nhất 12 tháng để giúp đánh giá tính chấp nhận được, an toàn và hiệu quả, chất lượng cuộc sống và kết quả dài hạn của Chương trình. Mục tiêu cuối cùng là việc thay đổi “quỹ đạo” của bệnh dị ứng để nhiều trẻ em có thể đi học mà không gặp phải nguy cơ bị dị ứng đậu phộng (lạc) đe dọa đến tính mạng.

Bác sỹ Tim Brettig – Chuyên gia dị ứng và miễn dịch nhi khoa và Lãnh đạo y tế của Chương trình ADAPT OIT cho biết, điều trị OIT sẽ mất khá nhiều thời gian, Chương trình này yêu cầu cam kết lâu dài từ các gia đình để cho trẻ uống hằng ngày bột đậu phộng (lạc) tại nhà cùng với các lần thăm khám định kỳ tại phòng khám dị ứng bệnh viện. Bác sỹ Tim Brettig nhấn mạnh, điều quan trọng cần nhớ là OIT không phải là phương pháp chữa trị, nhưng bằng cách tuân theo điều trị, nó có thể cải thiện khả năng hấp thụ an toàn một chất gây dị ứng thực phẩm cụ thể, chẳng hạn như đậu phộng (lạc). Với những bậc cha mẹ tại Australia nghi ngờ con mình bị dị ứng đậu phộng (lạc), trước tiên nên đến gặp bác sỹ – người có thể giới thiệu trẻ đến một chuyên gia dị ứng tại một trong những bệnh viện tham gia Chương trình ADAPT OIT. Sau đó, khi dị ứng đã được xác nhận và trẻ đủ điều kiện, họ có thể được giới thiệu vào chương trình điều trị.

TXB (theo Newatlas)

Mật ong giúp men vi sinh tồn tại tốt hơn trong ruột

Ngày càng có nghiên cứu khẳng định những lợi ích về sức khỏe của men vi sinh. Một nghiên cứu mới đây đã phát hiện rằng, việc thêm một muỗng canh mật ong vào sữa chua có thể giúp men vi sinh tồn tại tốt hơn trong ruột. Đây là một sự kết hợp vừa ngon miệng, vừa tốt cho sức khỏe.

Từ lâu, con đã có thói quen lên men thực phẩm và đồ uống (như kim chi, kombucha, bia…), trong đó, sữa chua là một trong những sản phẩm lên men phổ biến nhất trên thế giới, được tạo ra bằng cách lên men sữa với một loại vi khuẩn tốt, thường là Lactobacillus và Streptococcus. Sữa chua men vi sinh thì được bổ sung thêm các chủng vi sinh có lợi như Bifidobacterium animalis.

Có thể thấy rằng, việc hấp thụ men vi sinh không chỉ cải thiện tâm trạng mà còn có lợi cho sức khỏe đường ruột, đó cũng là lý do mật ong thường được thêm vào sữa chua. Để tìm hiểu sâu hơn, một nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Illinois Urbana-Champaign (Hoa Kỳ) đã thực hiện 2 nghiên cứu để kiểm tra tác động của mật ong lên hệ vi sinh vật đường ruột.

PGS.TS Hannah Holscher – Khoa Khoa học thực phẩm và dinh dưỡng Con người của Đại học Illinois (đồng tác giả của 2 nghiên cứu) cho biết, chúng tôi muốn tìm hiểu về sự kết hợp giữa sữa chua và mật ong, đây là một thói quen phổ biến trong chế độ ăn tại khu vực Địa Trung Hải và cách nó ảnh hưởng đến hệ vi sinh đường ruột.

Trong nghiên cứu đầu tiên, các nhà khoa học đã thêm 1 trong 4 loại mật ong được lấy từ cỏ linh lăng, kiều mạch, cỏ ba lá và hoa cam vào sữa chua thương mại có chứa B. animalis và kiểm tra xem chúng có giúp men vi sinh sống sót qua quá trình tiêu hóa hay không. Họ đã thêm 42 g mật ong vào 170 g sữa chua và cho hỗn hợp này tiếp xúc với các dung dịch trong phòng thí nghiệm mô phỏng quá trình tiêu hóa ở miệng, dạ dày và ruột. Các nhà khoa học phát hiện rằng, sữa chua với mật ong, đặc biệt là mật ong cỏ ba lá, đã giúp men vi sinh tồn tại tốt hơn trong giai đoạn tiêu hóa ở ruột. Kết quả này được kiểm chứng trong một nghiên cứu lâm sàng với 66 người tham gia. Những người này được chia thành 2 nhóm, nhóm đầu tiên ăn sữa chua thương mại có chứa B. animalis, trong khi nhóm thứ hai ăn cùng loại sữa chua đó nhưng có thêm mật ong cỏ ba lá. Sau 2 tuần, kết quả cho thấy mật ong giúp vi khuẩn có lợi tồn tại tốt hơn trong ruột. Đặc biệt, việc thêm mật ong vào sữa chua không ảnh hưởng đến thời gian tiêu hóa, tần suất đi vệ sinh, tâm trạng hay khả năng nhận thức của người tham gia, có thể do họ đều đã khỏe mạnh từ trước.

Một nghiên cứu khác với 36 người tham gia cũng cho thấy sự kết hợp giữa sữa chua và mật ong bảo vệ men vi sinh tốt, nhưng không có tác động đáng kể lên các yếu tố sức khỏe khác. PGS.TS Hannah Holscher cho biết, nhóm nghiên cứu nhận thấy khi thêm 1 muỗng canh mật ong vào sữa chua có thể hỗ trợ sự tồn tại của men vi sinh. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng mật ong là một loại đường bổ sung và việc kiểm soát lượng đường tiêu thụ là quan trọng để duy trì cân nặng khỏe mạnh. Nhưng thêm một chút mật ong vào sữa chua không đường vẫn là một lựa chọn tuyệt vời cho thực đơn hàng ngày.

Xuân Bình

Tập huấn cho các cơ quan truyền thông về phát triển bền vững năm 2024

Ngày 09/08/2024, Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam đã tổ chức Hội nghị tập huấn cho các cơ quan truyền thông về phát triển bền vững năm 2024 nhằm cung cấp cho các cơ quan thông tấn, báo chí các thông tin cập nhật về các chính sách, định hướng phát triển bền vững của Đảng, Chính phủ, cũng như thực tiễn và các thông lệ tốt trong kinh doanh bền vững của cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam. Qua đó, hỗ trợ các cơ quan truyền thông tác nghiệp hiệu quả hơn, đồng thời thúc đẩy sự hợp tác đồng hành chặt chẽ hơn giữa các cơ quan truyền thông với cộng đồng doanh nghiệp trên hành trình kinh doanh có trách nhiệm. Tập huấn cho các cơ quan truyền thông về phát triển bền vững là sáng kiến của Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam thuộc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

Phát biểu tại Hội nghị, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, kiêm Chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam Nguyễn Quang Vinh cho biết, tại Hội nghị lần thứ 27 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP27), lần đầu tiên các giải pháp dựa vào thiên nhiên (Nature based solutions – NbS) được đề cập trong quyết định bao trùm thì tại COP28, đây là điểm sáng được đánh giá cao và tập trung thảo luận bởi các chuyên gia, các tổ chức cũng như các doanh nghiệp. Các giải pháp dựa vào thiên nhiên được xác định là công cụ hiệu quả chính nhằm giải quyết và thích ứng với cuộc khủng hoảng kép hiện tại là biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học. Năm 2023, COP28 cũng đã công bố khoản tài trợ mới có giá trị lên tới 186,6 triệu USD dành cho các dự án/sáng kiến về thiên nhiên và khí hậu, với trọng tâm đặc biệt là phục hồi rừng, rừng ngập mặn, tài nguyên đất và đại dương. Đồng thời, trong tuyên bố chung của COP28 về việc mở rộng quy mô tài chính và đầu tư cho khí hậu và thiên nhiên, nguồn quỹ đầu tư cũng được yêu cầu sử dụng thông qua các giải pháp dựa vào thiên nhiên, cách tiếp cận dựa vào hệ sinh thái, từ đó sử dụng các nguồn lực, nguồn tài chính một cách hiệu quả, toàn diện, công bằng.

Tại Việt Nam, để triển khai cam kết COP26 và COP28, quan điểm “Mọi hành động ứng phó với biến đổi khí hậu phải dựa vào tự nhiên, lấy người dân làm trung tâm, là chủ thể để phát triển bền vững” mà Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính phát biểu tại COP26 sẽ tiếp tục là “kim chỉ nam”, phương châm hành động cho các cấp chính quyền, cho người dân, khẳng định trách nhiệm của Việt Nam với ứng phó với biến đổi khí hậu, phục hồi tự nhiên, trở thành ưu tiên cao nhất trong mọi quyết sách phát triển, là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của các cấp, ngành, doanh nghiệp và người dân.

Trên cơ sở đó, Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam tổ chức Tập huấn nhằm cung cấp thông tin về khái niệm các giải pháp dựa vào NbS và tiêu chuẩn toàn cầu về NbS; cập nhật về định hướng chiến lược, các chính sách của Chính phủ và các cơ quan quản lý liên quan đến NbS và vai trò của doanh nghiệp; cập nhật các thông lệ tốt về NbS, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất kinh doanh, từ đó khuyến khích các cơ quan truyền thông tích cực quảng bá, đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp thực hiện NbS trong phát triển bền vững doanh nghiệp; tạo diễn đàn trao đổi, đối thoại với các cơ quan thông tấn báo chí, cơ quan quản lý về những kiến nghị chính sách quan trọng từ cộng đồng doanh nghiệp nhằm thúc đẩy NbS trong phát triển bền vững doanh nghiệp tại Việt Nam; tạo cơ hội cho các cơ quan thông tấn báo chí tham quan mô hình doanh nghiệp thực hiện NbS, phát triển bền vững tại Việt Nam.

Phong Vũ

Tổng biên tập Tạp chí npj Quantum Materials – Nature thăm và làm việc với Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Ngày 08/08/2024, GS Sang-Wook Cheong – Tổng biên tập Tạp chí npj Quantum Materials – Nature (Hoa Kỳ) và GS Phan Mạnh Hưởng – Đại học Nam Florida (Hoa Kỳ) đã đến thăm và làm việc với Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Buổi làm việc là cơ hội quý để Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam lắng nghe những ý kiến, đánh giá của các nhà khoa học quốc tế về hiện trạng của bản Tạp chí tiếng Anh trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên, công nghệ và kỹ thuật – Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering (VJSTE) cùng những gợi ý giá trị nhằm nâng cao chất lượng theo tiêu chuẩn của các cơ sở dữ liệu quốc tế uy tín.

Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam làm việc với GS Sang-Wook Cheong và GS Phan Mạnh Hưởng.

Trong lời phát biểu chào mừng, TS Nguyễn Thị Hương Giang – Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam trân trọng cảm ơn GS Sang-Wook Cheong đã dành thời gian đến thăm và làm việc với Tạp chí. TS Nguyễn Thị Hương Giang hy vọng, với những kinh nghiệm dẫn dắt và điều hành npj Quantum Materials, một trong những tạp chí danh tiếng của Nature, GS Sang-Wook Cheong sẽ có nhiều chia sẻ thiết thực và hiệu quả cho Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đặc biệt là Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering phát triển trở thành một trong những tạp chí quốc tế uy tín.

Tại buổi làm việc, GS Sang-Wook Cheong đánh giá cao những kết quả mà Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering đã đạt được trong thời gian vừa qua. Theo GS Sang-Wook Cheong, Tạp chí có một quy trình biên tập bài bản, chất lượng ngôn ngữ tiếng Anh tốt. Bên cạnh đó, là một tạp chí khoa học đa ngành và liên ngành nên Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering có một số lợi thế như: tính liên ngành của các chủ đề bài báo sẽ thu hút được đông đảo số lượng người đọc từ nhiều lĩnh vực khác nhau trên thế giới. Số lượng các bài báo quốc tế nộp vào Tạp chí gần đây tăng lên đáng kể đã cho thấy sự quan tâm của cộng đồng khoa học quốc tế đối với tạp chí ngày càng tăng, GS Sang-Wook Cheong nhận định.

Đặc biệt, tại buổi làm việc, GS Sang-Wook Cheong nhấn mạnh vai trò quan trọng của Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc tài trợ cho hoạt động của Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering. Đây là cơ sở để Tạp chí thực hiện việc truy cập mở, miễn phí cho tác giả và bạn đọc. Theo GS Sang-Wook Cheong, truy cập mở đang là xu hướng mà cộng đồng khoa học quốc tế hướng tới. Với việc thực hiện truy cập mở hoàn toàn như hiện nay, Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering đang đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền khoa học không chỉ của Việt Nam mà còn của toàn thế giới. Theo GS Sang-Wook Cheong, việc Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering sử dụng hệ thống nộp bài và phản biện quốc tế ScholarOne Manuscripts của Clarivate đã góp phần quan trọng cải thiện chất lượng phản biện, qua đó nâng cao chất lượng bài báo. Các phản biện trên hệ thống được lựa chọn đều là những nhà khoa học được đề xuất từ cơ sở dữ liệu của Web of Science.

Từ thực tiễn của Tạp chí, GS Sang-Wook Cheong cho rằng: bên cạnh việc tập trung vào những yếu tố như chỉ số ảnh hưởng, xếp hạng thứ bậc tạp chí…, Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering nên tập trung phát triển các chủ đề, lĩnh vực mang lại lợi ích cho quốc gia như: pin lithium, vật liệu mới, ứng dụng của vật liệu nano trong lĩnh vực y sinh, thử nghiệm lâm sàng của thuốc… Bên cạnh đó, Tạp chí cũng nên cân nhắc việc hợp tác với một nhà xuất bản quốc tế và sử dụng các dịch vụ quảng bá, đánh giá tạp chí của họ.

Đồng tình với những đánh giá và nhận xét của GS Sang-Wook Cheong, GS Phan Mạnh Hưởng đề xuất: Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering nên đầu tư quảng bá Tạp chí và các kết quả của những bài báo nổi bật, từ đó tăng tính nhận diện của Tạp chí trên thế giới. Đồng thời, GS Phan Mạnh Hưởng khẳng định việc luôn đồng hành và hỗ trợ Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering nâng cao chất lượng, hướng tới tham gia vào các cơ sở dữ liệu quốc tế uy tín.

TS Nguyễn Thị Hương Giang – Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam  trao quà lưu niệm cho GS Sang-Wook Cheong cùng phu nhân (2 người đứng giữa)  và GS Phan Mạnh Hưởng (ngoài cùng, bên trái).

Kết thúc buổi làm việc, GS Sang-Wook Cheong và GS Phan Mạnh Hưởng bày tỏ sự tin tưởng, với những nỗ lực không ngừng nghỉ, sự quyết tâm và đồng lòng của đội ngũ cán bộ, biên tập viên, Vietnam Journal of Science, Technology and Engineering sẽ ngày càng nâng cao chất lượng, sớm gia nhập các cơ sở dữ liệu uy tín của quốc tế.

npj Quantum Materials là một tạp chí truy cập mở của Nature (Hoa Kỳ), đăng tải các bài báo chất lượng cao trong lĩnh vực vật liệu lượng tử. Tạp chí npj Quantum Materials đã tham gia vào hơn 30 cơ sở dữ liệu uy tín trên thế giới, như: Web of Science, Scopus…

Bắc Lê – Quang Hưng

Drone nhẹ nhất thế giới chạy bằng năng lượng Mặt trời

Drone CoulombFly nhẹ hơn tờ giấy A4, sải cánh dài khoảng 20 cm và có thể bay trong thời gian dài.

Nhóm nhà khoa học tại Đại học Hàng không Vũ trụ Bắc Kinh phát triển thành công CoulombFly, phương tiện bay nhỏ và nhẹ nhất thế giới chạy bằng năng lượng mặt trời, Interesting Engineering hôm 18/7 đưa tin. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Nature.

CoulombFly chỉ nặng khoảng 4 gram, nhẹ hơn một tờ giấy A4 với sải cánh khoảng 20 cm, lớn tương đương bàn tay, nhỏ hơn 10 lần và nhẹ hơn 600 lần so với drone năng lượng mặt trời nhỏ nhất trước đây. Mẫu drone mới sử dụng pin mặt trời để sản xuất điện, tạo ra trường điện giữa các tấm tích điện trái dấu xếp thành hình tròn. Các điện tích trái dấu hoạt động như nam châm đẩy, tạo ra lực làm quay cánh quạt. Quá trình này tạo ra mô men xoắn, đưa drone bay lên khỏi mặt đất.

CoulombFly có hiệu suất nâng cao, đạt 30,7 gram mỗi watt và chỉ tiêu thụ 0,568 watt để bay trong không khí. Điều này cho phép nó bay liên tục dưới ánh sáng mặt trời tự nhiên.

CoulombFly chỉ nặng khoảng 4 gram, nhẹ hơn một tờ giấy A4.
CoulombFly chỉ nặng khoảng 4 gram, nhẹ hơn một tờ giấy A4.

Thời gian bay hạn chế là một thách thức lớn với các phương tiện bay siêu nhỏ, đặc biệt là những phương tiện nặng dưới 10 gram. Chúng thường có thời gian bay không quá 10 phút. Tuy nhiên, CoulombFly đã khắc phục được vấn đề này. Nhóm nghiên cứu cho biết, mỗi thành phần đều được thiết kế để cân bằng giữa hiệu quả và trọng lượng nhẹ, cho phép drone thực hiện các nhiệm vụ giám sát từ xa trong thời gian dài.

Trong chuyến bay thử nghiệm, ColumbFly cất cánh chỉ trong vòng 1 giây sau khi pin mặt trời tiếp xúc với ánh sáng. Hiện tại, nó có thể bay không cần dây nối trong 1 giờ ở độ cao 15 cm, mang theo 2 gram cảm biến hoặc bộ điều khiển nhỏ. Dù kết quả này nghe có vẻ khiêm tốn, nhóm chuyên gia tin rằng trong tương lai, những cải tiến về thiết kế sẽ nâng cao sức bền và sức chở của drone.

Các nhà khoa học đã đề xuất một số cải tiến, bao gồm tăng mô men xoắn của động cơ, tăng lực nâng của cánh quạt, tích hợp pin mặt trời vào các bộ phận cấu trúc và tăng hiệu suất của bộ biến đổi điện áp. Mẫu drone tí hon này có thể phục vụ cho công tác cứu trợ sau thảm họa, thực hiện nhiệm vụ tuần tra trong không gian hẹp và thu thập thông tin.

Theo khoahoc.tv

Nhà máy điện sóng thủy lực công suất 1 MW

Nhà máy điện sóng 1 MW của Eco Wave Power đặt tại Porto sẽ sản xuất điện dựa vào chuyển động của sóng biển kết hợp với piston thủy lực.

Nhà máy điện sóng 1 MW đầu tiên của Eco Wave Power sẽ nằm ở thành phố Porto phía bắc Bồ Đào Nha. Ảnh: Eco Wave Power

Nhà máy điện sóng 1 MW đầu tiên của Eco Wave Power sẽ nằm ở thành phố Porto phía bắc Bồ Đào Nha. Ảnh: Eco Wave Power

Công ty Eco Wave Power đã thử nghiệm hệ thống năng lượng sóng trong hơn 10 năm để chuyển động lên xuống của nước biển ven bờ điều khiển piston thủy lực giúp chạy máy phát điện. Hiện nay, công ty đang chuẩn bị xây dựng nhà máy điện sóng cấp megawatt đầu tiên, New Atlas hôm 7/8 đưa tin.

Dù hệ thống đã trải qua một số sửa đổi trong nhiều năm, nguyên tắc hoạt động cơ bản vẫn giữ nguyên. Phao nổi gắn vào đê chắn sóng hoặc cơ sở hạ tầng ven biển khác lên xuống theo chuyển động của sóng, vận chuyển chất lỏng tới bộ tích trữ trên bờ thông qua chuyển động của piston thủy lực. Chất lỏng bị nén sau đó được giải phóng, giúp chạy máy phát để sản xuất điện.

Tổ hợp trên có thể hoạt động cả ngày, nhưng nếu biển động quá mạnh, phao nổi có thể được nâng lên cho tới khi cơn bão qua đi. Quá trình lắp đặt và bảo dưỡng tương đối đơn giản. Việc kết nối lưới điện có thể thực hiện mà không cần rải dây cáp dưới biển.

Gibraltar trở thành tổ hợp đầu tiên của Eco Wave Power kết nối lưới điện năm 2016, hoạt động trong 6 năm trước khi các bộ phận được thu hồi, đại tu (hoặc tái chế) và chuyển tới cảng Los Angeles ở Mỹ cho một dự án thử nghiệm. Một hệ thống khác lắp đặt ở cảng Jaffa tại Israel kết nối với lưới điện năm ngoái. Công ty cũng ký kết nhiều thỏa thuận trên khắp thế giới trong vài năm gần đây, lớn nhất là nhà máy điện 77 MW ở Thổ Nhĩ Kỳ.

Tuy nhiên, dự án sản xuất điện quy mô megawatt đầu tiên của công ty sẽ nằm ở thành phố Porto phía bắc Bồ Đào Nha sau khi được cấp phép khởi công xây dựng hồi tháng 3 năm nay. Nhà máy sẽ bao gồm cả bảo tàng năng lượng sóng và trung tâm giáo dục trong không gian bên dưới đê chắn sóng. Khu vực này cũng chứa phần lớn thiết bị của Eco Wave Power. Quá trình xây dựng dự kiến bắt đầu trong vòng hai năm tới, tiếp theo là mở rộng quy mô ở 4 địa điểm với công suất tối đa 20 megawatt.

Theo Cục thông tin năng lượng Mỹ, năng lượng tiềm năng của sóng biển hàng năm ở ngoài khơi nước này ước tính lên tới 2,64 nghìn tỷ kilowatt giờ, tương đương khoảng 64% lượng điện sản xuất của Mỹ trong năm 2019. Trong khi đó, hiệp hội Ocean Energy Europe cho biết 100 GW công suất điện sóng có thể được lắp đặt ở châu Âu vào năm 2050, đáp ứng 10% nhu cầu điện của các nước. Những dự án điện sóng sẽ góp phần đáng kể giảm lượng khí thải carbon trên thế giới.

An Khang (Theo New Atlas)

Lò phản ứng thu giữ CO2 trong muối biển 100.000 năm

Lò phản ứng mới thu giữ CO2 bằng cách tái tạo quá trình tự nhiên kéo dài 10.000 năm dưới đại dương chỉ trong khoảng một phút.

Nguyên mẫu lò phản ứng do Calcarea phát triển. Ảnh: Calcarea

Nguyên mẫu lò phản ứng do Calcarea phát triển. Ảnh: Calcarea

Calcarea, startup tách ra từ Viện Công nghệ California (Caltech) và Đại học Nam California (USC), phát triển lò phản ứng mới để biến CO2 thải ra từ quá trình đốt nhiên liệu của tàu thuyền thành muối biển, lưu giữ CO2 suốt 100.000 năm, Interesting Engineering hôm 7/8 đưa tin. Nếu được triển khai rộng rãi, lò phản ứng có thể giúp ngành vận tải biển đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Ưu điểm lớn nhất là phản ứng này mô phỏng hiệu quả và nhanh chóng những gì đại dương vẫn làm. “Đây là phản ứng đã diễn ra trên hành tinh suốt hàng tỷ năm. Nếu có thể tăng tốc nó, chúng ta sẽ có cơ hội thu được một phương pháp an toàn và lâu dài để lưu trữ CO2”, Jess Adkins, nhà hải dương hóa học từ Caltech, một trong những người sáng lập Calcarea, cho biết.

Nước biển hấp thụ khoảng 1/3 lượng CO2 thải vào khí quyển một cách tự nhiên. Điều này khiến nước biển tăng độ axit và canxi carbonate, một chất dồi dào dưới đại dương, bị hòa tan. “Canxi carbonate là thành phần tạo nên khung xương của san hô, vỏ sò và tất cả những thứ chiếm phần lớn trầm tích ở đáy đại dương”, Adkins nói. Canxi carbonate hòa tan sau đó phản ứng với CO2 trong nước để tạo thành muối bicarbonate, giam CO2 lại.

“Hiện có khoảng 38 nghìn tỷ tấn bicarbonate trong đại dương”, Adkins bổ sung. Calcarea muốn tái tạo quá trình tự nhiên này bằng cách dẫn khí thải của tàu vào một lò phản ứng ở thân tàu. Bên trong lò phản ứng, khí thải được trộn với nước biển và đá vôi (một loại đá chứa canxi carbonate). Kết quả, CO2 trong khí thải tương tác với hỗn hợp, tạo ra nước mặn giam giữ CO2 dưới dạng muối bicarbonate.

Adkins cho biết, một lò phản ứng có thể thu giữ khoảng 50% lượng khí thải CO2 của một con tàu. Phản ứng này kéo dài hơn 10.000 năm trong tự nhiên nhưng chỉ mất khoảng một phút trong lò phản ứng của Calcarea. Theo Adkins, nước mặn sản xuất ra được xả xuống đại dương mà không gây nguy hiểm cho sinh vật biển hay sự cân bằng hóa học của nước biển.

Calcarea cũng đang nghiên cứu bổ sung một bộ lọc để loại bỏ trước các chất ô nhiễm khác từ khí thải có thể hòa vào nước, như hạt bụi, nhiên liệu chưa cháy hết và chất bẩn khác. Đến nay, Calcarea đã chế tạo hai lò phản ứng nguyên mẫu đặt tại bãi đậu xe của USC và cảng Los Angeles. Cuối tháng 5, startup này công bố hợp tác với bộ phận nghiên cứu và phát triển của công ty vận tải biển quốc tế Lomar. Adkins tin rằng sự hợp tác này sẽ dẫn đến việc lắp đặt nguyên mẫu lò phản ứng quy mô đầy đủ đầu tiên trên một con tàu.

Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)

Khởi động Giải thưởng Trần Đại Nghĩa năm 2025

Giải thưởng Trần Đại Nghĩa tôn vinh nhà khoa học có công trình nghiên cứu ứng dụng xuất sắc, mang lại hiệu quả kinh tế và giải quyết vấn đề thực tiễn đời sống, quốc phòng an ninh.

Tại buổi phát động Giải thưởng sáng 8/8, GS.TS Chu Hoàng Hà, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết đây là lần thứ ba tổ chức giải. Trong 2 lần trước, vào những năm 2016 và 2019, có 6 công trình được vinh danh, thuộc nhiều lĩnh vực, phạm vi ứng dụng.

Giải thưởng Trần Đại Nghĩa năm 2025 tiếp nhận hồ sơ từ ngày 1/10-31/12, xét trên 9 lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ gồm: Toán học; Cơ học; Khoa học thông tin và khoa học máy tính; Vật lý; Hóa học; Khoa học về sự sống; Khoa học về trái đất; Khoa học biển; Khoa học môi trường và năng lượng.

Công trình phải được công bố trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín hoặc được cấp bằng độc quyền sáng chế trong và ngoài nước. Các công trình khoa học ứng cử phải được triển khai ứng dụng ở Việt Nam, có đóng góp hoặc có triển vọng đem lại hiệu quả lớn về kinh tế – xã hội và an ninh quốc phòng cho đất nước.

Giải thưởng không giới hạn với nhà khoa học trẻ và có thể được trao cho một nhà khoa học nước ngoài có công trình mang giá trị ứng dụng với kinh tế, xã hội và sự phát triển về con người, đất nước Việt Nam.

GS.TS Chu Hoàng Hà phát biểu khai mạc họp báo phát động giải thưởng sáng 8/8. Ảnh: VAST

GS.TS Chu Hoàng Hà phát biểu tại lễ phát động giải thưởng sáng 8/8. Ảnh: VAST

GS.TS Nguyễn Đại Hưng, Chủ tịch Hội đồng Khoa học chuyên ngành Vật lý và Cơ học, cho biết, Giải thưởng Trần Đại Nghĩa hướng tới công trình khoa học công nghệ mang tính ứng dụng “đặt rõ tiêu chí về nghiên cứu đột phá trong công bố, sáng chế và chứng tỏ được tính ứng dụng lâu dài, mang tính quy mô, thực tiễn đời sống xã hội.

Giải thưởng Trần Đại Nghĩa lần thứ ba (năm 2025) dự kiến trao vào dịp kỷ niệm Ngày Khoa học công nghệ và 50 năm Ngày thành lập Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Giải thưởng bắt đầu từ năm 2016, đến nay các công trình được vinh danh gồm: “Nghiên cứu và phát triển công nghệ xử lý chất thải nguy hại công nghiệp và y tế”, của GS.TS Nguyễn Văn Tuyên (năm 2019); “Quy trình công nghệ sản xuất vaccine cúm gia cầm subtype A/H5N1 ở Việt Nam” của PGS.TS Đinh Duy Kháng (năm 2019) hay “Nghiên cứu chọn tạo giống lúa phục vụ đồng bằng sông Cửu Long” của GS.TS Nguyễn Thị Lang (năm 2019)…

Như Quỳnh

‘Cải thiện chỉ số PII theo đặc thù từng địa phương’

Cải thiện chỉ số PII là cần thiết, song mỗi địa phương có đặc thù, định hướng phát triển khác nhau nên không nhất thiết cải thiện toàn bộ.

Ý kiến được Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh nói tại hội thảo hướng dẫn thu thập và cung cấp dữ liệu, hồ sơ minh chứng phục vụ tính toán Bộ chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) năm 2024 tổ chức tại TP HCM, chiều 8/8. Hội thảo nhằm hướng dẫn cho đại diện các Sở Khoa học và Công nghệ khu vực phía Nam (từ Thừa Thiên – Huế trở vào) phương pháp khai thác chỉ số PII.

Theo Thứ trưởng Minh, PII được coi là công cụ giúp lãnh đạo các địa phương quản lý, thúc đẩy kinh tế xã hội dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Bộ chỉ số này cung cấp công cụ, thước đo, bức tranh toàn cảnh thực trạng kinh tế xã hội dựa trên khoa học công nghệ các địa phương.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Hà An

Thứ trưởng Hoàng Minh phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Hà An

Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá, PII được coi là bộ công cụ đầu tiên, duy nhất phản ánh chỉ số kinh tế tổng hợp dựa trên khoa học công nghệ, thể chế, hạ tầng, điều kiện sản xuất, vốn con người, tài chính vi mô, cho vay… PII được Chính phủ và các tổ chức quốc tế ghi nhận.

Theo ông Minh, việc công bố PII hàng năm giúp các Sở khoa học và Công nghệ địa phương có nguồn dữ liệu thực trạng kinh tế xã hội địa phương làm cơ sở xây dựng các hội thảo, báo cáo tham vấn, đề xuất các giải pháp ngắn, dài hạn cho lãnh đạo trong phát triển kinh tế xã hội. “PII có vai trò tổng hợp kinh tế xã hội cho địa phương”, ông nói.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đánh giá thông qua điểm số của PII sẽ giúp địa phương có căn cứ cải thiện điểm số. Tuy nhiên, ông Minh cho rằng, mỗi địa phương có định hướng phát triển khác nhau. Lấy ví dụ, các thành phố lớn có các điều kiện phát triển khoa học công nghệ như trường đại học, môi trường, nguồn ngân sách… Còn các địa phương khác, đặc biệt các tỉnh vùng sâu, vùng xa cần tập trung cải thiện các chỉ số phù hợp với định hướng phát triển, không nhất thiết cải thiện toàn bộ chỉ số.

Thứ trưởng Minh cam kết Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với các Sở Khoa học và Công nghệ địa phương trong tham mưu giúp chính quyền các tỉnh thành phê duyệt kế hoạch tổ chức triển khai PII. Nghị quyết 02 của Chính phủ cũng yêu cầu các tỉnh ưu tiên nguồn lực xây dựng bộ chỉ số PII và sử dụng kế quả của nó vào công tác chỉ đạo, điều hành và đưa vào kế hoạch cải thiện hàng năm.

Ông Nguyễn Võ Hưng, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học công nghệ, Học viện Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo, cho rằng PII khá toàn diện, với các chỉ số phản ánh đầy đủ khía cạnh về thể chế, hạ tầng, trình độ phát triển con người, kinh doanh, sản phẩm sáng tạo… Ông cho rằng, với bối cảnh mỗi địa phương, cần nhìn nhận và lựa chọn mô hình nào cho tăng trưởng, phát triển dựa trên khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo. “Mỗi trình độ phát triển khác nhau sẽ đưa lại những cách dựa chọn mô hình phát triển dựa trên khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo khác nhau”, ông Hưng nói, thêm rằng với 52 chỉ số của PII mỗi địa phương sẽ biết mình đang ở đâu, có điểm mạnh, yếu gì để có định hướng phù hợp.

Năm 2023, lần đầu tiên PII được Học viện Khoa học Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng trên toàn quốc. PII là bộ công cụ có cơ sở khoa học và thực tiễn cho lãnh đạo các cấp để ra quyết định, xây dựng và thực thi chính sách, cũng như cung cấp thông tin tham khảo hữu ích về môi trường đầu tư, điều kiện nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh ở địa phương.

Ở lần xếp hạng đầu tiên, trong 10 địa phương dẫn đầu có 5 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội (xếp hạng 1), TP HCM (hạng 2), Hải Phòng (hạng 3), Đà Nẵng (hạng 4), Cần Thơ (hạng 5) và 5 địa phương có công nghiệp phát triển nhất là Bắc Ninh (hạng 6), Bà Rịa- Vũng Tàu (hạng 7), Bình Dương (hạng 8), Quảng Ninh (hạng 9) và Thái Nguyên (hạng 10)

Hà An

Đưa sách đi tìm độc giả

Trong thời đại công nghệ số với sự nở rộ của mạng xã hội, nếu chỉ quan niệm “hữu xạ tự nhiên hương”, không có những “chiêu bài” nhất định trong khâu truyền thông thì số phận một cuốn sách có thể sẽ rất “thiệt thòi”.

Van hoa doc anh 1
Một buổi giao lưu, giới thiệu sách của tác giả trẻ Hoàng Yến. Ảnh: LLB.

Trước đây, câu chuyện truyền thông sách không nhận được sự quan tâm của nhiều đơn vị xuất bản, một phần bởi các đơn vị này thiếu nhân lực, thiếu tài chính, quan niệm về marketing mờ nhạt. Sau này, khi các đơn vị liên kết xuất bản vào cuộc, truyền thông sách phát triển ngày một mạnh mẽ hơn, đặc biệt là sự xuất hiện ngày một nhiều chuyên mục giới thiệu sách trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Đáng chú ý, trong những ngày giãn cách vì dịch Covid-19, các đơn vị xuất bản, các đơn vị liên kết không đứng yên chờ độc giả tìm đến mà chủ động tìm cách đưa sách đến với độc giả bằng nhiều chương trình giới thiệu, quảng bá, tọa đàm sách online, từ đó mở ra con đường truyền thông sách hiệu quả.

Theo ông Nguyễn Nguyên, Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành, truyền thông sách là phần không thể thiếu khi người làm sách tiếp cận thị trường. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều đơn vị xuất bản chưa chuẩn bị tốt nguồn lực cho mảng truyền thông. Chọn lối đi an toàn, đa số chọn tổ chức hoạt động truyền thông với các tác giả đã nổi tiếng, với tác phẩm đã nhận nhiều giải thưởng hoặc thuộc “hàng bán chạy”. Điều này cũng khiến cho những cây bút trẻ thiếu đi “bệ đỡ” để mạnh dạn bước vào con đường viết chuyên nghiệp.

Trong nhiều cuộc tọa đàm, giao lưu, không ít cây bút trẻ đã gửi câu hỏi đến các “bậc tiền bối” về “bí quyết” ra mắt sách, về sự tự tin quảng bá sách mà không e ngại bị “thương mại hóa”… Nhà văn Đức Anh cho biết: “Một tác giả trẻ tự truyền thông sách của mình, dám nói ra đứa con tinh thần của mình có chỗ nào hay, chỗ nào dở, chỗ nào cần học hỏi là đã mở thêm cho mình những cơ hội mới, đồng thời khả năng viết lách được rèn luyện thêm. Những tác giả không đủ tự tin viết và xuất bản tiếp, nhất là sau khi một cuốn sách phát hành không được, thì sẽ rất phí tài năng. Đó là điều đáng tiếc cho những viên ngọc thô còn ẩn chứa trong tác phẩm đầu tay”.

Một trong những cách tiếp cận độc giả mà nhiều tác giả trẻ đã và đang thực hiện trong tình cảnh bản thân không đủ nguồn lực tài chính và các đơn vị xuất bản chưa sẵn sàng hợp tác, theo tiktoker Giao Cùn, là “tự truyền thông trước trên mạng xã hội”. Các tác giả này thường đăng trước một phần nội dung lên mạng xã hội để “test” phản ứng của độc giả và các nhà phê bình, hoặc mở riêng những trang fanpage, blog cá nhân để đăng tải tác phẩm của mình. Các tác giả trưởng thành từ việc viết trên mạng đã có một lượng độc giả nhất định và sau một vài năm đã định hình lối viết thì họ mới in cuốn sách đầu tay. Nhờ vậy, sách của họ bán khá chạy, thậm chí tái bản chỉ sau vài ba ngày, như “Tổng đài kể chuyện lúc 0h” của Emma Hạ My, “Tết ở làng Địa Ngục” của Thảo Trang… Trước đó, đã có hàng loạt tác giả thành công nhờ “tiếp thị” trực tiếp tác phẩm của mình đến độc giả thông qua các trang cá nhân trên mạng xã hội như Nguyễn Phong Việt, Anh Khang, Hamlet Trương, Nguyễn Ngọc Thạch… Trong số này, nhiều người đã trở thành “tác giả triệu bản” với số lượng bản in “khổng lồ” so với mặt bằng xuất bản ở Việt Nam.

Với việc truyền thông cho một cuốn sách, điều quan trọng nhất vẫn là chính tác giả. Nhà văn Lữ Mai cho biết: “Đội ngũ truyền thông sách hiện đã tiệm cận trình độ khá tốt. Chẳng hạn, có những tác giả đã không còn trên cuộc đời này nhưng người làm truyền thông vẫn luôn có cách để đưa tác phẩm của họ đến với độc giả. Mỗi tác giả, tác phẩm có nét đặc thù riêng, người làm truyền thông phải nhìn ra và đẩy nét đặc thù ấy đến với độc giả một cách dễ chịu nhất”. Nhưng, dù đội ngũ truyền thông chuyên nghiệp đến đâu thì chính tác giả cũng cần phải cởi mở trong câu chuyện truyền thông. Các tác giả trẻ thường nghi ngại nhiều, lo sợ nhiều, và đó là yếu tố cản trở. Vượt qua những chướng ngại bên trong để ngoại giao với độc giả là điều cần thiết với các tác giả trẻ đương thời.

Nhìn từ góc độ sáng tác, mỗi tác phẩm là đứa con tinh thần của tác giả, song nhìn từ khía cạnh thị trường xuất bản thì đó cũng chỉ là một sản phẩm. Do đó, ngoài chất lượng thì còn đòi hỏi về hình thức và cách giới thiệu sản phẩm đến khách hàng từ phía người sản xuất (gồm tác giả và đơn vị xuất bản, đơn vị liên kết), để khách hàng biết, tìm hiểu và sau đó đi đến quyết định có mua hay không. Tác giả, bởi thế, cần phải bứt ra khỏi vòng an toàn của bản thân, đầu tư thời gian – tinh thần – vật chất đồng hành cùng đội ngũ truyền thông để thực hiện các hoạt động truyền thông cho tác phẩm. Tác giả cần dũng cảm lắng nghe phản ứng từ độc giả, biết tiếp thu và bình tĩnh đón nhận những khen/chê để hoàn thiện, chỉnh lý nếu được tái bản, cũng như rút kinh nghiệm cho tác phẩm sau.

Ngày nay, số lượng sách xuất bản ngày một nhiều, nên nếu chỉ trông chờ “hữu xạ tự nhiên hương” thì rất có thể cơ hội quảng bá tác phẩm sẽ tuột khỏi tầm tay. Truyền thông sách, nếu không quá lố, sẽ không làm cuốn sách mất đi giá trị mà còn giúp văn hóa đọc phát triển. Điều quan trọng, “mỗi tác giả là một cá tính riêng, nếu đi đến cùng với tác phẩm, với đề tài, không nửa vời thì chắc chắn tác phẩm sẽ tự thân thu hút độc giả” – nhà văn Lữ Mai khẳng định.

Hạ Yến