Lồng ghép giới trong chuyển đổi nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long

Ngày 01/08/2024, Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (Trường Đại học Cần Thơ) phối hợp với Tổ chức Oxfam tại Việt Nam tổ chức cuộc họp tham vấn về việc lồng ghép giới trong chuyển đổi nông nghiệp, giảm phát thải khí nhà kính và quản lý tài nguyên nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

PGS.TS Văn Phạm Đăng Trí – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu cho biết, Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm về nông nghiệp của cả nước. Tuy nhiên, hiện nay khu vực này đang chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán, xâm nhập mặn, xói lở bờ sông và các rủi ro khác có liên quan đến biến đổi khí hậu. Do đó, để phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long rất cần những quan điểm về định hướng phát triển mới, chuyển đổi mô hình phát triển bền vững.

PGS.TS Văn Phạm Đăng Trí cho rằng, việc ứng dụng nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu có thể giúp đạt đồng thời 3 mục tiêu chính gồm: đảm bảo tăng năng suất và thu nhập từ nông nghiệp bền vững; xây dựng khả năng phục hồi với biến đổi khí hậu; giảm hoặc loại bỏ phát thải khí nhà kính. Bên cạnh đó, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, phụ nữ được xếp vào nhóm đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt tại vùng nông thôn –  nơi điều kiện sản xuất còn nhiều khó khăn. Mặc dù là đối tượng dễ bị tổn thương nhưng phụ nữ lại đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động sản xuất, là lực lượng tiên phong trong giảm thiểu khí nhà kính. Do đó, các chính sách và chương trình về khí hậu, môi trường, rủi ro thiên tai cần đặt phụ nữ và trẻ em gái vào trung tâm của việc ra quyết định.

Ông Vũ Xuân Việt – Tổ chức Oxfam tại Việt Nam cho biết, từ tháng 07/2023, Tổ chức Oxfam tại Việt Nam đã hợp tác với Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu triển khai Dự án “Nâng cao năng lực cho thanh niên trong ứng dụng năng lượng tái tạo vào canh tác nông nghiệp ở Đồng bằng sông Cửu Long”. Đến nay, Dự án đã góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của giới, đặc biệt là nữ giới và các nhóm yếu thế, góp phần vào thực hiện các mục tiêu khí hậu và phát triển bền vững của Việt Nam.

Đan Thủy

Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn để đổi mới, hội nhập và phát triển

Ngày 12/8/2024 tại Đà Nẵng, Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước phối hợp với Ban chủ nhiệm Chương trình Khoa học xã hội và nhân văn cấp quốc gia mã số KX.01/21-30, KX.06/21-30, KX.07/21-30 và Học viện Chính trị khu vực III tổ chức Hội thảo khoa học “Một số Chương trình khoa học xã hội và nhân văn cấp quốc gia phục vụ mục tiêu đổi mới, hội nhập và phát triển”.
Toàn cảnh Hội thảo.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng, Viện trưởng Viện nghiên cứu châu Âu, Phó chủ nhiệm Chương trình KX.06/21-30, đại diện 03 Chương trình cho biết, vai trò của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) là công cụ then chốt trong thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và được thể hiện xuyên suốt trong các mục tiêu của Kế hoạch hành động quốc gia. Trong đó, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn mang tính dẫn dắt, định hướng, tạo cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội.
Chương trình “Nghiên cứu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh mới”, mã số KX.01/21-30; Chương trình “Nghiên cứu các vấn đề quốc tế và khu vực nhằm chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”, mã số KX.06/21-30 và Chương trình “Đổi mới quản lý KH,CN&ĐMST tại Việt Nam”, mã số KX.07/21-30 là 3 trong số 7 Chương trình khoa học xã hội và nhân văn được Bộ trưởng Bộ KH&CN phê duyệt thực hiện trong giai đoạn 20121-2030.
Kể từ khi 03 Chương trình được phê duyệt đến nay, các Ban chủ nhiệm Chương trình và Bộ KH&CN đã nhận được gần 200 đề xuất từ các viện, trường trên cả nước. Đợt tuyển chọn đầu tiên, Chương trình KX.01và KX.06 đã tuyển chọn được 28 hồ sơ. Hiện nay 3 Chương trình đang thực hiện tư vấn cho các đề xuất nộp năm 2024, thực hiện từ 2025, tuy nhiên, còn thiếu vắng các đề xuất của khu vực Đà Nẵng và miền Nam Trung Bộ.
PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng, Phó Chủ nhiệm Chương trình KX.06/21-30, đại diện 03 Chương trình, phát biểu khai mạc Hội thảo.
PGS.TS. Nguyễn Chiến Thắng nhấn mạnh, Hội thảo cung cấp đầy đủ thông tin về mục tiêu, nội dung của Chương trình, đồng thời chia sẻ một số quy định mới của Bộ cũng như kinh nghiệm trong xây dựng thuyết minh, tổ chức triển khai nhiệm vụ cấp quốc gia và bàn luận một số vấn đề đổi mới, phát triển, hội nhập của Đà Nẵng và khu vực Nam Trung Bộ. Thông qua Hội thảo, Ban chủ nhiệm hy vọng, các nhà khoa học, các viện nghiên cứu, trường đại học ở khu vực này sẽ tích cực gửi các đề xuất để đảm bảo độ bao phủ ở các vùng miền và 03 Chương trình có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội, đổi mới sáng tạo và hội nhập của Đà Nẵng và khu vực miền Nam Trung Bộ.
Hội thảo được chia làm 2 phiên: Phiên thứ nhất trao đổi về các vấn đề liên quan đến các Chương trình Khoa học xã hội và nhân văn cấp Quốc gia giai đoạn đến 2030 như: Quy trình quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia; Một số kinh nghiệm trong việc đề xuất và xây dựng hồ sơ tuyển chọn nhiệm vụ thuộc Chương trình khoa học xã hội và nhân văn giai đoạn hiện nay; Khung 03 Chương trình KX và tình hình triển khai. Phiên thứ 2 tập trung thảo luận một số vấn đề nghiên cứu trong khung 03 Chương trình gắn với Đà Nẵng và khu vực duyên hải Nam Trung Bộ như: Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ trong bối cảnh mới hiện nay; Hội nhập quốc tế và khu vực: cơ hội, thách thức và một số vấn đề đặt ra cho khu vực Nam Trung Bộ; Đổi mới quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST: Góc nhìn từ các địa phương vùng Nam Trung Bộ…
GS.TS. Trần Thị Vân Hoa, Phó Chủ nhiệm Chương trình KX.07/21-30, trình bày báo cáo tham luận “Khung Chương trình KX.07/21-30 và tình hình triển khai”.
Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước trình bày tham luận “Quy trình quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia”.
Ông Lê Đức Viên, Giám đốc Sở KH&CN Đà Nẵng trình bày báo cáo tham luận “Đổi mới quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST: Góc nhìn từ các địa phương vùng Nam Trung Bộ”.
Các đại biểu trao đổi tại Phiên thảo luận.
Để tổ chức thực hiện các Chương trình trọng điểm cấp Quốc gia có hiệu quả, Bộ KH&CN đã và đang xây dựng, ban hành mới hệ thống các văn bản quản lý trong tất cả các khâu như: xác định nhiệm vụ, tuyển chọn đề tài, kiểm tra, đánh giá nghiệm thu… Các đại biểu hy vọng, các quy định mới này sẽ có bước thay đổi lớn, giải quyết được nhiều vướng mắc trong thực tiễn, đơn giản hơn về thủ tục hành chính và tạo thuận lợi cho các nhà khoa học khi tham gia thực hiện đề tài.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước

Giàn khoan dầu khí ngoài khơi cao bằng tòa nhà 24 tầng

Được chế tạo tại Trung Quốc trong 34 tháng, giàn khoan dầu khí Marjan nặng hơn 17.200 tấn và có diện tích sàn tương đương 15 sân bóng rổ.

Giàn khoan dầu khí ngoài khơi lớn nhất do Trung Quốc chế tạo cho thị trường nước ngoài. Ảnh: CMG

Giàn khoan dầu khí ngoài khơi lớn nhất do Trung Quốc chế tạo cho thị trường nước ngoài. Ảnh: CMG

Tập đoàn Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) hôm 12/8 cho biết, giàn khoan dầu khí ngoài khơi nặng nhất do Trung Quốc chế tạo cho thị trường nước ngoài đã được hoàn thiện và bàn giao tại một cơ sở sản xuất ở Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông. Việc hoàn thành giàn khoan – mang tên bệ thu gom và vận chuyển dầu khí Marjan – đánh dấu bước đột phá về năng lực chế tạo thiết bị dầu khí ngoài khơi quy mô lớn của Trung Quốc.

Giàn khoan Marjan là một trong những công trình lớn nhất thế giới thuộc loại này. Được chế tạo trong 34 tháng, công trình nặng hơn 17.200 tấn, cao hơn tòa nhà 24 tầng và có diện tích sàn tương đương 15 sân bóng rổ. Nó dự kiến ra khơi cuối tháng 8 trên một tàu vận tải lớn, đến địa điểm lắp đặt chỉ định cách xa khoảng 11.850 km.

Giàn khoan Marjan là một cơ sở sản xuất ngoài khơi phức tạp bao gồm mạng lưới đường ống tinh vi, hệ thống xử lý hóa chất tiên tiến và hệ thống kiểm soát vận hành. Nó được thiết kế để thu gom và vận chuyển dầu khí ngoài khơi đến các cơ sở xử lý trên bờ một cách hiệu quả. Với khả năng thu gom và vận chuyển 24 triệu tấn dầu thô và 7,4 tỷ m3 khí hàng năm, đây là giàn khoan có công suất hàng đầu thế giới.

Saudi Aramco, công ty dầu khí nhà nước Arab Saudi, đã thông báo kế hoạch triển khai giàn khoan Marjan tại vùng biển nước này. Giàn khoan sẽ đóng góp lớn vào mục tiêu tăng sản lượng hàng năm của mỏ dầu Marjan lên 24 triệu tấn.

Sự kiện bàn giao giàn khoan Marjan diễn ra trong bối cảnh Trung Quốc và Arab Saudi đang tăng cường hợp tác về năng lượng. Hợp tác năng lượng của hai nước trước đây tập trung vào các nguồn truyền thống, nhưng hiện đã mở rộng sang cả năng lượng mới.

Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)

Thiết kế chống ngập lụt lấy cảm hứng từ ruộng bậc thang

Nhiều công viên, mái nhà và bờ sông mô phỏng hình thức trồng trọt lâu đời là ruộng bậc thang, giúp các thành phố châu Á thấm hút, lưu giữ và lọc sạch nước mưa.

Phần mái xanh của Đại học Thammasat. Ảnh: Landprocess

Phần mái xanh của Đại học Thammasat. Ảnh: Landprocess

Năm 2011, kiến trúc sư Kotchakorn Voraakhom và gia đình cô cũng như hàng triệu người khác ở Bangkok bị mất nơi ở và trở thành vô gia cư khi lũ lụt tràn qua nhiều khu vực ở Thái Lan và làm ngập siêu độ thị. Đó là trận lụt tồi tệ nhất của Thái Lan trong nhiều thập kỷ, một thảm họa trên toàn quốc kéo dài hơn 3 tháng và khiến hơn 800 người tử vong. Các nhà khoa học sau đó liên hệ thảm họa ngập lụt với lượng mưa tăng lên bởi phát thải khí nhà kính do con người gây ra, theo BBC.

Thảm họa này khiến Voraakhom chấn động và thôi thúc cô thành lập công ty kiến trúc Landprocess. Trong hơn một thập kỷ qua, công ty đã thiết kế nhiều công viên, vườn trên mái nhà và không gian công cộng ở thành phố thấp để giúp người dân tăng khả năng chống chọi ngập lụt. Thiết kế ấn tượng nhất của Voraakhom cho tới nay là mái trường đại học phủ đầy cây xanh lấy cảm hứng từ ruộng bậc thang.

Tại Đại học Thammasat ở phía bắc Bangkok, các tầng thửa ruộng nhỏ nằm dốc dần từ đỉnh tòa nhà dọc theo phần mái xanh của Voraakhom, cho phép trường thu thập nước mưa và trồng thức ăn. Có 4 ao nước quanh tòa nhà để thu gom nước chảy xuống. Vào ngày khô hạn, nước này được bơm ngược lại bằng năng lượng sạch do pin quang điện trên mái tạo ra, dùng để tưới tiêu cho các thửa ruộng. Khi phần mái được xây vào năm 2019, nó trở thành trang trại trên mái nhà ở đô thị lớn nhất châu Á với 7.000 m2 trong tổng số 22.000 m2 dành cho trồng trọt hữu cơ.

So với thiết kế từ bê tông, phần mái xanh có thể giảm 20 lần tốc độ chảy của nước mưa đổ xuống mặt đất, một vấn đề lớn đối với Bangkok, theo ước tính từ Voraakhom. Nó cũng giảm 2 – 4 độ C nhiệt độ bên trong tòa nhà vào mùa hè nóng nực ở Bangkok.

Ruộng bậc thang là những thửa ruộng xếp lớp do nông dân tạo ra dọc theo sườn đồi và núi để tối đa hóa sử dụng đất. Loại ruộng này phổ biến ở nhiều nước châu Á bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam và Philippines. Nguồn gốc của chúng có thể đến từ lưu vực sông Trường Giang ở Trung Quốc cách đây hơn 5.000 năm.

Dù có hình dáng và kích thước đa dạng, tất cả ruộng bậc thang đều được xây dựng để dựa theo đường cong tự nhiên, cho phép thu thập và giữ nước mưa, đồng thời sử dụng nước mưa để nuôi dưỡng đất và hoa màu. Theo Yu Kongjian, giáo sư kiến trúc ở Đại học Bắc Kinh, Trung Quốc, cách xây dựng ruộng bậc thang của nhiều thế hệ nông dân có thể mang lại lợi ích to lớn cho các thành phố châu Á khi đối phó với mưa bão.

Ruộng bậc thang là một trong những nền tảng trong lý thuyết thành phố xốp của Yu, kêu gọi các thành phố dựa vào đất đai và cây xanh thay vì sắt thép và bê tông để giải quyết vấn đề lũ lụt và lượng mưa dư thừa. Theo ông, nước mưa nên được thấm hút và giữ lại tại nguồn, làm chậm dòng chảy và điều chỉnh ở nơi nó đổ vào. Ruộng bậc thang giúp giảm thiểu lũ lụt tại nguồn. Từ năm 1997, Yu đã thiết kế hơn 500 dự án thành phố xốp tích hợp yếu tố bậc thang trên khắp Trung Quốc, một số tạo ra tác động ấn tượng.

Ví dụ, công viên Yanweizhou hoàn thành năm 2014 ở Kim Hoa, Chiết Giang, quê hương của Yu, có bờ sông giống ruộng bậc thang trồng cỏ có thể thích nghi với môi trường dưới nước. Đặc trưng “xốp” này có thể giảm tới 63% mức độ ngập lụt tối đa hàng năm của công viên so với công trình bê tông.

An Khang (Theo BBC)

Chỉnh sửa gene giảm đường khó tiêu trong cây đậu tương

Các nhà khoa học tại Viện Công nghệ Sinh học ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gene giúp giảm 50% lượng đường khó tiêu trong đậu tương.

Thông tin được TS Đỗ Tiến Phát, Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam báo cáo tại hội thảo “Công nghệ sinh học phục vụ tạo giống cây trồng” do Trung tâm Thông tin Thống kê Khoa học và Công nghệ, Sở Khoa học Công nghệ TP HCM (CESTI) tổ chức hôm 8/8.

Theo TS Phát, trong hạt đậu tương có chứa nhiều thành phần đường khó tiêu (không được tiêu hóa hết trên người và một số loài động vật như lợn, gà… ). Khi không tiêu hóa được, lượng khí sinh ra gây trướng bụng đầy hơi, giảm hiệu suất hấp thu dinh dưỡng.

Nhóm sử dụng hệ thống chỉnh sửa gene Crispr/Cas làm mất chức năng của hai gene GmGOLS1A và GmGOLS1B giúp giảm lượng đường trong đậu tương. Kết quả, lượng đường khó tiêu trong đậu tương chỉnh sửa gene giảm 40 – 50% so với giống gốc. Trong khi hàm lượng các loại đường dễ tiêu như glucose có xu hướng tăng.

Sơ đồ quy trình chuyển gene trên cây đậu tương của nhóm nghiên cứu Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Sơ đồ quy trình chuyển gene trên cây đậu tương của nhóm nghiên cứu Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ Việt Nam. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Nhóm nghiên cứu cũng ứng dụng công nghệ này với cà chua làm tăng lượng đường và amino acid. Công nghệ chỉnh sửa gene Crispr/Cas tạo đột biến vùng uORF làm mất chức năng điều khiển của nó lên gene bZIP giúp tăng hàm lượng amino acid lên gấp đôi, hàm lượng đường glucose và fructose tăng đáng kể so với giống gốc.

Theo TS Phát, bằng công nghệ chỉnh sửa gene Crispr/Cas nhóm đã tạo ra những đột biến chính xác theo lựa chọn trên các vùng gene quan tâm, từ đó điều khiển quá trình sinh lý, sinh hóa, sinh tổng hợp đường, amino acid trong cây. Nhóm muốn hợp tác nghiên cứu ứng dụng chỉnh sửa gene trong cải tạo giống cây trồng tại Việt Nam thông qua các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học.

Công nghệ chỉnh sửa gene sử dụng hệ thống Crispr/Cas được ứng dụng phổ biến trên thế giới cả trên tế bào động vật và thực vật từ năm 2013, ông Phát cho biết. Đây là kỹ thuật có hiệu suất chỉnh sửa có thể lên tới 100%. Giống sau chỉnh sửa gene không khác biệt so với chọn tạo giống truyền thống về kiểu hình và đặc điểm sinh trưởng. Thời gian tạo giống mới bằng kỹ thuật chỉnh sửa gene rút ngắn còn một nửa so với các công nghệ đột biến phóng xạ, hóa chất.

Nhiều nước như Mỹ, Canada, Ấn Độ, Australia… và một số nước Đông Nam Á như Philipines, Thái Lan… đã chấp thuận việc sử dụng cây trồng chỉnh sửa gene tương tự như các cây trồng chọn tạo giống truyền thống. TS Phát đề xuất, trong tương lai Việt Nam có các chính sách cụ thể về ứng dụng, sử dụng sản phẩm chỉnh sửa gene, nhằm đưa sản phẩm vào thực tế sản xuất cho nông dân.

Biểu đồ và hình ảnh thực tế phân tích kiểu hình và chất lượng quả cà chua khi ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gene. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Biểu đồ và hình ảnh thực tế phân tích kiểu hình và chất lượng quả cà chua khi ứng dụng công nghệ chỉnh sửa gene. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Theo GS.TS Lê Huy Hàm, Chủ nhiệm Chương trình trọng điểm Phát triển, nghiên cứu và ứng dụng Công nghệ sinh học Quốc gia giai đoạn 2021 – 2030, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, hướng nghiên cứu chỉnh sửa gene mới xuất hiện sau năm 2010. Đến 2017 – 2018, Việt Nam mới có những tiếp cận đầu tiên trong giới khoa học nghiên cứu chỉnh sửa gene cho lúa, ngô, đậu tương, cà chua… Các công trình hướng đến ứng dụng công nghệ này tạo giống sắn không ra hoa; lúa kháng bạc lá, chịu mặn, tăng kích thước hạt, tăng độ thơm; ngô tăng số hàng hạt… GS Hàm cho rằng, thực tế nghiên cứu công nghệ gene, Việt Nam chủ yếu mới ở giai đoạn thiết kế, chuyển gene… trong khi lĩnh vực này còn nhiều công đoạn phức tạp khác với công nghệ rất cao, cần đầu tư kinh phí rất lớn.

Ông đánh giá, các nghiên cứu của Việt Nam mới dừng lại quy mô phòng thí nghiệm, chưa có nhiều công trình được tiếp tục giai đoạn ứng dụng thực tế cho người dân. Do đó, GS Hàm cho rằng giới khoa học cần có các nghiên cứu chuyên sâu tìm nguồn gene có giá trị mang tính bản quyền để tạo giống biến đổi gene.

Phân tích cơ sở dữ liệu sáng chế, thạc sĩ Nguyễn Thị Minh Thư, chuyên viên phân tích thông tin, thuộc CESTI cho biết theo số liệu của WIPS Global, số lượng sáng chế về ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo giống trên thế giới có trên 43.000 công trình.

Tại Việt Nam, theo dữ liệu của WIPO Publish của Cục Sở hữu Trí tuệ, có 197 sáng chế, giải pháp hữu ích đề cập ứng dụng công nghệ sinh học trong tạo giống cây trồng, trong đó có 52 sáng chế từ viện trường, doanh nghiệp trong nước. Thạc sĩ Thư đánh giá, xu hướng nghiên cứu công nghệ sinh học phục vụ tạo giống tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào kỹ thuật nuôi cấy mô, còn kỹ thuật di truyền, chỉ thị phân tử khá khiêm tốn, cần được quan tâm đầu tư nhiều hơn thời gian tới.

Hà An

Mở ra cơ hội hợp tác mới, thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa Việt Nam và Australia

Thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện vào năm 2024, Việt Nam và Australia ngày càng phát triển sâu rộng quan hệ hợp tác, trong đó có lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST). Chuyến thăm và làm việc tại Australia mới đây của Đoàn công tác của Bộ KH&CN do Thứ trưởng Trần Hồng Thái làm trưởng đoàn đã mở ra cơ hội hợp tác mới, thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST.
Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia.
Tại buổi làm việc với Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia, bà Helen Wilson, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia bày tỏ sự cảm ơn và kính trọng đối với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – Người đã luôn lãnh đạo, ủng hộ và tạo mọi điều kiện thuận lợi trong việc phát triển mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Australia. Đồng thời, Bà cũng bày tỏ sự xúc động và chia buồn đối với người dân Việt Nam trước sự ra đi của đồng chí Tổng Bí thư.
Thứ trưởng Trần Hồng Thái cảm ơn tình cảm của Chính phủ Australia đối với sự ra đi của Tổng Bí thư. Đồng thời, cảm ơn sự đón tiếp nồng hậu của phía Bạn và đánh giá cao mối quan hệ hợp tác giữa Bộ KH&CN Việt Nam với Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia trong thời gian qua.
Thứ trưởng đã trao đổi một số nội dung về Chiến lược phát triển KH,CN&ĐMST đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành. Bộ KH&CN đang thực hiện một số nội dung trọng tâm ưu tiên hiện nay như: Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động KH,CN&ĐMST thông qua việc sửa đổi Luật KH&CN 2013 hướng tới tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế; Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; Luật Năng lượng nguyên tử… Bên cạnh đó, các vấn đề phát triển doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; vấn đề thương mại hoá kết quả nghiên cứu… cũng là một ưu tiên lớn của Bộ KH&CN. Để làm tốt nhiệm vụ này, Bộ KH&CN rất cần sự tham gia của các tổ chức, chuyên gia trong nước và quốc tế, đặc biệt các chuyên gia của Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia trong việc hỗ trợ, cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn có tính chứng thực cao, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam trong giai đoạn tới.
Tại buổi làm việc, Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia đã chia sẻ kinh nghiệm trong xây dựng và triển khai các chính sách phát triển KH&CN, những lĩnh vực định hướng ưu tiên của Chính phủ Australia (năng lượng tái tạo, các ngành sản xuất tiên tiến, công nghệ giảm phát thải, y tế phục vụ sức khoẻ cộng đồng…), những chính sách liên quan bảo vệ tài sản trí tuệ, thu hút sự tham gia và tài trợ của cộng đồng quốc tế (song phương và đa phương) đối với các dự án nghiên cứu…
Thứ trưởng Trần Hồng Thái tặng quà lưu niệm cho Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia.
Trong thời gian qua, Chính phủ Australia đã thông qua nhiều chương trình hỗ trợ giúp Việt Nam xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tăng cường ứng dụng, phát triển KH&CN và công nghệ số. Trong thời gian tới, Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài Nguyên Australia tin tưởng và khẳng định sẽ tiếp tục phối hợp quản lý, triển khai hiệu quả các Chương trình hợp tác để phát triển, kết nối mạnh mẽ hơn nữa hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của hai nước, phục vụ thiết thực các mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội bền vững dựa trên KH,CN&ĐMST cũng như thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này.
Đoàn công tác của Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài Nguyên Australia chụp ảnh kỷ niệm.
Tại buổi làm việc với Hội đồng Nghiên cứu Australia (ARC), Thứ trưởng Trần Hồng Thái đánh giá cao sự hợp tác của Hội đồng và bày tỏ cảm ơn sự đón tiếp của Hội đồng dành cho Đoàn.
Đoàn công tác làm việc với ARC.
Thứ trưởng mong muốn Hội đồng chia sẻ kinh nghiệm về mô hình tổ chức, hoạt động tài trợ (xét và phê duyệt các đề xuất), mô hình quản lý tài chính (việc cấp tiền thực hiện nghiên cứu và giám sát), công tác kiểm tra, đánh giá, nghiệm thu các đề tài KH&CN, công tác xử lý tài sản đề tài, định giá sản phẩm/tài sản trí tuệ hình thành từ kết quả nghiên cứu, vấn đề thương mại hoá kết quả nghiên cứu.
ARC đã chia sẻ cách thức hoạt động của Hội đồng; vai trò của Hội đồng trong tài trợ các nghiên cứu cơ bản; sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng; quy trình xem xét, đánh giá, cấp kinh phí và quản lý nhiệm vụ KH&CN; sự kết nối giữa nhóm nghiên cứu cơ bản với các Bộ, ngành, doanh nghiệp để thương mại hoá kết quả nghiên cứu đạt hiệu quả cao.
Hai bên đã cùng nhau trao đổi, thảo luận và đề xuất hướng hợp tác về hoạt động KH,CN&ĐMST trong thời gian tới: đào tạo, trao đổi cán bộ/chuyên gia, xây dựng các dự án nghiên cứu chung, tăng cường hợp tác tài trợ nghiên cứu, sử dụng nguồn kinh phí Việt Nam, Australia và các nguồn tài trợ đa phương khác.
Đoàn công tác chụp ảnh kỷ niệm với Hội đồng Nghiên cứu Australia. 
Tại buổi làm việc với Đại sứ quán Việt Nam tại Australia, Thứ trưởng Trần Hồng Thái đã cảm ơn Đại sứ Phạm Hùng Tâm và các lãnh đạo, cán bộ Đại sứ quán đã tiếp đón Đoàn công tác của Bộ KH&CN. Chia sẻ với Đại sứ Phạm Hùng Tâm về chuyến công tác tại Australia lần này, Thứ trưởng cho biết, Đoàn đã làm việc với Bộ Công nghiệp, Khoa học và Tài nguyên Australia, một số Trường Đại học lớn (RMIT, Monash, Melbourne), Hội đồng Nghiên cứu Australia, Hội Trí thức và Chuyên gia Việt Nam tại Thànhh phố Melbourne… nhằm tạo cơ hội, thúc đẩy hợp tác KH,CN&ĐMST giữa Việt Nam và Australia.
Toàn cảnh buổi làm việc của Đoàn Công tác với Đại sứ quán Việt Nam tại Australia.
Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Australia Phạm Hùng Tâm đã thông tin với Thứ trưởng Trần Hồng Thái và Đoàn công tác về tình hình quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Australia, đặc biệt là sau khi hai nước chính thức là Đối tác chiến lược toàn diện. Đại sứ quán Việt Nam tại Úc sẽ luôn là cầu nối tích cực góp phần thúc đẩy mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Thứ trưởng Trần Hồng Thái tặng quà lưu niệm cho Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Australia Phạm Hùng Tâm.

Nguồn: Văn phòng các Chương trình trọng điểm cấp nhà nước, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Phát hiện protein lớn nhất trong tự nhiên

Được mệnh danh là “Núi Everest” của protein, PKZILLA-1 được tìm thấy trong tế bào tảo biển, giúp tạo ra độc tố khiến cá chết hàng loạt.

Một tế bào tảo vàng (Prymnesium parvum). Ảnh: Greg Southard/Sở Công viên và Động vật hoang dã Texas

Một tế bào tảo vàng (Prymnesium parvum). Ảnh: Greg Southard/Sở Công viên và Động vật hoang dã Texas

Các nhà khoa học Mỹ phát hiện protein lớn nhất từng ghi nhận trong lĩnh vực sinh học, Science Alert hôm 9/8 đưa tin. Mang tên PKZILLA-1, loại protein này nằm trong tảo vàng (Prymnesium parvum), sinh ra chất độc và đóng vai trò lớn gây chết cá khi tảo nở hoa. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí Science.

Được mệnh danh là “Núi Everest” của protein, PKZILLA-1 cấu tạo từ 45.212 axit amin, hơn khoảng 30.000 axit amin so với protein giữ kỷ lục trước đó, titin, có trong cơ bắp của người. Trong khi đó, protein kích thước trung bình hemoglobin chỉ gồm 574 axit amin. “Điều này đã mở rộng nhận thức của chúng ta về những gì sinh học có thể làm được”, nhà hóa học biển Bradley Moore từ Viện Hải dương học Scripps ở California, cho biết.

Tảo vàng có thể gây tổn thương chí mạng cho mang cá và các nhà khoa học đang cố gắng nghiên cứu cách sinh vật đơn bào tí hon này tạo ra những phân tử lớn phức tạp. Trong nghiên cứu mới, Moore cùng đồng nghiệp sử dụng những kỹ thuật phân tích gene tiên tiến để tìm hiểu cách tảo vàng tạo ra chất độc prymnesium.

Trong quá trình tìm hiểu, họ phát hiện hai gene lớn bất thường tạo ra PKZILLA-1 và PKZILLA-2 nhỏ hơn, sau đó phát hiện chính các protein này. Chúng chính là những enzyme giúp kích hoạt việc sản xuất độc tố prymnesin thông qua một quá trình phản ứng hóa học dài. “Chúng tôi đã xác định được các gene và phát hiện rằng để tạo ra những phân tử độc khổng lồ, loài tảo này sử dụng các gene khổng lồ”, Vikram Shende, chuyên gia tại Viện Hải dương học Scripps, cho biết.

Phát hiện mới hữu ích cho việc ngăn chặn những hiện tượng nở hoa có hại của tảo, bao gồm tảo vàng. Những loài tảo này hiện diện trên khắp thế giới và có thể ảnh hưởng đáng kể đến các hệ sinh thái dưới nước. Tảo là một phần quan trọng trong thế giới sinh vật biển, nhưng khi chúng hiện diện quá nhiều – thường do nước ấm lên hoặc ô nhiễm từ hoạt động của con người – hậu quả có thể rất nghiêm trọng, vì chất độc được thêm vào còn oxy bị hút ra khỏi nước.

Nhóm chuyên gia cho rằng phương pháp gene dùng trong nghiên cứu mới cũng có thể giúp xác định các chất độc từ loại tảo khác. Thêm vào đó, những cách tổng hợp chất mới được phát hiện có thể giúp phát triển thuốc và vật liệu mới. “Hiểu được cách thiên nhiên phát triển các phương pháp hóa học cho phép chúng ta áp dụng kiến thức này vào việc tạo ra những sản phẩm hữu ích, dù là thuốc chống ung thư mới hay một loại vải mới”, Moore giải thích.

Thu Thảo (Theo Science Alert)

AI4VN 2024 bàn giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh

Các xu hướng ứng dụng AI doanh nghiệp, y tế cũng như chuẩn bị hạ tầng AI Cloud… sẽ được thảo luận tại 4 workshop diễn ra sáng 23/8, thuộc khuôn khổ AI4VN 2024.

Workshop là sự kiện khởi động Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam (AI4VN 2024), tổ chức tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội. Diễn ra từ 8h ngày 23/8, bốn phiên hội thảo (AI Workshop) nối tiếp với các diễn giả danh tiếng và chuyên gia trí tuệ nhân tạo đến từ các đơn vị nghiên cứu, doanh nghiệp, trường đại học, cùng trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm giải pháp cho những thách thức hiện tại và tối đa hóa lợi ích của các công nghệ AI.

Tham luận mở màn đến từ đại diện của Đại diện của UNESCO với bài trình bày: “Hợp tác quốc tế đảm bảo an toàn đối với trí tuệ nhân tạo”. Thời gian qua UNESCO đã đưa ra một bộ quy định về đạo đức trong trí tuệ nhân tạo, tập trung vào việc đảm bảo rằng AI được phát triển và sử dụng theo cách tôn trọng quyền con người và thúc đẩy sự công bằng. Trong hợp tác với Việt Nam, tổ chức này cũng cho biết sẵn sàng hỗ trợ Bộ Khoa học và Công nghệ trong triển khai các khuyến nghị của UNESCO tại Việt Nam, đặc biệt là khuyến nghị đạo đức trong AI.

Ngay sau đó phiên đầu tiên với chủ đề “AI Automation – Tự động hóa và AI”, ông Lê Đăng Ngọc, Phó Giám đốc Khối Nền tảng trí tuệ nhân tạo, Trung tâm Không gian mạng Viettel là diễn giả mở màn. Ông có bài trình bày về “Ứng dụng AI trong tự động hóa thay thế các tác vụ truyền thống của con người”.

Ông Lê Đăng Ngọc. Ảnh: NVCC

Ông Lê Đăng Ngọc. Ảnh: NVCC

Sau phần trình bày tham luận, diễn giả đến từ Heineken cũng có bài chia sẻ từ góc nhìn ứng dụng công nghệ trong quá trình sản xuất.

Ở phiên thảo luận hai diễn giả đến từ doanh nghiệp cùng PGS.TS Bùi Thu Lâm, Phó chủ tịch, Tổng thư ký Câu lạc bộ các Khoa – Viện – Trường công nghệ thông tin – truyền thông (FISU) Việt Nam sẽ trao đổi về giải pháp “Nâng cao năng suất lao động với AI và tự động hóa”. Các diễn giả sẽ chỉ ra những ưu thế, khó khăn khi kết hợp tự động hóa và AI, đề ra giải pháp để khai thác thế mạnh của công nghệ này.

Phiên thứ hai có chủ đề “Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam”. Ông Cao Vương, Chủ tịch HĐQT AIVA Group, sẽ chia sẻ về “Ứng dụng AI đột phá doanh số bán hàng và Marketing”.

Ông Cao Vương là nhà sáng lập AIVA Group – Giải pháp tiên phong về đào tạo và ứng dụng AI, đồng thời cũng là co-founder của Unica.vn, sàn khóa học online lớn nhất tại Việt Nam với gần 1 triệu học viên. Ông là chuyên gia đầu tiên giảng dạy về AI thực chiến với hơn 60.000 học viên trên khắp cả nước.

Ông Cao Vương. Ảnh: NVCC

Ông Cao Vương. Ảnh: NVCC

Sau ông Vương, ông Lê Hồng Quang, Phó Tổng Giám đốc thường trực Công ty Cổ phần MISA, sẽ chia sẻ về “Ứng dụng AI trong quản trị doanh nghiệp giúp tăng năng suất làm việc”.

Ông Lê Hồng Quang. Ảnh: NVCC

Ông Lê Hồng Quang. Ảnh: NVCC

Tại phiên này phần thảo luận sẽ có sự tham dự của GS.TS Nguyễn Thanh Thủy, Chủ tịch FISU Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư ngành CNTT. GS Nguyễn Thanh Thủy cùng các diễn giả sẽ trao đổi về những cơ hội vàng cho doanh nghiệp khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh.

Ở phiên thứ 3 với chủ đề “Data center và AI Cloud” có sự tham gia của các diễn giả đến từ FPT và Salesforce. Trong đó đại diện FCI sẽ nói về việc FPT đầu tư hạ tầng AI Cloud, tiến ra thị trường quốc tế như thế nào.

Sau phần tham luận, phiên panel sẽ bàn về chủ đề “Cú hích nào cho thị trường Data Center Việt Nam bứt phá?”. Các diễn giả sẽ cùng nhau phân tích, chỉ ra những cơ hội cho doanh nghiệp tận dụng lợi thế khi sẵn sàng cơ sở hạ tầng, đưa công nghệ mới vào thực tế sản xuất của đơn vị. Họ cũng chỉ ra những khó khăn, đề xuất chính sách từ trải nghiệm thực chiến của mình.

Trong phiên cuối cùng về “Ứng dụng AI trong lĩnh vực Y tế”, TS.BS Nguyễn Hải Tuấn – Cố vấn Tin Sinh học Thabis sẽ trình bày về “Ứng dụng AI trong phác đồ điều trị ung thư”.

Đại diện đến từ đơn vị đào tạo – PGS.TS Huỳnh Thị Thanh Bình – Phó Hiệu trưởng trường Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Đại học Bách khoa Hà Nội cũng có những phân tích ở góc độ chuẩn bị nguồn nhân lực để kéo gần hơn khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế khi ứng dụng AI trong y tế.

Theo các chuyên gia, AI có nhiều tiềm năng, song để ứng dụng vào thực tiễn thường gặp nhiều thách thức cần được giải quyết để đảm bảo chúng có thể mang lại lợi ích thực sự. Một trong số đó là vấn đề: Chất lượng dữ liệu; Độ tin cậy và chính xác; Chấp nhận của người dùng; Vấn đề đạo đức và pháp lý…

Khép lại phiên hội thảo buổi sáng là bài trình bày về “Phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm ở Việt Nam” đến từ đại diện Trường Đại học Luật (Đại học Quốc gia Hà Nội).

AI4VN 2024 có chủ đề “Mở khóa sức mạnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh” (Unlock the power of Generative AI”. Sự kiện do Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ đạo, Báo VnExpress tổ chức với sự phối hợp của Câu lạc bộ Các Khoa – Viện – Trường Công nghệ thông tin -Truyền thông (FISU), bắt đầu từ năm 2018.

Chương trình gồm các hoạt động: AI Summit, AI Workshop, AI Expo, AI Awards; hướng mục tiêu cung cấp bức tranh toàn cảnh từ góc nhìn ứng dụng, sự hưởng ứng của doanh nghiệp trong hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam.

Ngoài phiên chính của AI4VN (AI Summit) diễn ra chiều 23/8 có sự tham của của lãnh đạo Chính phủ, bộ ngành và các tổ chức quốc tế, trong khuôn khổ AI4VN 2024, một triển lãm (AI Expo) gồm các gian hàng trình diễn các sản phẩm AI tiêu biểu của các doanh nghiệp, viện, trường… Khách tham dự có cơ hội trải nghiệm các sản phẩm mới ứng dụng AI đang có trên thị trường Việt Nam.

Ban tổ chức cũng trao giải cho các sản phẩm, giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo nổi bật (AI Awards 2024).

>>> Đăng ký tham dự chương trình tại đây.

Kham tham dự trải nghiệm sản phẩm tại AI4VN 2023. Ảnh: Trần Quỳnh

Kham tham dự trải nghiệm sản phẩm tại AI4VN 2023. Ảnh: Trần Quỳnh

Như Quỳnh

Sản xuất nước mắm bằng năng lượng mặt trời năng suất tăng 20%

Thấy công nghệ chế biến nước mắm sử dụng năng lượng mặt trời hiệu quả, anh Lê Văn Lợi đầu tư hơn 2 tỷ đồng triển khai.

Ngày đầu tháng 8, 15 bể chượp (bể muối nước mắm) được anh Lê Văn Lợi, xã Tam Thanh, TP Tam Kỳ muối đầy cá cơm. Khác với cách ướp truyền thống, anh sử dụng công nghệ năng lượng mặt trời và hệ thống náo đảo tự động. Anh là người đầu tiên ở Quảng Nam áp dụng công nghệ này vào sản xuất nước mắm.

Anh Lê Văn Lợi, Giám đốc HTX Nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ Cát Trắng kiểm tra bể muối. Ảnh: Đắc Thành

Anh Lê Văn Lợi, Giám đốc hợp tác xã Nông nghiệp và kinh doanh dịch vụ Cát Trắng kiểm tra bể muối. Ảnh: Đắc Thành

Sinh ra trong gia đình làm nước mắm truyền thống ở xã bãi ngang Tam Thanh hơn 100 năm. Thế hệ cha ông của anh Lợi cho cá vào bể sành, xứ, xi măng muối và thường xuyên phơi đảo. Sau 15 tháng muối để thu nước mắm người dân chiết lọc qua vải mất thời gian và không hợp vệ sinh.

Năm 2021, anh Lợi biết Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ Hà Tĩnh đã nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ năng lượng mặt trời và hệ thống náo đảo tự động nâng cao hiệu quả sản xuất nước mắm truyền thống.

Sau khi tìm hiểu, anh thành lập hợp tác xã Nông nghiệp và Kinh doanh dịch vụ Cát Trắng. Hợp tác xã được Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Nam giao thực hiện dự án “Chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa và công nghệ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn, miền núi và xây dựng dựng nông thôn mới”.

Ngoài hỗ trợ của nhà nước, anh Lợi đầu hơn 1 tỷ đồng mua sắm thiết bị và dây chuyền chiết lọc, đóng gói sản phẩm, còn kỹ thuật chế biến được Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ Hà Tĩnh chuyển giao.

Hệ thống muối cá rộng gần 1.000 m2 dựng lên trong vườn nhà. Cá cơm được đánh bắt từ biển về, anh trộn đều với muối cho vào bể ủ. So với cách muối truyền thống 3 cá một muối, với công nghệ này tỷ lệ bốn cá một muối. Tại mỗi bể được đấu nối hệ thống đường ống để nước mắm chảy tuần hoàn qua máy nước nóng duy trì 40 độ C bằng năng lượng mặt trời.

Cá cơm trộn đều với muối với bốn cá một muối. Ảnh: Đắc Thành

Cá cơm trộn đều với muối với bốn cá một muối. Ảnh: Đắc Thành

Quá trình muối, nước mắm chảy từ bể chứa qua hệ thống nước nóng liên tục. Việc này giúp gia tăng nhiệt độ đồng đều trong bể và tăng bề mặt tiếp xúc giữa hệ enzyme và các vi sinh vật với nguyên liệu cá muối trong bể. Chúng được đảo tự động mà không cần sức người. Hệ thống cấp nhiệt có tính ổn định cao, khắc phục được những khó khăn do thời tiết.

Chủ cơ sở cho biết, trước đây muối nước mắm cho vào thùng dung tích nhỏ và bịt nắp kín. Để nước mắm đều, thơm ngon người dân mở nắp phải quấy đảo thường xuyên giữa trời nắng. Cách này làm tốn công sức và không hợp vệ sinh, nhiều lúc côn trùng bay vào.

“Từ ngày áp dụng công nghệ này vào sản xuất tiện lợi rất nhiều. Chúng được quấy đảo tự động hoàn toàn khép kín không cần đến sức người. Quá trình sản xuất không phụ thuộc thời tiết, không phải mở nắp thùng để phơi nắng, không lo đậy nắp khi trời mưa”, anh Lợi nói, thêm rằng lượng cá muối trong rất lớn. Mỗi bể chứa hơn 2,5 tấn cá, trong khi muối thủ công mỗi bể được vài tạ cá.

Dây chuyền đóng gọi tự động được anh Lợi đầu tư. Ảnh: Đắc Thành

Dây chuyền đóng gói tự động được anh Lợi đầu tư. Ảnh: Đắc Thành

Theo anh Lợi, công nghệ mới giúp hợp tác xã tiết kiệm diện tích sản xuất, nhà xưởng, đảm bảo yếu tố an toàn vệ sinh thực phẩm, không gây ô nhiễm và tác động đến môi trường như mùi đặc trưng của mắm. Quá trình muối được khép kín, không mở nắp bay hơi.

“So với truyền thống công nghệ này rút ngắn thời gian ủ muối. Phương pháp truyền thống 15-17 tháng mới thu nước mắm nhưng công nghệ này 8-10 tháng có thể thu, rút ngắn được gần nửa thời gian. Lượng nước mắm thu về tăng hơn 20% so với truyền thống và màu sắc đẹp hơn”, anh nói. Trung bình 1 tấn cá sản xuất được 750 lít nước mắm, trong khi với phương pháp truyền thống 1 tấn cá khoảng 650 lít nước mắm.

Ứng dụng công nghệ mới, mỗi năm anh Lợi thu hơn 20.000 lít, giá bán từ 80.000 – 110.000 đồng lít. Sản phẩm của hợp tác xã được công nhận OCOP 4 sao.

Đắc Thành

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt kiểm tra tiến độ Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân

Ngày 9/8/2024, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt dẫn đầu đoàn công tác làm việc với UBND thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai và kiểm tra tiến độ Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân.

Toàn cảnh buổi làm việc.

Tại buổi làm việc với UBND thành phố Long Khánh, ông Trần Chí Thành, Trưởng Ban Quản lý Dự án, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đã báo cáo tình hình triển khai Dự án, như: lập nhiệm vụ quy hoạch 1/500; giám sát công tác  khảo sát; lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường…


Ông Trần Chí Thành, Trưởng Ban Quản lý Dự án báo cáo tình hình triển khai Dự án.

Ông Trần Chí Thành cho biết, hiện tại công tác đảm bảo an toàn cho hoạt động khảo sát đã được triển khai đáp ứng được tiến độ theo kế hoạch. Nhiệm vụ quy hoạch 1/500 đã được đơn vị tư vấn lập, đã lấy ý kiến tham vấn cộng đồng, đang trong quá trình thẩm duyệt. Công tác khảo sát và lập báo cáo đánh giá tác động môi trường đang trong quá trình tổ chức thực hiện.

Trong thời gian tới, sẽ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ quá trình thẩm định và phê duyệt Dự án; phối hợp với chính quyền địa phương thực hiện các công việc liên quan đến kế hoạch, tổ chức thực hiện Dự án…

Ông Tăng Quốc Lập, Phó Chủ tịch UBND thành phố Long Khánh cũng đã trình bày một số ý kiến liên quan đến Dự án xây dựng Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân như: truyền thông về tính anh toàn của Dự án; xây dựng Trung tâm Truyền thông Dự án tại thành phố Long Khánh.

Ông Tăng Quốc Lập, Phó Chủ tịch UBND thành phố Long Khánh, Đồng Nai phát biểu tại buổi làm việc. (Ảnh: Báo Lao Động).

Tại buổi làm việc, các thành viên của đoàn kiểm tra đã trao đổi với lãnh đạo địa phương về tính an toàn của Dự án, vấn đề bảo vệ môi trường và an toàn hạt nhân. Theo đó, Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân với cấu phần chính là lò phản ứng hạt nhân công suất nhỏ nhằm sản xuất đồng vị phóng xạ phục vụ y tế và công nghiệp, chiếu xạ pha tạp silic bằng neutron để sản xuất chất bán dẫn… Dự án hoàn thành sẽ định vị thành phố Long Khánh trở thành Trung tâm thứ 2 của Việt Nam sau thành phố Đà Lạt trong việc phát triển về lĩnh vực y khoa hạt nhân.

Trong thời gian thực hiện, Ban quản lý Dự án sẽ tổ chức đoàn thực nghiệm của thành phố Long Khánh và tỉnh Đồng Nai tham quan tại Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt để có thêm thông tin về mức độ an toàn làm cơ sở để tổ chức thông tin tuyên truyền đến người dân địa phương.


Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại buổi làm việc. (Ảnh: Báo Lao Động).

Phát biểu kết luận, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đề nghị Ban quản lý Dự án phối hợp với nhà thầu công binh đẩy nhanh tiến độ công tác rà phá bom mìn, đảm bảo tuyệt đối an toàn trong quá trình làm việc; phối hợp chặt chẽ với nhà thầu chính và các thầu phụ chuẩn bị cho công tác khảo sát theo đúng quy định; Ban quản lý Dự án, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam sớm hoàn thiện phương án thiết kế mặt bằng đảm bảo điều kiện lập và phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 của Dự án.

Đối với các đơn vị thuộc Bộ KH&CN, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đề nghị: Văn phòng Bộ, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Vụ Năng lượng nguyên tử, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam phối hợp chặt chẽ với Ban Quản lý Dự án thực hiện đẩy nhanh tiến độ triển khai Dự án theo lộ trình đã ký trong Biên bản ghi nhớ giữa Bộ KH&CN với Tập đoàn Năng lượng nguyên tử quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) theo đúng quy định pháp luật.

Sau buổi làm việc, đoàn kiểm tra đã đi thực tế địa điểm xây dựng Dự án và công tác rà phá bom mìn.


Bộ KH&CN kiểm tra thực địa Dự án Trung tâm Nghiên cứu Khoa học công nghệ hạt nhân tại thành phố Long Khánh, Đồng Nai.

 

Nguồn: Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN