Giới thiệu sách “Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” – Tác Giả TS. Khương Quang Đồng

Giới thiệu sách “Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” – Tác Giả TS Khương Quang Đồng

Trong thời đại mà biến đổi khí hậu đang trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với sự tồn vong của nhân loại, cuốn sách “Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” của TS Khương Quang Đồng ra đời như một lời cảnh tỉnh và kêu gọi cấp bách về việc thay đổi tư duy và hành động của chúng ta. Tác giả không chỉ mở ra những góc nhìn mới mẻ về ngành công nghiệp ô tô, mà còn vạch ra những thách thức và cơ hội trong cuộc chiến bảo vệ hành tinh xanh.

Sự Phung Phí và Hệ Lụy

Cuốn sách bắt đầu bằng việc phác họa một bức tranh đáng suy ngẫm về thế kỷ 20, thời điểm mà các quốc gia giàu có ở châu Âu và Bắc Mỹ đã tận dụng nguồn năng lượng một cách vô tư và phung phí. Tác giả miêu tả hình ảnh những con đường sáng rực đèn điện vào ban đêm, những tòa nhà chọc trời chiếu sáng không mục đích, và hàng triệu chiếc SUV khổng lồ chỉ chở một người trên các con đường kẹt cứng. Những hình ảnh này không chỉ là minh chứng cho một xã hội tiêu thụ mà còn là một lời cảnh báo về sự phí phạm năng lượng khủng khiếp.

Hậu quả của sự phung phí này là hiện thực tàn khốc mà chúng ta đang đối mặt: từ khủng hoảng năng lượng đến biến đổi khí hậu, với biểu hiện rõ nét nhất là sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu. Hội nghị COP21 tại Paris năm 2015 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hạn chế lượng khí thải CO2 và đưa ra mục tiêu đạt carbon trung tính vào năm 2050. Tuy nhiên, con đường để đạt được mục tiêu này không hề dễ dàng, đặc biệt là đối với ngành công nghiệp ô tô.

Cuộc Cách Mạng Trong Ngành Công Nghiệp Ô Tô

Một trong những điểm nhấn của cuốn sách là việc phân tích sự chuyển đổi đầy khó khăn trong ngành công nghiệp ô tô từ các động cơ đốt trong truyền thống sang những công nghệ mới, thân thiện với môi trường hơn. Mặc dù xe điện đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, nhưng sự tăng trưởng này đang dần suy giảm. Nhiều tập đoàn lớn như Volkswagen, Ford, General Motors, và thậm chí cả Tesla, đã phải điều chỉnh kế hoạch sản xuất xe điện và hoãn các dự án đầu tư.

Trong khi đó, Toyota, dưới sự lãnh đạo của cựu Tổng Giám đốc Akio Toyoda, lại chọn một hướng đi khác biệt khi không tập trung hoàn toàn vào ô tô điện. Thay vào đó, họ kết hợp nhiều công nghệ khác nhau như hybrid, điện pin, và các loại xe chạy bằng hydro, với lý luận rằng đây mới là con đường hiệu quả để đạt được mục tiêu carbon trung hòa. Cuốn sách nhấn mạnh rằng, mặc dù ô tô điện có thể chỉ là một phần của giải pháp, chúng ta cần phải nhìn xa hơn và kết hợp nhiều công nghệ để đạt được mục tiêu cuối cùng.

Thách Thức và Cơ Hội

TS Khương Quang Đồng không chỉ dừng lại ở việc phân tích những khó khăn mà còn đề cập đến những cơ hội trong tương lai. Ông chỉ ra rằng, mặc dù công nghệ hydro có tiềm năng lớn, nhưng hiện tại chưa sẵn sàng để thay thế hoàn toàn động cơ đốt trong. Các công nghệ như pin nhiên liệu, eFuel, và động cơ đốt trong chạy bằng hydro vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu và phát triển, và ít nhất một thập niên nữa mới có thể trở nên phổ biến.

Tác giả cũng cảnh báo về những khó khăn và hỗn loạn mà ngành công nghiệp ô tô toàn cầu sẽ phải đối mặt trong thập niên tới. Từ đầu thế kỷ 20, hệ thống kỹ thuật và xã hội của ô tô đã được định hình dựa trên mô hình xe chạy bằng xăng/dầu. Tuy nhiên, với sự chuyển đổi sang các công nghệ mới như ô tô điện và hydro, cả chuỗi giá trị và chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp này sẽ phải thay đổi theo. Những thay đổi này không chỉ tạo ra sự cạnh tranh giữa các tập đoàn lớn mà còn đe dọa đến sự ổn định địa chính trị toàn cầu.

Lời Kết

“Đằng Sau Cách Mạng Ô Tô” không chỉ là một cuốn sách về công nghệ hay kinh tế, mà còn là một lời kêu gọi mạnh mẽ về việc thay đổi tư duy và hành động để bảo vệ hành tinh của chúng ta. Cuốn sách của TS Khương Quang Đồng sẽ là nguồn cảm hứng và kiến thức quý báu cho những ai quan tâm đến tương lai của ngành công nghiệp ô tô và hành tinh xanh.

Hãy cùng nhau đọc và suy ngẫm để hiểu rõ hơn về những thách thức mà chúng ta đang đối mặt, và quan trọng hơn là, tìm ra những giải pháp để cùng nhau xây dựng một tương lai bền vững.

 

Quý độc giả có thể mua sách tại:

Quốc Khánh

Tiến sĩ Việt phát triển công nghệ tạo thuốc diệt tế bào ung thư

Từ một chất có trong sữa mẹ, TS Trần Thị Hiền cùng cộng sự tại Đại học Lund (Thụy Điển) đã tạo ra phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid ở quy mô công nghiệp phục vụ phát triển thuốc mới điều trị ung thư.

Từ năm 2000, nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới bắt đầu chạy đua nghiên cứu tạo phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid (còn gọi là HAMLET/BAMLET – chất có trong sữa mẹ) cho sản xuất thuốc chống lại bệnh ung thư. Chất này vốn được phát hiện bởi nhóm nghiên cứu của GS Catharina Svanborg (Đại học Lund, Thụy Điển) vào năm 1995, đã được chứng minh có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây hại cho tế bào/mô khỏe mạnh. Tuy nhiên các nhóm nghiên cứu mới chỉ tạo được phức hợp HAMLET ổn định trong thời gian ngắn, quy mô phòng thí nghiệm.

Nhóm nghiên cứu của TS Trần Thị Hiền, 40 tuổi, trở thành nhóm đầu tiên thành công tìm ra quy trình tạo phức hợp HAMLET đưa vào thử nghiệm lâm sàng và quy mô sản xuất công nghiệp.

Điểm độc đáo của phức hợp này là có thành phần alpha lactalbumin – một protein tìm thấy trong sữa mẹ hoặc sữa bò – nên an toàn cả với trẻ sơ sinh. Phức hợp đặc hiệu chỉ trên tế bào ung thư hay tế bào nhiễm virus/vi khuẩn gây bệnh, không gây ra độc tính và tác dụng phụ như các thuốc hóa trị, xạ trị thường thấy khác.

Nghiên cứu mở ra hướng mới trong điều trị ung thư an toàn và hiệu quả khi phối hợp với các liệu pháp thông thường. “Đây là khác biệt lớn nhất so với các thuốc ung thư hiện nay, khiến chúng trở thành ứng viên tiềm năng cho các phương pháp điều trị bệnh”, TS Hiền nói với VnExpress từ Thụy Điển.TS Trần Thị Hiền trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NVCC

TS Trần Thị Hiền trong phòng thí nghiệm. Ảnh: NVCC

Nghiên cứu này được TS Hiền và cộng sự bắt tay thực hiện từ năm 2015. Sau gần 10 năm, họ tìm được quy trình tạo dạng hoạt động ổn định của phức hợp trên quy mô công nghiệp. Từ kết quả đó phát triển bào chế có tính khả thi thực hiện sản xuất được trên các dây chuyền nhà máy đạt GMP và đưa ra phương pháp đánh giá tác dụng tiêu diệt ung thư của thuốc sau khi sản xuất.

Hiện nhóm đã thành công trên nghiên cứu tiền lâm sàng phức hợp HAMLET trong điều trị và dự phòng với các bệnh ung thư đại trực tràng, gan, dạ dày, phổi, vú, cổ tử cung, tuyến tiền liệt, hạch bạch huyết, vòm họng, khoang miệng, da… với các dạng bào chế khác nhau. Giai đoạn thử nghiệm phase 3 lâm sàng do FDA phê duyệt với ung thư bàng quang và giai đoạn 1 của ung thư não ác tính.Hình ảnh ung thư ruột kết và tác dụng làm giảm khối u polyp của phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid (Hình ảnh khối u được đánh dấu bằng mũi tên màu đen). Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Hình ảnh ung thư ruột kết và tác dụng làm giảm khối u polyp của phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid (Hình ảnh khối u được đánh dấu bằng mũi tên màu đen). Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Nhóm còn chứng minh được cơ chế phức hợp này có tác dụng tiêu diệt đặc hiệu tế bào nhiễm virus HPV, một trong những nguyên nhân gây ra ung thư cổ tử cung. Bằng cách tấn công và phá hủy RNA thông tin di truyền của virus HPV, phức hợp này khiến cả tế bào nhiễm virus và virus bị chết mà không gây ảnh hưởng đến tế bào lành. Phương pháp điều trị đặc hiệu mới này có tác dụng với các bệnh liên quan đến HPV như sùi mào gà, viêm nhiễm phụ khoa do HPV/vi khuẩn và ung thư cổ tử cung do HPV. HPV hiện nay chưa có thuốc đặc trị. Phát hiện được công bố trên tạp chí y khoa danh tiếng hàng đầu thế giới New England Journal of Medicine.Hình ảnh u nhú ở người do HPV sau 3 tuần bôi Alpha lactalbumin-oleic acid và tỉ lệ tái phát dưới 2% sau 2 năm. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Hình ảnh u nhú ở người do HPV sau 3 tuần bôi Alpha lactalbumin-oleic acid và tỷ lệ tái phát dưới 2% sau 2 năm. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Cô nói thêm, việc sản xuất phức hợp HAMLET trên quy mô công nghiệp vẫn có nhiều thách thức như phải đạt được độ tinh khiết cao, bền vững, ổn định khi mở rộng quy mô.

Hiện TS Hiền lên kế hoạch đưa công nghệ sản xuất này về Việt Nam nhằm phát triển thuốc ung thư mới với giá thành rẻ hơn so với thuốc nhập khẩu. “Tôi sẵn sàng hợp tác chuyển giao công nghệ cho Việt Nam”, cô nói và bày tỏ mong muốn hợp tác với các chuyên gia, bác sĩ, nhà khoa học và các tổ chức thực hiện thử nghiệm lâm sàng cho bệnh nhân ung thư và phát triển sản xuất.

PGS.TS Đỗ Thị Hà, Phó Viện trưởng Viện Dược liệu Thuốc Trung ương, chuyên gia nghiên cứu và phát triển thuốc mới, Bộ Y tế cho biết thuốc hóa trị và xạ trị điều trị ung thư hiện nay phá hủy các tế bào khỏe mạnh và gây ra các tác dụng phụ (như rụng tóc, buồn nôn, đau đớn, rối loạn tạo máu, suy giảm miễn dịch và tổn thương đến thần kinh…). “Các liệu pháp điều trị ung thư mới được các hãng dược lớn sản xuất, đều khá tốn kém, giá thành cao”, bà nói và thêm rằng đây là lý do việc tìm kiếm các thuốc điều trị ung thư an toàn, hiệu quả có giá thành hợp lý được nhiều quốc gia không ngừng tìm kiếm.

“Việc phát hiện ra phức hợp HAMLET sẽ mở ra hướng điều trị ung thư trong tương lai nếu chúng ta có thể thực hiện được các thử nghiệm lâm sàng kịp thời”, PGS Hà nói. Theo bà, thuốc ung thư mới từ sữa có thể sẽ giải quyết được hai vấn đề lớn là hiệu quả điều trị và tác dụng phụ, đây cũng là thuốc rất tiềm năng trong điều trị dự phòng ung thư trong tương lai gần.TS Trần Thị Hiền hiện công tác tại Khoa Dược, Đại học Y Dược Thái Bình; Khoa ung thư miễn dịch, trường Y, Đại học Lund Thuỵ Điển. Ảnh: NVCC

TS Trần Thị Hiền. Ảnh: NVCC

TS Trần Thị Hiền sinh ra trong gia đình làm nông nghèo tại Yên Thế, Bắc Giang. Ban đầu cô dự định theo học ngành Sư phạm ở quê nhà để tiết kiệm chi phí, nhưng rồi một “sự cố” đã đưa Hiền đến với Đại học Dược Hà Nội vào năm 2002. Hiền tìm thấy tình yêu khoa học khi học năm thứ hai và quyết tâm theo đuổi. Cô nhận bằng thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành độc tính và dược lý miễn dịch tại Khoa Dược, Đại học Chosun, Hàn Quốc. Từ năm 2013, TS Hiền là chuyên gia nghiên cứu cao cấp và giảng dạy tại khoa ung thư miễn dịch, trường Y, Đại học Lund, Thụy Điển. Song song với đó, cô công tác tại Khoa Dược, Đại học Y Dược Thái Bình, thực hiện nghiên cứu khoa học và đào tạo giảng viên từ xa.

Hơn 20 năm làm nghiên cứu, TS Hiền trở thành tác giả và đồng tác giả của 50 bài báo quốc tế, trong đó nhiều công trình đăng trên tạp chí Y khoa hàng đầu thế giới: Nature biotechnology, Nature communications, Nature Reviews Urology và Journal of Clinical Investigation. Cô cũng sở hữu 2 bằng sáng chế quốc tế (cấp năm 2020 và 2021) về phức hợp alpha lactalbumin-oleic acid, cùng 3 bằng sáng chế tại Việt Nam.

Năm 2015, cô giành Giải thưởng nhà khoa học trẻ dưới 35 tuổi của Quỹ L’oreal-Unesco. Năm 2020, nhóm nghiên cứu của cô nhận được quỹ tài trợ European Union’s Horizon 2020 của Châu Âu (2 triệu EURO) cho thử nghiệm lâm sàng trên ung thư bàng quang và là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên tham gia nghiên cứu và thử nghiệm thành công thuốc ung thư được FDA phê duyệt cho phase 3.

Như Quỳnh

Đưa công nghệ lọc nước nhiễm phèn, mặn về miền Tây

Hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn bằng công nghệ hiện đại, chất lượng cao được Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc trao tặng trường học vùng sâu tỉnh Sóc Trăng.Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy (giữa)  kiểm tra hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy (giữa) kiểm tra hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Sau 3 ngày lắp đặt, hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn được trao tặng cho Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề, huyện Trần Đề, hôm 29/8.

PGS.TS Vũ Đức Lợi – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc (Vkist), cho biết đây là hệ thống sử dụng công nghệ lọc nước tân tiến, được nghiên cứu và phát triển chung bởi Vkist và Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc, từ năm 2021.

“Trải qua quá trình thử nghiệm trên nhiều vùng nhiễm mặn và nhiễm phèn khác nhau tại đồng bằng sông Cửu Long, đến tháng 9/2023, Vkist đã tối ưu hóa và hoàn thiện công nghệ này bằng việc tích hợp hệ thống keo tụ, lắng, kết hợp hệ vi lọc, hệ lọc RO và cuối cùng là khứ khuẩn bằng đèn UV trước khi đưa vào bình chứa nước sạch để sử dụng”, ông Lợi nói và cho biết hệ thống được tối ưu hóa có giá thành thấp, sử dụng lâu dài, cho ra sản phẩm chất lượng cao.

Hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn vừa được lắp đặt tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn lắp đặt tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Hệ thống được thiết kế thông minh, lắp đặt trong container 20 feet, công suất 12 m3 mỗi ngày đêm, sử dụng năng lượng mặt trời, vận hành tự động với kinh phí trên 300 triệu đồng. Hệ thống có chức năng xử lý nước phèn, nước mặn thành nước sạch, đạt tiêu chuẩn nước ăn uống theo quy chuẩn của Bộ Y tế.

Tại Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề, hệ thống được đấu nối với nguồn nước máy để sản xuất ra nước sạch cho học sinh, giáo viên nhà trường uống hàng ngày.

Đây là hệ thống lọc nước nhiễm phèn, mặn thứ 3 (sau tối ưu hóa) được lắp đặt tại miền Tây, sau tỉnh Bến Tre. “Chúng tôi mong muốn công nghệ mới này được chuyển giao, sử dụng rộng rãi ở đồng bằng sông Cửu Long, nhằm góp phần thích ứng biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn”, TS Lợi nói.

Ông Trần Sung, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề, cho biết, trường có gần 300 học sinh theo học với 8 lớp từ lớp 6-9 cùng 33 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Hiện tất cả học sinh đều ở nội trú nên nhu cầu sử dụng nước uống khá lớn.Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Ảnh: An Bình

Năm 2018, khi trường được đưa vào hoạt động cũng được lắp đặt máy lọc nước cho các em sử dụng. Tuy nhiên sau một thời gian máy bị hư hỏng nhiều lần, phải sửa chữa với kinh phí lớn nhưng hiệu quả không lâu dài.

“Học sinh phải mua nước bình loại 5-20 lít để uống hàng ngày, khá tốn kém. Vì thế, việc được hỗ trợ hệ thống máy lọc nước hiện đại, công suất lớn, vận hành bằng năng lượng mặt trời giúp ích cho học sinh rất nhiều trong việc giải quyết nhu cầu nước uống hàng ngày, đỡ tốn kém cho phụ huynh, nhà trường tiết kiệm được chi phí tiền điện vận hành”, ông Sung nói.

An Bình

Nuôi tôm, cua trong hộp nhựa

Nuôi cua biển, tôm tít trong hộp nhựa dùng công nghệ tuần hoàn, không phụ thuộc môi trường, ít hao hụt, giá trị cao… đang được nhiều người dân ứng dụng.

Vùng quê xã Long Khánh, huyện Duyên Hải, Trà Vinh của Trần Minh Nhật, 29 tuổi, có nghề đánh bắt cua biển. Với đam mê làm nông nghiệp, bốn năm trước, Nhật lên mạng tìm kiếm các video trên Youtube hướng dẫn nuôi cua trong hộp nhựa dùng công nghệ tuần hoàn của nước ngoài. Công nghệ này giúp cua không phụ thuộc vào môi trường sống. Hệ thống nước được xử lý, chất lượng ổn định nên cua có tỷ lệ hao hụt thấp.

Nhìn thấy tiềm năng của hướng đi này, năm 2022, Nhật đầu tư 50 hộp nuôi cùng hệ thống tuần với các bể lọc thô, lọc vi sinh, chiếu đèn UV để xử lý nước với giá trị khoảng 15 triệu đồng. Cua giống 50 con chi phí 3 – 5 triệu đồng được Nhật thả nuôi riêng từng hộp.

Thời gian đầu, chưa có kinh nghiệm chọn cua giống, cùng kỹ thuật quản lý hệ thống tuần hoàn, Nhật thất bại vì cua chết nhiều. Không nản chí, Nhật học kinh nghiệm trên mạng, tham gia các khóa tập huấn nuôi cua do địa phương tổ chức. Nhật điều chỉnh các thông số môi trường với độ mặn tự nhiên, pH 7.5 – 8.5, vi sinh bổ sung định kỳ, châm nước hàng tuần vì khu vực nuôi gần sông.Trần Minh Nhật và sản phẩm cua lột hút chân không nuôi bằng hệ thống tuần hoàn giới thiệu tại tỉnh Trà Vinh cuối năm 2023. Ảnh: NVCC

Trần Minh Nhật và sản phẩm cua lột hút chân không nuôi bằng hệ thống tuần hoàn giới thiệu tại tỉnh Trà Vinh cuối năm 2023. Ảnh: NVCC

Việc chọn con giống được Nhật làm kỹ lưỡng, tìm kiếm nhà cung cấp uy tín, lựa cua có độ săn chắc, không xây xát. Sau những lần thất bại, cậu điều chỉnh kỹ thuật, cua phát triển ổn định hơn.

Đến nay, Nhật mở rộng mô hình lên 1.000 hộp nuôi, đầu tư thêm thiết bị sục oxy tươi vào trong nước, máy tách bọt… tổng chi phí 300 triệu đồng. Quy mô nuôi lớn hơn nên mỗi tháng, Nhật thu 180 – 200 kg cua lột và cua cốm, lãi 20 – 30 triệu đồng.

Hơn 4 năm nuôi cua trong hộp, Nhật tính toán, đầu tư 1.000 hộp nuôi khoảng một đến 1,5 năm là thu hồi vốn và có lời. Kể kinh nghiệm nuôi cua thành công, Nhật cho rằng 60% phụ thuộc vào nguồn giống, 40% còn lại là vận hành hệ thống tuần hoàn. “Người nuôi cua trong mô hình này cần có kiến thức nhất định, hiểu biết về công nghệ để điều chỉnh thông số môi trường nước hợp lý, đảm bảo phát triển con cua”, Nhật nói, cho rằng mô hình nuôi cua trong hộp rất tiềm năng phát triển kinh tế. Người dân có thể nuôi ở bất cứ khu vực nào mà không phụ thuộc yếu tố gần biển. Hiện Nhật hướng dẫn ba nông dân khác tại địa phương đầu tư công nghệ, kỹ thuật nuôi, quy mô 300 – 500 hộp. Cua xuất bán được Nhật bao tiêu đầu ra.

Cũng sử dụng công nghệ tuần hoàn, Thạc sĩ Lê Ngọc Hạnh, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2, nuôi thử nghiệm tôm tít trong hộp nhựa quy mô hơn 1.000 hộp tại TP Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Theo thạc sĩ Hạnh, hệ thống tuần hoàn nuôi tôm tít cơ bản không khác biệt so với nuôi cua. Tuy nhiên, do cua có đặc tính vừa sống dưới nước vừa trên cạn, nên thời gian vận hành hệ thống sục khí oxy ít hơn so với tôm. Ngược lại, tôm tít cần hệ thống tuần hoàn vận hành liên tục để ổn định môi trường. Tôm tít bơi liên tục dưới nước nên ít để lại cặn bẩn, giảm công chăm sóc. Thời gian nuôi tôm tít khoảng 3 – 6 tháng, đạt trọng lượng bán. Tôm tít ở kích cỡ lớn nhất, khoảng 3 – 6 con mỗi kg, giá khoảng 1,2 – 1,5 triệu đồng.

Theo thạc sĩ Hạnh, với chi phí nuôi khoảng 700.000 đồng mỗi kg, người dân có thể thu lời 500.000 đồng – 800.000 đồng. Với quy mô trên 1.000 hộp, sau một vụ đến một năm nuôi có thể hòa vốn chi phí đầu tư máy móc, thiết bị.

Về kinh nghiệm chọn giống, chuyên gia Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2, cho biết cua hay tôm tít thường bị yếu sức khỏe và chết bởi nguyên nhân sốc môi trường. Do đó, khi chọn giống cua, người nuôi cần tìm kiếm đơn vị cung cấp có môi trường nuôi ổn định về độ mặn. Cách đánh bắt, vận chuyển cần tránh làm chúng xây xát, tổn thương.

Với tôm tít, không nên chọn con kích thước quá nhỏ vì sẽ kéo dài thời gian nuôi, cần chọn loại 10 – 12 con mỗi kg. Người nuôi cũng không chọn con vừa lột xác xong vì lúc này chúng rất yếu, dễ chết. Việc vận chuyển tôm tít cần cung cấp đủ oxy, có thể cho vào môi trường nuôi trung gian gần giống với hộp nuôi để tôm tít làm quen, giảm tỷ lệ chết do sốc môi trường. “Cần tìm hiểu kỹ quy trình đánh bắt và vận chuyển nơi cung cấp giống. Người nuôi cần yêu cầu nhà cung cấp theo quy trình như trên để đảm bảo con giống khỏe mạnh”, thạc sĩ Hạnh nói.Mô hình nuôi cua biển trong hộp nhựa tại Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP HCM. Ảnh: Hà An

Mô hình nuôi cua biển trong hộp nhựa tại Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP HCM. Ảnh: Hà An

Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Kim Liên, Trưởng phòng hỗ trợ công nghệ thủy sản, Trung tâm ươm tạo doanh nghiệp Nông nghiệp Công nghệ cao (Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP HCM), hệ thống tuần hoàn cơ bản gồm thiết bị trống lọc để tách chất thải, hệ thống lọc sinh học, thiết bị cung cấp oxy, thiết bị khử trùng nước bằng đèn UV. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện nuôi mà đầu tư hệ thống lọc khác nhau. Với những khu vực gần biển, có nguồn nước tự nhiên, có thể định kỳ thay 50% nước bên ngoài giúp người nuôi giảm bớt một số hệ thống lọc để giảm chi phí. Bà cho rằng, trong quá trình nuôi, quan trọng nhất là việc kiểm soát các khí độc trong nước như NH3, NO2 bằng kỹ thuật test nhanh làm hàng ngày. Nếu nồng độ khí độc trong nước quá cao, có thể gây sốc môi trường làm cua chết.

Ngoài cua, tôm tít, hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (Recirculating Aquaculture Systems – RAS) có thể nuôi ghẹ, hải sâm và các loại thủy sản nước ngọt như ba ba, tôm càng xanh… Công nghệ RAS được một số quốc gia như Israel, Hà Lan, Trung Quốc nghiên cứu và ứng dụng gần 30 năm qua. Tại Việt Nam, công nghệ này được nhiều người dân áp dụng nuôi thủy sản hơn 10 năm trở lại đây nhờ nguồn vật liệu, nguyên liệu được cung cấp phong phú, giá thành cạnh tranh hơn.

Theo các chuyên gia, giá mỗi hệ thống RAS tùy thuộc vào loại vật liệu, đầu tư các hệ thống lọc nước. Do lắp trong nhà nên các thiết bị có tuổi thọ 5 – 10 năm hoặc hơn. Chi phí đầu tư cao nên hệ thống RAS phù hợp nuôi thủy sản có giá trị kinh tế cao, ngắn ngày. Công nghệ này giúp tiết kiệm nước, kiểm soát mọi yếu tố đầu vào, điều kiện nuôi và xả thải. Do đó môi trường nuôi được tạo điều kiện để không, hoặc rất ít sử dụng kháng sinh và thuốc. Công nghệ RAS đã được các tổ chức quốc tế như FAO và Eurofish khuyến nghị như một phương pháp nuôi trồng thủy sản bền vững.Hệ thống tuần hoàn nước giúp người nuôi kiểm soát môi trường khi nuôi thủy sản trong hộp. Ảnh: Hà An

Hệ thống tuần hoàn nước giúp người nuôi kiểm soát môi trường khi nuôi thủy sản trong hộp. Ảnh: Hà An

PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hội nuôi biển Việt Nam đánh giá, nuôi thủy sản dùng hệ thống tuần hoàn giúp người nuôi theo dõi sự phát triển từng con trong hộp, đảm bảo yếu tố môi trường nên tỷ lệ hao hụt thấp hơn nhiều so với nuôi truyền thống. Mô hình này theo ông Dũng hoàn toàn có thể nhân rộng, giúp phát triển kinh tế cho người dân. Riêng với cua lột, ông Dũng nói thị trường trong nước và Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc… rất ưu chuộng. Tuy nhiên, ông lo ngại khi số người nuôi tăng lên, dễ dẫn đến tình trạng không đủ cung cấp nguồn giống chất lượng, gây mất cân bằng chuỗi giá trị. Ông cũng đề xuất với cua và các loại thủy khác giá trị khác Nhà nước cần phối hợp doanh nghiệp xây dựng hệ thống chế biến, thực phẩm từ nguồn sản vật giúp tăng giá trị, cung cấp trong nước và xuất khẩu.

Hà An

Vấn đề kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng cầu và quản lý đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao

Việc xây dựng cầu và quản lý đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao đòi hỏi yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ phức tạp, đi qua nhiều địa phương, địa hình phức tạp nên cần xem xét cẩn trọng, kỹ lưỡng… Đây là ý kiến của nhiều chuyên gia, nhà khoa học tại Hội nghị Một số vấn đề về kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng cầu và quản lý đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao do Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải phối hợp với Hội Khoa học Kỹ thuật Cầu – Đường Việt Nam tổ chức ngày 29/08/2024 tại Hà Nội.

Từ yêu cầu của công trình cầu trên đường sắt tốc độ cao

TS Nguyễn Việt Khoa – Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải cho biết, trên thế giới, mạng lưới đường sắt đã phát triển rộng khắp, được thiết kế với các tiêu chuẩn khác nhau. Hầu hết các mạng lưới này bao gồm hỗn hợp nhiều khổ đường, nhưng với đường sắt khổ 1435 mm có hiệu suất đạt được là tốt nhất. Hơn 50 năm trước, Nhật Bản, Pháp và nhiều quốc gia khác đã đưa ra khái niệm hoàn toàn mới là đường sắt tốc độ cao thay cho việc nâng cấp các hệ thống đường sắt hiện có. Theo TS Nguyễn Việt Khoa, đường sắt tốc độ cao có tốc độ thiết kế 200-350 km/giờ hoặc cao hơn, cung cấp sự nhanh chóng trong vận chuyển hành khách và hàng hóa.

Đồng tình với quan điểm trên, ThS Nguyễn Anh Tú – Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Đường bộ 1 (Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải) cho biết, đường sắt tốc độ cao là một giải pháp giao thông công cộng tương lai cho vùng đô thị, liên vùng và đang là xu thế phát triển giao thông trên thế giới. ThS Nguyễn Anh Tú cho rằng, ở các vùng đô thị đông dân cư, các loại hình giao thông mặt đất như xe bus, tàu thường, tàu điện trở nên khó khả thi bởi sự giao cắt với các phương tiện khác gây ách tắc giao thông, tốc độ vận hành chậm và chiếm dụng đất lớn. Một trong những giải pháp tốt nhất là tàu chạy trên cao. Loại hình này có nhiều ưu điểm như là an toàn cao, khối lượng vận chuyển lớn, không giao cắt với các phương tiện khác, diện tích sử dụng tối thiểu và nếu thiết kế đẹp sẽ mang lại cảnh quan hiện đại cho các đô thị. Tuy nhiên, giá thành xây dựng của hệ thống tàu chạy trên cao đòi hỏi rất lớn.

Toàn cảnh Hội nghị.

PGS.TS Hoàng Hà – Hội Khoa học Kỹ thuật Cầu – Đường Việt Nam cho rằng, để đáp ứng nhu cầu vận chuyển ngày càng tăng, các đoàn tàu đường sắt được sản xuất theo hướng có chiều dài lớn hơn và tốc độ nhanh hơn. Tuy nhiên, tốc độ cao hơn cũng sẽ gây ra tác động lớn hơn cho kết cấu cầu. Do đó, độ an toàn, tin cậy và độ bền khai thác của kết cấu cầu trên đường sắt tốc độ cao được đánh gia là phụ thuộc vào các đặc trưng dao động của kết cấu. Ngoài ra, về chất lượng khai thác còn phải kể đến nguy cơ trật bánh do dao động có biên độ cao hay tác động tâm lý đối với hành khách. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chỉ tiêu quan trọng nhất cần được kiểm soát trong khâu thiết kế các cầu trên đường sắt tốc độ cao là kiểm soát giá trị cực đại của gia tốc dao động theo phương thẳng đứng của hệ dầm mặt cầu. Ủy ban Tiêu chuẩn hóa châu Âu quy định, tốc độ dao động theo phương thẳng đứng tối đa của hệ dầm mặt cầu không vượt quá 3,5 m/sđối với đường có đá balat.

ThS Lưu Hùng Cường – Trung tâm Tư vấn công trình đường sắt bộ (Tổng công ty Tư vấn Thiết kế Giao thông Vận tải) cho biết, so với cầu đường sắt thông thường, cầu đường sắt tốc độ cao có các yêu cầu khắt khe hơn về độ cứng của kết cấu để giảm thiểu biến dạng, tránh rung động quá mức hoặc cộng hưởng khi đoàn tàu chạy qua. Thiết kế cho cầu đường sắt tốc độ cao đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc về các vấn đề: yêu cầu đối với chuyển vị và biến dạng xoay của kết cấu nhịp; yêu cầu về tần số tự nhiên của kết cấu nhịp; các tương tác động lực học giữa tàu – đường ray và kết cấu cầu; các tác động giữa kết cấu đường ray hàn liên tục với kết cấu cầu…

Đến việc chủ động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ

TS Trần Bảo Ngọc – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải cho biết, theo Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1769/QĐ-TTg ngày 19/10/2021. Theo đó, có tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam từ ga Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm dài 1.545 km, đường sắt khổ đôi 1.435 mm. Chính phủ đặt mục tiêu năm 2025 sẽ hoàn thành phê duyệt chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam và sớm khởi công dự án, ưu tiên thực hiện trước đoạn Hà Nội – Vinh và TP Hồ Chí Minh – Nha Trang. Bộ Giao thông Vận tải xác định đây là dự án đường sắt quan trọng của quốc gia, có quy mô lớn, tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ phức tạp, đi qua nhiều địa phương, địa hình phức tạp nên cần xem xét cẩn trọng, kỹ lưỡng, công tác chuẩn bị mất nhiều thời gian, cần sự phối hợp của các bộ/ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học và các cán bộ có kinh nghiệm trong ngành để nghiên cứu, thảo luận, đóng góp cho công nghệ xây dựng, quản lý đầu tư xây dựng đường sắt tốc độ cao.

TS Trần Bảo Ngọc – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải phát biểu tại Hội nghị.

Xác định khoa học và công nghệ phải đi trước, thời gian qua Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải đã chủ động nghiên cứu, công bố khoa học và xây dựng một số tiêu chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực đường sắt tốc độ cao. Điển hình như: Nghiên cứu tổng quan tình hình phát triển và hệ thống tiêu chuẩn đường sắt tốc độ cao trên thế giới, đề xuất định hướng xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đường sắt tốc độ cao phù hợp với điều kiện Việt Nam; nghiên cứu lựa chọn công nghệ xây dựng đường ray tấm bản áp dụng cho đường sắt tốc độ cao ở Việt Nam; nghiên cứu, lựa chọn các thông số kỹ thuật cơ bản cho đường sắt tốc độ cao phù hợp với điều kiện Việt Nam; nghiên cứu, so sánh các thông số kỹ thuật cơ bản của đường sắt tốc độ cao trên thế giới và lựa chọn, ứng dụng trong tuyến đường sắt cao tốc Hà Nội – TP Hồ Chí Minh… Bên cạnh đó, Viện cũng đã xây dựng và được Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia ban hành bộ tiêu chuẩn quốc gia về thiết kế cầu đường sắt khổ 1435 mm, vận tốc lên đến 350 km/giờ.

Bà Nguyễn Đức Thị Thu Định – Trường Đại học Giao thông Vận tải cho rằng, việc nghiên cứu, đề xuất xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao tại Việt Nam hiện nay là nhu cầu cần thiết và tất yếu. Việc quyết định lựa chọn công nghệ đoàn tàu theo xu thế nào sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ các nội dung thiết kế tuyến đường sắt tốc độ cao gồm: hạ tầng kết cấu, loại kết cấu nhịp cầu, các giải pháp khai thác và vận hành… Bà Nguyễn Đức Thị Thu Định cho biết, về công nghệ đoàn tàu, công nghệ đoàn tàu chạy trên ray hiện khá phù hợp ở Việt Nam với 2 loại chính là công nghệ đoàn tàu kiểu động lực phân tán và động lực tập trung. Do Việt Nam chưa có tiêu chuẩn thiết kế đường sắt tốc độ cao nên việc thiết kế tuyến đường sắt này có thể tham khảo một số tiêu chuẩn có các ảnh hưởng lớn tới hệ thống đường sắt tốc độ cao trên thế giới như tiêu chuẩn của Nhật Bản, châu Âu, Trung Quốc…

Phong Vũ

Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn được phân công theo dõi, chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ

Ngày 28/08/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký ban hành Quyết định số 919/QĐ-TTg phân công nhiệm vụ của các Phó Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn được phân công theo dõi, chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chúc mừng Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn được bổ nhiệm giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ (ảnh: VGP/Nhật Bắc).

Cụ thể, Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác: ngoại giao và quan hệ đối ngoại; hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vận động vốn vay ưu đãi; viện trợ phi Chính phủ nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài; hội nhập quốc tế; theo dõi, chỉ đạo đàm phán và thực hiện các cam kết quốc tế song phương, đa phương; đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; quan hệ của Việt Nam với các tổ chức quốc tế và khu vực; công tác biên giới và các vấn đề Biển Đông – Hải đảo; công tác người Việt Nam ở nước ngoài và các vấn đề người nước ngoài ở Việt Nam; các vấn đề về nhân quyền; công nghiệp; thương mại – xuất nhập khẩu; dự trữ và cung ứng xăng dầu, dịch vụ logistics; bảo đảm năng lượng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; khoa học và công nghệ; chấp thuận chủ trương đầu tư các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền theo lĩnh vực được phân công.

Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn kiêm giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, theo dõi, chỉ đạo: Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Làm nhiệm vụ: Chủ tịch Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam –  Trung Quốc; Phụ trách Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam – Lào; Trưởng Ban Chỉ đạo nhà nước về phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền; Trưởng Ban Chỉ đạo về Nhân quyền; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các chương trình, công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành năng lượng; Chủ tịch các Hội đồng, Ủy ban quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo, Chủ tịch Hội đồng thẩm định các quy hoạch theo lĩnh vực liên quan.

VVH

Đoàn công tác của Bộ KH&CN thăm và làm việc tại một số doanh nghiệp, đơn vị tỉnh Quảng Ngãi

Ngày 30/8/2024, Đoàn công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt làm Trưởng đoàn đã đến thăm và làm việc với một số doanh nghiệp, đơn vị thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Tham gia đoàn công tác còn có đồng chí Nguyễn Hoàng Giang, Phó Bí thư tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi và một số đơn vị của tỉnh.

Ứng dụng KH&CN nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh

Tại Công ty cổ phần Đường Quảng Ngãi, Tổng Giám đốc Công ty CP Đường Quảng Ngãi Võ Thành Đàng cho biết, Công ty có 17 đơn vị thành viên, là một trong những đơn vị tiên phong trong hoạt động nghiên cứu ứng dụng KH&CN và đầu tư phát triển mở rộng kinh doanh. Các nhà máy được đầu tư, trang bị hệ thống máy móc hiện đại, tự động hóa với quy trình sản xuất khép kín đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và thân thiện với môi trường như Nhà máy Đường An Khê với dây chuyền sản xuất đường từ mía công suất 18.000-20.000 tấn mía/ngày, hệ thống sản xuất đường tinh luyện công suất 1.000 tấn/ngày; Nhà máy điện sinh khối An Khê công suất phát điện 95 MW, phát điện lên hệ thống điện lưới quốc gia trên đường dây 220 KV; Nhà máy bia Dung Quất công suất 100 triệu lít/năm; 3 Nhà máy sản xuất sữa đậu nành Vinasoy tại Quảng Ngãi, Bắc Ninh và Bình Dương với công suất 390 triệu lít/năm. Thương hiệu Vinasoy nằm trong Top 5 Nhà sản xuất sữa đậu nành lớn nhất thế giới…


Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Hoàng Giang tham quan phòng thí nghiệm của Nhà máy sữa đậu nành Vinasoy.

Bên cạnh các Nhà máy chế biến, Công ty đã đầu tư các Trung tâm nghiên cứu sản phẩm, nghiên cứu giống mía, giống đậu nành qui mô lớn, trang bị hiện đại đạt tầm vóc quốc tế như: Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng đậu nành Vinasoy, Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng giống mía Gia Lai… Các Trung tâm đã đạt được những thành tựu quan trọng trong chọn lọc, tạo giống mới; quy trình canh tác (mía, đậu nành); phát triển các vùng nguyên liệu đậu nành và mía.

Đạt được những thành tựu trên là kết quả của quá trình nghiên cứu nắm bắt những công nghệ mới, kịp thời ứng phó với những biến động, thách thức của môi trường kinh doanh, không ngừng gia tăng năng lực cạnh tranh, từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Quá trình đầu tư tập trung vào 3 trụ cột chính gồm: Đầu tư thị trường và phát triển thương hiệu; Đầu tư nguồn nhân lực và môi trường làm việc sáng tạo; đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ.

Doanh nghiệp kiến nghị một số vấn đề liên quan đến sử dụng Quỹ Phát triển KH&CN cho hoạt động đầu tư mua bán thiết bị đổi mới công nghệ phục vụ trực tiếp sản xuất kinh doanh; quy định cụ thể về đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp không có vốn nhà nước…

Tại buổi làm việc, đồng chí Nguyễn Hoàng Giang, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, thành tựu phát triển kinh tế – xã hội tỉnh đạt được trong thời gian qua có sự đóng góp rất lớn của cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có Công ty CP Đường Quảng Ngãi. Đây là một trong số các doanh nghiệp đã thành lập trung tâm nghiên cứu, ứng dụng KH&CN trong sản xuất, kinh doanh để ngày càng nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Đồng chí Nguyễn Hoàng Giang mong muốn doanh nghiệp tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, trong đó tập trung đầu tư, nghiên cứu ứng dụng KH&CN để phát triển sản xuất, kinh doanh. Quảng Ngãi cũng mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của Bộ KH&CN để các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp của tỉnh mở rộng nghiên cứu, ứng dụng KH&CN, tập trung cho các hoạt động đổi mới, sáng tạo.

Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Giang phát biểu tại buổi làm việc.

Phát biểu kết luận, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao kết quả sản xuất, kinh doanh của Công ty CP Đường Quảng Ngãi cũng như nỗ lực và thành tích của công ty trong lĩnh vực nghiên cứu KH&CN để nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần tích cực trong tăng doanh thu cho doanh nghiệp. Bộ trưởng cũng nhấn mạnh vị trí trụ cột, trung tâm của hệ thống ĐMST và mong rằng công ty tiếp tục thúc đẩy, phát huy mối liên kết giữa viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp. Với những khó khăn, vướng mắc của công ty, Bộ KH&CN ghi nhận và tiếp tục nghiên cứu, đồng hành trong việc hỗ trợ doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng KH&CN, góp phần nâng cao vị thế, chất lượng, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước.


Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu kết luận buổi làm việc.

Nâng cao năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học

Tại trường Đại học Phạm Văn Đồng, Hiệu trưởng Trần Đình Thám cho biết, Trường hiện đang triển khai đào tạo 14 ngành với gần 5.000 sinh viên, học viên theo các loại hình đào tạo. Hằng năm, Trường ĐH Phạm Văn Đồng cung cấp cho thị trường lao động từ 700 – 1.000 cử nhân, kỹ sư có năng lực, đáp ứng tốt nhu cầu của đơn vị sử dụng lao động.

Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) luôn được nhà trường coi trọng và đẩy mạnh. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2019-2024) đã có 89 đề tài NCKH được triển khai, trong đó có 70 đề tài cấp trường, 17 đề tài cấp cơ sở, 02 đề tài cấp tỉnh, 01 đề tài Nafosted. Cán bộ giáo viên của trường đã công bố 235 công trình khoa học, trong đó có 158 công bố trong nước và 77 công bố quốc tế. Các sản phẩm NCKH của nhà trường có chất lượng tốt, đã tham gia và đạt nhiều giải cao tại các cuộc thi về NCKH tại địa phương và toàn quốc.

Toàn cảnh buổi làm việc.

Nhà trường hiện có 2 nhóm NCKH đang triển khai hoạt động có hiệu quả gồm Nhóm nghiên cứu Robot và Tự động hóa, Nhóm nghiên cứu Hóa – Sinh – Môi trường. Trong những năm qua, các nhóm nghiên cứu đã thực hiện nhiều đề tài NCKH có giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Các đề tài NCKH đã triển khai chủ yếu phục vụ vào mục đích góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường và mang tính phục vụ cộng đồng trong tỉnh, do đó chưa có khả năng thương mại hóa và chuyển giao công nghệ đối với sản phẩm nghiên cứu.

Trường ĐH Phạm Văn Đồng cũng đã thành lập Trung tâm Hỗ trợ sinh viên – Quan hệ doanh nghiệp và Khởi nghiệp; thành lập Ban chuyên trách hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp, bố trí kinh phí và đưa nội dung khởi nghiệp vào kế hoạch năm học hằng năm. Trong 5 năm qua, đã có 30 dự án khởi nghiệp của sinh viên tham gia các cuộc thi về khởi nghiệp.

Trường ĐH Phạm Văn Đồng kiến nghị Bộ KH&CN, UBND tỉnh quan tâm sử dụng cơ chế đặc thù trong việc mở một số ngành đào tạo trường chưa có; hỗ trợ cơ chế trong việc thu hút đội ngũ giảng viên có học vị Tiến sĩ, học hàm Phó Giáo sư và Giáo sư về làm việc tại trường. Hỗ trợ trường triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và các vùng lân cận…


Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Giang phát biểu tại buổi làm việc.

Tại buổi làm việc, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Giang ghi nhận những nỗ lực của Trường ĐH Phạm Văn Đồng trong các công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học. UBND tỉnh sẽ sớm có buổi làm việc trực tiếp với trường để giải quyết các vấn đề Trường đề xuất như đầu tư cơ sở vật chất và lộ trình tự chủ tài chính, nhằm tháo gỡ những khó khăn, ảnh hưởng đến quá trình phát triển của nhà trường. Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Hoàng Giang đã gợi mở một số hướng phát triển trường nghiên cứu triển khai thời gian tới.

Chủ tịch UBND tỉnh trao bảng tượng trưng tặng quà cho Trường Đại học Phạm Văn Đồng.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Hoàng Giang và Đoàn công tác, Lãnh đạo và cán bộ Trường Đại học Phạm Văn Đồng chụp ảnh lưu niệm.

Phát biểu kết luận buổi làm việc, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt biểu dương những thành tích đạt được của Trường ĐH Phạm Văn Đồng. Để nâng cao vị thế và trở thành trường đại học thông minh, đa ngành, đa lĩnh vực, Bộ trưởng cho rằng lãnh đạo nhà trường tiếp tục quan tâm đến công tác tuyển sinh, tranh thủ các nguồn xã hội hóa và đào tạo nguồn nhân lực theo hướng hiện đại, tiếp cận nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; nâng cao chất lượng giảng viên và năng lực nghiên cứu; tập trung nghiên cứu khoa học phục vụ cộng đồng và đóng góp tri thức thông qua công bố quốc tế; tiếp tục phối hợp với các trường đại học trong cả nước, kết nối hợp tác phát triển; đồng thời thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tham gia các hoạt động liên quan đến lĩnh vực này…


Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu kết luận buổi làm việc.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Hoàng Giang và Đoàn công tác, Lãnh đạo và cán bộ Công ty CP Đường Quảng Ngãi chụp ảnh lưu niệm.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Ứng dụng khoa học và công nghệ gia tăng giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất

Ngày 29/8/2024, Đoàn công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do đồng chí Bùi Thế Duy – Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ KH&CN, Chủ tịch Hội đồng Viện KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) làm Trưởng đoàn đã có buổi khảo sát thực tế các hộ sản xuất than truyền thống tại xã Xuân Hoà, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.

Tham dự buổi khảo sát còn có lãnh đạo UBND tỉnh Sóc Trăng, Viện VKIST, các chuyên gia, nhà khoa học, cùng đông đảo các hộ dân sản xuất lò than truyền thống.

Làng nghề đốt than truyền thống Xuân Hòa có hơn 200 hộ làm nghề, hiện có 431 lò đang hoạt động, tổng sản lượng gần 34 nghìn tấn/năm. Tổng doanh thu mỗi năm từ làng nghề đạt hơn 51,7 tỷ đồng, lợi nhuận hơn 30 tỷ đồng. Làng nghề đã giải quyết việc làm cho trên 1.000 lao động, thu nhập trung bình 4 triệu đồng/tháng.

Ông Nguyễn Thành Duy, Lãnh đạo Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng cho biết, mặc dù làng nghề được hình thành, tồn tại trên 50 năm nhưng vẫn chưa đảm bảo về điều kiện môi trường (khói bụi). Mặt khác đa số hộ sản xuất nơi đây còn mang tính tự phát, chưa nắm bắt được thị trường. Do đó, để phát triển làng nghề, trong thời gian tới cần có giải pháp điều tiết mẫu mã, số lượng sản phẩm theo yêu cầu và thị hiếu của thị trường; cần có tổ chức liên kết tiêu thụ sản phẩm làm ra cho địa phương.

Lãnh đạo Sở KH&CN tỉnh Sóc Trăng đề xuất một số nội dung với Đoàn như, hỗ trợ làng nghề truyền thống hầm than trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm, xây dựng tiêu chuẩn cơ sở, nhãn hiệu cũng như nâng cao hiệu suất thu hồi than, rút ngắn chu kỳ sản xuất, giảm thiểu tác động đến môi trường; đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tổ chức đào tạo nghề, truyền nghề theo nhu cầu của các cơ sở để tạo việc làm nâng cao thu nhập…

Tại buổi làm việc, các đại biểu đã trao đổi với người dân địa phương về các nội dung liên quan đến đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng cao trình độ kỹ thuật và quản lý trong sản xuất, giảm thiểu tác động đến môi trường và nâng cao chất lượng sản phẩm. Các hộ sản xuất than cũng kiến nghị với Lãnh đạo Bộ KH&CN về việc hỗ trợ công nghệ xử lý khói bụi từ sản xuất than, chính sách hỗ trợ chủ lò lắp đặt thiết bị giảm thiểu ô nhiễm môi trường, và cải tiến quy trình sản xuất nhằm rút ngắn thời gian, nâng cao chất lượng sản phẩm và thu nhập cho người dân.

Theo PGS.TS. Vũ Đức Lợi, Viện trưởng VKIST, các làng nghề thường hoạt động dựa trên kinh nghiệm truyền thống, sản phẩm được tiêu thụ rộng rãi và có khả năng xuất khẩu, nhưng chất lượng không đồng đều và chưa đạt tiêu chuẩn. Quá trình sản xuất cũng tốn nhiều thời gian và lãng phí nguồn nhiệt lớn.

Với kinh nghiệm của mình, VKIST sẽ phối hợp với một số hộ sản xuất để thử nghiệm giải pháp tận dụng nguồn nhiệt tuần hoàn trong sản xuất than. Cụ thể, nhiệt lượng từ lò thứ nhất có thể được truyền dẫn để làm nguyên liệu nung đốt cho lò thứ hai, và cứ thế tiếp tục. Quá trình này sẽ giúp người dân tiết kiệm chi phí vận hành, nâng cao hiệu quả sản xuất, và cải thiện đời sống.

Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy đánh giá cao sự hỗ trợ của chính quyền địa phương trong việc phát triển làng nghề truyền thống hầm than tại xã Xuân Hòa trong thời gian qua. Thứ trưởng cho biết, buổi khảo sát nhằm mục đích nắm bắt rõ thực trạng sản xuất tại làng nghề, đồng thời lắng nghe ý kiến và kiến nghị từ người dân trực tiếp sản xuất cũng như cư dân sinh sống trong khu vực. Trên cơ sở đó, các chuyên gia và nhà khoa học sẽ vào cuộc để tìm ra những giải pháp khoa học nhằm hướng đến hoạt động sản xuất than truyền thống bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế cao và giảm thiểu tác động đến môi trường.

“Bộ KH&CN sẽ hỗ trợ về công nghệ, kỹ thuật và các giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện đời sống cho các hộ sản xuất than tại xã Xuân Hòa. Chúng tôi mong muốn người dân hợp tác tích cực với các cơ quan chức năng để khắc phục ô nhiễm môi trường, giảm lượng khí thải, và đảm bảo chất lượng cuộc sống”, Thứ trưởng khẳng định.

Bên cạnh đó, Thứ trưởng cũng yêu cầu Viện VKIST tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm, tiết kiệm chi phí và giảm ô nhiễm môi trường cho làng nghề hầm than.


Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy khảo sát lò hầm than ở xã Xuân Hoà, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.

Chiều cùng ngày, đoàn công tác của Bộ KH&CN đã đến thăm và trao tặng Hệ thống lọc nước phèn – mặn sử dụng công nghệ lọc nước tiên tiến được nghiên cứu và phát triển bởi VKIST và Viện KH&CN Hàn Quốc cho Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Trung học cơ sở Trần Đề. Việc trao tặng hệ thống lọc nước là mô hình tiêu biểu trong việc đưa KH&CN đi sâu vào phục vụ đời sống, cải thiện chất lượng nước sinh hoạt của người dân tỉnh Sóc Trăng nói chung và người dân vùng thiếu nước sinh hoạt do nhiễm phèn, nhiễm mặn trên địa bàn tỉnh nói riêng. Đây cũng là tiền đề cho sự hợp tác và cùng phát triển sâu rộng, mạnh mẽ KH&CN nhằm phục vụ phát triển kinh tế – xã hội giữa tỉnh Sóc Trăng và Bộ KH&CN trong thời gian tới.


Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy trao đổi về tính năng của hệ thống lọc nước.


Đại diện VKIST bàn giao Hệ thống lọc nước và tặng quà cho học sinh Trường Dân tộc nội trú THCS huyện Trần Đề.

Tiếp đó, Đoàn đã khảo sát mô hình trồng lúa ST25 tại Hợp tác xã Đông Đầy, xã Thạnh Thới An (Trần Đề). Hiện hợp tác xã đang triển khai mô hình sản xuất lúa hữu cơ và áp dụng cơ giới hóa hoàn toàn từ làm đất đến thu hoạch. Tại buổi làm việc, các thành viên hợp tác xã đề xuất Bộ KH&CN hỗ trợ ứng dụng tiến bộ KH&CN để phát triển chuỗi giá trị từ giống lúa ST25, nghiên cứu các loại chế phẩm nhằm nâng cao năng suất lúa.


Đoàn công tác khảo sát mô hình trồng lúa ST25 tại Sóc Trăng.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Tận dụng tốt tiềm năng, lợi thế, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KH,CN&ĐMST

Tỉnh cần tận dụng tốt những lợi thế, tiềm năng phát triển sẵn có, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phục vụ hiệu quả cho mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương/vùng. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đó là phát biểu của đồng chí Huỳnh Thành Đạt – Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN tại buổi làm việc giữa Đoàn công tác của Bộ KH&CN với UBND tỉnh Quảng Ngãi chiều ngày 30/8/2024.

KH,CN&ĐMST góp phần giải quyết các vấn đề của địa phương

Báo cáo tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn cho biết, hoạt động KH,CN&ĐMST luôn bám sát các chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Chính phủ và các cơ quan Trung ương, đồng thời, tỉnh đã kịp thời thể chế, cụ thể hóa các cơ chế, chính sách, quy định nói trên để triển khai đồng bộ, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương.


Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn báo cáo với Đoàn công tác tại buổi làm việc.

Việc triển khai thực hiện các đề tài, dự án KH&CN đã đạt nhiều kết quả quan trọng, có những đóng góp lớn cho phát triển nông nghiệp và kinh tế – xã hội. Trong nông nghiệp, việc áp dụng giống mới và các quy trình sản xuất tiên tiến vào sản xuất lúa, lạc, sắn, hành, tỏi, gừng sẻ… đã làm tăng năng suất, sản lượng, tăng hiệu quả kinh tế và thu nhập cho nông dân từ 1,3 – 1,5 lần. Tỉnh đã hình thành một số mô hình theo chuỗi giá trị, gắn kết doanh nghiệp với hợp tác xã, người dân trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Việc áp dụng giống mới, với các quy trình kỹ thuật chăn nuôi hợp lý, năng suất, sản lượng và giá trị thương phẩm gia súc, gia cầm tăng từ 1,5 – 2 lần.

Trong lĩnh vực kỹ thuật – công nghệ, kết quả thực hiện đề tài “Xây dựng cơ sở dữ liệu 4D phục vụ phát triển du lịch cho huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” đã tạo dựng được cơ sở dữ liệu 4D trên nền GIS để khai thác, ứng dụng phục vụ công tác quản lý và quảng bá phát triển du lịch huyện đảo Lý Sơn. Với lĩnh vực y – dược, một số đề tài đã mang lại hiệu quả tích cực như “Điều tra, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp can thiệp cộng đồng phòng chống bệnh trầm cảm ở người cao tuổi tại thành phố Quảng Ngãi”; “Điều tra hiện trạng và giá trị nguồn dược liệu ma-gang ở tỉnh Quảng Ngãi làm cở sở quản lý, sử dụng, bảo tồn và phát triển bền vững”… Hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp luận cứ khoa học cho việc đề ra chủ trương, ban hành các cơ chế, chính sách thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Hoạt động quản lý nhà nước về công nghệ được đẩy mạnh. Thông qua công tác thẩm định công nghệ, các chủ đầu tư đã đầu tư công nghệ, thiết bị mới, đồng bộ hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm tiêu hao nhiên liệu, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, từng bước tiếp cận Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Công tác an toàn bức xạ, an ninh nguồn phóng xạ được đảm bảo.
Tỉnh đã đẩy mạnh triển khai hoạt động sở hữu trí tuệ. Hiện tỉnh có 1.838 đơn đăng ký sở hữu trí tuệ, 7 sáng chế, 82 kiểu dáng công nghiệp, 913 nhãn hiệu được cấp giấy chứng nhận; có 78 nhãn hiệu tập thể, 26 nhãn hiệu chứng nhận và 2 chỉ dẫn địa lý được cấp giấy chứng nhận. Hoạt động tiêu chuẩn đo lường chất lượng ngày càng được chú trọng. Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo phân công, phân cấp được tăng cường. Việc xác nhận hồ sơ công bố hợp chuẩn, hợp quy, kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập khẩu; xây dựng tiêu chuẩn cơ sở; đăng ký sử dụng mã số mã vạch… đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển kinh tế – xã hội.

Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, nhãn hàng hóa, sở hữu công nghiệp trong sản xuất, kinh doanh… được tăng cường. Tỉnh đã có nhiều hoạt động thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST: đã hình thành 1 Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp ĐMST, 8 câu lạc bộ khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ 75 cá nhân, doanh nghiệp mô hình kinh doanh, hoàn thiện sản phẩm… Đã có 20 cơ sở sản xuất, doanh nghiệp khởi nghiệp hình thành và phát triển từ các Cuộc thi khởi nghiệp ĐMST. Năm 2023, Chỉ số ĐMST cấp địa phương (PII) của tỉnh đạt 37.80 điểm, xếp hạng thứ 26/63 tỉnh/thành.
Tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị, Bộ KH&CN và bộ, ngành liên quan sớm tham mưu với Chính phủ ban hành cơ chế chính sách đặc thù, vượt trội; cơ chế thử nghiệm chính sách mới, chấp nhận rủi ro trong hoạt động nghiên cứu KH&CN, đồng thời sớm ban hành Thông tư hướng dẫn quản lý nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và cấp cơ sở sử dụng ngân sách nhà nước; Bộ KH&CN tham mưu Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung Quyết định số 19/1014/QĐ-TTg ngày 05/3/2014 theo hướng ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác áp dụng, duy trì, cải tiến hệ thống quản lý chất lượng gắn với việc triển khai chuyển đổi số… Tỉnh cũng đề nghị Bộ KH&CN hỗ trợ thực hiện từ 2-3 nhiệm vụ KH&CN/năm; ưu tiên các nhiệm vụ chuyển giao kỹ thuật công nghệ cao, công nghệ số, công nghệ sinh học vào việc bảo quản, chế biến sau thu hoạch; ứng dụng đồng bộ các giải pháp KH&CN để đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ một số nông lâm sản theo chuỗi giá trị phục vụ xuất khẩu.

Tập trung đầu tư phát triển KH,CN&ĐMST

Tại buổi làm việc, lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ KH&CN đã trao đổi về các nội dung phối hợp giữa Bộ KH&CN với UBND tỉnh trong hoạt động KH,CN&ĐMST; trao đổi, thảo luận, giải đáp cơ bản các kiến nghị của tỉnh; đề xuất các giải pháp trọng tâm tỉnh cần chú trọng trong hoạt động KH,CN&ĐMST.


Toàn cảnh buổi làm việc.

Tại buổi làm việc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Hoàng Giang cho rằng, Quảng Ngãi có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển KH,CN&ĐMST. Để tiếp tục phát huy các lợi thế của địa phương, đồng chí Nguyễn Hoàng Giang yêu cầu Sở KH&CN tiếp tục làm tốt công tác tham mưu, nghiên cứu, có nhiều hoạt động sáng tạo, ứng dụng KH&CN và có những sản phẩm cụ thể. Tỉnh Quảng Ngãi mong muốn Bộ KH&CN tiếp tục xem xét, hỗ trợ tỉnh thực hiện các chương trình, hoạt động KH,CN&ĐMST.

Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Nguyễn Hoàng Giang phát biểu tại buổi làm việc.

Đồng chí Bùi Thị Quỳnh Vân, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh cho biết, tỉnh xác định KH&CN là nền tảng, là yếu tố tác động lớn đến phát triển kinh tế – xã hội. Thời gian tới, tỉnh sẽ tập trung sự quan tâm, đầu tư một cách bài bản, có hệ thống trong việc nghiên cứu KH&CN, ứng dụng KH&CN vào sản xuất, kinh doanh và đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp ĐMST. Quảng Ngãi mong muốn Bộ hỗ trợ thúc đẩy hoạt động KH&CN phát triển đi vào chiều sâu với nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước và cả cộng đồng doanh nghiệp.


Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Bùi Thị Quỳnh Vân phát biểu tại buổi làm việc.

Phát biểu kết luận, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao những kết quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của các đồng chí Lãnh đạo tỉnh đối với hoạt động KH,CN&ĐMST. Công tác quản lý nhà nước về KH,CN&ĐMST được triển khai trên các lĩnh vực; hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ KH&CN đã đóng góp cho phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết những vấn đề cấp thiết phát sinh trong sản xuất, đời sống…


Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu kết luận buổi làm việc.

Bộ trưởng cho rằng, Quảng Ngãi là địa phương có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế biển, có nhiều sản phẩm đặc hữu, du lịch, đào tạo nhân lực… Để thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST hơn nữa, Bộ trưởng mong muốn Lãnh đạo tỉnh và Lãnh đạo các Sở ngành tiếp tục quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát hơn hoạt động KH,CN&ĐMST; tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ KH&CN trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về KH,CN&ĐMST theo hướng phù hợp với cơ chế thị trường, tôn trọng đặc thù của lao động sáng tạo và theo chuẩn mực quốc tế…

Tăng cường đầu tư nâng cao tiềm lực KH&CN của tỉnh như cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực, ngân sách và huy động nguồn lực ngoài ngân sách đầu tư cho hoạt động KH,CN&ĐMST. Huy động các viện, trường, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia giải quyết các vấn đề của tỉnh; nâng cao năng lực nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng KH&CN phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Theo Bộ trưởng, tỉnh cần tận dụng tốt những lợi thế, tiềm năng phát triển sẵn có của tỉnh, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ KH,CN&ĐMST để nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, phục vụ hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương/ vùng. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng và phát triển công nghệ, ĐMST phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh (tại các khu vực có nhiều tiềm năng như: huyện đảo Lý Sơn; khu kinh tế Dung Quất, các khu công nghiệp và doanh nghiệp trên địa bàn). Tập trung phát triển các sản phẩm có lợi thế của địa phương, sản phẩm theo chuỗi giá trị, phục vụ hiệu quả cho tăng trưởng, phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.

Tiếp tục đẩy mạnh phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, ĐMST; phát triển thị trường, doanh nghiệp KH&CN; tổ chức thực hiện các giải pháp cải thiện, nâng cao Chỉ số PII của địa phương; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, thúc đẩy phát triển KH,CN&ĐMST trên các lĩnh vực như: tiêu chuẩn đo lường chất lượng; sở hữu trí tuệ; an toàn bức xạ và hạt nhân; quản lý công nghệ; ĐMST…

Trong khuôn khổ buổi làm việc, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đã trao tặng kinh phí của Công đoàn Bộ KH&CN cho Quỹ xóa nhà tạm, nhà dột nát của tỉnh Quảng Ngãi.


Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt trao tặng 200 triệu đồng ủng hộ Quỹ xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Việt Nam – Hàn Quốc tăng cường thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo

Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) là một điểm sáng trong quan hệ hợp tác song phương giữa hai nước Việt Nam – Hàn Quốc. Hợp tác trong lĩnh vực này đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, đi vào chiều sâu và thực chất, góp phần vào sự phát triển chung thịnh vượng của hai nước.
Ngày 28/8/2024, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt đã có buổi gặp gỡ và làm việc với Bà OH Youngju, Bộ trưởng Bộ Doanh nghiệp vừa và nhỏ và khởi nghiệp Hàn Quốc (MSS). Cuộc gặp nhằm trao đổi về thúc đẩy hợp tác, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo và sản xuất thông minh.
Tại buổi gặp, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, thời gian qua với sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ Việt Nam đối với sự phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo (KNST), nhiều văn bản đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy hệ sinh thái KNST theo hướng mạnh dạn thí điểm các cơ chế mới và thúc đẩy các hoạt động theo chiều sâu.
Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp KNST tiếp tục được triển khai thông qua nhiều chương trình, cuộc thi cấp địa phương, cấp quốc gia và quốc tế, thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp công nghệ, doanh nghiệp KNST và cộng đồng chuyên gia, tri thức trong và ngoài nước. Bộ KH&CN đã phối hợp với các Bộ, ngành và đối tác quốc tế để hỗ trợ KNST Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại buổi làm việc.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt bày tỏ mong muốn, hai bên sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ để triển khai các nội dung của Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển và trao đổi hệ sinh thái khởi nghiệp đã ký giữa hai Bộ nhằm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp và trao đổi nguồn nhân lực giữa hai nước đạt hiệu quả.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đề nghị MSS hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là phối hợp triển khai chương trình đào tạo về phần mềm (K-Tech College) để tìm kiếm, đào tạo giới trẻ Việt Nam tham gia các startup của Hàn Quốc. Tạo điều kiện chia sẻ kinh nghiệm và đào tạo, nâng cao năng lực cho các cán bộ quản lý của Bộ KH&CN và các Sở KH&CN tại địa phương về ĐMST, KNST, quản lý và vận hành các cơ sở ươm tạo.
Bên cạnh đó, MSS tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm Khởi nghiệp Hàn Quốc (K-Startup Center) để cùng phát triển Trung tâm khởi nghiệp ĐMST quốc gia tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, trong đó, hướng tới thiết kế các chương trình nhằm đưa startup Việt Nam sang Hàn Quốc tìm hiểu, phát triển thị trường và ngược lại đưa các startup Hàn Quốc sang Việt Nam hằng năm; tổ chức các sự kiện kết nối giữa doanh nghiệp khởi nghiệp, tập đoàn, viện, trường của hai nước; tổ chức các chương trình tìm kiếm các dự án tiềm năng…
Toàn cảnh buổi làm việc.
Trong hoạt động hợp tác lĩnh vực sản xuất thông minh, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt bày tỏ tin tưởng, sự hợp tác của Hàn Quốc sẽ giúp nâng cao năng lực công nghệ và trình độ sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam, cũng như mang đến các lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp Hàn Quốc, góp phần thúc đẩy và khẳng định quan hệ hợp tác về KH,CN&ĐMST nói riêng, quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia nói chung.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đề nghị MSS tạo điều kiện để Văn phòng sản xuất thông minh Hàn Quốc (KOSMO) phối hợp với Cục Phát triển công nghệ và ĐMST thuộc Bộ KH&CN sớm đề xuất và đưa vào triển khai dự án ODA liên quan đến Trung tâm mô phỏng nhà máy thông minh và hỗ trợ thông minh hóa cho quá trình chuyển đổi số của ngành sản xuất Việt Nam.
Ngoài ra, Bộ KH&CN mong muốn hai Bộ sẽ có các hoạt động hợp tác cụ thể để thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ và khởi nghiệp của Hàn Quốc với các viện nghiên cứu và doanh nghiệp Việt Nam thông qua hợp tác chuyển giao công nghệ, trong đó, tập trung vào các công nghệ mà Hàn Quốc đang có thế mạnh và Việt Nam đang quan tâm. Phối hợp với các cơ quan có liên quan triển khai các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp về nguồn lực, phát triển doanh nghiệp KNST; hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp kiểm tra cấp chứng nhận cho các công nghệ phù hợp tiêu chuẩn Hàn Quốc trong một số lĩnh vực như điện tử, hóa mỹ phẩm…
Bộ trưởng OH Youngju khẳng định, ĐMST có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia. Trong thời gian qua, MSS đã xây dựng nhiều chính sách hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp. Đặc biệt, với sự ra đời của “Trung tâm khởi nghiệp toàn cầu” tại thủ đô Seoul góp phần hỗ trợ cho các doanh nhân nước ngoài khởi nghiệp ở Hàn Quốc và đồng thời thúc đẩy toàn cầu hóa hệ sinh thái khởi nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc sẽ hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là phối hợp triển khai chương trình K-Tech College để tìm kiếm, đào tạo giới trẻ Việt Nam tham gia các start-up Hàn Quốc. Đồng thời tạo điều kiện chia sẻ kinh nghiệm và đào tạo, nâng cao năng lực cho các cán bộ quản lý của Bộ KH&CN và các sở KH&CN tại địa phương về ĐMST, quản lý và vận hành các cơ sở ươm tạo.
Bộ trưởng OH Youngju bày tỏ mong muốn, Bộ KH&CN sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp của Hàn Quốc tại Việt Nam.
Bộ trưởng OH Youngju phát biểu tại buổi làm việc.
Về sản xuất thông minh, Bộ trưởng OH Youngju khẳng định, đây là xu thế tất yếu nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và phát triển bền vững. Đây cũng là một trong những quan tâm chung của Việt Nam và Hàn Quốc trong thời gian tới. Vừa qua, Cục Phát triển công nghệ và ĐMST, KOSMO, và Hiệp hội Đổi mới doanh nghiệp nhỏ và vừa Hàn Quốc đã ký Ý định thư hợp tác về thúc đẩy nghiên cứu và phát triển, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực KH,CN&ĐMST theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, trong đó trọng tâm là lĩnh vực sản xuất thông minh. Trên cơ sở đó, các bên sẽ cùng xây dựng, đề xuất triển khai dự án ODA “Trung tâm mô phỏng nhà máy thông minh và hỗ trợ thông minh hóa cho quá trình chuyển đổi số của ngành sản xuất Việt Nam giai đoạn 2026 – 2029”. MSS sẽ đẩy mạnh việc giám sát để đưa các nội dung ký kết Ý định thư vào triển khai trong thời gian tới.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và Bộ trưởng OH Youngju chứng kiến Lễ trao Ý định thư.
Ngoài ra, Bộ trưởng OH Youngju cũng cho biết, Viện KH&CN Việt Nam – Hàn Quốc (VKIST) đang ngày càng phát huy tốt vai trò là hạt nhân kết nối hợp tác giữa các viện, trường, doanh nghiệp trong hệ sinh thái ĐMST của hai nước Việt Nam – Hàn Quốc, là biểu tượng thành công cho sự hợp giữa giữa 2 quốc gia Việt Nam – Hàn Quốc.
Các đại biểu tham dự buổi làm việc.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN