Thuốc phóng xạ của Việt Nam được điều chế thế nào?

Vật liệu không có phóng xạ được đưa đến Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt chiếu xạ, sau đó sẽ tách chiết để lấy hạt nhân phóng xạ cần cho chẩn đoán và điều trị ung thư.

Hiện Viện nghiên cứu hạt nhân là đơn vị duy nhất trong cả nước ứng dụng Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt để sản xuất thuốc phóng xạ. Các dược chất phóng xạ đang được điều chế tại đây có I-131 dung dịch và viên nang dùng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý về tuyến giáp (basedow, ung thư tuyến giáp…); P-32 dung dịch dùng điều trị giảm đau ung thư do di căn xương; P-32 dạng tấm áp dùng điều trị u mạch máu cho trẻ em; Tc-99m gắn với các hợp chất đánh dấu đặc hiệu (MDP: xạ hình xương; DTPA: xạ hình thận; Phytec: xạ hình gan) cho 25 khoa y học hạt nhân trên toàn quốc trong chẩn đoán và điều trị ung thư. Một số sản phẩm cũng được xuất khẩu sang Campuchia.

TS Phạm Thành Minh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Điều chế đồng vị phóng xạ, Viện nghiên cứu hạt nhân cho biết, quy trình sản xuất được thực hiện bằng cách đưa vật liệu không có phóng xạ đem chiếu xạ trên lò phản ứng hạt nhân sẽ thành vật liệu phóng xạ. Sau đó các kỹ thuật viên sẽ tiến hành tách chiết để lấy hạt nhân phóng xạ quan tâm, kiểm tra chất lượng và phân phối đến các bệnh viện.

Có 2 loại thuốc phóng xạ gồm chu kỳ bán rã ngắn và dài ngày. Tại Việt Nam có Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội (HIC) và một số bệnh viện sử dụng máy gia tốc chủ động sản xuất dược chất phóng xạ có thời gian bán rã ngắn, phục vụ chẩn đoán ung thư. Riêng Viện nghiên cứu hạt nhân chủ yếu sản xuất dược chất phóng xạ có thời gian bán rã dài.

Phòng điều chế  dược chất I-131. Ảnh: Viện nghiên cứu hạt nhân

Phòng điều chế dược chất I-131. Ảnh: Viện nghiên cứu hạt nhân

TS Minh cho biết, việc chẩn đoán và điều trị bệnh bằng các thuốc phóng xạ là phương pháp không thể thay thế đối với một số bệnh ung thư hiện nay. Hiện thuốc phóng xạ sử dụng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt đang đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu. “Việc chủ động sản xuất các thuốc phóng xạ trong nước giúp giá sản phẩm rẻ bằng 1/3 so với nhập khẩu và góp phần hình thành và phát triển mạng lưới y học hạt nhân trong nước”, TS Minh cho biết. Tuy nhiên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt có công suất thấp (500 kW) nên chưa cung cấp đủ nhu cầu trong nước. Ngoài ra, Việc nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thuốc cũng gặp khó khăn do vướng các quy định của Bộ Y tế.

Khoa Y học Hạt nhân, bệnh viện Chợ Rẫy (TP HCM) là một trong 25 đơn vị trong cả nước sử dụng thuốc phóng xạ điều trị cho khoảng 200 bệnh nhân mỗi tháng. Bệnh viện hiện đang sử dụng thuốc phóng xạ I-131 từ Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt và từ nước ngoài để điều trị các loại ung thư tuyến giáp, bệnh cường giáp như Basedow…

TS.BS Nguyễn Xuân Cảnh, Trưởng khoa Y học hạt nhân, bệnh viện Chợ Rẫy nhận định, trong vài năm trở lại đây nhu cầu bệnh nhân sử dụng thuốc phóng xạ trong điều trị và chẩn đoán ngày càng cao. Bệnh viện được trang bị máy gia tốc vòng Cyclotron sản xuất thuốc phóng xạ F-18 FDG sử dụng trong ghi hình PET/CT chẩn đoán và theo dõi các bệnh lý ung bướu và thần kinh. Thuốc phóng xạ F-18 FDG có thời gian bán rã 2 giờ, thời gian sử dụng 8 giờ, có thể cung cấp cho một số bệnh viện trong thành phố. Theo bác sĩ Cảnh, thiết bị đã 15 năm, công suất giảm, dẫn đến khó đáp ứng đủ cho nhu cầu ghi hình PET/CT cho các bệnh viện.

Hiện bệnh viện Chợ Rẫy có thể chủ động pha chế thuốc phóng xạ Ga-68 PSMA dùng trong ghi hình PET/CT cho bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt và thuốc Ga-68 Dotatate dùng trong ghi hình PET/CT cho bệnh nhân u thần kinh nội tiết. Thuốc chỉ sử dụng nhanh trong bệnh viện sau khi pha chế vì hai loại thuốc này thời gian bán rã ngắn (68 phút). Thực tế, các loại thuốc phóng xạ có thời gian sử dụng rất ngắn nên khi sản xuất xong phải sử dụng ngay.

Tại bệnh viện Chợ Rẫy, ngoài thuốc phóng xạ Iod I-131 được sản xuất và sử dụng trong nước, các thuốc phóng xạ khác dùng trong điều trị bệnh phải nhập khẩu từ nước ngoài với chi phí có thể từ vài trăm triệu đồng cho một đợt điều trị 6-8 tuần. Bác sĩ Cảnh nói, nếu sản xuất thuốc phóng xạ trong nước, có thể chủ động trong việc điều tiết sản xuất, tức có thể yêu cầu ngừng sản xuất ngay khi bệnh nhân vì lý do nào đó không thể sử dụng, tránh lãng phí.

TS.TS Nguyễn Xuân Cảnh bên trong phòng sản xuất thuốc phóng xạ tại bệnh viện Chợ Rẫy. Ảnh: Hà An

TS.BS Nguyễn Xuân Cảnh bên trong phòng sản xuất thuốc phóng xạ tại bệnh viện Chợ Rẫy. Ảnh: Hà An

Bác sĩ Cảnh nhận định xu hướng hiện nay là điều trị nhắm trúng đích bằng thuốc phóng xạ cho một số bệnh lý ung thư tuyến tiền liệt, ung thư di căn xương, ung thư biểu mô tế bào gan, u thần kinh nội tiết… Ông mong muốn nhà khoa học trong nước nghiên cứu gắn kết đồng vị phóng xạ trên thuốc nhắm trúng đích để ghi hình, đánh giá khả năng hấp thụ của thuốc tới các tổn thương ung thư, làm cơ sở giúp bác sĩ ra quyết định điều trị. “Các thuốc nhắm trúng đích có thể cung ứng cho các bệnh viện giúp chi phí cho việc điều trị có thể giảm hơn 50%”, bác sĩ Cảnh nói.

Với dự đoán nhu cầu dược chất phóng xạ tăng cao trong thời gian tới, Viện Nghiên cứu hạt nhân đang có kế hoạch bổ sung thanh nhiên liệu U-235 độ giàu thấp (19,75%) để tăng cường chạy lò sản xuất các dược chất phóng xạ trong 10 năm tới nhằm cung ứng khoảng 80% nhu cầu cho các bệnh viện trong và ngoài nước. Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam đang thúc đẩy triển khai dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân (CNST) với lò phản ứng hạt nhân có công suất lớn 10 MWt, trong đó ứng dụng lò để sản xuất đồng vị phóng xạ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội sẽ là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu.

Viện cũng dự định xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh, đầu ngành thuốc phóng xạ (ít nhất 10 người), để nghiên cứu và phát triển sản phẩm ứng dụng vào thực tế.

Bảo Chi – Hà An

Triển lãm Sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Triển lãm Sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) diễn ra từ ngày 13 – 18/5/2024 tại Trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN). Đây là một trong những hoạt động trong khuôn khổ Triển lãm chào mừng Ngày KH&CN Việt Nam 18/5 và Kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN.

Trong khuôn khổ sự kiện, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đã tham quan Triển lãm Sách KH,CN&ĐMST. Tiếp Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng đoàn lãnh đạo các cấp tham quan Triển lãm sách, Cục trưởng Cục Thông tin KH&CN quốc gia (Cục Thông tin) Trần Đắc Hiến cho biết, số lượng tài liệu trưng bày tại Triển lãm chiếm một phần rất nhỏ số lượng tài liệu đang lưu giữ, phục vụ tại Thư viện của Cục Thông tin. Hiện số tài liệu quý hiếm đã được Cục Thông tin số hóa để phục vụ bạn đọc truy cập mọi lúc, mọi nơi.

Triển lãm Sách KH,CN&ĐMST  trưng bày, giới thiệu sách in, sách điện tử nhằm tái hiện con đường KH&CN gắn liền với con đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiến tạo tương lai. Triển lãm sách được chia làm 3 khu vực gồm:

Khu vực trung tâm Triển lãm sách là mô hình bản đồ Việt Nam trên nền cuốn sách mở với 3 giai đoạn của “Con đường 65 năm đổi mới”:

Giai đoạn trước năm 1975: Trưng bày những cuốn sách quý của các nhà khoa học nổi tiếng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di… Trong đó, có những cuốn sách độc bản chỉ còn duy nhất tại Thư viện của Cục Thông tin KH&CN quốc gia.

Giai đoạn 1975 – 2002: Trưng bày sách của các nhà khoa học, chính trị, quân sự, y dược có đóng góp lớn vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh như: Võ Nguyên Giáp, Trần Đức Lương, Nguyễn Tài Thu, Nguyễn Văn Đạo, Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền…

Giai đoạn 2002 – 2024: Trưng bày những cuốn sách quan trọng về lý luận và thực tiễn giai đoạn từ 2002 tới nay, nổi bật là bộ sách của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Hai bên triển lãm là khu vực tài liệu in và tài liệu số về KH&CN. Khu vực tài liệu in chọn lọc trưng bày những cuốn sách tiêu biểu thuộc 5 lĩnh vực: khoa học tự nhiên; khoa học kỹ thuật và công nghệ; khoa học y, dược; khoa học nông nghiệp; khoa học xã hội và nhân văn. Trong đó có nhiều cuốn sách của các tác giả đã đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng nhà nước về KH&CN như: Đỗ Tất Lợi, Đặng Thai Mai, Phan Huy Lê…

Khu vực tài liệu số giới thiệu các nguồn tin KH&CN trong nước và quốc tế đã được Bộ KH&CN đầu tư kinh phí xây dựng và phát triển như: cơ sở dữ liệu quốc gia về KH&CN và các các cơ sở dữ liệu KH&CN quốc tế của các nhà xuất nổi tiếng thế giới như ScienceDirect, Springer Nature, IEEE, ACS, OECD, ProQuest Central, Scopus, InCites…

Với 3 khu vực trưng bày sách được bố trí khoa học và hệ thống, Triển lãm đã tái hiện con đường phát triển KH&CN của Việt Nam trong suốt 65 năm qua. Từ những cuốn sách quý của các nhà khoa học nổi tiếng trước năm 1975, sách về công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh đến những tài liệu lý luận và thực tiễn của giai đoạn hiện đại, Triển lãm đã mang đến cái nhìn toàn diện về những đóng góp to lớn của KH&CN trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Triển lãm sách còn là dịp để cộng đồng nhìn lại và tôn vinh những nỗ lực và đóng góp của các nhà khoa học Việt Nam, góp phần lan tỏa tinh thần sáng tạo, khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu và khuyến khích các thế hệ trẻ tiếp tục theo đuổi con đường khoa học, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.

Giáo sư Việt săn tìm ‘hạt ma quái’

GS.TS Phùng Văn Đồng cùng cộng sự phát hiện ra mô hình có thể dự đoán khối lượng neutrino và sự tồn tại phổ biến của vật chất tối nhằm khai phá những bí ẩn vũ trụ.

GS.TS Phùng Văn Đồng (43 tuổi) hiện là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tiên tiến Phenikaa, Trường Đại học Phenikaa. Anh là Giáo sư trẻ nhất Việt Nam (năm 2021, ngành Vật lý) và nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu 2016 nhờ công trình nghiên cứu xuất sắc. Nhìn lại gần 20 năm nghiên cứu, sở hữu 70 công trình công bố trên tạp chí uy tín thuộc danh mục ISI/Scopus, GS Đồng chưa quên cơ duyên đến với Vật lý lý thuyết rồi trở thành nhà khoa học.

Kể với VnExpress, GS Đồng cho hay ban đầu thời phổ thông vốn rất mê Toán. Song năm 1999 khi đăng ký hồ sơ vào trường thích nhất, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG Hà Nội, cậu buộc phải chuyển sang Vật lý “vì chỉ tiêu vào Toán ít hơn nên sợ trượt”. Tốt nghiệp năm 2003, anh Đồng muốn trở thành giáo viên vật lý nhưng xin việc khó khăn do cần phải có chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm. “Thế là tôi quyết định quay trở lại làm nghiên cứu, một chuỗi sự ngẫu nhiên dẫn đến cơ duyên trở thành nhà khoa học như hiện tại”, anh nhớ lại.

GS.TS Phùng Văn Đồng. Ảnh: NVCC

GS.TS Phùng Văn Đồng. Ảnh: NVCC

Hướng nghiên cứu của GS Đồng tập trung giải quyết bài toán cốt lõi về cấu trúc và sự vận động vũ trụ, trong đó vấn đề khối lượng neutrino và sự tồn tại phổ biến của vật chất tối là bài toán hóc búa có liên quan với nhau, ảnh hưởng ý nghĩa đến sự hình thành và diễn tiến của vũ trụ.

Công trình mô hình 3-3-1-1 dựa trên nguyên lý đối xứng chuẩn nhằm dự đoán sự tồn tại của vật chất tối. GS Đồng giải thích, ước lượng trong thiên hà có tới 85% thành phần là vật chất tối, có đặc điểm không hấp thụ hay bức xạ ánh sáng và tương tác rất yếu với vật chất thông thường. Chúng ta hoàn toàn chưa hiểu về cấu trúc và thành phần của vật chất tối, đây là lý do GS Đồng nghiên cứu đề xuất các mô hình nhằm vén mở những bí ẩn đó.

Để nghiên cứu về loại vật chất tối bí ẩn này, các nhà nghiên cứu cần song hành lý thuyết định hướng và thực nghiệm tìm kiếm. Ban đầu nhóm nghiên cứu “mô hình 3-3-1” mở rộng từ mô hình chuẩn, song sớm nhận ra mô hình không giải thích cho vật chất tối. Nhóm tiếp tục mở rộng thành mô hình 3-3-1-1. “Nguyên lý 3-3-1-1 phân loại vật chất tối, làm vật chất tối bền, xác định mật độ tàn dư vật chất tối ngày nay, dự đoán tín hiệu của vật chất tối trong thực nghiệm tìm kiếm trực tiếp, gián tiếp, và máy gia tốc”. Đây là lý thuyết nhất quán đầu tiên chỉ ra rằng vật chất tối do tương tác chuẩn chi phối, tương tự các tương tác điện từ, yếu, mạnh, hấp dẫn. GS Đồng cho biết thêm, lý thuyết này còn cho dự đoán khối lượng neutrino liên quan đến vật chất tối, bên cạnh giải quyết các giả thuyết khác như lạm phát vũ trụ sớm và bất đối xứng vật chất – phản vật chất.

Mô hình 3-3-1-1 cho vật chất tối được đăng tải trên Tạp chí Physical Review D, một trong những tạp chí ảnh hưởng nhất chuyên ngành vật lý năng lượng cao và vũ trụ học. Công trình nhận được sự quan tâm từ cộng đồng nghiên cứu quốc tế, với hơn 100 lượt trích dẫn, mở ra hướng nghiên cứu mới về vật chất tối dựa trên nguyên lý thống nhất đối xứng chuẩn và đang tiếp tục phát triển.

Trong cuộc trò chuyện, GS Đồng say sưa nói về công trình nghiên cứu nhưng hiếm nhắc đến bản thân. Chỉ khi được hỏi về việc lựa chọn làm nghiên cứu sinh tiến sĩ trong nước, anh giải thích đơn giản vì mong muốn tìm kiếm cái mới dẫn tới “thực tế đi trước sự học”. Dù làm nghiên cứu sinh hoàn toàn trong nước, anh Đồng hoàn thành luận án tiến sĩ với hàng chục công bố, được đặc cách bảo vệ luận án cấp cơ sở. Năm 2007, anh làm postdoc (nghiên cứu sau tiến sĩ) tại Trung tâm Nghiên cứu Gia tốc Năng lượng cao Nhật Bản (KEK, Japan), sau đó là Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu (CERN) và Viện Hàn lâm Khoa học Đài Loan (AS, Taiwan), nhằm mở rộng các hướng nghiên cứu.

GS Đồng chụp tại tòa nhà 1-0-1 Taiwan. Ảnh: NVCC

GS Đồng chụp tại tòa nhà 1-0-1 Taiwan. Ảnh: NVCC

Chia sẻ kinh nghiệm tới người trẻ, GS Đồng nói việc đẩy mạnh phát triển nghiên cứu và duy trì nghiên cứu chuyên nghiệp phụ thuộc rất lớn bản thân nhà khoa học, phải luôn cập nhật kiến thức, kiên trì đủ dù khi nghèo cũng như khi sung túc, phản biện đủ đến nhận ra hay dở, đúng sai. Anh cho rằng nếu tiếp cận đúng và lao động đủ người làm nghiên cứu sẽ đi rất nhanh trên con đường khoa học. Ngược lại nếu tiếp cận sai hoặc không có môi trường, định hướng từ người thầy, đồng nghiệp sẽ rất khó thành công. “Learning by working” (vừa học vừa làm) song hành trên con đường khoa học giúp nhà nghiên cứu phát triển nhanh, đồng thời tìm môi trường khoa học tốt để phát triển tích cực, tránh bị sai lệch, anh cho hay.

Với GS Đồng, được nhận giải thưởng Tạ Quang Bửu 2016 với công trình mô hình 3-3-1-1 cho vật chất tối là “bước đệm vàng son để phát triển nghiên cứu vượt bậc”. Anh cho hay, nghiên cứu cũng trở thành nền tảng cơ sở giúp anh định hướng xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh về vật lý năng lượng cao và vũ trụ học khi anh về công tác tại trường Đại học Phenikaa năm 2019.

Nói về giải thưởng Tạ Quang Bửu, GS Đồng cho biết giải thưởng có quá trình xét duyệt rất khắt khe, được bình chọn bởi các chuyên gia nghiên cứu tích cực và vận hành bởi Quỹ Nafosted uy tín. Việc giải thưởng đề cao chất lượng nghiên cứu và đóng góp ý nghĩa của nhà khoa học sẽ tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Là thành viên Hội đồng Nafosted ngành Vật lý, anh nhận thấy để đạt được giải thưởng ngoài chất lượng của công trình, nhà khoa học cần đạt mức uy tín và liêm chính nhất định trong ngành. Anh nhìn nhận “giải rất cao quý và mô hình này nên nhân rộng lĩnh vực khác, duy trì trao hàng năm”.

VNExpress

Hội thảo Cộng đồng Nghiên cứu và Đổi mới sáng tạo EU – Việt Nam

Hội thảo không chỉ đánh dấu cột mốc quan trọng trong quá trình hợp tác của Việt Nam – EU mà còn là diễn đàn để tăng cường hợp tác giữa cộng đồng khoa học và doanh nghiệp. Hai bên sẽ tiếp tục nỗ lực chung trong việc nâng cao năng lực của các nhà khoa học cũng như đóng góp vào hợp tác Việt Nam – EU trong lĩnh vực nghiên cứu và đổi mới sáng tạo (ĐMST).

Ngày 21/5/2024, tại Hà Nội, nhân dịp kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam (18/5), Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam phối hợp với Bộ KH&CN và EURAXESS ASEAN tổ chức “Hội thảo Cộng đồng Nghiên cứu và ĐMST EU – Việt Nam”. Tham dự Hội thảo có Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy, Đại sứ EU tại Việt Nam Julien Guerrier; cùng đại diện Đại sứ quán các quốc gia thành viên EU và đông đảo cộng đồng nhà khoa học Việt Nam – EU.
Toàn cảnh Hội thảo.
Hội thảo dựa trên những thành quả hợp tác thành công giữa EU và Việt Nam trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST trong năm qua. Đặc biệt trong đó, Cộng đồng Nghiên cứu và ĐMST EU – Việt Nam được khởi xướng vào tháng 5/2023 nhằm tạo ra một nền tảng độc đáo cho mạng lưới các nhà nghiên cứu và cựu du học sinh Việt Nam và châu Âu, tận dụng những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của cộng đồng để thúc đẩy nghiên cứu và phát triển ĐMST giữa EU – Việt Nam.
Các chuyên gia thảo luận tại Hội thảo.
Tiếp nối tinh thần đó, Hội thảo cũng giới thiệu các cơ hội hợp tác về KH&CN từ các quốc gia thành viên EU; thảo luận chuyên đề từ các chuyên gia các nước nhằm khám phá những kết nối giữa cộng đồng nghiên cứu và doanh nghiệp trong nền kinh tế tuần hoàn.
Phát biểu tại Hội thảo, Đại sứ EU tại Việt Nam, ông Julien Guerrier cho biết, giống như Việt Nam, tại EU cũng chung quan điểm rằng nghiên cứu, KH,CN&ĐMST là ưu tiên hàng đầu. Những tiến bộ khoa học là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, phúc lợi xã hội và phát triển bền vững. Nghiên cứu và ĐMST thúc đẩy các giải pháp cho những thách thức cấp bách, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân và mở đường cho một tương lai bền vững.
Đại sứ EU tại Việt Nam phát biểu tại Hội thảo.
“Hội thảo hôm nay đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác của chúng tôi, cho thấy vai trò quan trọng của nghiên cứu KH,CN&ĐMST trong việc củng cố mối quan hệ giữa Việt Nam – EU.”, Đại sứ khẳng định.
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy khẳng định, Hội thảo không chỉ là điểm nhấn củng cố những dự án hợp tác trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam – EU mà còn là diễn đàn để tăng cường hợp tác giữa cộng đồng khoa học và doanh nghiệp. Hai bên sẽ tiếp tục nỗ lực chung trong việc nâng cao năng lực của các nhà khoa học cũng như đóng góp vào hợp tác Việt Nam – EU trong lĩnh vực nghiên cứu và ĐMST.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Bùi Thế Duy phát biểu tại Hội thảo.
Thứ trưởng cho biết, cần tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế thông qua việc nâng cao các chương trình và dự án hợp tác về KH,CN&ĐMST bao gồm năng lượng, chuyển đổi năng lượng, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững với các đối tác quan trọng như EU và các nước thành viên EU.
Các đại biểu chụp ảnh kỷ niệm tại Hội thảo.
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Trao giải Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chính sách, pháp luật của ngành KH&CN và Liên hoan văn nghệ kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN

Nằm trong chuỗi hoạt động chào mừng Ngày Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam 18/5, kỷ niệm 65 năm thành lập Bộ KH&CN, ngày 18/05/2024, tại Hà Nội, Bộ KH&CN đã tổ chức Lễ trao giải Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chính sách, pháp luật của ngành KH&CN; Liên hoan văn nghệ kỷ niệm 65 năm thành lập.

Lễ trao giải Cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chính sách, pháp luật của ngành KH&CN là sự kiện quan trọng nhằm biểu dương cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong việc nghiên cứu, học tập và tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong ngành KH&CN. Đây cũng là dịp để các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong ngành KH&CN giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm về công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực thi nhiệm vụ, công vụ.
Phát biểu tại buổi Lễ, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt chúc mừng Cuộc thi đã đạt được mục tiêu, mục đích, yêu cầu đề ra nhằm tìm hiểu về ngành KH&CN; tạo điều kiện để đoàn viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tham gia dự thi có nhận thức sâu sắc, chính xác hơn về hoạt động của ngành KH&CN.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt biểu dương các tập thể, cán bộ công đoàn viên tại buổi Lễ.
Bộ trưởng cũng biểu dương cán bộ công đoàn viên đã tích cực tham gia Cuộc thi, các tập thể tham gia dự thi đã xây dựng, đôn đốc thực hiện kế hoạch cụ thể, chỉ đạo, hướng dẫn, tuyên truyền vận động đoàn viên, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tham gia Cuộc thi, qua đó, đã lan tỏa Cuộc thi tới đông đảo của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của đơn vị mình.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt trao Giải Nhất cho các cá nhân đoạt giải.
Ban tổ chức đã trao 6 Giải Nhất, 9 Giải Nhì 15 Giải Ba và 30 Giải Khuyến khích cho các cá nhân đoạt Giải.
Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và Thứ trưởng Lê Xuân Định trao giải cho các tập thể tham dự Cuộc thi.
Giải thưởng dành cho tập thể bảo gồm: Giải Nhất thuộc về Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Giải Nhì thuộc về Viện Ứng dụng công nghệ, Công ty Cổ phần FPT; Giải Ba thuộc về Sở KH&CN TP. Hồ Chí Minh, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam.
Bên cạnh các hoạt động hướng tới chào mừng 65 năm thành lập Bộ KH&CN, Liên hoan văn nghệ là nơi để các công chức, viên chức và người lao động trong ngành KH&CN bằng lời ca, tiếng hát của mình thể hiện được truyền thống yêu quê hương, đất nước, cũng như đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ; tăng cường mối quan hệ gắn bó khăng khít, đoàn kết giữa các đơn vị. Qua đó, góp phần động viên cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nâng cao đời sống tinh thần, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ. Liên hoan văn nghệ còn là một sân chơi bổ ích để trau dồi nghệ thuật, phát huy tính sáng tạo, bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước, yêu ngành, yêu nghề, tạo sự đoàn kết, gắn bó trong tập thể người lao động tại các đơn vị.
Với 44 tiết mục đa dạng đến từ 22 đơn vị thuộc Bộ KH&CN và các sở KH&CN từ hợp xướng, tam ca, song ca, đơn ca, múa, đến độc tấu nhạc cụ… liên hoan văn nghệ đã góp phần tôn vinh Đảng, Bác Hồ, tình yêu quê hương, đất nước và ngành KH&CN. Các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Bộ KH&CN đã thể hiện những giai điệu vui tươi, hào hùng, sôi nổi và đầy “tinh thần KH&CN”. Sức trẻ, đam mê, tinh thần tập thể và sự cống hiến đã tạo nên một liên hoan văn nghệ thành công rực rỡ.
Chủ tịch Công đoàn Bộ KH&CN Hà Quốc Trung cho biết, qua Cuộc thi có thể thấy, các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn mà còn là những nghệ sĩ trong phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng. Hy vọng trong thời gian tới, Công đoàn các đơn vị sẽ tiếp tục đồng hành, giao lưu, chia sẻ và tăng cường sự đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau để phát huy các hoạt động chuyên môn, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.
Một số hình ảnh biểu diễn tại buổi Liên hoan văn nghệ của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

Điểm mạnh của các hình thức xuất bản hiện nay

Theo sự phát triển của xã hội, nhiều hình thức xuất bản mới ra đời giúp những người yêu viết lách hiện thực hóa ý tưởng của mình.

xuat ban sach anh 1

Ảnh minh họa. Nguồn: Reedsy.

Julie Broad là một tác giả và là người sáng lập BookLaunchers, đơn vị tư vấn xuất bản sách tại Mỹ. Khi tham gia một hội nghị của các tác giả, Julie Broad nhận ra rằng cách đây khoảng 30 năm, chỉ có hai con đường duy nhất để xuất bản một cuốn sách. Đó là thông qua nhà xuất bản truyền thống hoặc trả tiền cho các công ty làm dịch vụ xuất bản.

Theo sự phát triển của xã hội, nhu cầu xuất bản tăng dẫn đến nhiều hình thức khác cũng ra đời như tự xuất bản, xuất bản kết hợp, xuất bản có hỗ trợ tác giả. Dựa trên thực trạng và kinh nghiệm của bản thân, Julie Broad đã đánh giá ưu nhược điểm của từng loại hình.

Xuất bản truyền thống

Xuất bản truyền thống từ lâu đã được coi là địa hạt danh giá mà hầu hết tác giả nào cũng muốn đặt chân đến. Với mô hình này, nhà xuất bản chịu trách nhiệm biên tập, thiết kế, tiếp thị và phân phối sách. Chỉ những tác phẩm có chất lượng cao mới được các nhà xuất bản có uy tín lựa chọn. Được đội ngũ của một nhà xuất bản có thâm niên hỗ trợ toàn diện trong việc đưa sách ra thị trường là lợi thế to lớn.

xuat ban sach anh 2

Bên trong một xưởng in sách. Ảnh: Dynamark.

Tuy nhiên, tiền bản quyền cho tác giả sẽ không quá nhiều. Bên cạnh đó, việc tiếp thị không phải chỉ dựa trên các kênh có sẵn của nhà xuất bản. Tác giả cũng cần tự xây dựng tên tuổi cho bản thân nhằm giúp sách của mình tiếp cận độc giả tốt hơn.

Julia Broad cho rằng, hình thức xuất bản này đòi hỏi tác giả phải rất kiên nhẫn. Đồng thời, tác giả cũng nên chủ động hơn trong khâu tiếp thị sản phẩm.

Tự xuất bản

Trong những năm trở lại đây, tự xuất bản dần trở thành xu hướng tại một số nước. Cuốn sách đầu tiên của Julie Broad, More than cashflow, tự xuất bản vào năm 2013 cho đến nay vẫn tạo ra nguồn doanh thu. Với việc tự xuất bản, tác giả có thể giữ bản quyền cuốn sách của mình kể cả một nhà xuất bản nước ngoài muốn chuyển ngữ cũng phải thông qua bạn. Tự xuất bản cũng cho phép tác giả kiếm được nhiều tiền hơn trên mỗi bản bán được.

Tuy nhiên, việc tự xuất bản đòi hỏi sự đầu tư đáng kể về thời gian và tiền bạc. Bởi vì tác giả chịu trách nhiệm về mọi khía cạnh của quy trình nên điều này có thể khiến nhiều người choáng ngợp.

xuat ban sach anh 3

Ảnh minh họa tác giả. Nguồn: Writer.

Theo Julia Broad, với phương án tự xuất bản, tác giả cần đầu tư vào người biên tập và thiết kế minh họa cho cuốn sách. Tác giả phải chủ động trong các khâu tiếp thị và phân phối. Tự xuất bản một cuốn sách tốn rất nhiều công sức, vì vậy việc lập một kế hoạch là bước đầu để hiện thực hóa các mục tiêu và lường trước một số rắc rối.

Xuất bản kết hợp

Đây là hình thức kết hợp giữa xuất bản truyền thống và tự xuất bản. Trước đó nó được biết đến với khái niệm dịch vụ xuất bản, tuy nhiên khái niệm này đã trở nên lỗi thời. Xuất bản kết hợp cho phép các nhà xuất bản chịu trách nhiệm ở khâu phân phối và sản xuất cuốn sách, đồng thời, họ cũng chịu chi phí cho các bước chỉnh sửa, hiệu đính, tiếp thị, phân phối… Tác giả có thể phải chịu một số khoản phí dịch vụ. Đổi lại, tiền bản quyền thường sẽ cao hơn các nhà xuất bản truyền thống.

Để tận dụng thế mạnh của hình thức này, tác giả cần chọn một nhà xuất bản, đơn vị liên kết minh bạch về quá trình sản xuất. Ngoài ra, tác giả cũng nên sát sao với từng bước sản xuất để đảm bảo cuốn sách của mình ra mắt với phiên bản tốt nhất. Tác giả cũng nên có thêm sự tham vấn từ một số đơn vị nghiên cứu, có trình độ chuyên môn về lĩnh vực đề cập trong cuốn sách.

Xuất bản có hỗ trợ

Để có cách tiếp cận phù hợp hơn với hoạt động xuất bản, một số người có thể lựa chọn các dịch vụ viết thuê từ các công ty tự xuất bản cung cấp. Điều này giúp khách hàng đơn giản hóa quy trình xuất bản để tập trung vào thiết kế thông điệp. Đây là một dịch vụ trả phí nhưng trong hầu hết trường hợp, tác giả có quyền kiểm soát các quyền và sự phân phối của mình. Các công ty có thể “may đo” nhiều gói khác nhau từ người viết thuê (ghostwriter), nhóm biên tập và tiếp thị cho đến nhiệm vụ chỉnh sửa, thiết kế và phân phối.

Lưu ý cho các tác giả lựa chọn hình thức này là cần phải chọn một đối tác xuất bản có giá trị và tầm nhìn phù hợp với bản thân, doanh nghiệp. Bởi quá trình xuất bản có thể tốn từ sáu tháng cho tới một năm. Ngoài ra, việc đồng hành trong suốt hành trình xuất bản là điều quan trọng vì nó đảm bảo rằng kết quả thể hiện tầm nhìn và đáp ứng các tiêu chuẩn của tác giả đưa ra.

Đức Huy

Robot tiên đoán biểu cảm của con người trong 840 mili giây

Phòng thí nghiệm máy móc sáng tạo tại Trường Kỹ thuật thuộc Đại học Columbia, Mỹ, đã công bố nghiên cứu mới trên Tạp chí Science Robotics, giới thiệu Emo- một robot trí tuệ nhân tạo (AI) có thể tiên đoán các biểu cảm trên khuôn mặt con người và thực hiện cùng lúc với người đó. Nhóm chuyên gia cho biết, Emo dự đoán nụ cười trong khoảng 840 mili giây trước khi người đối diện cười, sau đó cười cùng lúc.

Nhờ vào sự tiến bộ trong các mô hình ngôn ngữ lớn như ChatGPT, những robot có khả năng giao tiếp thành thạo bằng lời nói dần được ra đời. Tuy nhiên, các kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ của chúng, đặc biệt là nét mặt, vẫn còn chưa phát triển. Việc thiết kế một robot không chỉ thể hiện được nhiều biểu cảm trên khuôn mặt mà còn biết thể hiện đúng lúc vô cùng khó.

Robot Emo là một bước tiến đáng kể trong giao tiếp phi ngôn ngữ giữa con người và robot. (Ảnh: popsci)

Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phần mền trí tuệ nhân tạo (AI) để dự đoán nét mặt con người và tạo ra nét mặt robot tương ứng. Emo sử dụng 26 động cơ, làn da mềm mại và đôi mắt được gắn camera. Vì vậy, nó có thể thực hiện các giao tiếp không lời, như giao tiếp bằng mắt và nét mặt. Emo được trang bị một số mô hình AI bao gồm phát hiện khuôn mặt người, điều khiển bộ truyền động khuôn mặt để bắt chước nét mặt và thậm chí dự đoán nét mặt con người. Điều này cho phép Emo tương tác theo cách cảm thấy kịp thời và chân thực.

Nhóm nghiên cứu phát triển hai mô hình AI. Mô hình thứ nhất dự đoán biểu cảm khuôn mặt người bằng cách phân tích những thay đổi tinh vi trên khuôn mặt đối diện, mô hình thứ hai tạo ra các lệnh vận động bằng cách sử dụng những biểu cảm tương ứng.

Ngoài ra, Emo có thể thể hiện 6 cảm xúc cơ bản như: Tức giận, ghê tởm, sợ hãi, vui vẻ, buồn bã và ngạc nhiên, cũng như một loạt các phản ứng nhiều sắc thái hơn. Điều đó là nhờ vào cơ nhân tạo làm từ dây cáp và động cơ. Emo thể hiện cảm xúc bằng cách kéo các cơ nhân tạo vào các điểm cụ thể trên khuôn mặt.

Để đào tạo robot cách biểu cảm, nhóm nghiên cứu đặt Emo trước camera và để nó thực hiện những cử động ngẫu nhiên. Sau vài giờ, robot học được mối quan hệ giữa biểu cảm khuôn mặt với các lệnh vận động – tương tự cách con người luyện tập biểu cảm khi nhìn vào gương – tương tự với khả năng con người tưởng tượng ra mình trông như thế nào khi thực hiện một số biểu cảm nhất định.

Tiếp theo, nhóm nghiên cứu phát những video về biểu cảm khuôn mặt người để Emo quan sát từng khung hình. Sau quá trình đào tạo kéo dài nhiều giờ, Emo có thể tiên đoán biểu cảm bằng cách quan sát những thay đổi tinh vi của khuôn mặt khi một người bắt đầu có ý định mỉm cười.

Yuhang Hu – nghiên cứu sinh, thành viên nhóm nghiên cứu cho biết, dự đoán chính xác biểu cảm khuôn mặt người là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực tương tác người – robot. Trước đây, robot không được thiết kế để xem xét biểu cảm của con người trong quá trình tương tác. Giờ đây, robot có thể tích hợp biểu cảm khuôn mặt để phản hồi. Việc robot thực hiện những biểu cảm cùng lúc với con người theo thời gian thực không chỉ giúp nâng cao chất lượng tương tác mà cũng giúp xây dựng niềm tin giữa con người và robot. Trong tương lai, khi tương tác với robot, nó sẽ quan sát và diễn giải biểu cảm gương mặt của bạn, giống như một con người thực sự.

Nhóm nghiên cứu dự định tích hợp giao tiếp bằng lời nói vào Emo. Điều này sẽ cho phép Emo tham gia vào các cuộc trò chuyện phức tạp và tự nhiên hơn.

CTV

Hệ thống dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn mang thương hiệu Việt

Hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn phục vụ vận hành hồ chứa thông minh đạt hiệu quả tốt ngay trong năm đầu tiên chính thức vận hành. Nhận định này được các chuyên gia, nhà khoa học đưa ra tại Hội thảo Tổng kết công tác dự báo phục vụ vận hành hồ chứa thông minh năm 2023-2024.

Thông tin về dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn là đặc biệt cần thiết

Hội thảo vừa được 2 đơn vị của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội là: Trung tâm Động lực học Thủy khí môi trường (CEFD), Công ty Khoa học Tự nhiên tổ chức. Hội thảo là dịp để các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực dự báo chia sẻ và đánh giá các kết quả đạt được của hệ thống dự báo khí tượng thủy văn phục vụ hồ chứa thông minh trong năm qua cũng như đưa ra những nhận định, dự báo, phân tích xu hướng, biến động của thời tiết, khí hậu trong mùa mưa năm 2024.

Trong bối cảnh ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu và tình hình mưa lũ thất thường, việc nâng cao khả năng dự báo, cảnh báo thủy văn đóng vai trò quan trọng trong việc cảnh báo các nguy cơ về lũ lụt, hạn hán trong cộng đồng, từ đó hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế và bảo vệ môi trường an toàn cho con người, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan đến an ninh năng lượng và đảm bảo vận hành các hệ thống năng lượng tái tạo. Việt Nam là quốc gia thường xuyên phải đối mặt với rất nhiều loại hình thiên tai, trong đó chủ yếu là các loại hình thiên tai liên quan đến ngành khí tượng thủy văn như bão, áp thấp nhiệt đới, mưa lớn, lũ… Là một trong những quốc gia chịu tác động rõ rệt của biến đổi khí hậu, công tác phòng chống thiên tai càng cần phải được chú trọng. Do đó, các thông tin về dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn là đặc biệt cần thiết và đóng một vai trò quan trọng không chỉ trong công tác phòng chống thiên tai mà còn phục vụ các hoạt động của đời sống kinh tế – xã hội, trong đó có khai thác và tối ưu phục vụ vận hành các nhà máy thủy điện.

Hệ thống dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn của các nhà khoa học Việt

PGS.TS Trần Ngọc Anh – Giám đốc CEFD chia sẻ, bắt đầu từ năm 2018 đến nay, CEFD đã nghiên cứu, phát triển, từng bước hoàn thiện hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn phục vụ vận hành hồ chứa thông minh. Đây là một sản phẩm mang thương hiệu Việt, được xây dựng hoàn toàn tại CEFD. Sản phẩm này phần lớn sử dụng các công cụ mã nguồn mở, do vậy hệ thống có tính chủ động cao, linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng. Với cách tiếp cận theo lưu vực sông, hệ thống được phân chia thành nhiều phân hệ cho từng lưu vực trên khắp cả nước. Từ đó, các bản tin dự báo được xuất ra tại mọi vị trí trên lưu vực, bao gồm dòng chảy đến hồ cho các thủy điện. Vì vậy thời gian ra bản tin được rút ngắn cho từng hồ thuỷ điện trên lưu vực.

PGS.TS Trần Ngọc Anh – Giám đốc Trung tâm Động lực học Thủy khí môi trường chia sẻ những kết quả đạt được của Hệ thống dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn do Trung tâm phát triển.

Hệ thống được áp dụng các phương pháp tiên tiến, mới nhất hiện nay của quốc tế, đảm bảo cơ sở khoa học, tính ổn định, tính chính xác cao. Bên cạnh đó, hệ thống hỗ trợ tự động hóa một số bước của quy trình dự báo, cho phép khai thác số liệu nhanh chóng, hỗ trợ dự báo viên tương tác với đa dạng các mô hình, các thuật toán của trí tuệ nhân tạo (AI), từ đó đưa ra các nhận dạng hình thế thời tiết và đưa ra khuyến nghị đến người dùng. Hệ thống hỗ trợ đảm bảo việc tuân thủ quy trình dự báo theo quy định đã được ban hành và sẽ cung cấp bản tin dự báo chính thức với các định dạng khác nhau theo nhu cầu của khách hàng. Hệ thống đảm bảo cung cấp thông tin dự báo, cảnh báo phục vụ vận hành hồ chứa với quy mô chi tiết cho từng lưu vực, từng hồ chứa.

Hệ thống được chính thức kích hoạt và vận hành liên tục từ ngày 15/05/2023, với việc CEFD luôn duy trì đội ngũ trực 24/7 để thực hiện các quy trình theo đúng quy định, trực tiếp giải quyết các yêu cầu phát sinh của khách hàng. Bên cạnh đó, hệ thống được vận hành trên máy chủ đặt tại CEFD, vì thế luôn đảm bảo tính bảo mật, an toàn về thông tin, dữ liệu của khách hàng cũng như khả năng chủ động xử lý khi có sự cố xảy ra mà không bị phụ thuộc vào bên thứ ba.

Sau một năm kể từ ngày chính thức vận hành Hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn phục vụ vận hành hồ chứa thông minh, CEFD đã nhận được sự tin tưởng của các khách hàng là các nhà máy thủy điện trực tiếp vận hành hồ chứa. CEFD đã cung cấp dịch vụ bản tin dự báo khí tượng thủy văn nghiệp vụ phục vụ vận hành nhiều hồ chứa lớn nhỏ trong cả nước như: hồ chứa Đăk Mi trên lưu vực sông Vu Gia Thu Bồn, các hồ Thái An, Thuận Hòa, Sông Miện 5, Sông Miện 5A trên lưu vực sông Miện, hồ sông Chảy 3 trên lưu vực sông Chảy, hồ Nhạn Hạc trên lưu vực sông Cả.

Để Hệ thống vận hành tốt hơn

Ông Đặng Đình Đức – Trưởng phòng Dự báo và Mô hình hóa của CEFD cho biết, Hệ thống dự báo và cảnh báo khí tượng thủy văn của CEFD bao gồm các hệ thống dự báo: Khí tượng, phục vụ công tác dự báo thời tiết (hạn 7 ngày) và dự báo hạn mùa (hạn tới 6 tháng); Thuỷ văn, phục vụ dự báo dòng chảy đến hồ, dòng chảy thượng lưu và khu giữa; Công cụ hỗ trợ ra quyết định, giúp cung cấp thông tin hỗ trợ và kiểm soát việc thực hiện quy trình dự báo mỗi ca, tự động cung cấp số liệu mưa trực tiếp cho mô hình/công cụ thuỷ văn theo thời gian thực, hỗ trợ hiển thị phân bố mưa theo thời gian hỗ trợ dự báo viên phân tích, đánh giá tình thế mưa, lũ.

Dựa trên những kết quả vận hành trong thời gian qua, Ông Đặng Đình Đức đề xuất một số hướng phát triển để đưa hệ thống vào phục vụ công tác dự báo vận hành hồ chứa được tốt hơn, bao gồm:

Một là, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống dự báo, cảnh báo phục vụ vận hành hồ chứa với quy mô chi tiết cho từng lưu vực, từng hồ chứa cho toàn bộ Việt Nam. Cập nhật, tích hợp thêm các công nghệ tiên tiến của quốc tế (kỹ thuật đồng hóa, AI…) để tăng cường độ chính xác cho các bản tin dự báo.

Hai là, đưa các mô hình thủy văn thông số phân bố vào công tác dự báo nghiệp vụ.

Ba là, tự động hóa tối đa công tác dự báo, xử lý số liệu, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác dự báo nghiệp vụ.

Bốn là, kết hợp với các đối tác chuyên về vận hành hồ chứa nhằm cung cấp bản tin phù hợp để tăng cường hiệu quả vận hành của các hồ chứa.

HH

Nhà khoa học Việt biến bùn thải giấy thành vật liệu có ích

Nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Đình Quân tận dụng bùn thải nhà máy giấy để sản xuất cellulose vi khuẩn trộn vào vật liệu giúp cho giấy chất lượng cao hơn so với thông thường.

Giải pháp của nhóm PGS Nguyễn Đình Quân, nhận giải Nhất trị giá 70 triệu đồng tại cuộc thi Sáng kiến Khoa học 2024 do VnEpress tổ chức, trao giải hôm 16/5.

Nhóm tác giả gồm PGS.TS Nguyễn Đình Quân, trường Đại học Bách khoa, Đại học quốc gia TP HCM, cùng cộng sự (Biomass Lab) đã chuyển hóa bùn giấy thành cellulose vi khuẩn (một dạng cellulose có hình thái nano cấu trúc 3D) bằng phương pháp hóa sinh kết hợp. Sản phẩm cellulose vi khuẩn là một nguyên liệu sinh học giá trị có thể được tạo ra với số lượng lớn từ nguồn phế thải khổng lồ của ngành công nghiệp giấy. Sản phẩm được ứng dụng đa dạng trong lĩnh vực nhựa sinh học, dệt may, màng lọc nano, da/gỗ nhân tạo, áo giáp chống đạn và sản xuất giấy.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang (bìa phái), ông Phạm Hiếu, Tổng biên tập báo VnExpress (bìa trái) trao cho giải nhất cho đại diện nhóm Biomass Lab  Ảnh: Ngọc Thành

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Hoàng Giang (bìa phái), ông Phạm Hiếu, Tổng biên tập báo VnExpress (bìa trái) trao cho giải nhất cho đại diện nhóm Biomass Lab Ảnh: Ngọc Thành

Ông Quân cho biết, ngành công nghiệp giấy có lượng chất thải và nước thải rất lớn. Lượng bùn giấy đã ép nước của một nhà máy trung bình lên đến hàng tấn mỗi ngày. Các nhà máy giấy thường phải đốt tiêu hủy bùn trong lò hơi hoặc thuê dịch vụ đưa đi xử lý rất tốn kém. Loại bùn thải này có màu đen xám, là nguồn ô nhiễm hữu cơ, không có ứng dụng nào đáng kể.

Tuy nhiên, ông Quân nhận thấy bùn giấy có thành phần chính là cellulose bột giấy rửa trôi trong quá trình xeo giấy (chiếm 40-60% thành phần trong bùn thải). Đây là nguồn carbohydrate có thể tận dụng, do đó PGS.TS Nguyễn Đình Quân cùng trợ lý, thạc sĩ Lê Tấn Nhân Từ đã nghiên cứu công nghệ chuyển hóa bùn giấy thành vật liệu có giá trị ứng dụng cao hơn.

Nhóm sử dụng phương pháp thủy phân cellulose trong bùn giấy với một lượng nhỏ acid thành dịch đường glucose, rồi dùng vi khuẩn Acetobacter xylinum (phổ biến trong sản xuất thạch dừa) lên men dịch glucose thu các màng cellulose vi khuẩn. Màng cellulose vi khuẩn có thể được vớt ra khỏi hỗn hợp sau lên men một cách đơn giản và dễ dàng. Đây là vật liệu sinh học có cơ lý tính vượt trội nhờ hình thái cấu trúc là các sợi cellulose kích thước nano đan xen nhau thành mạng lưới 3D.

Thách thức lớn nhất của nghiên cứu này là tìm điều kiện tối ưu của quá trình thủy phân đạt hiệu suất cao trong khi phải khống chế nồng độ muối trung hòa sau phản ứng, cũng như nồng độ acid thủy phân ban đầu để đảm bảo cho sự sinh trưởng của vi khuẩn.

Màng BC lên men từ bùn giấy sau tiền xử lý. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Màng BC lên men từ bùn giấy sau tiền xử lý. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

“Tốc độ hình thành sinh khối của lớp màng cellulose vi khuẩn là rất lớn, và chi phí cho quá trình này không đắt trong khi hiệu suất chuyển hóa cellulose trong bùn giấy lên đến 70%”, PGS Quân cho hay. Sản phẩm cellulose vi khuẩn thu được là vật liệu sinh học có giá trị, được ứng dụng đa dạng trong lĩnh vực nhựa sinh học, dệt may, màng lọc nano, da/gỗ nhân tạo, áo giáp chống đạn và sản xuất giấy.

Hiện nhóm nghiên cứu thử nghiệm công nghệ ở quy mô pilot tại nhà máy giấy Thuận An (Bình Dương) và nhà máy giấy Khôi Nguyên (Bình Phước). ThS Lê Hữu Phước, kỹ sư quản lý chất lượng sản xuất nhà máy giấy Khôi Nguyên (Bình Phước) cho biết cellulose vi khuẩn được dùng làm phụ gia tăng cường bằng cách đem phối trộn vào bột giấy với tỷ lệ phù hợp, thu được giấy thành phẩm có chất lượng cải thiện đáng kể. Anh cho hay, trước đây người ta chủ yếu dùng công nghệ lên men cellulose vi khuẩn từ nước dừa, nước dứa, nước mía, nhưng công nghệ này tận dụng bùn thải từ chính nhà máy để chuyển hóa thành nguyên liệu đưa ngược về sản xuất.

“Giấy sử dụng cellulose vi khuẩn cho chất lượng tốt hơn so về độ mịn, láng, giúp thay thế một số hóa chất đang sử dụng và có thể bù đắp chi phí xử lý bùn của nhà máy”, anh Phước nói và nhìn nhận “việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ này hoàn toàn khả thi”.

Chia sẻ với VnExpress, TS Hoàng Minh Nam, giảng viên trường Đại học Bách khoa, TP HCM đánh giá nghiên cứu của nhóm trước hết có ý nghĩa về mặt môi trường khi tận dụng chính bùn thải nhà máy và tăng khả năng phân hủy hàm lượng chất thải gây ô nhiễm. Việc sử dụng nanocellulose vi khuẩn còn tạo nguồn nguyên liệu tốt tăng cường chất lượng trong sản xuất giấy.

Ông lý giải, quy trình sản xuất giấy cần tạo cellulose sợi dài và nhập một số nguyên liệu đem nghiền ra, trộn cùng bột giấy nhằm tráng mặt giấy tạo độ nhẵn. “Trong công nghệ này, nanocellulose có kích thước nhỏ, khi trộn vào giấy giúp các sợi giấy bó chặt vào nhau tạo độ bóng, nhẵn và chất lượng tốt hơn”, ông nói.

TS Nam cho biết hiện nhiều nhà máy tại TP HCM rất quan tâm tới công nghệ. Khi ứng dụng đề tài trong nhà máy, các cán bộ kỹ thuật đánh giá cao nguồn nguyên liệu nanocellulose sinh học thu được bởi chúng cho thành phẩm tốt hơn so với bột giấy nhập về, việc tận dụng chính bùn thải nhà máy vì thế giúp giảm chi phí sản xuất. Song ông nhìn nhận vẫn tồn tại một số vấn đề như khả năng thu nanocellulose phụ thuộc vào hiệu suất quá trình lên men. Nếu lựa chọn được chủng men tốt sẽ tạo màng cellulose vi khuẩn chất lượng hơn.

Ông cho rằng chất lượng màng cellulose từ nghiên cứu ở mức chấp nhận được, cần cải thiện để ổn định chủng men mới giúp duy trì chất lượng và tăng hiệu suất lên men. “Nhóm nghiên cứu có thể kết hợp với các nhà khoa học lĩnh vực công nghệ sinh học để lựa chọn ổn định chủng men tốt”, ông gợi ý. TS Nam cũng kỳ vọng nhóm của PGS Quân mở rộng hướng nghiên cứu cho các ứng dụng khác của cellulose vi khuẩn để mang hiệu quả tốt hơn và toàn diện hơn cho giải pháp.

Hội đồng Giám khảo nhìn nhận, công nghệ triển vọng, sáng tạo khi tận dụng được bùn thải để tạo sản phẩm có tính giá trị gia tăng. Bên cạnh đánh giá về độ tinh sạch sản phẩm, hàm lượng kim loại nặng, ban giám khảo cũng gợi ý về tính khả thi ứng dụng quy mô công nghiệp và tăng hiệu suất công trình.

Như Quỳnh

Cần lan toả ý nghĩa, giá trị của đổi mới sáng tạo

Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) vừa tổ chức Diễn đàn Đổi mới sáng tạo (ĐMST) quốc gia năm 2024 với chủ đề “Xây dựng nền tảng phát triển đại học định hướng ĐMST”.

Phát triển các trụ cột chính là chính sách – đào tạo – nghiên cứu, chuyển giao tri thức

Diễn đàn là sự kiện thường niên do Trung tâm Chuyển giao Tri thức và Hỗ trợ Khởi nghiệp – ĐHQGHN khởi xướng và tổ chức dành cho cộng đồng khởi nghiệp và ĐMST, đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, gợi ý phát triển hệ sinh thái ĐMST Việt Nam trở thành trung tâm sáng tạo của quốc gia và khu vực. Diễn đàn là nơi các nhà hoạch định chính sách, tổ chức quốc tế, lãnh đạo các tập đoàn lớn, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp cùng thảo luận và tìm giải pháp phát triển cho Việt Nam trên nền tảng kinh tế tri thức và sáng tạo.

Với chủ đề “Xây dựng chiến lược nền tảng phát triển đại học định hướng đổi mới sáng tạo”, Diễn đàn nhấn mạnh vào việc phát triển các trụ cột chính là chính sách – đào tạo – nghiên cứu, chuyển giao tri thức, giúp tập trung vào các vấn đề quan trọng, từ việc xây dựng chính sách để tạo điều kiện cho đổi mới, đến việc cải thiện quy trình đào tạo và tăng cường nghiên cứu cũng như chuyển giao tri thức và công nghệ từ trường đại học ra cộng đồng, doanh nghiệp. Điều này sẽ đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của đại học và sự phát triển của đất nước.

Nói về vai trò của ĐMST, Phó Giám đốc ĐHQGHN Phạm Bảo Sơn cho biết: ĐMST đang trở thành yếu tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của các trường đại học trong nước và trên thế giới. Chính vì thế, việc tổ chức Diễn đàn ĐMST Quốc gia với các chủ đề thảo luận thiết thực là một việc làm cần thiết không chỉ để gắn kết các nhà khoa học, chuyên gia, nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KHCN&ĐMST) của cả nước mà còn là cơ hội để chúng ta cùng nhìn nhận, đánh giá thực trạng công tác KHCN&ĐMST ở Việt Nam hiện nay, phân tích các bài học thành công và học tập kinh nghiệm của nước ngoài cũng như trong nước, từ đó đề xuất các giải pháp gắn kết các thành phần của hệ sinh thái ĐMST, tăng cường chất lượng, hiệu quả của các hoạt động KHCN&ĐMST gắn với thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp để KHCN&ĐMST thực sự dẫn dắt, định hướng sự phát triển của kinh tế – xã hội đất nước.

Phó Giám đốc Phạm Bảo Sơn nhấn mạnh, các kết quả từ Diễn đàn này sẽ góp phần gắn kết, nâng cao năng lực cho các cấu phần của hệ sinh thái ĐMST để mỗi thành phần trong hệ sinh thái này tự sáng tạo ra các giá trị và liên kết với nhau chặt chẽ, tạo ra các giá trị chung của toàn bộ hệ sinh thái ĐMST quốc gia. Ví dụ như: các trường đại học – một chủ thể quan trọng của ĐMST sẽ phát huy được mạnh mẽ thế mạnh và thực thi sứ mệnh của mình hiệu quả khi ở tầm vĩ mô, các nhà quản lý nhìn nhận ra vấn đề ĐMST và cơ chế chính sách cho ĐMST ở trường đại học là nhân tố sống còn cho phát triển một xã hội ĐMST và chủ động sáng tạo giá trị. Khi đó, bản thân các trường chủ động nâng cao nội lực thông qua quyết tâm thay đổi, đặt ĐMST vào nhiệm vụ trọng tâm để tự đổi mới chính mình và xác định kỳ vọng đầu ra một cách rõ ràng, minh bạch, bằng chiến lược hợp tác mạnh mẽ và hiệu quả với khu vực tư nhân và thị trường.

Tại Diễn đàn các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý tham gia diễn đàn cùng liên kết chặt chẽ và lan toả các ý nghĩa, giá trị của ĐMST, để ĐMST thực sự thấm vào trong từng hoạt động của đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, trở thành nguồn cảm hứng, động lực cho sự phát triển quốc gia.

Đổi mới sáng tạo ngày càng trở nên quan trọng và là tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Hoàng Minh Sơn cho biết: Cùng với sự tiến bộ về nền tảng KHCN&ĐMST của Việt Nam và trước sức ép thay đổi nhanh chóng của thế giới trong Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, hiện đã có sự chuyển biến trong tư duy, hành động từ những nhà hoạch định chính sách tới đội ngũ quản lý giáo dục, giảng viên, nhà khoa học, cộng đồng. Bộ GD&ĐT đang xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá cơ sở giáo dục đại học khởi nghiệp ĐMST bao gồm: cơ chế, chính sách, công tác quản lý, phát triển đội ngũ chuyên trách, thúc đẩy khởi nghiệp, ĐMST gắn với hoạt động khoa học và công nghệ, đào tạo, kết nối các nguồn lực trong và ngoài trường… tạo ra môi trường thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp ĐMST trong giảng viên, sinh viên.

Khẳng định sự quan trọng của KHCN&ĐMST, ông Tạ Đình Thi – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho biết: KHCN&ĐMST được Đảng, Nhà nước ta xác định là động lực, một trong những đột phá chiến lược cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng yêu cầu cần có cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát triển hệ thống ĐMST quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.

Là một chuyên gia có nhiều năm nghiên cứu và thực tiễn về đại học ĐMST, GS.TS Nguyễn Hữu Đức – nguyên Phó Giám đốc ĐHQGHN, Tổ trưởng Tổ tư vấn Ủy ban Quốc gia về GD&ĐT đã đưa ra những nhận định quan trọng trong chiến lược phát triển Đại học ĐMST. Theo ông Đức, hiện nay, ĐMST ngày càng trở nên quan trọng và là tiêu chí đánh giá sự phát triển bền vững của các quốc gia. Đặc biệt, ĐMST đang trở thành yếu tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của các trường đại học trong nước và trên thế giới. Nếu như các trường đại học không có năng lực ĐMST thì giáo dục đại học và khoa học, công nghệ không trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, không có khả năng vốn hóa tri thức và gia tăng giá trị, nền kinh tế không có được chất xúc tác từ đại học và quốc gia không có động lực để phát triển.

Các ý kiến đóng góp của các đại biểu tại Diễn đàn đều được Ban tổ chức tập hợp, soạn thảo thành văn bản đề xuất lên các cơ quan quản lý làm căn cứ tham khảo để đưa ra chiến lược tổng thể và những chính sách phù hợp hỗ trợ cũng như tháo gỡ khó khăn, vướng mắc mà các trường đại học đang gặp phải trên con đường phát triển đại học ĐMST. Nhiều chuyên đề chuyên sâu xoay quanh bài toán ĐMST được các chuyên gia trao đổi và thảo luận để các trường đại học, học viện đưa ra bức tranh tổng thể về ĐMST ở các trường đại học hiện nay, từ đó có những đề xuất, kiến nghị phù hợp, tạo ra nhiều sản phẩm chuyển giao gắn với thị trường, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Thùy Dương