Xã hội hoá các nguồn lực cho khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Lê Xuân Định cho biết, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST, với Chỉ số đổi mới sáng tạo (ĐMST) toàn cầu liên tục tăng. Tuy nhiên, để cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thực sự lan tỏa và tạo ra bước ngoặt, cần có những đột phá mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt trong lĩnh vực KH&CN, với các chính sách và giải pháp đột phá tập trung vào ba lĩnh vực trọng yếu: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật liệu mới.
Trong khuôn khổ tham dự Diễn đàn Kinh tế TP.HCM lần thứ 5 với chủ đề “Chuyển đổi công nghiệp, động lực mới cho phát triển bền vững TP.HCM”, chiều 25/9/2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đối thoại chính sách với các chuyên gia, lãnh đạo các tập đoàn lớn trong nước và quốc tế. Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định tham dự Phiên Đối thoại chính sách và đã chia sẻ thông tin về vấn đề xã hội hoá các nguồn lực cho KH,CN&ĐMST.
Phiên Đối thoại nhằm tạo cơ hội cho các địa phương, doanh nghiệp được trao đổi trực tiếp, sâu rộng với Thủ tướng và các bộ, ngành Trung ương về thực trạng và giải pháp trong việc áp dụng mô hình chuyển đổi công nghiệp tại TP.HCM cũng như vấn đề chiến lược quốc gia; đồng thời kiến nghị những mô hình, giải pháp, chính sách ở tầm vĩ mô. Phiên thảo luận diễn ra sôi nổi, thực chất, dưới hình thức hỏi đáp. Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo các bộ, ngành với các chuyên gia, doanh nghiệp trong và ngoài nước về định hướng chính sách kinh tế của Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực chuyển đổi công nghiệp, phát triển xanh, bền vững; cơ chế đặc thù cho KH&CN, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài; các chính sách, đặc thù và bứt phá khuyến khích, kêu gọi đầu tư trong những lĩnh vực trên…
Toàn cảnh Phiên đối thoại chính sách Diễn đàn Kinh tế TPHCM lần thứ 5.
Thủ tướng nhận định, chủ đề về chuyển đổi công nghiệp là chủ đề rộng, vừa phù hợp tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của TP.HCM, vừa là chủ đề mang tính thời sự của quốc tế. Do đó, Diễn đàn có ý nghĩa với TP.HCM, với Việt Nam và với cả bạn bè, đối tác quốc tế.
Tạo chính sách đột phá cho KH&CN
Tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho biết, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST, với Chỉ số ĐMST toàn cầu liên tục tăng. Tuy nhiên, để cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 thực sự lan tỏa và tạo ra bước ngoặt, cần có những đột phá mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt trong lĩnh vực KH&CN, với các chính sách và giải pháp đột phá tập trung vào ba lĩnh vực trọng yếu: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và vật liệu mới.
Thứ trưởng cho biết, hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo Bộ KH&CN thực hiện thể chế hóa chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST. Mục tiêu là xây dựng dự án Luật sửa đổi Luật KH&CN thành Luật KH,CN&ĐMST nhằm thể chế hóa tất cả các chỉ đạo liên quan đến chuyển đổi công nghiệp hóa cũng như phát triển dựa trên KH,CN&ĐMST thành quy định pháp luật. Theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng, dự án Luật này sẽ mang lại sự thay đổi căn bản trong cách nhìn nhận và đối tượng điều chỉnh.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định: Luật KH,CN&ĐMST sẽ xã hội hóa các nguồn lực cho KH&CN.
“Nếu trước đây, Luật KH&CN chủ yếu tập trung vào việc sử dụng ngân sách nhà nước cho các đơn vị công lập thực hiện dự án và nghiên cứu, thì dự thảo Luật lần này nhấn mạnh xã hội hóa các nguồn lực cho KH&CN. Hoạt động KH,CN&ĐMST sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ tại khu vực ngoài nhà nước, đặc biệt là ở các doanh nghiệp, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển năng lực hấp thụ, sáng tạo công nghệ và ĐMST. Đây là hành lang pháp lý quan trọng, cho phép doanh nghiệp sử dụng nguồn kinh phí của mình để tìm hiểu, mua tri thức và bí quyết công nghệ, từ đó phát triển năng lực nội sinh”. Thứ trưởng Lê Xuân Định chia sẻ.
Hiện nay, doanh nghiệp được trích lập quỹ phát triển KH&CN, nhưng quy định hiện tại chưa đủ mạnh, dẫn đến việc doanh nghiệp chưa hoàn toàn tin tưởng vào việc sử dụng quỹ để đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp. Để tháo rào cản này, Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ KH&CN sửa đổi Nghị định 95 về cơ chế đầu tư tài chính cho KH&CN, nhằm tạo thuận lợi hơn cho lĩnh vực này. Chẳng hạn, quỹ phát triển KH&CN trong doanh nghiệp sẽ được phép sử dụng cho việc chuyển đổi số của doanh nghiệp.
“Dự kiến, vào năm 2025, Bộ KH&CN sẽ trình Quốc hội sửa đổi Luật KH&CN theo hướng xã hội hóa, nhằm đưa doanh nghiệp trở thành nhân tố trung tâm trong quá trình tiếp nhận, làm chủ và sáng tạo công nghệ, từ đó thúc đẩy ĐMST và lan tỏa trong toàn bộ hệ thống chuyển đổi công nghiệp”, Thứ trưởng cho biết thêm.
Gỡ “nút thắt” trong phát triển thị trường KH&CN
Về phát triển thị trưởng KH&CN, Thứ trưởng Lê Xuân Định cho rằng Israel thành công trong lĩnh vực này nhờ việc đưa tất cả các nghiên cứu, dù từ tư nhân hay nhà nước ra thị trường dưới dạng hàng hóa. Tuy nhiên, đây là một nút thắt đối với chúng ta. Việc thương mại hóa kết quả nghiên cứu và chuyển hóa thành sản phẩm hiện đang gặp rào cản từ Luật Quản lý tài sản công.
Lý giải vấn đề này, Thứ trưởng cho rằng, việc sử dụng ngân sách nhà nước cho các nhiệm vụ nghiên cứu khiến tài sản hình thành từ những nhiệm vụ đó được quản lý như tài sản công, tương tự như một công trình xây dựng đã hoàn thành. Điều này không tính đến việc đầu tư của chúng ta đã kết tinh thành tri thức, trong khi việc quản lý, truyền bá và ứng dụng tri thức mới là yếu tố quan trọng nhất. Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Tài chính phối hợp với Bộ KH&CN để sửa đổi Nghị định 70 về quản lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước. Chúng tôi đang nỗ lực để tháo gỡ vấn đề này, Thứ trưởng cho biết.
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng, chỉ với một nghị định thì chưa đủ. Nếu không có sự thay đổi trong khái niệm quản lý tài sản công, các cơ quan và tổ chức nghiên cứu sẽ không thể sử dụng tài sản của mình để góp vốn vào các doanh nghiệp khởi nguồn, cũng như không thể ứng dụng tri thức và bí quyết công nghệ của mình để phát triển sản phẩm phục vụ xã hội.
Bên cạnh đó, còn một rào cản khác đến từ Luật quản lý công chức, viên chức, không cho phép viên chức tham gia lãnh đạo doanh nghiệp hoặc thành lập doanh nghiệp. Điều này cản trở sự chuyển đổi nhân lực có kỹ năng và tri thức giữa các cơ sở nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp.
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, để phát triển KH&CN, trước hết cần chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đào tạo khoa học cơ bản, làm nền tảng cho KH&CN. Do đó, Đảng đã xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu và thúc đẩy đổi mới căn bản, toàn diện trong lĩnh vực này.
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Phát triển giáo dục, đào tạo là nền tảng quan trọng để phát triển KH&CN.
Chính phủ đã thể chế hóa nhận thức này qua các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách và chương trình cụ thể; đồng thời huy động nguồn lực cho phát triển KH&CN, đặc biệt là thị trường KH&CN. Các giải pháp cũng được đưa ra nhằm tạo điều kiện cho cán bộ, khuyến khích những người dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích của đất nước và nhân dân.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang tháo gỡ các vướng mắc về thể chế, cơ chế và chính sách, nhằm xây dựng bộ máy quản lý KH&CN tinh gọn, hoạt động hiệu quả. Các cơ chế, chính sách cần thiết để khuyến khích sự năng động và sáng tạo cũng sẽ được triển khai, với mục tiêu phục vụ lợi ích chung của quốc gia và dân tộc.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo

Ninh Bình: Đẩy mạnh khởi nghiệp đổi mới sáng tạo từ điểm tựa văn hóa và di sản

Ngày 29/9/2024, UBND tỉnh Ninh Bình phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) và các Bộ, ngành trung ương tổ chức Hội thảo khoa học “Khởi tạo và thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hội nhập quốc tế tại Ninh Bình – vấn đề và giải pháp”.
Hội thảo là diễn đàn quan trọng, tạo cơ hội thuận lợi để các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà đầu tư cùng nhau chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức, kết nối, tìm kiếm cơ hội hợp tác, khai thác tối ưu hoá nguồn lực; cùng nhau đưa ra các giải pháp hỗ trợ phát triển các mô hình khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo (ĐMST), góp phần thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo (KNST) xanh tại Ninh Bình, hướng đến xây dựng Ninh Bình trở thành một điểm đến hấp dẫn cho các doanh nghiệp KNST, nhà đầu tư và các đối tác quốc tế, qua đó đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội của thành phố, của vùng và đất nước.
Toàn cảnh Hội thảo.
Đẩy mạnh khởi nghiệp đổi mới sáng tạo từ điểm tựa văn hóa và di sản
Đến thời điểm hiện tại, Ninh Bình là địa phương duy nhất của Việt Nam và Đông Nam Á sở hữu Di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Năm 2024, lần đầu tiên Bộ KH&CN công bố chỉ số ĐMST các tỉnh, thành phố, trong đó Ninh Bình xếp thứ 16/63 toàn quốc. Từ năm 2022, tỉnh Ninh Bình thực hiện tự chủ về ngân sách. Từ một tỉnh thuần nông, đến nay, công nghiệp và dịch vụ đã chiếm tỉ trọng hơn 90% trong cơ cấu kinh tế. Ninh Bình tiếp tục khẳng định là một trung tâm cơ khí ô tô, trung tâm chế biến rau quả, nước giải khát; ngành vật liệu xây dựng của tỉnh được cơ cấu lại theo hướng ứng dụng thành tựu KH&CN để sản xuất vật liệu xanh; tích cực thúc đẩy chuyển đổi năng lượng, thu hút đầu tư các dự án năng lượng xanh, phát triển công nghiệp môi trường.
Tại Ninh Bình bước đầu định hình một số thành tố cấu thành trung tâm ĐMST ngoài trời với tổ hợp các công viên di sản, công viên văn hóa, công viên động vật hoang dã, công viên đất ngập nước, các khu vực dịch vụ kinh tế ban đêm, show diễn thực cảnh… Đã định hình rõ chiến lược thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp – dịch vụ mới nổi dựa vào ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST). Cùng với đó là đẩy mạnh phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, phát thải các-bon thấp, thúc đẩy khởi nghiệp ĐMST những sản phẩm nông nghiệp đa giá trị, tích hợp di sản cảnh quan nông nghiệp vào xây dựng đô thị di sản thiên niên kỷ, thực hiện hòa hợp nông thôn – đô thị.
Phát biểu đề dẫn tại Hội thảo, đồng chí Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định: Quán triệt chủ trương của Đảng về KH,CN&ĐMST, coi đó là một trong những đột phá chiến lược của đất nước trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, tỉnh Ninh Bình từng bước tiến hành cơ cấu lại các ngành kinh tế truyền thống dựa vào ứng dụng thành tựu KH&CN và thúc đẩy ĐMST, đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Cùng với đó là khởi tạo các ngành kinh tế mới nổi dựa trên thúc đẩy khởi nghiệp ĐMST – giải pháp đột phá để xây dựng Ninh Bình trở thành một trung tâm ĐMST của vùng trên cơ sở tận dụng, nắm bắt, thương mại hóa các sáng chế, ý tưởng ĐMST, từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế của địa phương.
Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Quang Ngọc chỉ rõ: Dựa vào tiềm năng, lợi thế sẵn có của một địa phương sở hữu giá trị nổi bật toàn cầu về Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới – Quần thể danh thắng Tràng An, giá trị đặc biệt của Cố đô Hoa Lư với di sản đồ sộ, dày đặc, phong phú, Ninh Bình có điều kiện thuận lợi cho đẩy nhanh xây dựng thành một trung tâm khởi nghiệp ĐMST ngoài trời và từng bước khởi tạo một trung tâm KNST trong nhà.
Tuy vậy, đến nay ngưỡng phát triển của tỉnh Ninh Bình đòi hỏi phải có đột phá về tư duy, tầm nhìn, động lực phát triển dựa trên ứng dụng thành tựu KH&CN và thúc đẩy ĐMST, trọng tâm là thương mại hóa các ý tưởng ĐMST gắn với khởi tạo đồng bộ hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST, lấy xây dựng trung tâm ĐMST trong nhà làm hạt nhân, lấy phát triển trung tâm ĐMST ngoài trời làm động lực.
Đồng chí Phạm Quang Ngọc, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình phát biểu đề dẫn tại Hội thảo.
Đồng chí mong muốn, Hội thảo là thông điệp mạnh mẽ gửi đến các nhà đầu tư về mức độ sẵn sàng của tỉnh Ninh Bình để mời gọi, thu hút các nhà đầu tư chiến lược về phát triển các ngành kinh tế mới nổi dựa trên động lực ĐMST và thương mại hóa các thành tựu KH&CN.
Chung tay khai mở, kiến tạo những tiềm năng khởi nghiệp sáng tạo
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh chia sẻ: Hiện nay, việc xây dựng hệ sinh thái KNST quốc gia hiệu quả, liên kết chặt chẽ giữa các thành phần đang là mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách. Thời gian qua, hệ sinh thái KNST của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, góp phần tạo lập hơn 3.800 doanh nghiệp dựa trên tài sản trí tuệ, đủ năng lực tiếp cận thị trường toàn cầu. Mạng lưới hỗ trợ KNST đang phát triển năng động, hiệu quả với sự tham gia tích cực của các chủ thể trong hệ sinh thái; văn hóa, tinh thần KNST lan tỏa mạnh mẽ, khát vọng vươn lên.
Trung tâm Hỗ trợ KNST quốc gia, Trung tâm ĐMST quốc gia và gần 20 Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp ĐMST của các địa phương; 208 quỹ đầu tư, 84 vườn ươm, 35 tổ chức thúc đẩy kinh doanh đang trở thành các tổ chức dẫn dắt, kết nối nguồn lực. Năm 2024, hệ sinh thái KNST của Việt Nam tăng 2 bậc, vươn lên vị trí thứ 56 trong bảng xếp hạng Chỉ số hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu của Startup Blink.
Thứ trưởng Hoàng Minh thông tin, hiện nay Bộ KH&CN đang xây dựng hồ sơ lập đề nghị xây dựng Luật KH&CN sửa đổi (dự kiến trình Quốc hội vào cuối năm 2025). Trong đó sẽ thống nhất, đồng bộ hóa, luật hoá các vấn đề lớn, có tính cơ bản như chính sách sử dụng nguồn vốn ngân sách để đầu tư cho ĐMST, KNST, mô hình quỹ quốc gia về ĐMST, KNST; chính sách ưu đãi về thuế, sử dụng tài sản công…
Bộ đề nghị Ninh Bình và các địa phương đồng hành, phối hợp xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý về ĐMST, KNST, góp phần tạo ra hệ sinh thái KNST sôi động, bền vững, để KH,CN&ĐMST thực sự là động lực, đột phá chiến lược nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh phát biểu tại Hội thảo.
Thứ trưởng cho biết, Bộ KH&CN trân trọng và ghi nhận các nỗ lực của tỉnh Ninh Bình trong hoạt động hỗ trợ KNST và phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Với sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của lãnh đạo tỉnh, sự cố gắng của các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp KNST, tin tưởng hệ sinh thái KNST của Ninh Bình sẽ tiếp tục phát triển, trở thành trung tâm kết nối doanh nghiệp KNST với các đối tác quốc tế, giúp Ninh Bình khai thác tối đa lợi thế du lịch, công nghiệp văn hóa và kinh tế di sản.
Thứ trưởng mong muốn, qua các hoạt động này, chuỗi hoạt động phát triển hệ sinh thái, liên kết địa phương, vùng sẽ tiếp tục được mở rộng, kết nối giữa các thành phần trong hệ sinh thái ngày càng chặt chẽ hơn nữa. Đồng thời, thông qua diễn đàn này kỳ vọng các chuyên gia, nhà đầu tư, cơ quan quản lý sẽ thực sự chia sẻ, thu được những kiến nghị, nhu cầu, mong muốn thực tiễn từ cộng đồng, từ đó cùng có những giải pháp thiết thực để “khai mở, kiến tạo” những tiềm năng KNST cả nước nói chung, tỉnh Ninh Bình nói riêng.
Thứ trưởng Hoàng Minh cùng các đại biểu chủ trì Hội thảo.
Tại Hội thảo các đại biểu đã trình bày tham luận và trao đổi thảo luận xoay quanh: Kinh nghiệm về phát triển kinh tế sáng tạo, kinh tế số và hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST hội nhập quốc tế; Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức cho tỉnh Ninh Bình đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp ĐMST hội nhập quốc tế tại Ninh Bình; Phân tích nguồn nhân lực của tỉnh Ninh Bình; Giải pháp thúc đẩy kết nối mạng lưới trường đại học, viện nghiên cứu trong nước và quốc tế; Khởi nghiệp ĐMST trong xây dựng mô hình kinh doanh mới hướng vào khách hàng mới, dịch vụ mới, quy trình mới dựa trên khả năng tích hợp đa giá trị và hội nhập quốc tế…; Bàn về đặc điểm, giải pháp khởi nghiệp ĐMST dựa trên lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật công nghiệp, quà tặng du lịch. Khởi nghiệp ĐMST trong lĩnh vực thương mại hóa, doanh nghiệp hóa các ý tưởng, phát minh, sáng chế công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng, vật liệu mới. Một số mô hình kinh doanh mới trong KNST – Những vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp tỉnh Ninh Bình…

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Ứng dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật

Việt Nam kêu gọi các nước lớn chia sẻ khoa học – công nghệ để cùng phát triển

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, kêu gọi các nước lớn hành xử có trách nhiệm, chia sẻ thành tựu nghiên cứu khoa học – công nghệ để cùng phát triển.

“Trong giai đoạn mang tính bước ngoặt này, chúng ta càng cần phải tăng cường đoàn kết, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc (LHQ), giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Các nước lớn cần hành xử có trách nhiệm, chia sẻ thành tựu chung trong nghiên cứu khoa học – công nghệ để cùng phát triển”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu ngày 22/9 tại Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, ở trụ sở LHQ tại New York.

Lãnh đạo Việt Nam nhấn mạnh thành tựu khoa học – công nghệ cần thúc đẩy hợp tác, không trở thành công cụ chống lại các quốc gia, đi ngược lại khát vọng hòa bình, phát triển, công bằng và công lý của các dân tộc. Thành tựu của trí tuệ con người phải tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, nâng cao chất lượng sống người dân, xóa đói giảm nghèo.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhận định khoa học – công nghệ, giữa giai đoạn phát triển như vũ bão, cần đặt mục tiêu phát triển bền vững của thế giới và lợi ích của con người ở vị trí trung tâm và mục tiêu cao nhất.

Việt Nam đề nghị tăng cường đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu y học, giáo dục đào tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và các giải pháp để phục vụ con người, giảm đầu tư nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí hủy diệt, ưu tiên mục tiêu hòa bình, ổn định, phát triển bền vững, bình đẳng.Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai. Ảnh: TTXVN

“Chúng ta đang đứng trước cơ hội lịch sử để đưa thế giới bước vào thời đại mới, kỷ nguyên phát triển mới tốt đẹp hơn, vì sự phát triển tiến bộ, công bằng xã hội, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân khi chúng ta thống nhất nhận thức cùng hành động, cùng nỗ lực và hợp tác chặt chẽ hiệu quả”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Lãnh đạo Việt Nam nhận định LHQ và các tổ chức khu vực như ASEAN cần đi đầu trong sứ mệnh thúc đẩy hợp tác, phối hợp hành động trong ứng phó với các thách thức toàn cầu và tận dụng cơ hội từ tiến bộ khoa học công nghệ. Việt Nam cam kết sẽ đóng góp tích cực, hiệu quả vào các nỗ lực chung nhằm xây dựng thế giới hòa bình, phát triển bình đẳng.

Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai của LHQ diễn ra tại New York ngày 22-23/9, trước khi khai mạc Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng LHQ khóa 79 vào ngày 24/9. Đây là sáng kiến do Tổng thư ký LHQ Antonio Guterres đưa ra nhằm thúc đẩy thảo luận và hợp tác, xây dựng các giải pháp sáng tạo để giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, phát triển khoa học – công nghệ, công bằng, tiến bộ xã hội và tăng cường hiệu quả của quản trị toàn cầuPhiên họp toàn thể đầu tiên của Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai vào ngày 22/9. Ảnh: TTXVN

Phiên họp toàn thể đầu tiên của Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai vào ngày 22/9. Ảnh: TTXVN

Trước đó, trong phiên khai mạc hội nghị, Tổng thư ký LHQ Antonio Guterres nhận định thế giới đang trong giai đoạn chuyển mình và hội nghị lần này là thời khắc quan trọng để đề ra những biện pháp mang tính đột phá cho những vấn đề đang dần vượt ngoài khả năng giải quyết hiện nay như xung đột, tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh.

Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Philemon Yang cũng đánh giá trong thách thức tiềm ẩn nhiều cơ hội để cải tiến, cải tổ và củng cố hợp tác toàn cầu vì lợi ích chung của nhân loại. Ông kêu gọi các quốc gia cùng đoàn kết vì một tương lai thịnh vượng cho tất cả mọi người.

Trong ngày 22/9, Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai đã nhất trí thông qua Văn kiện vì tương lai, Văn kiện số toàn cầu và Tuyên bố về các thế hệ tương lai. Các văn kiện này đề ra những hành động, mục tiêu tham vọng trên tất cả lĩnh vực hợp tác tại LHQ.Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự Hội nghị Thượng đỉnh Tương Lai ngày 22/9. Ảnh: Bộ Ngoại giao

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai ngày 22/9. Ảnh: Bộ Ngoại giao

Một số ưu tiên bao gồm tăng cường đầu tư, huy động nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững, thiết lập các khuôn khổ, nguyên tắc nền tảng để thúc đẩy hợp tác số và đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi và củng cố các thể chế LHQ và các thể chế tài chính quốc tế.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đang trong chuyến công tác dự Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng LHQ và làm việc tại Mỹ. Đây là chuyến công tác tham dự hoạt động đối ngoại đa phương và làm việc tại Mỹ đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trên cương vị mới.

Thanh Danh

Nguồn: vnexpress.net

200 gian hàng trình diễn công nghệ tại Techconnect Vietnam 2024

Sự kiện Kết nối công nghệ và đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2024 (Techconnect and Innovation Vietnam 2024) thu hút 200 gian hàng cùng nhiều hoạt động sẽ diễn ra từ 30/9 – 1/10 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, Hà Nội.

Sự kiện năm nay có chủ đề “Thúc đẩy đổi mới sáng tạo – Động lực cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững” do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng UBND thành phố Hà Nội tổ chức.

Techconnect and Innovation Vietnam 2024 là dịp để các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế trình diễn, giới thiệu các công nghệ mới, công nghệ tiên tiến được ứng dụng, chuyển giao, làm chủ. Đây cũng là diễn đàn để trao đổi thảo luận về việc hoàn thiện, thực thi hiệu quả các giải pháp, chính sách mới trong việc kết nối cung – cầu công nghệ, từ đó thúc đẩy ứng dụng, đổi mới, chuyển giao và ĐMST, phát triển thị trường khoa học và công nghệ.Giải pháp về trung tâm kiểm soát an ninh đường phố và các cơ quan, nhà máy được giới thiệu tại Techconnect 2023. Ảnh: Lưu Quý

Giải pháp về trung tâm kiểm soát an ninh đường phố và các cơ quan, nhà máy được giới thiệu tại Techconnect 2023. Ảnh: Lưu Quý

Techconnect and Innovation Vietnam 2024 được tổ chức với quy mô quốc gia. Sự kiện gồm các hoạt động chính: 5 diễn đàn kết nối công nghệ và đổi mới sáng tạo (Diễn đàn chính sách quản lý công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội; Diễn đàn công nghệ ngành Xây dựng; Diễn đàn công nghệ ngành Y tế; Diễn đàn công nghệ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Diễn đàn Xúc tiến Đầu tư công nghệ cao); Tọa đàm vai trò của đổi mới sáng tạo với doanh nghiệp Thủ đô; Trình diễn, giới thiệu các thành tựu công nghệ năm 2024, kết nối cung – cầu công nghệ; Hội nghị về hoạt động ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đổi mới sáng tạo địa phương năm 2024.

Ban tổ chức cho biết, sự kiện năm nay thu hút 200 gian trình diễn những thành tựu công nghệ mới trong và ngoài nước được ứng dụng vào sản xuất kinh doanh trong nhiều ngành, lĩnh vực.

Techconnect and Innovation Vietnam 2024 kế thừa thành công của các chương trình Techdemo (2011 – 2019) và Techconnect and Innovation Vietnam (2020 – 2024), là chương trình thường niên do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì. Tổ chức từ năm 2011 đến nay, Techconnect and Innovation Vietnam hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia để chuyển đổi, ứng dụng tri thức và công nghệ vào thực tiễn; tạo cầu nối trực tiếp cho bên cung và bên cầu công nghệ trao đổi, thảo luận và tiến tới ký kết các thỏa thuận hợp tác và hợp đồng chuyển giao công nghệ. Sự kiện trở thành diễn đàn để doanh nghiệp, chuyên gia thảo luận, chia sẻ thông tin tới các nhà hoạch định chính sách, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ, thương mại hóa sản phẩm.

Bảo Chi

Việt Nam – Liên bang Nga: Tăng cường hợp tác chiến lược trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Nhận lời mời của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Giáo dục đại học Liên bang Nga, từ ngày 23-28/9/2024, Đoàn Công tác của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Việt Nam do Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt làm Trưởng đoàn đã thăm và làm việc tại Liên bang Nga. Chuyến thăm nhằm tăng cường và làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác chiến lược giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST).

Ngày 24/9/2024, Đoàn công tác của Bộ KH&CN làm việc với Bộ Khoa học và Giáo dục đại học Liên bang Nga nhằm trao đổi, thảo luận và thống nhất các biện pháp triển khai các thỏa thuận đạt được trong Tuyên bố chung về làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện trên cơ sở thành tựu 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam – Nga đã được thông qua nhân chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin vào tháng 6/2024.

Buổi làm việc giữa Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Bộ Khoa học và Giáo dục đại học Liên bang Nga.

Phát biểu chào mừng Đoàn công tác của Bộ KH&CN, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Giáo dục đại học Liên bang Nga V.I. Falkov bày tỏ niềm hân hạnh đón tiếp đoàn và cho biết, chuyến thăm của Đoàn nhân dịp kỷ niệm ngày ký kết Hiệp định đối tác chiến lược về giáo dục, khoa học và công nghệ. Ngài V.I. Falkov khẳng định, mối quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga về KH&CN được nâng lên tầm chiến lược kể từ khi hai nước ký Hiệp định đối tác chiến lược về giáo dục, KH&CN vào năm 2014.

Bộ trưởng V.I. Falkov cho biết, Việt Nam – Liên bang Nga có mối quan hệ hữu nghị truyền thống, cùng với việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga, hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu.

Bộ trưởng V.I. Falkov nhấn mạnh một số dấu mốc quan trọng trong hợp tác giữa hai nước về giáo dục, KH&CN. Cụ thể: Trong bối cảnh kỷ niệm 30 năm thực hiện Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị Việt Nam – Nga, lãnh đạo hai nước đã ký Hiệp định mới về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đại học, nhằm làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước; Tại Kỳ họp lần thứ 25 Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam – Liên bang Nga vào ngày 11/9/2024, hai bên khẳng định tiếp tục củng cố và không ngừng phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Liêng bang Nga, mối quan hệ hữu nghị truyền thống gắn bó giữa hai nước, hai dân tộc. Hai bên cũng thống nhất nhiều biện pháp cụ thể để thúc đẩy hơn nữa hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có KH&CN và giáo dục. Trong khuôn khổ Kỳ họp này, hai bên đã tổ chức Khóa họp lần thứ 5 Ủy ban Hợp tác Nga – Việt trong lĩnh vực giáo dục, KH&CN nhằm tổng kết, đánh giá và rà soát các nội dung hợp tác, xác định phương hướng hợp tác giai đoạn tới…

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Giáo dục đại học Liên bang Nga V.I. Falkov và Bộ trưởng Bộ KH&CN Việt Nam Huỳnh Thành Đạt.

Thay mặt Đoàn công tác của Bộ KH&CN, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt bày tỏ vui mừng và vinh dự được đến thăm và làm việc với Bộ Khoa học và Giáo dục đại học Liên bang Nga và có dịp được trao đổi trực tiếp với ngài V.I. Falkov về những vấn đề cùng quan tâm trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh, cùng với việc phát triển quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga, hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Tháng 11/2014, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về đối tác chiến lược trong lĩnh vực giáo dục, KH&CN, đặt dấu mốc quan trọng trong hợp tác về KH&CN giữa hai nước. Đến nay, hai nước đã có những bước tiến đáng kể trong việc tăng cường và phát triển quan hệ hợp tác cùng có lợi trong giáo dục, đào tạo và KH,CN&ĐMST.

Tại buổi làm việc, hai bên đã rà soát tình hình 10 năm triển khai thực hiện Hiệp định, trao đổi, thảo luận và thống nhất các phương hướng, biện pháp cụ thể nhằm tăng cường và làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác chiến lược giữa Việt Nam và Liên bang Nga trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt (thứ hai từ trái sang) phát biểu tại buổi làm việc.

Bộ trưởng Bộ Khoa học và Giáo dục Đại học Liên bang Nga V.I. Falkov nhấn mạnh, Nga luôn coi trọng hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, KH&CN với Việt Nam. Nhân dịp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, hai bên sẽ xây dựng kế hoạch tổ chức các sự kiện kỷ niệm. Phía Liên bang Nga đã đề xuất và trân trọng mời Bộ KH&CN Việt Nam, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, và Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam cùng tham gia với vai trò đồng tổ chức. Ông bày tỏ hy vọng rằng, trong tương lai, sự hợp tác giữa hai nước sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp.

Nhằm thúc đẩy hơn nữa hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực KH,CN&ĐMST trong thời gian tới, cũng như thực hiện các thỏa thuận đã đạt được trong Tuyên bố chung về việc làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đã đề xuất một số định hướng và nội dung hợp tác quan trọng: định kỳ hằng năm tổ chức các Khóa họp Ủy ban hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga về giáo dục và KH&CN; định kỳ hằng năm tổ chức tuyển chọn các nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu chung; tăng cường hợp tác trong nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong lĩnh vực Khoa học Tự nhiên, Khoa học Xã hội và Nhân văn, đặc biệt là lĩnh vực Khoa học biển và lĩnh vực khoa học cơ bản; tăng cường trao đổi, hợp tác và chuyển giao các công nghệ mới phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong các lĩnh vực thế mạnh của Liên bang Nga như công nghệ vật liệu (vật liệu tiên tiến, bao gồm kim loại, polymer và  vật liệu công nghệ cao), năng lượng mới, năng lượng thân thiện với môi trường và tiết  kiệm tài nguyên, công nghệ thông tin và truyền thông, công nghệ nano, tự động hóa và chế tạo máy, công nghệ trí tuệ nhân tạo; tăng cường trao đổi đoàn tham gia vào các sự kiện về KH,CN&ĐMST lớn được tổ chức ở 02 nước.

Kết thúc buổi làm việc, hai bên cùng thống nhất và bày tỏ tin tưởng rằng mối quan hệ đối tác chiến lược về KH,CN&ĐMST giữa Việt Nam và Liên bang Nga sẽ có những bước phát triển đột phá, góp phần phát triển kinh tế – xã hội ở mỗi nước.

* Hợp tác trong lĩnh vực KH&CN được xem là một trong những trụ cột của mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Ngay từ sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 30/1/1950, hai nước đã dành ưu tiên cho mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật thông qua việc ký Hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết (Liên Xô) vào ngày 07/3/1959. Trong hơn 65 năm qua, hợp tác KH&CN giữa hai nước song hành cùng với sự thành lập và hoạt động của Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước (nay là KH&CN).
* Trong quá trình 65 năm hợp tác chặt chẽ, hai nước đã ký các Hiệp định, thỏa thuận quốc tế về hợp tác trong lĩnh vực KH&CN như: Hiệp định liên Chính phủ về hợp tác KH&CN (1992); Hiệp định Liên Chính phủ về hợp tác trong lĩnh vực sử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình (2002); Hiệp định Liên Chính phủ về hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ vào mục đích hòa bình (2013); Hiệp định liên Chính phủ về hợp tác trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (2008).
* Tháng 11/2014, mối quan hệ hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga về KH&CN được nâng lên tầm chiến lược khi hai nước ký Hiệp định đối tác chiến lược về giáo dục, KH&CN. Triển khai Hiệp định này, Ủy ban hợp tác Việt Nam – Liên bang Nga về giáo dục, KH&CN đã được thành lập với Đồng Chủ tịch Phân ban ở cấp Thứ trưởng.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Hợp tác Quốc tế

Hiện thực hóa tiềm năng hợp tác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử giữa Việt Nam – Liên bang Nga

Sự thành công của Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân (CNST) không những đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hợp tác khoa học và công nghệ (KH&CN) Việt – Nga mà còn nâng cao tiềm lực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam trong giai đoạn tới. Đây cũng là tiền đề để Việt Nam và Liên bang Nga tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác quan trọng hơn trong tương lai, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Chiều ngày 24/9/2024, Đoàn công tác Bộ KH&CN Việt Nam do Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt làm trưởng đoàn đã thăm và làm việc tại Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (ROSATOM), thăm Khu triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân Nga.

Hợp tác toàn diện

Tại buổi làm việc với Tổng Giám đốc ROSATOM Alexey Likhachiov, hai bên đã thảo luận các biện pháp nhằm triển khai có hiệu quả và đúng tiến độ Dự án CNST tại Việt Nam. Đồng thời hai bên cũng xây dựng kế hoạch tổng thể giữa hai nước trong lĩnh vực ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình. Kế hoạch bao gồm việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam, cũng như tập trung vào nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt là ứng dụng trong y tế, nông nghiệp…


Toàn cảnh buổi làm việc giữa Đoàn công tác Bộ KH&CN Việt Nam và Tập đoàn ROSATOM.

Tổng Giám đốc Tập đoàn ROSATOM Alexey Likhachiov chào mừng Đoàn công tác đến thăm và làm việc. Ông cho biết, trong chuyến thăm cấp cao của Tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 6/2024, hai bên đã khẳng định phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình là lĩnh vực hứa hẹn trong mở rộng hợp tác song phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga. Nhân dịp đó, ROSATOM và Bộ KH&CN đã ký bản ghi nhớ về lộ trình thực hiện Dự án CNST tại Việt Nam.

Tổng Giám đốc Alexey Likhachiov khẳng định, ROSATOM rất quan tâm đến hợp tác toàn diện với Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử. Ông cảm ơn phía Việt Nam đã hỗ trợ trong hoạt động hợp tác nghiên cứu và đào tạo phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Nhắc đến Diễn đàn sinh viên quốc tế tốt nghiệp ngành nguyên tử lần thứ nhất được tổ chức tại Liên bang Nga vào năm 2023, ROSATOM bày tỏ mong muốn tổ chức Diễn đàn lần thứ hai vào năm 2025 tại Việt Nam nhân kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và 80 năm ngày thành lập ngành hạt nhân Nga.

Thay mặt Bộ KH&CN, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt gửi lời cảm ơn chân thành tới ngài Alexey Likhachiov, Tổng Giám đốc Tập đoàn ROSATOM đã đón tiếp đoàn công tác của Bộ KH&CN Việt Nam. Bộ trưởng bày tỏ lòng biết ơn tới Tập đoàn ROSATOM, các thế hệ chuyên gia và nhà khoa học của Tập đoàn, cũng như cá nhân Tổng Giám đốc Tập đoàn Alexey Likhachiov đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của ngành năng lượng nguyên tử Việt Nam trong 40 năm qua.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt khẳng định, cuộc gặp là cơ hội quý giá để hai bên điểm lại những công việc đã thực hiện và thảo luận về kế hoạch hợp tác giữa Bộ KH&CN và Tập đoàn ROSATOM trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử thời gian tới nhằm làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác truyền thống giữa hai bên.

Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt (thứ hai từ phải sang) phát biểu tại buổi làm việc với Tổng Giám đốc ROSATOM Alexey Likhachiov.

Về tình hình hợp tác trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử với Liên bang Nga, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt cho biết, tiến độ triển khai Dự án CNST đang được hai bên đặc biệt quan tâm. Bộ KH&CN ghi nhận và đánh giá cao sự nghiêm túc và trách nhiệm của cán bộ Tập đoàn ROSATOM, đặc biệt là Công ty Cổ phần Viện thiết kế chuyên ngành của nhà nước (GSPI) trong việc thực hiện nhiệm vụ và nỗ lực giải quyết những khó khăn ban đầu trong quá trình triển khai. Bộ trưởng cũng đánh giá cao sự hợp tác tích cực giữa ROSATOM và cán bộ Việt Nam trong thực hiện các nhiệm vụ chung.

Nâng cao tiềm lực năng lượng nguyên tử

Sau chuyến thăm của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin và cuộc gặp giữa Tổng Giám đốc Alexey Likhachiov với Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính, Lãnh đạo Việt Nam thể hiện sự quan tâm mãnh mẽ đến việc triển khai Dự án. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Bộ KH&CN nhận được sự quan tâm sát sao từ Đảng và Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện Dự án. Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhấn mạnh rằng, sự thành công của Dự án không chỉ đánh dấu một cột mốc quan trọng trong hợp tác KH&CN Việt – Nga mà còn giúp nâng cao tiềm lực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam trong giai đoạn tới. Đây cũng là tiền đề để hai nước tiếp tục triển khai các hoạt động hợp tác quan trọng hơn trong tương lai, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Tại buổi làm việc, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đề nghị Tổng Giám đốc Alexey Likhachiov xem xét đề xuất xây dựng Lộ trình hợp tác riêng giữa Bộ KH&CN và Tập đoàn ROSATOM giai đoạn 2025 – 2030. Mục tiêu nhằm cụ thể hóa chỉ đạo của Lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Liên bang Nga, đồng thời hiện thực hóa tiềm năng hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Cụ thể: Hai bên cùng nhau triển khai thực hiện thành công Dự án CNST; Bộ KH&CN cùng ROSATOM hợp tác xây dựng Trung tâm Truyền thông năng lượng nguyên tử tại Thành phố Long Khánh (Đồng Nai). Đây là nhiệm vụ quan trọng hiện nay, rất cần thiết để Dự án CNST thành công; hợp tác nghiên cứu về các công nghệ điện hạt nhân tiên tiến phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng và chống biến đổi khí hậu, dự kiến bắt đầu từ năm 2025; hai bên phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo, seminars khoa học, các khoá phổ biến kiến thức về năng lượng nguyên tử và điện hạt nhân cho công chúng, cán bộ quản lý và các đối tượng liên quan; hợp tác đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam, đào tạo cán bộ nghiên cứu cho Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam và ngành năng lượng nguyên tử (phối hợp với việc cử cán bộ nghiên cứu sang làm việc tại Viện Nghiên cứu hạt nhân Dubna (JINR) dự kiến bắt đầu từ 2025, phối hợp tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, chuyên ngành, nâng cao trình độ cho cán bộ nghiên cứu và cán bộ quản lý của Việt Nam).

Tập đoàn ROSATOM và Đoàn công tác Bộ KH&CN tại buổi làm việc.

Ngoài ra, trong Lộ trình hợp tác giữa Bộ KH&CN và Tập đoàn ROSATOM, Bộ trưởng đề nghị đưa vào một số nội dung hợp tác khác như: hợp tác trong việc hoàn thiện và đưa vào vận hành Mạng Quan trắc phóng xạ và cảnh báo sự cố quốc gia của Việt Nam; việc tham gia của Việt Nam vào Liên danh Trung tâm nghiên cứu quốc tế trên cơ sở lò phản ứng nghiên cứu nơtron nhanh đa năng (IRC MBIR); ROSATOM đảm bảo cung cấp nhiên liệu cho Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu Đà Lạt; triển khai Thoả thuận hợp tác, ký kết Hợp đồng trong việc chuyển trả nhiên liệu hạt nhân và một số lĩnh vực khác liên quan đến chiếu xạ, y học hạt nhân…

Tổng Giám đốc Tập đoàn ROSATOM Alexey Likhachiov hoàn toàn nhất trí và ủng hộ các sáng kiến Bộ trưởng đã đề xuất. Theo đó, Bộ KH&CN cùng Tập đoàn ROSATOM sẽ chỉ đạo các đơn vị chức năng nhanh chóng tiến hành đàm phán về dự thảo Lộ trình hợp tác để có thể ký kết trong thời gian tới.

Nhân dịp này, Tập đoàn ROSATOM đã trao huy chương “Vì sự nghiệp nguyên tử” cho ông Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.


Tổng Giám đốc Tập đoàn ROSATOM Alexey Likhachiov trao tặng huy chương “Vì sự nghiệp nguyên tử” cho ông Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.

Chiều cùng ngày, Đoàn công tác đã đến thăm Khu triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân Nga, với tổng diện tích lên tới 240 héc ta, với nhiều công trình kiến trúc hiện đại, được bao bọc bởi 3 công viên, vườn thực vật.


Đoàn công tác thăm Khu triển lãm thành tựu kinh tế quốc dân Nga.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Hợp tác Quốc tế

Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050

Ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu đang có những thay đổi và điều chỉnh lớn, xuất hiện những xu thế mới tạo cơ hội thúc đẩy khả năng tự chủ và phát triển năng lực sản xuất bán dẫn quốc gia. Từ thực tiễn này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050 (Quyết định số 1018/QĐ-TTg ngày 21/09/2024) với mong muốn phát huy lợi thế tiềm năng để Việt Nam có thể tham gia vào các công đoạn trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu, tiến tới phát triển hệ sinh thái bán dẫn trong nước hoàn chỉnh.

Ngành công nghiệp bán dẫn, với vai trò then chốt trong nền kinh tế số, đang ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0. Sản phẩm bán dẫn đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế và xã hội.

Trước đây, chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu đã phát triển theo hướng chuyên môn hóa cao, tập trung tại một số ít các quốc gia, khu vực và vùng lãnh thổ; không có quốc gia nào có khả năng tự chủ hoàn toàn trong lĩnh vực bán dẫn. trong những năm gần đây, các quốc gia lớn đã có sự cạnh tranh gay gắt dẫn đến việc phải điều chỉnh chiến lược bán dẫn theo hướng nâng cao năng lực trong nước và đẩy mạnh đa dạng hóa chuỗi cung ứng.

Theo nhận định của Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam, nước ta có lợi thế nằm ở trung tâm của khu vực đang chiếm tới 70% sản lượng sản xuất của ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu; nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển nhanh nhất và có quan hệ đối tác chiến lược với nhiều cường quốc bán dẫn; có tiềm năng về trữ lượng đất hiếm (ước đạt khoảng 20 triệu tấn). đồng thời, Việt Nam là 1/16 quốc gia đông dân nhất trên thế giới, có tỷ lệ dân số trẻ, có lợi thế nhân lực có năng lực về STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học), có khả năng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu nhân lực để phát triển ngành công nghiệp bán dẫn… Đây là những lợi thế để Việt Nam có thể tham gia vào các công đoạn trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu, tiến tới phát triển hệ sinh thái bán dẫn trong nước.

Theo Quyết định số 1018/QĐ-TTg, Chiến lược đề ra con đường phát triển ngành công nghiệp bán dẫn ở Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn 2050 theo công thức: C = SET + 1. Trong đó, C: Chip (chip bán dẫn), S: Specialized (chuyên dụng, chip chuyên dụng), E: Electronics (điện tử, công nghiệp điện tử); T: Talent (nhân tài, nhân lực); +1: Việt Nam (Việt Nam là điểm đến mới an toàn của chuỗi cung ứng toàn cầu về công nghiệp bán dẫn).

Từ nay đến năm 2050, Việt Nam sẽ triển khai công thức nêu trên để thực hiện Chiến lược với quan điểm phát triển: đi từ nhân lực tới nghiên cứu, thiết kế, đóng gói, kiểm thử đến sản xuất; thúc đẩy hợp tác mang tính chiến lược với một số quốc gia, khu vực, vùng lãnh thổ, đối tác quan trọng trong hệ sinh thái bán dẫn toàn cầu; kết hợp vai trò của Nhà nước trong định hướng dài hạn và sự linh hoạt của thị trường trong ngắn hạn.

Theo đó, Việt Nam định hướng phát triển công nghiệp bán dẫn đến năm 2050 theo lộ trình 3 giai đoạn:

Giai đoạn 1 (2024-2030): Tận dụng lợi thế địa chính trị, nhân lực về công nghiệp bán dẫn, thu hút FDI có chọn lọc, phát triển trở thành một trong các trung tâm về nhân lực bán dẫn toàn cầu, hình thành năng lực cơ bản trong tất cả các công đoạn từ nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, đóng gói và kiểm thử của công nghiệp bán dẫn.

Giai đoạn 2 (2030-2040): Trở thành một trong các trung tâm về công nghiệp bán dẫn, điện tử toàn cầu; phát triển công nghiệp bán dẫn, điện tử kết hợp giữa tự cường và FDI.

Giai đoạn 3 (2040-2050): Trở thành quốc gia thuộc nhóm các quốc gia đi đầu trên thế giới về công nghiệp bán dẫn, điện tử; làm chủ nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử.

Mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn được Chiến lược đặt ra như sau:

Giai đoạn 1: Hình thành ít nhất 100 doanh nghiệp thiết kế, 1 nhà máy chế tạo chip bán dẫn quy mô nhỏ và 10 nhà máy đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn; phát triển một số sản phẩm bán dẫn chuyên dụng trong một số ngành lĩnh vực; quy mô doanh thu công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đạt trên 25 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt 10-15%; quy mô doanh thu công nghiệp điện tử tại Việt Nam đạt trên 225 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt 10-15%; quy mô nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đạt trên 50.000 kỹ sư, cử nhân có cơ cấu, số lượng phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển.

Giai đoạn 2: Phát triển công nghiệp bán dẫn kết hợp giữa tự cường và FDI, hình thành ít nhất 200 doanh nghiệp thiết kế, 2 nhà máy chế tạo chip bán dẫn, 15 nhà máy đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn, từng bước tự chủ về công nghệ thiết kế, sản xuất sản phẩm bán dẫn chuyên dụng; quy mô doanh thu công nghiệp bán của Việt Nam đạt trên 50 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt 15-20%; quy mô doanh thu công nghiệp điện tử tại Việt Nam đạt trên 485 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt 15-20%; quy mô nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đạt trên 100.000 kỹ sư, cử nhân có cơ cấu, số lượng phù hợp, đáp ứng nhu cầu phát triển.

Giai đoạn 3: Hình thành ít nhất 300 doanh nghiệp thiết kế, 3 nhà máy chế tạo chip bán dẫn, 20 nhà máy đóng gói, kiểm thử sản phẩm bán dẫn, làm chủ nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực bán dẫn; quy mô doanh thu công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đạt trên 100 tỷ USD/năm; giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt 20-25%; quy mô doanh thu công nghiệp điện tử tại Việt Nam đạt trên 1.045 tỷ USD/năm, giá trị gia tăng tại Việt Nam đạt 20-25%…

Để thực hiện được các mục tiêu nêu trên, theo Chiến lược cần thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp sau:

Một là, phát triển chip chuyên dụng: Theo đó, cần tập trung nghiên cứu và phát triển công nghệ lõi, sản phẩm chip chuyên dụng đột phá thế hệ mới thông qua đầu tư vào các trung tâm nghiên cứu công nghệ lõi về bán dẫn, tập trung vào các lĩnh vực như chip AI, chip IoT; phát triển hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn trong nước, kết nối với hệ sinh thái công nghiệp bán dẫn của các đối tác chiến lược; xây dựng nền tảng, công cụ dùng chung phục vụ khởi nghiệp sáng tạo, đào tạo chuyên gia, thiết kế, phát triển chip bán dẫn…

Hai là, phát triển công nghiệp điện tử: Tập trung bố trí nguồn nhân lực cho nghiên cứu, phát triển thiết bị điện tử với trọng tâm là các thiết bị điện tử thế hệ mới tích hợp các chip chuyên dụng, chip AI; có chính sách ưu tiên sử dụng ngân sách nhà nước để mua sắm thiết bị điện tử trong nước nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường công nghiệp điện tử; hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp sáng tạo trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử; hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghệp bán dẫn, điện tử Việt Nam tham gia Chương trình phát triển thương hiệu quốc gia, hướng đến thị trường trong nước, khu vực và quốc tế; xúc tiến thương mại, đầu tư công nghiệp bán dẫn, điện tử tại các thị trường trọng điểm; lựa chọn một số sản phẩm bán dẫn, điện tử vào Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia; có cơ chế ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ số mở rộng sang đầu tư, sản xuất thiết bị điện tử thế hệ mới…

Ba là, phát triển nguồn nhân lực và thu hút nhân tài trong lĩnh vực bán dẫn: Theo đó, cần xây dựng và tổ chức triển khai Đề án phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; hỗ trợ kinh phí cho hoạt động đào tạo, xây dựng giáo trình và nghiên cứu cấp đại học và sau đại học; đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại cho các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu; phát triển các trung tâm dữ liệu, các hệ thống siêu máy tính phục vụ hoạt động nghiên cứu, đào tạo, phát triển trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử và các công nghệ số mới như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây; kết nối chuyên gia đầu ngành trong nước và quốc tế, đặc biệt là các chuyên gia Việt Nam đang làm việc tại nước ngoài để hình thành Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn; thúc đẩy ký kết các cam kết về nhu cầu nhân lực giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp bán dẫn, điện tử trong và ngoài nước, để tạo đầu ra đảm bảo cho đào tạo thành công. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để thu hút và nuôi dưỡng nhân tài, các chuyên gia cao cấp hàng đầu thế giới trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử trong và ngoài nước.

Bốn là, thu hút đầu tư trong lĩnh vực bán dẫn: Theo đó, cần xây dựng cơ chế ưu đãi cao nhất để thu hút có chọn lọc dự án đầu tư nước ngoài có hàm lượng công nghệ cao trong công nghiệp bán dẫn, điện tử từ nguồn ngân sách Trung ương và địa phương; nghiên cứu thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư để giảm thiểu ảnh hưởng của thuế thu nhập tối thiểu toàn cầu; thiết lập cơ chế làn xanh và các cơ chế khác để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hóa, nguyên liệu, vật tư, linh kiện liên quan đến công nghiệp bán dẫn, thiết bị điện tử dân dụng, chuyên dụng thế hệ mới. Bên cạnh đó, cần đầu tư phát triển hạ tầng số, hạ tầng điện, hạ tầng cấp thoát nước; ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo, năng lượng xanh phục vụ cho công nghiệp bán dẫn, điện tử.

Ngoài các nhiệm vụ và giải pháp nêu trên, trong thời gian tới cần xây dựng/áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm bán dẫn, điện tử; hình thành, công nhận hệ thống các tổ chức đánh giá chất lượng, trung tâm kiểm nghiệm, kiểm định sản phẩm, dịch vụ bán dẫn, điện tử; nâng cao vai trò của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong thúc đẩy hợp tác quốc tế về công nghiệp bán dẫn, điện tử.

CT

Việt Nam tham dự Hội nghị cấp cao lần thứ 3 Vành đai và Con đường về Sở hữu trí tuệ và các sự kiện liên quan

Với chủ đề “Cởi mở, hợp tác, phát triển và cùng có lợi”, hội nghị cấp cao lần thứ 3 Vành đai và Con đường về Sở hữu trí tuệ (BRIPCON) và các sự kiện liên quan vừa diễn ra ra tại Bắc Kinh (Trung Quốc). Hội nghị đã quy tụ khoảng 450 đại biểu, bao gồm các đại diện các cơ quan sở hữu trí tuệ đến từ 54 quốc gia, chuyên gia trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ và đại diện của các tổ chức quốc tế có liên quan. Cục Sở hữu trí tuệ đại diện Việt Nam tham dự Hội nghị.

Các đại biểu tham dự hội nghị cấp cao lần thứ 3 Vành đai và Con đường về Sở hữu trí tuệ.

Hội nghị BRIPCON nhấn mạnh tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ như sáng chế, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý và bản quyền trong việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Nội dung chính của Hội nghị BRIPCON lần này tập trung vào các vấn đề: (i) Thúc đẩy phát triển chất lượng cao và thúc đẩy hợp tác cùng có lợi trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; (ii) Tăng cường hợp tác khu vực và tạo sự đồng thuận về sở hữu trí tuệ; (iii) Vai trò của sở hữu trí tuệ đối với việc thúc đẩy phát triển xanh và bền vững; (iv) Vai trò của sở hữu trí tuệ đối với quá trình chuyển đổi số và thu hẹp khoảng cách số; (v) Vai trò của sở hữu trí tuệ trong nâng cao giá trị sản phẩm và đẩy mạnh đổi mới và sáng tạo thông qua các phương thức tài trợ thương mại hóa; (vi) Phiên họp bàn tròn đặc biệt dành cho các cơ quan sở hữu trí tuệ của các quốc gia, đại diện của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới và khu vực…

Tại phiên họp bàn tròn về sở hữu trí tuệ “Vành đai và Con đường”, Trung Quốc đã thảo luận về định hướng hợp tác với các cơ quan SHTT và các tổ chức quốc tế, khu vực, quốc gia, đồng thời trao đổi quan điểm về 6 chủ đề và gần 20 dự án nhằm làm sâu sắc hơn hợp tác sở hữu trí tuệ “Vành đai và Con đường”.

L.H

Đoàn khối nhà 70 Trần Hưng Đạo hưởng ứng ngày Chủ nhật xanh lần thứ III năm 2024

Đoàn khối nhà 70 Trần Hưng Đạo hưởng ứng ngày Chủ nhật xanh lần thứ III năm 2024

Thực hiện công văn của Đoàn thanh niên Bộ Khoa học và Công nghệ, Ban chấp hành Chi đoàn Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã khẩn trương lên kế hoạch thực hiện. Theo đó, BCH Chi đoàn Nhà xuất bản đã thống nhất phối hợp với chi đoàn Văn phòng công nhận chất lượng và Chi đoàn Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng tổ chức lễ ra quân hưởng ứng Ngày chủ nhật xanh lần thứ III năm 2024.

Thanh niên đoàn viên khối nhà 70 Trần Hưng Đạo ra quân hưởng ứng phong trào “Ngày chủ nhật xanh lần thứ III năm 2024”. Ảnh Quốc Khánh.

Chi đoàn đã triển khai nhiều biện pháp tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ công nhân viên chức trong việc chấp hành các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, làm vệ sinh sạch đẹp trụ sở nơi làm việc; đồng thời phát động lễ ra quân dọn dẹp vệ sinh môi trường trong toàn thể đoàn viên của Chi đoàn Nhà xuất bản tuân thủ thực hiện “5K” theo quy định, nhằm đảm bảo mỹ quan môi trường theo tiêu chí “xanh – sạch – sáng”.

Nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi được triển khai vào chiều ngày 20/9 như: Đoàn viên thực hiện dọn dẹp, vệ sinh cảnh quan môi trường tại trụ sở cơ quan, nơi làm việc; sắp xếp phòng làm việc; cắt tỉa và chăm sóc cây xanh trong khuôn viên cơ quan, đơn vị; In decal dán tại các vị trí thu gom rác tại cơ quan nhằm tuyên truyền phân loại rác thải; lập điểm thu gom pin đã qua sử dụng tại vị trí hành lang trước cửa Văn phòng.

                      Cán bộ công nhân viên chức và Đoàn viên thanh niên Chi đoàn Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng hưởng ứng thực hiện dọn dẹp, vệ sinh cảnh quan môi trường tại trụ sở cơ quan, nơi làm việc từ chiều ngày 20/9. Ảnh Thùy Dương.

            Bên cạnh đó, Chi đoàn NXB đã phối hợp với Chi đoàn Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng và Chi đoàn Văn phòng công nhận chất lượng tổ chức lễ ra quân hưởng ứng Ngày chủ nhật xanh vào sáng ngày 21/09. Hoạt động của lễ ra quân gồm:

+ Quét, lau dọn và thu gom rác thải tại trụ sở tòa nhà 70 Trần Hưng Đạo;

+ Dán decal, poster hướng dẫn phân loại và thu gom xử lý rác đúng quy định tại các vị trí thu gom rác trong tòa nhà.

+ Lập điểm thu gom pin đã qua sử dụng tại sảnh tòa nhà 70 Trần Hưng Đạo;

+ Tổ chức ra quân dọn dẹp vệ sinh môi trường tại các khu vực công cộng, tuyến đường xung quanh trụ sở cơ quan: Trần Hưng Đạo, Quang Trung,… nhằm lan tỏa hành động có ý nghĩa tích cực trong việc hình thành nếp sống văn minh tại cơ quan đơn vị, giữ gìn vệ sinh môi trường xanh – sạch – đẹp.

Một số hình ảnh hoạt động hưởng ứng “Chủ nhật xanh lần thứ III năm 2024”:

Quốc Khánh

56 tác giả được chọn ‘nhà khoa học của nhà nông’ năm 2024

Người được lựa chọn danh hiệu “Nhà khoa học của nhà nông” có các nghiên cứu, sáng kiến cải tiến quy trình kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi, hiệu quả cho cộng đồng.

Hội đồng giải thưởng “Nhà khoa học của nhà nông” lần thứ V công bố danh sách 56 cá nhân được vinh danh trong năm 2024. Đây là những nhà khoa học, trí thức, các nhà sáng chế và người nông dân có sáng kiến, giải pháp, quy trình kỹ thuật công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tiêu chí xét chọn dựa trên đóng góp công trình nghiên cứu, giải pháp sáng tạo, sản phẩm công nghệ được ứng dụng rộng rãi, mang lại hiệu quả kinh tế cao, giá trị cộng đồng.

Trong số 56 nhà khoa học của nhà nông năm nay, người cao tuổi nhất là GS.TS Nguyễn Thơ, 88 tuổi, Phó Chủ tịch Hội khoa học kỹ thuật bảo vệ thực vật Việt Nam và trẻ tuổi nhất là kỹ sư Lương Văn Trường, 35 tuổi, Giám đốc HTX Thanh Niên Nam Đại Dương, Nam Định.

Giải pháp của kỹ sư Trường là cung cấp hạt giống nảy mầm sẵn giúp bà con nông dân dễ dàng sử dụng hạt giống, không lo bị gãy mầm hay thối hỏng như cách ngâm ủ hạt truyền thống. Giải pháp của kỹ sư Trường từng nhận giải Ba cuộc thi Sáng kiến Khoa học 2023 do VnExpress tổ chức.Kỹ sư Lương Văn Trường (ngoài cùng bên phải) trao đổi với người nông dân về giống lúa. Ảnh:NVCC

Kỹ sư Lương Văn Trường (ngoài cùng bên phải) trao đổi với người nông dân về giống lúa. Ảnh:NVCC

Trong danh sách được giải năm nay có 37 người có học hàm, học vị là các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ. Trong số này có GS.TS Hoàng Thị Thái Hòa, 51 tuổi, Trưởng khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế với những đóng góp xuất sắc trong lĩnh vực nông nghiệp. 28 năm qua, GS Thái Hòa theo đuổi hướng nghiên cứu chính là đất và dinh dưỡng cây trồng bền vững. Nữ giáo sư tập trung nghiên cứu độ phì đất, xây dựng quy trình sản xuất các loại phân hữu cơ, sử dụng phân bón cho cây trồng. Nghiên cứu mở ra hướng mới trong ứng dụng biện pháp phi hóa học nhằm giảm sử dụng phân bón hóa học, giải quyết vấn đề an toàn nông sản, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong sản xuất cây trồng.

GS Hòa công bố 148 bài báo, công trình khoa học trên các tạp chí uy tín trong nước và quốc tế, trong đó 19 bài thuộc tạp chí ISI/Scopus. Chị chủ trì nhiều công trình, đề tài có tính ứng dụng cao. Trong đó có 6 hợp đồng tư vấn và chuyển giao khoa học công nghệ, sở hữu 2 bằng độc quyền giải pháp hữu ích về quy trình sản xuất phân hữu cơ từ chất thải chăn nuôi sau ủ biogas và quy trình sản xuất phân bón lá sinh học từ thực vật thủy sinh.

Hay TS Trần Đức Tường, 53 tuổi, Trường Đại học Đồng Tháp, sở hữu 21 công trình khoa học, chủ nhiệm và tham gia gần 20 đề tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp tỉnh và cấp cơ sở, xuất bản 5 giáo trình và bài giảng. Một trong những nghiên cứu của TS Tường là nghiên cứu trồng nấm vân chi đỏ bằng lõi ngô và vỏ trấu, thay vì mùn cưa cao su, cho năng suất cao hơn và hoạt chất sinh học tốt hơn. Hiện quy trình công nghệ đã được ứng dụng tại Trung tâm Ứng dụng Nông nghiệp Công nghệ cao tỉnh Đồng Tháp và một số cơ sở sản xuất kinh doanh tại nhà, đồng thời sẵn sàng chuyển giao công nghệ cho nông dân, doanh nghiệp nhằm thương mại hóa sản phẩm.

Trong số các nông dân sáng tạo có ông Võ Văn Út, 63 tuổi, Long An với giải pháp máy gieo hạt bắp có thể gieo được 1 ha trong hai giờ, tiết kiệm chi phí khoảng 20 công lao động so với cách gieo truyền thống. Hay dụng cụ gieo mè sau khi cải tiến giúp tiết kiệm chi phí công lao động hơn 2 triệu đồng/ha; máy nhổ đậu phộng giúp thu hoạch ruộng đậu nhanh trong ngày, trong 3 giờ máy nhổ được 1 ha đậu, tương đương với 30 công lao động thủ công.

Từ khối doanh nghiệp, hợp tác xã, tác giả Ngô Chí Thắng, TP HCM với các giải pháp như thiết bị sản xuất phân compost, hệ thống phân phối sản phẩm phân compost. Các giải pháp tận dụng nguyên liệu sẵn có rác thải hữu cơ; cải thiện chất lượng đất và nông sản do phân compost giúp cải thiện độ phì nhiêu của đất; giảm chi phí xử lý rác thải.

Lễ tôn vinh “Nhà khoa học của nhà nông” lần thứ 5 sẽ diễn ra sáng 3/10 tại Hà Nội. Chương trình do Trung ương Hội Nông dân Việt Nam chủ trì phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, thực hiện. Kể từ lần đầu tổ chức năm 2018, đến nay đã có 301 cá nhân được vinh danh.

Như Quỳnh