Vệ tinh MicroDragon của Việt Nam sẽ được phóng lên quỹ đạo vào năm 2018 bằng tên lửa Epsilon của Nhật Bản

Thông qua chương trình hỗ trợ phát triển vệ tinh quan sát trái đất cho mục đích đào tạo tại các nước đang phát triển của Cơ quan hàng không vũ trụ Nhật Bản (JAXA), dự kiến vào năm 2018, tên lửa Epsilon (Nhật Bản) do công ty IHI Aerospace chế tạo sẽ mang theo vệ tinh MicroDragon của Việt Nam lên quỹ đạo.
 
Từ tháng 9/2013, tiếp nối thành công của vệ tinh PicoDragon, Trung tâm Vệ tinh Quốc Gia (TTVTQG) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã cử 3 khóa với tổng cộng 36 kỹ sư đến 5 trường Đại học hàng đầu Nhật Bản  tham gia khóa học thạc sỹ công nghệ vệ tinh, đồng thời, trực tiếp thiết kế, chế tạo, thử nghiệm vệ tinh MicroDragon dưới sự hướng dẫn trực tiếp của các giáo sư Nhật Bản. Thông qua dự án MicroDragon các cán bộ trẻ của TTVTQG có điều kiện rèn luyện kỹ năng sáng tạo độc lập cũng như khả năng làm việc kỷ luật giữa các nhóm có chức năng nhiệm vụ khác nhau. 
 
 
 
Học viên TTVTQG thử nghiệm vệ tinh MicroDragon tại Học viện kỹ thuật Kyushu (Nguồn VNSC)
Cùng với sự quyết tâm của tập thể ban lãnh đạo, sự nỗ lực không ngừng các cán bộ TTVTQG đã hoàn thành giai đoạn thiết kế và chế tạo ban đầu:
 
Nghiên cứu và xác định nhiệm vụ của vệ tinh, đưa ra yêu cầu thiết kế và lựa chọn được những thiết bị nhiệm vụ phù hợp;
Xây dựng kịch bản hoạt động dự kiến của vệ tinh, phục vụ cho việc tính toán thiết kế và vận hành vệ tinh sau khi phóng;
Lựa chọn các thiết bị trong khối bus, đưa ra thiết kế sơ bộ tổng thể hệ thống vệ tinh;
 
Thực hiện các thử nghiệm rung động và nhiệt đầu tiên để đảm bảo vệ tinh sẽ không bị hư hại dưới rung động mạnh của tên lửa khi phóng cũng như hoạt động tốt trong môi trường vũ trụ khắc nghiệt
 
Với dự án mang tính đột phá này, các kỹ sư Việt Nam không chỉ có cơ hội tiếp thu kiến thức cơ bản về công nghệ vệ tinh mà còn được trực tiếp tham gia thực hành chế tạo vệ tinh MicroDragon.
 
Dự kiến tháng 9/2016 vệ tinh MicroDragon sẽ chính thức được chế tạo, tích hợp và đến tháng 9/2017 sẽ hoàn thành để sẵn sàng phóng lên quỹ đạo.
 
 
Cùng với sự trợ giúp của JAXA, vệ tinh MicroDragon sẽ sớm được đưa vào hoạt động như dự kiến và lộ trình làm chủ công nghệ vệ tinh của Việt Nam được hiện thực hóa một cách rõ nét.
 
Vệ tinh MicroDragon có kích thước 50 x 50 x 50 cm, khối lượng khoảng 50 kg đang được các cán bộ trẻ của TTTVTQG phát triển dưới sự trợ giúp của các giáo sư Nhật Bản bằng nguồn kinh phí của dự án Trung tâm Vũ trụ Việt Nam. Nhiệm vụ cụ thể của vệ tinh MicroDragon là: 
–    Quan sát vùng biển ven bờ nhằm đánh giá chất lượng nước, định vị nguồn thủy sản, theo dõi sự thay đổi các hiện tượng xảy ra ở vùng biển ven bờ để phục vụ cho ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam.
–    Phát hiện độ bao phủ của mây, tính chất của sol khí để phục vụ cho việc hiệu chỉnh khí quyển
–    Thu các tín hiệu cảm biến trên mặt đất sau đó chuyển các dữ liệu này một cách nhanh chóng tới các địa điểm cách xa nhau trên Trái Đất.
–    Thử nghiệm công nghệ vật liệu mới (Atomic oxygen, Antimony Tin Oxide Coating Solar cell)
Theo JAXA và VNSC
 
Thùy Linh, Trung tâm Vệ tinh quốc gia
 

Internet và các vấn đề về ngôn ngữ và tư duy

Internet là nơi các giá trị ảo được tạo ra bằng niềm vui
 
– Chúng ta nói về tít của bài báo này trước chị nhé. Bạn tôi có hỏi là làm thế nào để thuyết phục được chị nói một câu cực đoan như thế.
 
– Cái tít này rất giật gân, gây sốc. Nhưng bây giờ nếu không có tít giật gân thì người đọc lơ luôn. Ngày xưa, trước khi Internet ra đời, báo chí không bị như thế. Đây chính là một ví dụ cho thấy Internet là kẻ thù của tư duy, rõ nét nhất trong việc giật tít. Có thể trong cả bài phỏng vấn này các bạn sẽ thấy tôi chẳng hề coi Internet là kẻ thù chút nào.
 
Không biết có bao nhiêu bài báo có cái tít chả liên quan gì đến nội dung, những cái tít loằng ngoằng tỏ ra nguy hiểm? Dần dần điều này hình thành nên thói quen lối tư duy vội vã, bị thu hút bởi vỏ bọc hơn là thực chất.
 
– Tức là người ta đang bị những thứ giật gân, gây sốc lôi đi?
 
– Số đông luôn luôn bị “lôi đi” theo một cách nào đó. Nếu ở thời trước người ta bị “lôi đi” bởi những lời hứa hẹn lý tưởng, những giấc mơ về cuộc sống thiên đường, đến thời đại Internet, việc tương tác liên tục khiến tư duy con người bị phân mảnh, thông tin bị nhiễu loạn kinh khủng, một ngày không biết có bao nhiêu tin tức, nên người ta cần một cái gì đấy đập thẳng vào mặt, thật sốc, thật scandal.
 
Trong phim “The Artist” (Người nghệ sĩ), nhân vật có nói một câu: “Muốn cho người khác nghe thấy tiếng nói của bạn thì hãy hét thật to”, nếu không to mồm, không gây sốc, không nói những thứ đao to búa lớn thì chẳng ai để ý đến tiếng nói của bạn. Dù bạn có nói hay đến đâu chăng nữa, thông điệp của bạn cũng sẽ bị chìm nghỉm giữa một bể thông tin.
 
Có hai cách để một thông tin được lan truyền mạnh mẽ trong thế giới Internet, một là phải được lặp đi lặp lại nhiều lần, hai là phải thực sự gây một ấn tượng mạnh. Hãy tưởng tượng một cái chợ mà ai cũng cố rao thật to, một ban nhạc mà nhạc công lúc nào cũng sợ tiếng nhạc của mình bị bạn diễn lấn mất, đầu óc chúng ta sẽ bị bùng nổ bởi sự ồn ào của nó, tới mức chúng ta chỉ biết thụ động tiếp nhận thông tin mà không còn sự chủ động tư duy nữa.
 
– Hoặc là thông điệp chưa đủ hay đến mức mọi người phải lắng nghe?
 
– Cái hay, dù gì đi nữa, cũng phải nằm trong một hệ thống, nhưng sự ra đời của Internet đã phá vỡ cái tính hệ thống trong tư duy con người. Lối viết theo kiểu tư duy liền mạch ngày xưa cần phải có trình tự, có A rồi mới có B, có C. Có thể ý C hay nhất nhưng lại nằm ở giữa bài, để đi đến đó cần một trình tự, cần một logic.
 
Internet chỉ quan tâm đến những gì hay ho nhất, đặc sắc nhất, nổi loạn nhất. Internet đã đẩy những cái nổi loạn ấy lên trên, và thực ra nó cắt bớt phần hệ thống đi. Nó chỉ tập trung vào mỗi cái giật gân, và gây ra hệ quả là con người chộp giật nhiều hơn, ăn nhanh nhiều hơn. Bây giờ thực ra không phải là thời đại Internet, mà là thời đại mọi thứ đều ăn liền.
 
Một người bạn làm admin cùng tôi tại Book Hunter Club, dân công nghệ thông tin, có đưa ra nhận xét:“Chúng ta mới ở giai đoạn đầu săn bắt, hái lượm thông tin trên Internet.” Tôi rất thích thú với ý kiến này. Không chỉ Việt Nam mà ngay cả thế giới, tất cả đều đang ở trong buổi sơ khai của nền văn minh mới, có cái tên gọi là Kỷ nguyên Thông tin. Bởi thế, sự nhiễu loạn là không thể tránh khỏi, cái cảnh “hoa sen xuống dưới, bèo trèo lên trên” là chuyện có thể hiểu được. Tuy nhiên, thời gian là thước đo giá trị chuẩn mực nhất. Đời sống của bèo thì rõ ràng là ngắn hơn so với hoa sen.
 
 
– Hoặc có thể nhìn theo hướng: vì con người như thế, nên Internet như thế, chứ không hẳn con người đã là nạn nhân?
 
– Con người có hai phần, phần Con và phần Người. Phần Con luôn có xu hướng bầy đàn, cần tính tập thể, cần sự dẫn hướng, nếu không nô lệ ông chủ thì cũng nô lệ con đầu đàn, cái phần Con đó luôn có nhu cầu bị lôi kéo. Những người tạo ra hệ thống truyền thông nắm bắt được tâm lý ấy của con người và luôn đưa ra những cái tiện dụng hơn, nhanh hơn, hấp dẫn hơn, nói ngắn gọn là trình độ lừa mị cao.
 
Đây là truyền thống lâu đời từ nhiều thiên niên kỷ rồi, nhưng giờ đây với Internet, quá trình này được đẩy nhanh hơn, mạnh hơn. Có một câu nói của Aaron Swartz, anh chàng sinh năm 1986 (bằng tuổi tôi), một anh hùng chiến đấu cho quyền tự do thông tin tại Hoa Kỳ, thể hiện rõ nhất điều tôi muốn nói: “Thông tin là quyền lực, và giống như mọi dạng quyền lực khác, nhiều người muốn giữ nó cho riêng minh”. Chừng nào con người còn thích lệ thuộc, chừng ấy còn là nạn nhân của hệ thống truyền thông trên Internet.
 
– Nhưng nếu thỏa hiệp, chúng ta có thể khai thác các lợi ích khác của nó?
 
– Không nhất thiết phải thỏa hiệp. Internet là công cụ, không phải con người, không phải tổ chức. Internet là một không gian ảo và chúng ta có quyền chiếm một chỗ ở đó rồi đi lang thang bất cứ nơi nào mình muốn. Chưa bao giờ chúng ta có cơ hội để tiếp cận với kho kiến thức của nhân loại từ cổ chí kim, từ đông sang tây một cách thoải mái như hiện nay. Chưa bao giờ ranh giới quốc gia được xóa nhòa như hiện nay, các khoảng cách về không gian địa lý, niềm tin lý tưởng… dần dần bị thu hẹp lại. Riêng ở trên không gian ảo này, một phần nào đó của con người xích lại gần nhau hơn. Những tiếng nói của chúng ta đến được với nhau, chúng ta có thể thể hiện những điều ngoài đời thật rất khó để thể hiện.
 
– Chị có nghĩ là lên Internet là một tất yếu?
 
– Thực ra Internet rất hay, tôi vẫn hy vọng Book Hunter ( Đọc thêm bài “Một nền giáo dục không trường lớp đang dần hình thành” ) tận dụng được toàn bộ lợi thế của Internet để giúp cho con người bình thường có thể tạo ra một hệ thống tự giáo dục cho mình.
 
Nhưng đồng thời, Internet là mảnh đất cho nhiều giá trị ảo sinh sôi nảy nở, và nó dẫn dụ con người đi theo những giá trị ảo ấy. Hơn thế nữa, ở trên Internet, đành rằng chúng ta có thể dễ dàng thể hiện tiếng nói với nhau, nhưng có một vấn đề là chúng ta mất đi khả năng thấu hiểu tiếng nói.
 
Lắng nghe nhau để làm gì nếu không có sự đồng cảm, không có sự trao đổi cảm xúc? Nó làm phần não phải của chúng ta (vốn dĩ đã kém rồi) nay lại càng kém hơn. Internet ra đời vì nhu cầu con người luôn muốn được gần nhau hơn, nhưng rõ ràng nó chưa tạo được điều đó. Rất buồn cười là để con người có thể gần con người hơn lại phụ thuộc vào chính con người chứ không phải phụ thuộc và một hệ thống mạng nào đó do chính con người tạo nên.
 
– Hoặc có một suy nghĩ khác: con người chỉ nhìn thấy những gì họ muốn thấy. Nếu họ muốn nhìn thấy cái ảo, thì kể cả không nhờ Internet, họ vẫn nhìn thấy thôi.
 
– Cũng có lý (cười).
 
 
– Cái “giá trị ảo” mà chị định nói là gì?
 
– Là khi một tiêu chuẩn, một giá trị bị lặp lại nhiều lần, trở thành mặc định chung cho đám đông, và con người bị cuốn theo cái tiêu chuẩn ấy. Trong lời giới thiệu cho Book Hunter, chúng tôi có nói đến chuyện chống chủ nghĩa tiêu dùng, hay còn gọi chủ nghĩa tiêu thụ. Các tập đoàn kinh tế phải kích cầu, rồi tạo ra các hình ảnh ngôi sao thế này thế nọ, hàng hiệu thì phải thế này thế kia… Uống cà phê ABC mới thành con người đích thực, các bác elite đưa ra chuẩn mực dựa trên ý muốn của tập đoàn… Đấy là những giá ảo mà ta thường hay gặp.
 
Ngày xưa, sách vở, báo chí còn ít, hơn nữa, người ta dùng quyền lực để áp chế. Áp chế bằng quyền lực thì không bền. Còn ngày nay, Internet thu hút con người, các giá trị ảo ấy được tạo ra bằng niềm vui, nên nó lại càng hấp dẫn. Tuy nhiên, lỗi không phải ở Internet, mà ở người sử dụng Internet, Internet chỉ nguy hiểm hơn vì lưu lượng truyền thông của nó mạnh hơn.
 
– Cũng vì lưu lượng mạnh hơn, nên nói chuyện những thói xấu của cư dân mạng, tôi nghĩ trước giờ người ta vẫn có những thứ xấu xí như thế, nhưng từ ngày có Internet mà chúng được bộc lộ ra nhiều hơn mà thôi.
 
– Đúng rồi. Internet là một cơ hội, là cơ hội cho người ta bộc lộ tất cả những cái xấu đó ra.
 
“Tôi chuyển từ hái lượm sang gieo trồng thông tin tốt”
 
– Chuyên gia Nguyễn Trần Bạt từng nói với tôi: những cái xấu của con người hiện giờ chỉ là trạng thái, chứ không phải bản chất của họ. Con người vẫn đáng yêu nếu họ đáng yêu, vẫn đáng thương nếu họ đáng thương.
 
– Chú Bạt là người rất khôn ngoan trong việc sử dụng ngôn từ. Đây chỉ là hai cách nói của một vấn đề thôi. “Đáng yêu” hay “đáng thương” là cách nói dành cho kẻ yếu, bé nhỏ. Không bao giờ người ta nói một người mạnh mẽ, giỏi giang là “đáng yêu” hay “đáng thương” cả.
 
Đương nhiên, Internet vừa là ràng buộc, vừa là lối thoát, nhưng vấn đề là có nhiều người nhìn thấy lối thoát không? Có một chuyện khá hài hước là một lần mấy học giả ở thế kỷ mười một, mười hai đến thế kỷ này, họ rất ngạc nhiên khi đứng trước những kho ebook đồ sộ, thế nhưng chẳng mấy ai xem. Đa phần con người chỉ quan tâm đến chụp ảnh tự sướng và share câu like…
 
– Chị có bao giờ nghĩ về tương lai xa không?
 
– Con người sẽ bị nô lệ nhiều hơn. Đây là thời đại của những kẻ chỉ tiêu dùng thông tin, mà luôn luôn là thông tin thứ cấp. Nó tạo ra một lớp vĩ nhân Facebook rất nguy hiểm. Thêm vào đó, khi cần làm một cái gì đó sáng tạo, cần hệ thống, lộ trình… thì người ta không làm được.
 
Tôi chả dám nghĩ đến tương lai xa, tương lai là thứ rất khó nắm bắt, còn hiểu biết của tôi thì quá hạn hẹp. Tôi và những người bạn trong Book Hunter của tôi chỉ cố gắng hết mình chuyển từ săn bắt hái lượm thông tin sang gieo trồng những thông tin có giống thật tốt để tạo ra sản phẩm có thể tích trữ lâu dài. Và điều đó thì cần rất rất nhiều kiên nhẫn.
 
– Vậy đây là câu chuyện của sự im lặng và kiên nhẫn?
 
– Internet không hề tốt với những người đang ở giai đoạn đầu học tập, tìm tòi, vì nó làm người ta mất tập trung. Cuối cùng thì người ta chẳng học cái gì đến đầu đến đũa cả.
 
Tôi có nói đến chuyện Internet là kẻ thù của ngôn ngữ. Người ta không sử dụng ngôn ngữ hình tượng, lời lẽ bóng bẩy, ý tứ thâm sâu… trên Internet, mà đây là thứ ngôn ngữ làm não phải phát triển phần tư duy hình ảnh, cách giải mã vấn đề… Ví dụ, bạn có một biểu cảm khác thường nào đó thì những người dùng Internet triền miên sẽ không nhận ra đâu, vì mọi thứ đều tiện lợi, nhạt nhòa, ngôn ngữ ngày càng tắt và nghèo nàn đi. Đấy là lý do người ta nói Internet làm con người vô cảm là vì thế.
 
Hơn nữa, tư duy của con người sẽ dần dần bị đơn giản hóa đi, tư tưởng nông hơn. Sẽ thế nào nếu con người dần dần giống nhau một lối nói cộc lốc, cụt ngủ, cùng một tư thế cắm mặt vào iPhone – iPad, và bạn đã thấy nguy cơ cho sự hình thành bầy đàn kiểu mới chưa?
 
– Xét đến cùng thì sự thiếu kiên nhẫn dẫn đến nhiều thứ: bị dắt mũi? Vĩ nhân ảo? Bị kích động…?
 
– Đúng. Con người vốn dĩ đã thiếu kiên nhẫn. Nhưng khi nhịp sống chậm và lưu lượng thông tin chảy vào từ tốn, con người không bị thúc ép và có thời gian để suy tư nhiều hơn. Giờ đây mọi thứ đều vận hành rất nhanh. Bạn sẽ tư duy sâu vào lúc nào nếu suốt ngày online trên Facebook, đếm từng cái like, trả lời từng cái comment và lang thang khắp các trang nhảm nhí?
 
– Nếu Internet là cái loa làm phóng lên mọi thứ, tại sao cái tốt đẹp không được phóng lên?
 
– Thế mới khổ! (Cười). Tôi chỉ có thể nhắc lại rằng, chúng ta vẫn đang trong thời “săn bắt hái lượm”, mà đi săn thì hên xui lắm! Có lẽ chúng ta đang đi săn chưa đúng mùa đó thôi.
 
– Xin cảm ơn chị đã chia sẻ!
 
Nguồn:Đẹp Online (2014)
 

Đam mê và thành đạt

Nhiều người tin rằng đã sắp đến ngày Sergey Brin và Larry Page, hai chàng sinh viên đồng sáng lập ra Google – công cụ tìm kiếm Internet, có mặt trong danh sách những người giàu có nhất với nhiều tỉ USD.
 
Google chuẩn bị niêm yết trên thị trường chứng khoán trong năm 2004. Người ta dự đoán tổng giá trị cổ phiếu Google sau khi niêm yết sẽ lên tới 15 tỉ USD. Cả Trung tâm công nghệ tin học tại thung lũng Silicon xôn xao, tràn trề hi vọng và mơ ước đến một thời kỳ bùng nổ của công nghệ thông tin sau ba năm ngưng trệ đến buồn chán. Các nhà đầu tư vào các quĩ đầu tư mạo hiểm hi vọng rằng sự kiên trì và dũng cảm của mình sẽ được đền đáp.
 
Sự thành công đáng khâm phục của Google đã phản bác lại quan điểm đang tồn tại cho thế giới và thị trường công nghệ tin học là chỉ có ai nhanh nhất hoặc đến sớm nhất thì mới thành công. Google không phải là người đến sớm nhất. Mãi đến năm 1998, Google mới ra đời. Khi đó trên thị trường đã có hàng loạt công cụ tìm kiếm Internet có tên tuổi như Altavista hay Lycos.
 
Sinh sau đẻ muộn, mới chỉ hơn 5 năm tồn tại, công cụ tìm kiếm Google đã có những bước tiến phát triển kỳ diệu. Google hiện đã chiếm tới 70% thị phần trong lĩnh vực này. Hàng ngày, trên toàn thế giới có tới 200 triệu lượt người truy cập, tìm kiếm thông tin nhờ Google.
 
Bất đắc dĩ thành chủ doanh nghiệp
 
Chính bản thân hai chàng trai thông minh và tài năng này lại không tưởng tượng nổi mình sẽ thành công với Google như vậy. Và họ lại càng không thể hình dung được mình đang giàu có, đang là những tỉ phú.
 
Thậm chí khi mới thiết kế công cụ tìm kiếm Google, Brin và Page còn tìm mọi cách để lảng tránh kinh doanh. Hai ông không quan tâm, nhiều khi còn cố tình giảm doanh thu và lợi nhuận bằng mọi cách có thể. Cũng giống như hai ông chủ trẻ tuổi của Yahoo, lúc đầu Sergey Brin và Larry Page chỉ coi Google là một công cụ giải trí với những tiện ích xã hội, kỹ thuật. Họ chưa hề nghĩ đến việc sử dụng tiện ích này để kinh doanh.
 
Sergey Brin, 30 tuổi, là con trai một gia đình người Do thái. Ông sinh ra ở Matxcơva. Khi ông 6 tuổi, cả gia đình ông sang định cư tại Mỹ. Ngay từ nhỏ, Brin đã tỏ ra thông minh vượt trội so với bạn cùng lứa. Ông đã học và tốt nghiệp cử nhân khoa toán và tin học tại Maryland. Sau đo, ông nhận học bổng làm nghiên cứu sinh tại trường Tổng hợp Stanford. Tại đây, Sergey đã gặp gỡ Larry Page, một tài năng tin học khác chỉ hơn ông có 1 tuổi.
 
Larry Page, 31 tuổi, là con trai của một giáo sư tin học có tiếng ở Michigan. Ngay từ lúc ở tuổi đi trẻ, Larry đã chơi và sống trong môi trường tin học và máy tính của cha ông. Đồ chơi xếp hình của cậu bé Larry không phải là bộ Lego chính hiệu mà là các ống mực nhiều màu của máy in phun. Hiện nay những thứ đồ chơi này được trưng bày trong viện bảo tàng của trường Tổng hợp Stanford.
 
Tiền thân của Google là một công cụ tìm kiếm thô sơ có tên là BackRub, được lập trình từ năm 1996. Từ nguồn vốn cá nhân và tài trợ của một số quĩ đầu tư mạo hiểm, tổng cộng 1 triệu USD, ngày 7 tháng 9 năm 1998, Công ty Google ra đời. Trụ sở của công ty được đặt tại thành phố Menlo Park, bang California của Mỹ. Tên gọi của công ty hay công cụ tìm kiếm thông tin trên Internet được Sergey Brin nghĩ ra trên cơ sở từ “Googol” có nghĩa là tên gọi của dãy số gồm chữ số 1 và 100 chữ số 0.
 
Brin kể lại rằng ông chọn tên con số khổng lồ thể hiện sự vô hạn định này làm tên công ty với ngụ ý rằng Google có thể tìm kiếm sắp xếp được mọi thông tin theo ý muốn, từ cả một biển trời thông tin vô hạn định.
 
Hai ông chủ và hai nhân viên, công ty lúc ban đầu chỉ có 4 người. Nhưng ngay từ những ngày đầu tiên đã có trung bình 10.000 lượt người truy cập vào Google. Những ưu điểm vượt trội của công cụ tìm kiếm mới xuất hiện đã nhanh chóng được giới “lang thang” trên mạng Internet biết đến.
 
Đến tháng 2 năm 1999, số lượt người truy cập mỗi ngày đã là 500.000. Larry Page là Chủ tịch kiêm Giám đốc đầu tiên của Google. Page giữ chức danh này cho đến tháng 4 năm 2001, khi đó Google đã là một công ty tin học trung bình với 200 nhân viên.
 
Hiện nay sau hơn 5 năm hoạt động, Google đã phục vụ tới hơn 100 triệu lượt người tìm kiếm thông tin qua Google mỗi ngày. Người ta có thể sử dụng công cụ này trên toàn cầu bằng 88 thứ tiếng khác nhau, trong đó có cả tiếng Việt. Hiện đang có tổng cộng hơn 1.000 nhân viên đang làm việc cho Google. Bên cạnh chức năng làm công cụ tìm kiếm, Google còn cung cấp rất nhiều dịch vụ trực tuyến khác như mua sắm trên mạng, đấu giá,…
 
Ưu thế vượt trội của Google
Không phải tình cờ mà Google đã có những thành công kỳ diệu và trở thành công cụ tìm kiếm được ưa thích nhất. Có thể nói mỗi thành phần khách hàng sử dụng công cụ Google đều thấy rõ thời gian tìm ở Google rất nhanh. Trung bình chỉ hơn 1 giây là những trang Web cần tìm đã xuất hiện trên màn hình. Để làm được điều đó, Google đã không tham lam liên kết với các trang quảng cáo và giới thiệu.
 
Không như các đối thủ cạnh tranh khác, Google đã sử dụng một cộng nghệ tìm kiếm riêng có tên PageRank. Công nghệ này cho phép không chỉ tìm kiếm các trang Web nhất định mà còn phân loại chúng theo số lượng các trang liên kết khác được giới thiệu hay liên kết với trang được chọn.
 
Ngoài ra, Google còn đưa ra các hình thức lựa chọn khác nhau để phục vụ người sử dụng tiện lợi nhất. Không chỉ các trang Web bình thường mà cả các trang với kiểu PDF đều được Google thống kê và tìm kiếm. Vì thế tổng số trang Web được Google tập hợp lên tới con số khổng lồ là gần 2 tỉ. Không những thế, Google vẫn luôn được tự hoàn thiện. Trực tiếp phụ trách phần phát triển công nghệ là Chủ tịch Công ty Sergey Brin.
 
Ngoài ra, Google còn tập hợp các dữ liệu ảnh, có thể tìm kiếm và phân loại ảnh một cách nhanh nhất. Một tính năng quan trọng khác của Google là các nhà thiết kế đã xây dựng được cả một “bức tường lửa” để có thể hạn chế tối đa việc lạm dụng sử dụng thông tin không phù hợp.
 
Google chiếm được thị trường nói chung khá nhanh. Trong đó đặc biệt giới trẻ, sinh viên, học sinh rất hâm mộ công cụ tìm kiếm Google. Bí quyết thành công của Google là thích ứng cho các phần cứng đơn giản, phổ thông và rẻ tiền. Bản thân hơn 10.000 máy tính chủ của Google cũng đều là những máy rẻ tiền. Cả hai ông chủ đều rất tâm hợp ý đầu không chỉ trong phát triển công nghệ mà còn cả trong chiến lược đầu tư. Phương châm kinh doanh của Google là phần cứng phải đơn giản và rẻ tiền nhất nhưng phần mềm phải hoàn hảo.
 
Tâm đầu ý hợp 
Tài năng và say mê của hai chàng trai thông minh đã gặp nhau và được nhân lên gấp bội. Cả hai đều say sưa tìm hiểu Internet và đều không hài lòng với các công cụ tìm kiếm đang có, kể cả những đại gia như Yahoo. Sergey Brin và Larry Page đã bàn nhau và quyết định xin tạm nghỉ nghiên cứu sinh để cùng nhau lao vào cuộc chơi ngẫu hứng với Google.
 
Cho đến giờ cả hai chàng thanh niên vẫn chưa quay lại giảng đường, nhưng họ không hề ân hận. Bởi vì cái họ được lớn hơn nhiều. Họ đã có Google, công cụ tìm kiếm Internet đang được ưa chuộng nhất đến nay. Từ một đam mê, Google đã đem lại cho hai ông gần như tất cả: sự nổi tiếng, thành đạt, sự ngưỡng mộ và cả rất nhiều tiền.
 
Tuy thế, cả Sergey Brin và Larry Page vẫn sống hết sức giản dị và khiêm tốn. Trong khi các doanh nhân trẻ mới nổi đua nhau sắm những xe hơi sang trọng nhất thì cả một thời gian dài, hàng ngày Sergey vẫn đi bằng một chiếc xe đạp từ một căn hộ nhỏ ở khu phố nghèo đến công ty. Còn ông Tổng giám đốc điều hành Larry cũng chỉ sắm cho công ty một chiếc xe xoàng xĩnh nhất để phục vụ công việc.
 
Suốt một thời gian dài, cả hai ông gần như không đếm xỉa gì đến lợi nhuận đến các hợp đồng quảng cáo, kinh doanh béo bở. Sergey và Larry âm thầm và miệt mài xây dựng, phát triển công cụ tìm kiếm của mình. Cả hai đều không ưa những đồn đại rùm beng trên các phương tiện truyền thông về tương lai của Google.
 
Mặc dù được đánh giá rất cao về phương diện kinh tế nhưng hai ông chủ trẻ tuổi vẫn dường như vẫn chưa muốn xuất hiện là những doanh nhân thực thụ. Chiến lược phát triển của Google vẫn được thống nhất và khẳng định là ưu tiên số một cho phát triển công nghệ chứ không phải là thu hút các nhà đầu tư.
 
Có lẽ vì thế mà Sergey và Larry có vẻ như dửng dưng, không quá sốt ruột về việc lên sàn niêm yết của Google như giới kinh doanh, đầu tư trong lĩnh vực tin học. Trên thực tế, cả hai ông chủ đều là những người khá rụt rè và thận trọng với kinh doanh. Họ đã chuẩn bị khá kỹ cho thời điểm quan trọng này, kể cả những yếu tố chưa chắc đã quen hay có lợi cho Google.
 
Thu hút người tài
Những thành công vượt trội về công nghệ của Google là điều không có gì phải bàn cãi. Nhưng các nhà đầu tư chứng khoán và phân tích tài chính còn nhận thấy ở Google một tiềm năng khổng lồ về phương diện kinh tế. Đó không phải là thị phần ngày càng tăng của Google. Điều quan trọng mà các chuyên gia đã nhận thấy là Google đã thu hút một đội ngũ lãnh đạo và nhân viên thuộc loại tinh hoa nhất trong giới kinh doanh tin học. Đây mới chính là yếu tố đảm bảo cho sự thành công bền vững lâu dài của một công ty.
 
Mặc dù Larry Page đã điều hành công ty rất tuyệt trong 3 năm đầu nhưng khi phát triển đến qui mô lớn hơn, hai ông chủ Google đã kịp thời mời Eric Schmidt, một cựu giám đốc nổi tiếng của Sun Microsystems và Novell về làm Tổng giám đốc điều hành cho Google. Còn Sergey Brin và Larry Page làm đồng Chủ tịch, một người phụ trách công nghệ, một người phụ trách sản phẩm.
 
Phó chủ tịch phụ trách Engineering là nhà tổ chức và quản lý nghiên cứu Wayne Rosing, đã từng giữ các chức vụ cao cấp của Appel, Data General và Sun Microsystems. Phó Chủ tịch Phụ trách chiến lược phát triển kinh doanh của Google là David Drummon, từng là Phó chủ tịch của SmartForce. Phó chủ tịch phụ trách bán hàng là Tim Armstrong đến từ Snowball.com. Phó chủ tịch phụ trách về bán và quản lý bản quyền là Joan Braddi.
 
Danh sách các tên tuổi lớn đang làm việc tại Google còn dài lắm. Và danh sách các ứng cử viên về đầu quân cho Google ngày càng dài thêm. Đây chính là nguồn tài nguyên và giá trị vô gía mà hai ông chủ trẻ tuổi Sergey Brin và Larry Page đã xây dựng được trong suốt hơn 5 năm qua.
 
Hà Linh
 
Nguồn:Tầm nhìn (2006)
 

VSV Angel Camp – kết nối startup với nhà đầu tư

 
 
 
Đây là hoạt động nằm trong chuỗi chương trình năm 2016 của Vietnam Silicon Valley nhằm xây dựng và k
 
Từ ngày 08-10/04, Đề án Thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon tại Việt Nam (Vietnam Silicon Valley) của Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) sẽ tổ chức chương trình VSV Angel Camp – chương trình đào tạo kết hợp với cắm trại dành cho các đối tượng: nhà đầu tư, Startup và nhà làm chính sách.
 
Đây là hoạt động nằm trong chuỗi chương trình năm 2016 của Vietnam Silicon Valley nhằm xây dựng và kết nối cộng đồng nhà đầu tư thiên thần tại Việt Nam.
Chương trình VSV Angel Camp sẽ cung cấp kiến thức toàn diện cho startup và nhà đầu tư thông qua các hoạt động như: các workshop; thảo luận; trò chơi trí tuệ; trải nghiệm thực tế dành cho Startup và nhà đầu tư trong việc thuyết trình, đàm phán kêu gọi vốn và lựa chọn startup tiềm năng; chia sẻ thực tế từ các Startup đã gọi vốn thành công và các Nhà đầu tư đã đầu tư cho gần 20 Startup; giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm giữa các thành viên;… 
 
Sau VSV Angel Camp, vào tháng 7 năm 2016, VSV tiếp tục tổ chức một khóa học chuyên sâu về đầu tư mạo hiểm với sự tham gia giảng dạy của 2 chuyên gia hàng đầu đến từ Silicon Valley: Ông Jonathan C. Baer, Chủ tịch Quỹ đầu tư Thhreshold Ventures và Bà Michelle E. Messina, Giám đốc điều hành Explora International LLC. Những nhà đầu tư xuất sắc nhất trong khóa học này sẽ được lựa chọn tham gia chuyến đi thực tế về đầu tư mạo hiểm tại Hoa Kỳ, được VSV kết hợp với Đại sứ quán Mỹ tổ chức vào tháng 8 năm 2016.
 
Đồng thời, sau khi kết thúc chương trình, VSV sẽ tiếp tục với các hoạt động hỗ trợ và kết nối thường xuyên, đem tới những quyền lợi hữu ích dành cho các thành viên tham dự để hình thành một cộng đồng đầu tư mạo hiểm lớn mạnh trong nước, góp phần thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam.  
 
Tin, ảnh: Hạnh Nguyên
 

Một thời trăn trở đổi mới

 
 
Thủ tướng Phạm Văn Đồng tới thăm, làm việc tại Viện Toán học năm 1982. 
Nguồn: Viện Toán học
 
Trong buổi gặp mặt mừng Thầy Hoàng Tuỵ 88  tuổi tại Toà soạn tạp chí Tia Sáng, Thầy đã kể lại một số trăn trở của Thầy trước hiện trạng của đất nước và mối quan hệ của Thầy với một số lãnh đạo Đảng và Nhà nước trước thời Đổi mới. 
 
Dười đây là lược ghi chuyện kể của Thầy.
Vào đầu những năm 1960, hưởng ứng cuộc vận động đưa khoa học đi vào thực tế đời sống, tôi tạm gác lại việc nghiên cứu giải tích thực vốn là sở trường chuyên môn của tôi để chuyển sang nghiên cứu lý thuyết tối ưu, bắt đầu với Vận trù học (Operations research) là môn học có nhiều ứng dụng thực tế hơn. Từ đó, trong nhiều năm, với sự ủng hộ nhiệt thành của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tôi ra sức gây dựng một phong trào rộng khắp ở miền Bắc, đưa Vận trù học vào ứng dụng ở các cơ sở sản xuất công, nông nghiệp. Hai năm một lần, chúng tôi tổ chức hội nghị tổng kết toàn miền Bắc về ứng dụng Vận trù học; ở mỗi hội nghị, Thủ tướng cùng nhiều bộ trưởng đều đến dự và phát biểu. Có lúc phong trào lôi cuốn hàng nghìn người tham gia, gây sự chú ý của nhiều phóng viên quốc tế ở Hà Nội. Trong một bài phóng sự về Việt Nam đăng trên báo Pháp Le Monde, tác giả đã tường thuật một cách thú vị về các hoạt động Vận trù học ở quanh vùng Hà Nội, Hải Phòng và tỏ ý vô cùng ngạc nhiên thấy cả một số thành tựu Vận trù học vừa mới ra đời ở Mỹ cách đó chỉ vài năm (như phương pháp PERT) mà đã được ứng dụng ở ngay đây, tuy Việt Nam là một đất nước mà cả thế giới đều biết còn rất nghèo và lạc hậu lại đang oằn mình dưới những trận bom ác liệt của không quân Mỹ. Để đánh giá việc ứng dụng Vận trù học ở miền Bắc vào giai đoạn này thành công đến mức độ nào thì khó nói cụ thể, nhưng ít nhất nó cũng đã đem lại một hiệu quả thiết thực: trước đó dân ta làm việc chỉ cốt đạt mục đích, bất kể đến hiệu quả, nhưng sau khi có phong trào Vận trù học, mọi người đã có ý thức biết tính toán, cân nhắc lựa chọn cách làm việc và hoạt động sao cho tốn ít phương tiện, mà đạt được hiệu quả cao. Cùng với đó dần dần, từ “vận trù” (với ý nghĩa biết tính toán so sánh nhiều phương án hoạt động) len lỏi vào cả trong ngôn ngữ thường ngày của người dân. Đó cũng là một nét văn hóa góp phần làm giảm lãng phí, tăng năng suất lao động xã hội, ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển kinh tế.
 
Nhưng Vận trù học chỉ mới áp dụng được ở cấp xí nghiệp, tức là ở cấp kinh tế vi mô. Để tiến lên tác động vào hiệu quả quản lý cả nền kinh tế quốc dân thì cần nghiên cứu khoa học hệ thống để vận dụng vào kinh tế vĩ mô. Từ các quan sát thực trạng kinh tế xã hội lúc đó, dễ nhận thấy kiểu kinh tế kế hoạch hóa tập trung, duy ý chí, tự cung tự cấp, “ngăn sông cấm chợ” dẫn đến nhiều hệ lụy tệ hại: hiệu quả sản xuất thấp, tham nhũng, lãng phí tràn lan, lãnh đạo ngày càng quan liêu, xa dân, xa thực tế… Mặc dù tôi chỉ mới dám phát biểu những suy ngẫm đó một cách dè dặt, thận trọng, nhưng vẫn bị phản ứng, nói chung không nhận được sự đồng tình của giới quan chức hữu trách, vốn là đối tượng chủ yếu tôi muốn nhằm tới để thuyết phục. 
 
May mắn, đến khoảng đầu thập kỷ 70, cùng với luận điểm “cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt”, nhận thức của lãnh đạo về vai trò của khoa học, kỹ thuật có sự chuyển biến mạnh. Bộ Chính trị quyết định, mỗi tháng một lần mời các nhà khoa học đến trình bày về một vấn đề thời sự khoa học cho toàn thể Trung ương nghe (sau đó có mở rộng ra cho cả cán bộ trung cao cấp xung quanh TƯ). Vì đã từng khởi xướng Vận trù học và đã có một số dịp phát biểu liên quan đến quản lý kinh tế nên tôi được mời tới nói chuyện lần đầu về các vấn đề khoa học trong quản lý kinh tế xã hội. 
 
Trong buổi nói chuyện đó, tôi nêu lên và phân tích nguyên nhân những hiện tượng tiêu cực đã nổi lên khá trầm trọng trong xã hội lúc bấy giờ như: kinh tế sút kém dần, hàng hoá thiếu thốn, không đáp ứng nhu cầu tối thiểu, chợ đen phát triển, cán bộ quan chức nhũng nhiễu, lòng dân bất an. Tôi muốn chỉ ra rằng đó là hậu quả tất yếu của chế độ quản lý kinh tế tập trung, bao cấp và để khắc phục, tôi đề nghị phải tiến tới phi tập trung hóa quản lý kinh tế. Thực ra, trong trí óc tôi lúc ấy, biện pháp phi tập trung hóa quản lý kinh tế chính là sử dụng cơ chế thị trường, song tôi không dám nói thẳng ra ý đó. Sở dĩ tôi ngại là vì trước đó vài năm, xảy ra vụ Liên Xô đưa quân đội vào Tiệp Khắc để lật đổ nhà lãnh đạo Dubcek, nguyên do là ông này đã dám đưa ra chủ trương sử dụng cơ chế thị trường để khắc phục các yếu kém của kinh tế xã hội chủ nghĩa – một chủ trương mà Liên Xô và theo sau đó toàn phe xã hội chủ nghĩa đã nhất trí lên án là phản động, trái với học thuyết chính thống về chủ nghĩa xã hội. 
 
Mặc dù khi nói chuyện, tôi không đả động gì đến cơ chế thị trường mà chỉ mới dám nêu ra ý kiến phi tập trung hóa quản lý kinh tế thay cho kế hoạch hóa tập trung, nhưng một số ông bộ trưởng cũng khá “thính”, báo ngay cho lãnh đạo Ủy ban Khoa học nhà nước (nơi tôi công tác lúc đó) rằng tôi có quan điểm “xét lại” cần phải phê phán. Để tránh những cáo buộc do hiểu lầm, tôi viết lại bài nói chuyện và đưa đăng toàn văn trên tạp chí Tin tức hoạt động khoa học, giải thích rõ quan điểm khoa học vì sao nên quản lý phi tập trung hóa nền kinh tế. 
 
Bất ngờ một tuần lễ sau, Ủy ban Khoa học nhà nước nhận được thông báo của Văn phòng Tổng bí thư, cho biết Tổng bí thư Lê Duẩn đã đọc bài của tôi và muốn trực tiếp gặp tôi để hỏi thêm, nên đã chỉ thị Ủy ban Khoa học nhà nước đưa tôi xuống Đồ Sơn để làm việc với Tổng bí thư trong mấy ngày. 
 
Cuộc họp có cả đại diện của Ủy ban Khoa học xã hội, một số cán bộ đầu ngành kinh tế, và Văn phòng Trung ương. Bước vào phòng họp, nhìn thấy ông Duẩn đem đến bài báo của tôi trong Tin tức hoạt động khoa học với chi chít những gạch xanh, gạch đỏ, tôi bắt đầu lo lắng. Thế nhưng thật may ông Duẩn nói ngay: ông đã đọc kỹ bài này, tuy có một số vấn đề ông thấy cần trao đổi thêm nhưng căn bản ông đồng tình quan điểm nêu trong bài. Hú vía, thế là được giải thoát tội “xét lại” – một tội mà thời đó, nặng thì có thể vào tù, nhẹ cũng bị lắm rắc rối, phiền phức trong công tác và sinh hoạt.
 
Rồi liên tiếp trong hai ngày, Tổng bí thư chăm chú lắng nghe và hỏi han về cách quản lý phi tập trung như thế nào, và vì sao cơ chế thị trường là biện pháp thực hiện quản lý phi tập trung. Kết thúc cuộc gặp, ông Duẩn còn bảo Ủy ban Khoa học nhà nước lập ra một viện giao tôi phụ trách để nghiên cứu về các phương pháp khoa học trong quản lý kinh tế (cái viện này về sau không ra đời được vì ban Tổ chức Trung ương không thuận). Ông Trần Quỳnh, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước, khi kể lại các buổi làm việc của Tổng bí thư với tôi còn cho biết thêm, ông Duẩn bảo: tôi nghe các anh em Toán nói chuyện kinh tế mà thấy còn sâu sắc hơn các cán bộ kinh tế. Sau đó, mấy vị bộ trưởng từng phê phán tôi có quan điểm “xét lại” lần lượt cho thư ký đến mời tôi đến nói chuyện ở bộ của họ, coi như một cử chỉ làm lành. 
 
Sự việc trên báo hiệu một sự thay đổi đáng mừng: Thứ nhất, bắt đầu có những tiếng nói nêu ra những bất cập của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, buộc các nhà lãnh đạo phải suy nghĩ lại. Thứ hai, từ đấy trở đi, các hội nghị Trung ương mở rộng bàn về kinh tế thường mời các nhà khoa học đến dự nghe và góp ý kiến. 
 
Sau năm 1975, có một giai đoạn kinh tế hết sức khó khăn. Đó là thời kỳ ăn bo bo hay khoai sắn, mì sợi thay cơm một phần mà ai nhớ lại cũng thấy hãi hùng. Khoảng năm 1979, khó khăn lên tới cực điểm. Một hôm, để chuẩn bị cho Hội nghị TƯ thứ 6, Tổng bí thư mời năm anh em khoa học gồm tôi, Vũ Đình Cự, Bùi Huy Đáp và hai kỹ sư ngành cơ khí (tôi đã quên tên) xuống Đồ Sơn để tham khảo ý kiến, giúp tìm ra kế sách vượt qua khủng hoảng. Bốn anh kia đều có chức vụ cao trong bộ máy nhà nước, chỉ riêng tôi không có chức vụ gì, cho nên các anh đều ngại, đẩy tôi ra phát biểu trước. 
 
Vào thời kỳ đó, lý thuyết làm chủ tập thể do ông Duẩn đưa ra được coi là một sáng tạo lý luận lớn của Tổng bí thư đóng góp vào học thuyết chủ nghĩa xã hội. Trong các buổi sinh hoạt chính trị, hầu như ai phát biểu gì cũng cố liên hệ tới lý thuyết đó để tăng thêm trọng lượng cho ý kiến của mình, dù nhiều khi hết sức gượng gạo. Riêng tôi và một số anh em khoa học nghĩ khác, thật sự không thấy thuyết phục. 
 
Vì không quen nói dối để làm vừa lòng cấp trên, tôi mạnh dạn nói thẳng với Tổng bí thư rằng anh em khoa học chúng tôi không hiểu lý thuyết làm chủ tập thể của ông, không thấy nó có ý nghĩa gì thiết thực cho việc xây dựng đất nước. Tưởng tôi thật tình không hiểu, ông Duẩn thuyết một thôi một hồi về làm chủ tập thể. Tôi đáp, những điều ông nói đó, chúng tôi đều đã được nghe không chỉ một lần mà nhiều lần trong các buổi thảo luận chính trị. Điều tôi vẫn thắc mắc là tại sao ta nói làm chủ tập thể là một hình thức dân chủ còn cao hơn cả dân chủ xã hội chủ nghĩa trong khi đó ngay cả cái dân chủ tư sản mà ta thường chê, thì trên thực  tế cũng chưa đạt được như họ. Để minh họa, tôi dẫn ra một số sự việc và sẵn dịp đọc luôn cho ông nghe mấy câu vè hồi ấy thường lan truyền ở vỉa hè giới trí thức: “Năng làm thì đói, biết nói thì no, biết bò thì sướng, càng bướng càng khổ …”. Hẳn là lần đầu tiên được nghe những lời trái tai như vậy, ông lặng người đi. Nhưng là người lãnh đạo có bản lĩnh, ông trấn tĩnh lại ngay và bảo: đúng là ta còn mất dân chủ, có nơi khá nặng, cho nên vừa rồi trong cuộc vận động làm trong sạch Đảng, tôi đã nhắc các tỉnh ủy phải chú trọng kiểm điểm kỹ chuyện này. 
 
Sau đấy, ông nêu câu hỏi: bây giờ làm sao chống tiêu cực? (hồi đó tham nhũng còn chưa quá nặng, nên chỉ được gọi nhẹ nhàng là “tiêu cực”). Tôi trả lời, với cách quản lý kinh tế như ta mà không có tiêu cực mới lạ. Bởi tiền lương không đủ sống buộc người ta phải xoay xở mà xoay xở thì làm sao không phạm pháp, không tiêu cực. Ban đầu, chỉ có cấp dưới mới không đủ sống bằng lương, nhưng kinh tế khó khăn thì cấp trên cũng không đủ sống bằng lương. Do đó, tiêu cực lan dần lên cấp cao, mà cấp càng cao chừng nào thì càng dễ xoay xở chừng đó. Hơn nữa, vì có lý do đời sống biện minh cho nên tiêu cực dễ được xã hội thông cảm, dung thứ và cứ thế nó phát triển rộng ra, đến lúc cả những cán bộ lương cao cũng tiêu cực. Nói thật ra, với cách quản lý này của ta, gần như ai cũng phải ít nhiều phạm pháp, ít nhiều ăn cắp, không ăn cắp của dân thì ăn cắp của nhà nước, dưới hình thức này hay hình thức khác. Một ông lãnh đạo cấp cao nghe tới đó liền phản ứng gay gắt: “Anh nói không đúng, tôi có ăn cắp đâu và anh chắc cũng không ăn cắp, sao anh có thể nói bừa như vậy?”. Tôi thưa lại, ông là cán bộ cấp cao được nhà nước chu cấp hết mọi khoản thì dĩ nhiên cần gì tiêu cực, trừ khi quá tham. Còn tôi, vì làm khoa học thỉnh thoảng được mời ra nước ngoài làm việc thì chỉ với đồng lương một tháng ở nước ngoài cũng đủ sống cả năm trong nước. Chỉ có thế thôi, chứ chẳng có gì lạ, tôi chỉ nói đúng sự thật dù là sự thật rất khó nghe.
 
Ngoài vấn đề dân chủ và tiêu cực, tất nhiên chúng tôi cũng góp ý thẳng thắn về nhiều vấn đề khác, như: nên coi trọng thật sự lợi ích vật chất, không nên chỉ nhấn mạnh một chiều tinh thần; cần bỏ “ngăn sông cấm chợ”, phải để người dân được tự do buôn bán làm ăn, v.v. Thậm chí có người còn bạo mồm phê phán chính sách trao đổi đối với nông dân thời bao cấp: mua như cướp, bán như cho1, thật sự đã làm bần cùng hóa nông dân.
 
Sau cuộc gặp mấy hôm, ông Duẩn làm việc với ông Nguyễn Văn Trân (trong Ban Bí thư và đương nhiệm Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế TƯ). Ông Trân nói lại, buổi làm việc của chúng tôi với ông Duẩn ở Đồ Sơn đã có tác dụng rất tốt, góp phần làm cho Nghị quyết Hội nghị TƯ 6 có được rất nhiều điểm mới, thay đổi hẳn nhiều nhận thức và quan điểm cũ trước đây.
 
Cùng thời điểm ấy, tôi chuẩn bị đi Canada theo lời mời thỉnh giảng của một số trường đại học. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gặp tôi để dặn dò những điều cần thiết khi gặp anh em trí thức Việt kiều bên đó. Ông cho biết, với Nghị quyết Hội nghị TƯ 6, kỳ này chúng ta sẽ chuyển mạnh. Với trí thức Việt kiều, không nên che giấu mà cần phải cho họ biết sự thật về một số khó khăn trong nước, đồng thời nói rõ cho họ thấy quyết tâm sửa chữa của chúng ta. 
 
Sang tới Montreal, tôi được anh em Việt kiều mời nói chuyện trước một cử tọa khoảng vài trăm người. Tôi nói thật với họ chuyện tham nhũng, quan liêu và những thay đổi mạnh về chính sách theo tinh thần Nghị quyết TƯ 6… Về sau, tôi được biết anh em trí thức Việt kiều rất phấn khởi vì lần đầu tiên có người từ trong nước sang mà nói thật chứ không che giấu những bê bối trong nước, anh em tin hơn và giải tỏa được các bức xúc trước đây, khi họ chỉ được nghe giải thích một chiều, luôn luôn được bảo những tin tức về tham nhũng trong nước chỉ là tin đồn, bịa đặt hoặc phóng đại của bọn phá hoại. Anh em đều cho rằng, dù có sai lầm, bê bối nhưng một khi các nhà lãnh đạo đã nhìn thấy được sự thật và tỏ rõ quyết tâm sửa thì có hy vọng sẽ sửa được và tình hình sẽ dần tốt lên. 
 
Mấy tháng sau chuyến đi Canada, tôi được mời sang Pháp. Lần này gần sát đến ngày phải lên đường mà thủ tục vẫn chưa xong, tôi tới gặp anh Trần Đại Nghĩa, lúc ấy là Viện trưởng Viện Khoa học Quốc gia. Nghe tôi thắc mắc vì sao mãi vẫn chưa có quyết định đi Pháp, anh Nghĩa bảo tôi: “Lẽ ra tôi không được phép nói, vì đây là công văn mật, nhưng chỗ thân tình, tôi nói thật, không biết anh qua Canada nói những gì mà sứ quán ta ở đó báo cáo về Bộ Ngoại giao kể tội anh nói xấu chế độ về bảy chính sách lớn. Vì lý do đó, người ta không duyệt để cho anh đi lần này”. 
 
Nhờ anh Nghĩa là nhà khoa học chân chính, rất quý trọng anh em khoa học nên tôi mới được biết có cái công văn mật này. Tôi gọi điện cho anh N., thư ký riêng của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, kể lại sự việc và nhờ anh lấy ở Bộ Ngoại giao băng ghi âm buổi nói chuyện của tôi ở Montreal (vì tôi nhớ chắc chắn buổi nói chuyện đó có ghi âm đầy đủ) để kiểm tra xem có đúng tôi nói xấu chế độ như sứ quán đã báo cáo về nước không. Mấy hôm sau tôi được truyền đạt lại ý kiến của Thủ tướng là tôi chẳng nói gì sai phạm cả. Hoá ra, khi tôi nói chuyện với anh em Việt kiều theo tinh thần Nghị quyết TƯ 6, không che giấu sự thật, thì khi đó Sứ quán chưa nhận được trong nước thông báo về Nghị quyết TƯ 6 nên tưởng lầm rằng tôi nói xấu chế độ. Sau đó, tôi được báo thủ tục đi Pháp đã được khai thông, tuy có trễ là vì có mấy việc phải xác minh về chuyến đi Canada của tôi. 
 
Dù câu chuyện kết thúc tốt đẹp, song việc đã xảy ra cũng khiến tôi rất buồn. Nếu không nhờ sự can thiệp của Thủ tướng, thì biết đến bao giờ mới gỡ oan được. Mà đâu thể bất cứ việc gì, bất cứ ai cũng kêu oan được tới Thủ tướng.
 
Đó là nỗi khổ của anh em trí thức một thời, muốn nói thật cũng phải đắn đo suy nghĩ, nhưng ngay cả khi đắn đo suy nghĩ rồi vẫn có thể gặp nạn. Dù sao vẫn còn may thời đó có một số người lãnh đạo sáng suốt như Tổng bí thư và Thủ tướng, biết lắng nghe và tôn trọng trí thức. 
 ——–
1 Hồi đó, nhà nước thu mua nông sản với giá rẻ, gần như là trưng thu chứ không “mua” (chẳng hạn thu mua hoa hồi để xuất khẩu với giá rẻ đến mức người nông dân cho rằng thà đốn cây hồi để bán như củi còn lợi hơn chăm sóc cây để bán hoa). Ngược lại, nhà nước bán cho nông dân phân bón, thuốc trừ sâu, v.v. cũng với giá rẻ, gần như cho không. Đó là vì giá cả lúc đó đều do các cơ quan nhà nước ấn định, không dựa vào cơ chế thị trường, lắm khi rất vô lý, làm nông dân bị thiệt thòi nhiều, làm lụng vất vả mà mãi vẫn nghèo.
 
Hoàng Tuỵ
 

Chẩn đoán ung thư sớm bằng xét nghiệm máu

 
 
Một công ty y tế Hoa Kỳ cho biết họ đã nắm được “bí quyết” xét nghiệm máu chẩn đoán bệnh ung thư ngay cả trước khi bệnh nhân có biểu hiện triệu chứng.
Illumina, công ty giải mã trình tự gene đã tuyên bố thành lập một công ty spin-off chuyên tập trung vào phát hiện sớm ung thư thông qua xét nghiệm máu.Và Grail, công ty spin-off này được cấp 100 triệu USD để nghiên cứu ADN của tế bào ung thư có trong máu và sử dụng phương pháp sắp xếp chuỗi AND để phát hiện các mô hình bệnh tật trong tế bào máu.
 
Mặc dù các công ty khác đã áp dụng “sinh thiết lỏng” nhưng họ mới chỉ sử dụng phương pháp này sau khi bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư bởi chưa thể giải quyết một vấn đề, đó là một số tế bào ung thư không thực sự gây nguy hiểm cho con người và điều trị sớm chỉ khiến bệnh nhân gặp tác dụng phụ nguy hiểm.
 
Nhưng các nhà khoa học của công ty Grail tin rằng họ sẽ giải quyết được tồn tại này bằng cách thực hiện sắp xếp chuyên sâu và kiểm tra trình tự ADN của khoảng 50.000 người.“Chúng tôi cho rằng cần khẩn trương nghiên cứu và đưa ra thị trường cách chẩn đoán ung thư này, vì nếu thành công, nó sẽ cứu mạng hàng triệu người”, Jay T. Flatley, giám đốc công ty Illumina nói.
 
Bảo Như dịch theo Sciencetimes
 
http://www.sciencetimes.com/articles/8120/20160111/company-develop-gene-based-cancer-blood-test.htm
 

Năm cuốn sách gối đầu giường về “khởi nghiệp tinh gọn”

 
 
Khởi nghiệp tinh gọn đã thay đổi toàn bộ cách chúng ta thử nghiệm thị trường và khởi nghiệp.
 
Thay vì tư duy theo kiểu truyền thống là tập trung đưa ra một kế hoạch kinh doanh với các tính toán tài chính mang tính cảm tính, các mục tiêu kinh doanh thiếu căn cứ cơ sở thực tế, các startup phải kiểm định thị trường, nắm bắt nhu cầu và hiểu cách tạo ra dòng doanh thu để từ đó xây dựng bước đầu mô hình kinh doanh, đặt nền móng cho khởi nghiệp bền vững. Các bạn có thể đặt câu hỏi khởi nghiệp tinh gọn là gì, tại sao nên đọc những cuốn sách này trước khi bạn bắt đầu và sử dụng chúng trong suốt quá trình kinh doanh khởi nghiệp? Đơn giản là vì, có những thất bại rõ ràng bạn sẽ tránh được khi đọc những cuốn sách này. Với cách tiếp cận thực tế, thiên về hướng dẫn, thực hành và thay đổi tư duy, những cuốn sách được chúng tôi giới thiệu dưới đây sẽ thực sự là người bạn đồng hành với bạn trong mọi bước đường khởi nghiệp.
 
The Startup Owner’s Manual: The Step-By-Step Guide for Building a Great Company. (Sổ tay của các nhà khởi sự kinh doanh: Hướng dẫn từng bước để xây dựng một công ty vĩ đại). Tác giả: Steve Blank & Bob Dorf
 
Kinh điển với triết lý: “Hãy bước chân ra khỏi văn phòng” để hiểu về thực tế nhu cầu, những khó khăn của khách hàng xung quanh và cả những gì đối thủ cạnh tranh đang làm được, Steve Blank đã làm thay đổi cách vận hành của nhiều startup – vốn cắm cúi ngồi phát triển sản phẩm rồi rơi vào cái bẫy hơn 60% thất bại do thị trường không có nhu cầu. Với việc triển khai mô hình phát triển khách hàng gồm bốn bước: khám phá khách hàng, thẩm định khách hàng, sáng tạo khách hàng và phát triển công ty, tác giả đã chỉ ra những bước hướng dẫn hết sức cụ thể để một startup có thể phát triển khách hàng ngay từ bước đầu tiến đến xây dựng một công ty bền vững. Cuốn sách này có lẽ nên là cuốn sách đầu tiên mọi khởi nghiệp nên đọc để bắt đầu hành trình khởi nghiệp của mình.
 
The LEAN STARTUP (Khởi nghiệp tinh gọn). Tác giả: Eric Ries. Đã được dịch sang tiếng Việt.
 
Không phải ngẫu nhiên, phương pháp của khởi nghiệp tinh gọn đã tạo ra một làn sóng hấp dẫn không chỉ với giới khởi nghiệp công nghệ mà còn cả với các công ty lớn. Khái niệm tinh gọn vốn xuất hiện trong sản xuất, giờ được áp dụng trong rất nhiều công ty, tập đoàn lớn. Không thể phủ nhận, cách tiếp cận theo vòng lặp build-measure-learn (xây dựng – đo lường- học hỏi) đã giúp các công ty tiết kiệm rất nhiều cho các dự án phát triển sản phẩm mới và hoạt động nghiên cứu phát triển. Đó cũng chính là lý do, khởi nghiệp tinh gọn với vòng lặp liên tục xây dựng – đo lường- học hỏi đang giúp các khởi nghiệp tiến gần hơn đến nhu cầu thực tế của thị trường, có thể xây những giá trị vượt trội đáp ứng nhu cầu thị trường mà còn tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức. Cuốn sách thực tiễn với cách giải thích dễ hiểu sẽ thực sự hữu ích cho các công ty khởi nghiệp, các doanh nghiệp đang phát triển sản phẩm dịch vụ mới. 
 
LEAN ANALYTICS- Use data to build a better startup faster. (Phân tích trong khởi nghiệp tinh gọn- sử dụng dữ liệu để xây dựng một khởi nghiệp tốt hơn và nhanh hơn). Tác giả: Alistair Croll; Benjamin Yoskovitz. 
 
Cuốn sách thú vị này lấy cảm hứng từ khởi nghiệp tinh gọn. Thay vì khen ngợi những gì bạn đang nỗ lực làm với chiến lược và kế hoạch kinh doanh, cuốn sách “phủ đầu” bằng tuyên bố “chúng ta đều giả dối”. Hãy ngừng dối trá và nhìn thẳng vào sự thật từ những con số, dùng con số để ra quyết định và hơn thế nữa, dự đoán và lập chiến lược. Bằng cách chỉ ra các chỉ số, con số bạn cần theo dõi trong suốt quá trình khởi nghiệp theo các bước của khởi nghiệp tinh gọn, tác giả đã biến cuốn sách thành một cuốn cẩm nang chỉ dẫn rất chi tiết từ bước hình thành các chỉ số cần đo lường đến sự thay đổi tư duy quyết định dựa trên dữ liệu thu thập được. Cuốn sách góp phần thay đổi những nhận định mang tính cảm tính trong kinh doanh, buộc các nhà sáng lập thường xuyên phải quan sát, thu thập và phân tích những dữ liệu, xây dựng những chỉ số để khởi nghiệp thành công không còn là cuộc chơi may rủi. Với những ví dụ sinh động thực tế, cuốn sách là một phần không thể thiếu cho các bạn khởi nghiệp muốn xây dựng công ty bền vững và liên tục đổi mới. Lean Analytics cùng những cuốn sách về dữ liệu lớn thực sự sẽ mở ra những hướng đi mới giúp không chỉ các công ty khởi nghiệp mà cả các công ty lớn nắm bắt được những cơ hội và xu hướng từ dữ liệu đang nắm trong tay. 
 
Business Model Generation (Tạo lập mô hình kinh doanh. Tác giả: Alexander Osterwalder, Yves Pigneur. Đã được dịch sang tiếng Việt. 
 
Một cuốn sách thực thi đúng chức năng của nó là hỗ trợ bạn từ đầu đến cuối xây dựng mô hình kinh doanh của mình, tạo lập nó một cách bền vững qua từng bước phát triển cấu phần trong mô hình kinh doanh theo thứ tự phân khúc khách hàng, giá trị mang lại, kênh truyền tải thông tin, giá trị đến khách hàng, quan hệ với khách hàng, dòng doanh thu, chi phí, các hoạt động chính, nguồn lực chính. Cuốn sách không chỉ giúp các bạn khởi nghiệp nhìn rõ bức tranh khởi nghiệp của chính mình mà còn là một gợi ý quan trọng cho những doanh nghiệp đang vận hành tạo ra hiểu biết chung cho toàn công ty về mô hình kinh doanh, tạo nền tảng cho đổi mới sáng tạo cho cả công ty. 
 
Value proposition Design – How to Create Products and Services Customers Want (Thiết kế tuyên bố giá trị). 2014. Tác giả: Alexander Osterwalder, Yves Pigneur, Gregory Bernarda, Alan Smith.
 
Một cuốn sách đẹp được viết để bất kỳ ai khởi nghiệp cần hiểu rằng việc mang lại giá trị cho khách hàng là một sứ mệnh thiêng liêng nhưng không hề cảm tính. Các doanh nghiệp cần đi từ việc hiểu về khách hàng, xây dựng canvas về hồ sơ khách hàng, giá trị và sự tương thích giữa hai nhân tố này; tiến đến thiết kế, kiểm định và phát triển những giá trị bạn mang lại cho khách hàng. Cuốn sách không thể không thành công nếu thiếu sự minh họa tài hoa của Trish Papadakos. Những khái niệm đơn giản trở nên dễ hiểu hơn rất nhiều nhờ những hình vẽ sống động mô tả một cách hiệu quả các thức tiến hành việc kiểm định và thiết kế tuyên bố giá trị. Cùng với Business Model Canvas và những cuốn sách khác của khởi nghiệp tinh gọn, bạn sẽ nhận ra rằng, bạn cần phải trải qua các bước rất chi tiết, tỉ mỉ nhưng không kém phần thách thức và hấp dẫn để thực sự khiến khách hàng yêu thích sản phẩm, giá trị mà bạn mang lại để công ty khởi nghiệp bền vững.
 
Nguyễn Đặng Tuấn Minh
 

Khởi nghiệp 2016: Một vài góc nhìn và gợi ý

 
 
 
Nguyễn Đặng Tuấn Minh
 
Trên thế giới hiện nay, việc hoạch định chiến lược phát triển dựa trên những xu hướng lớn: xu hướng mobile, tập trung vào trải nghiệm khách hàng, tập trung vào nội dung, và đẩy mạnh đào tạo và mentoring trong doanh nghiệp. Còn ở Việt Nam, 2016 là một năm hứa hẹn sự bùng nổ về số lượng những dự án khởi nghiệp, cơ hội đến từ những tác động mạnh mẽ từ làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam, với hiệu ứng từ các hiệp định hợp tác từ cấp độ chính phủ đi vào hiệu lực, đáng chú ý là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), FTA Liên minh kinh tế Á Âu và một số hiệp định song phương và đa phương khác. Vậy những xu hướng này đang tác động đến khởi nghiệp như thế nào? Và doanh nghiệp khởi nghiệp (DNKN) cần làm gì để tận dụng tốt hơn những cơ hội đến từ các xu hướng mới này?
Thay đổi tư duy và tầm nhìn
 
Khởi nghiệp đồng nghĩa với việc xác định thị trường mục tiêu, khách hàng tiềm năng và giá trị mang lại cho khách hàng của mình. Năm 2016 có ý nghĩa đặc biệt khi rõ ràng, doanh nghiệp không chỉ tiếp cận thị trường Việt Nam với một phân khúc trong thị trường cho 90 triệu dân, mà doanh nghiệp đang bán hàng với phân khúc tương tự ở chín quốc gia Đông Nam Á (10 quốc gia trừ Việt Nam) còn lại và tám quốc gia thành viên khác tham gia TPP (12 quốc gia trừ bốn quốc gia nằm trong AEC đã tính). 
 
Nếu bạn khởi nghiệp vì mục tiêu “build to last” (xây để trường tồn), đây là lúc bạn cần tính toán lâu dài xem sản phẩm của bạn có tiềm năng đi xa đến đâu, và năm năm tới sẽ thế nào. Nếu bạn khởi nghiệp vì mục tiêu xây để bán “build to sell”, thì hãy nhớ rằng, rất ít nhà đầu tư sẽ để mắt đến bạn nếu bạn chỉ nhắm vào thị trường nội địa. Với 90 triệu dân, Việt Nam chưa phải là thị trường hấp dẫn để bán sản phẩm. Sẽ thuyết phục hơn nếu bạn chứng minh cho nhà đầu tư thấy, bạn và sản phẩm của bạn sẽ thành công ở một tầm rộng lớn hơn. 
 
12 quốc gia thành viên TPP: Australia, Brunei Darussalam, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, và Việt Nam.
Quy mô thị trường TPP: Các nước TPP tạo nên thị trường 792 triệu dân với tổng GDP 28.000 tỷ USD (xấp xỉ 40% tổng GDP toàn cầu).
                             Nguồn: http://www.international.gc.ca/
 
Với thị trường hơn 600 triệu dân, trở thành nền kinh tế lớn thứ bảy thế giới và tiềm năng đạt vị trí thứ tư trong năm 2050 nếu xu hướng tăng trưởng hiện nay tiếp tục (Nguồn: ADB, 2015), AEC sẽ là một thị trường tiềm năng cho dòng vốn đầu tư đổ vào khu vực sản xuất, kinh doanh, các ngành dịch vụ và du lịch. Thêm vào đó, nhờ lợi thế có nhiều điểm tương đồng về văn hóa, sự đa dạng hấp dẫn trong cảnh quan, nếu xu hướng hợp tác phát triển mạnh mẽ, sự lưu chuyển nguồn nhân lực, sự loại bỏ các rào cản về thuế quan, vận chuyển, đang tạo ra cho bạn những cơ hội mới. TPP với những nền kinh tế phát triển hơn nhiều so với Việt Nam đang đặt bạn trước những cơ hội và thách thức mới. Chưa bao giờ thị trường Mỹ và các quốc gia phát triển lại gần với doanh nghiệp Việt Nam như vậy. Những rào cản kỹ thuật khắt khe của những thị trường này tạo ra phép thử với chất lượng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Nếu thành công ở những thị trường này, không có lý gì doanh nghiệp không có cơ hội thành công toàn cầu. Nhưng mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần thay đổi tầm nhìn và tư duy cạnh tranh. Không dừng lại ở cạnh tranh trên thị trường nhà, doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh với những sản phẩm nhập khẩu mạnh mẽ. Vì vậy, nếu chưa tính đến những thị trường này trong chiến lược phát triển và cạnh tranh của mình, DNKN sẽ không chỉ mất cơ hội trên chính thị trường mình mà còn mất cơ hội vươn ra thế giới. 
 
Thay đổi về công cụ và nguồn lực
 
Các công cụ trực tuyến sẽ là công cụ quan trọng nhất để bạn nghiên cứu thị trường (nếu DNKN đang ở giai đoạn tìm kiếm, kiểm định và khám phá khách hàng). Facebook hay Google Trends trở thành những công cụ đơn giản mà hiệu quả đầu tiên để bạn đo lường quy mô thị trường. LinkedIn trở thành công cụ xây dựng thương hiệu cá nhân cho các chủ doanh nghiệp khởi nghiệp và tìm kiếm chuyên gia, đối tác. Nếu DNKN đang ở giai đoạn bán sản phẩm, xây dựng công ty, những công cụ trực tuyến lại càng không thể thiếu để hiểu khách hàng. 
 
Bên cạnh đó, xu hướng phát triển sản phẩm dựa trên hiểu biết về hành vi của khách hàng, thử nghiệm sản phẩm trong thời gian ngắn hơn, hiệu quả hơn, đặt doanh nghiệp trước nhiều thách thức:
 
Để hiểu được hành vi người tiêu dùng, doanh nghiệp cần phải thu thập dữ liệu và quyết định dựa trên số liệu ngay từ những ngày đầu khởi nghiệp. Việc thu thập dữ liệu ngay từ ban đầu cần một chiến lược rõ ràng về việc sử dụng dữ liệu trong việc ra quyết định. Những quyết định cảm tính sẽ phải nhường chỗ cho những phản hồi từ thị trường bằng những dữ liệu lượng hóa được. Doanh nghiệp cần bắt đầu bằng quan sát và lượng hóa đầu vào, đầu ra bằng mọi công cụ cả trực tuyến và ngoại tuyến, nhưng sau đó nên số hóa những dữ liệu ngoại tuyến càng sớm càng tốt. 
 
Trong kỷ nguyên số, khi tốc độ đáp ứng nhu cầu của khách hàng trở thành một lợi thế cạnh tranh thì khả năng tương tác tức thì với khách hàng cũng đặt doanh nghiệp trước thách thức sử dụng những phần mềm điện toán đám mây trên những thiết bị di động thông minh trong quản lý và vận hành doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ không chỉ tiếp cận với khách hàng qua một kênh trực tuyến mà nhiều kênh khác nhau. Làm thế nào để tất cả những kênh đó “giao tiếp” được với nhau? Làm thế nào để những thông tin được tập hợp một cách nhanh nhất hỗ trợ chủ doanh nghiệp và các bộ phận có liên quan ra quyết định nhanh chóng nhất? Doanh nghiệp cần tính toán sử dụng sớm những phần mềm như vậy. Các phần mềm mã nguồn mở hoặc kinh phí thấp không thiếu. Điều quan trọng nhất là doanh nghiệp nhận ra tầm quan trọng của việc sử dụng những phần mềm này nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 
 
Marketing dựa vào nội dung cũng trở thành một xu hướng quan trọng mà DNKN cần lưu ý. Nhu cầu giữ chân khách hàng, sáng tạo ra giá trị mới cho khách hàng đòi hỏi DNKN tập trung vào những câu chuyện mới, những giá trị mới nhiều hơn. Việc khách hàng thường xuyên ghé thăm website, fanpage, những câu chuyện mới về sản phẩm dịch vụ xuất hiện thường xuyên không chỉ giúp bạn gia tăng sự gắn kết với cộng đồng khách hàng tiềm năng mà còn giúp bạn ghi điểm trong “con mắt” của các công cụ tìm kiếm. 
 
Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Community) tạo ra thị trường chung duy nhất cho hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động và có tiềm năng trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. 
Với hơn 600 triệu dân, tiềm năng của ASEAN còn lớn hơn cả khu vực châu Âu hay Bắc Mỹ. Sát biên giới với Ấn Độ và Trung Quốc, lực lượng lao động của ASEAN tương đương Ấn Độ, ASEAN có lực lượng lao động trẻ và lớn thứ 3 trên thế giới.
 
Nguồn: Bài phát biểu của Stephen Groff, Phó giám đốc Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) 2014.
 
Những nhu cầu trên đòi hỏi doanh nghiệp phải huy động một lượng lớn nguồn lực con người và tài chính. Tuy vậy, với các DNKN, nên tận dụng nguồn lực phần mềm quản lý doanh nghiệp từ mã nguồn mở và tận dụng những nguồn nhân lực part-time (bán thời gian) hoặc thuê ngoài cho những công việc không quá phức tạp. 
 
Thay đổi về chiến lược & hành động
 
Về chiến lược: với những thách thức và thay đổi tầm nhìn cần có, rõ ràng khi lập chiến lược cho doanh nghiệp của mình, DNKN cần lưu ý những chiến lược quan trọng như sau:
 
Đi ra khu vực và đi ra thế giới (Go regional & Go global).
Điện toán đám mây (Go cloud)
Gia tăng trải nghiệm khách hàng
Dữ liệu lớn 
Phát triển đội nhóm 
 
Về hành động: 
Đừng chỉ đọc báo tiếng Việt hằng ngày, nó đang hạn chế bạn với cả một thị trường và cơ hội rộng lớn. Hãy chủ động tìm các tờ báo lớn của các quốc gia trong khu vực, đọc và theo dõi những chuyển động thị trường của các quốc gia khác và hãy khai thác triệt để những cơ hội từ đó. 
 
Hãy chuyển hoàn toàn website của bạn sang tiếng Anh và/hoặc sử dụng Facebook Fanpage của bạn song ngữ. Đây là cách tốt nhất để bạn tiếp cận thị trường toàn cầu nói chung và thị trường khu vực nói riêng chỉ bằng một cú click chuột.
 
Hãy đến thăm và quan sát tối thiểu ba quốc gia trong khối AEC năm nay để có cái nhìn tổng thể về thị trường mà bạn đang tiếp cận. Không quá nhiều điều kiện và không phải nộp Visa, hãy thực hiện chuyến du lịch kinh doanh để hiểu về thị trường tiềm năng và những cơ hội mà bạn có thể nắm bắt
 
Hãy khuyến khích nhân viên học tiếng Anh và nên có khen thưởng cho những người hoàn thành một cấp độ nhất định về tiếng Anh. Đây là cách bạn chuẩn bị nguồn lực cho việc tiếp cận và phục vụ khách hàng từ nhiều quốc gia. Nếu có thể, chính bạn nên học thêm một ngôn ngữ của nước bản địa. Tiếng Trung cũng là một lựa chọn tốt vì không một quốc gia Đông Nam Á nào lại không có một cộng đồng người Hoa kinh doanh rất năng động. Không nên quên tuyển dụng bằng cả tiếng Anh, đây là cách bạn quốc tế hóa đội ngũ của mình một cách nhanh chóng và chứng minh cho nhà đầu tư sự chủ động của bạn trong việc phát triển đội ngũ để nắm bắt cơ hội. 
 
Tìm kiếm một mentor cho bạn và đưa văn hóa mentoring vào tổ chức để phát triển nhân viên: Theo lời khuyên của Ian Altman trên Forbes, 2016, việc đưa mentoring vào văn hóa doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sáng tạo và giúp tạo ra những nhân viên gắn bó hơn với tổ chức. Điều này hàm ý rằng, cách quản lý kiểu chỉ thị đã đến lúc thoái trào. Với những DNKN, tuổi đời trẻ và những con người trẻ, việc phát triển cùng nhau và cùng công ty sẽ tạo ra văn hóa công ty ngay từ đầu, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững lâu dài và hiệu quả.  
 
 
 
Nếu bạn đã sẵn sàng để thay đổi hoặc đã thay đổi phần nào những thứ chúng tôi nêu ở đây thì công việc tiếp theo của bạn là hãy cùng cả nhóm xem lại toàn bộ Mô hình kinh doanh của bạn theo chín nội dung theo thứ tự đánh số ở ảnh trên. Hãy nhớ thay đổi chín nội dung này theo các xu hướng và gợi ý ở trên, thay đổi ít nhất mỗi tháng một lần. Chỉ cần một trong số những nội dung này thay đổi theo các xu hướng trên, toàn bộ mô hình kinh doanh của doanh nghiệp bạn sẽ thay đổi. Đừng quên in trên giấy A0 và dán lên tường trong công ty, bạn sẽ thấy 2016 là một năm đầy ý nghĩa với doanh nghiệp của bạn. 
—–
 
Nguyễn Đặng Tuấn Minh*
 
*Giảng viên Khoa Quốc tế – Đại học Quốc gia Hà Nội & Đồng Sáng lập KisStartup.
 

Tìm một chiếc áo lớn hơn

 
 
 
Nguyễn Minh Thảo, chụp ở trụ sở FB, Menlo Park, California, Mỹ vào 1/1/2016.
 
 
Nhiều người cho rằng, doanh nghiệp thành lập ở nước ngoài là để được ưu đãi hơn về thuế, để nhà đầu tư hưởng các quyền lợi thỏa đáng hơn, để đỡ phải thực hiện các thủ tục phức tạp từ thành lập công ty cho đến báo cáo hằng tháng với các cơ quan hữu quan… Tuy nhiên, lí do thực sự là gì ?
Để trả lời câu hỏi này, Tia Sáng đã có trao đổi với hai người trong cuộc: Nguyễn Minh Thảo, người sáng lập startup Umbala, với sản phẩm là ứng dụng di động cho phép người dùng quay, sửa và chia sẻ các video ngắn, nhắm tới thị trường Mỹ đầu tiên rồi mở rộng ra toàn cầu và Lê Phước Phúc, sáng lập startup Wiindi, một trang thương mại điện tử kết hợp mạng xã hội về thời trang dự định tiếp cận thị trường Việt Nam trước rồi mở rộng sang thị trường Đông Nam Á. Umbala và Wiindi là hai trong số nhiều công ty đang có toàn bộ nhân viên làm việc và hoạt động tại Việt Nam nhưng lại có tư cách pháp nhân ở một nước khác: Umbala có trụ sở ở Mountain View, Mỹ và Wiindi có trụ sở ở Singapore.  
 
Dưới đây là ba lí do chính khiến họ thành lập công ty ở nước ngoài:
 
Thông tin rõ ràng, minh bạch hơn
 
Nhiều người cho rằng thành lập công ty ở nước ngoài là để…trốn thuế. “Có một sự thật mà ai cũng có thể nhìn ra được đó chính là thuế thu nhập doanh nghiệp tại Mỹ cao hơn Việt Nam nhiều, nếu nói thành lập công ty ở nước ngoài để trốn thuế là không thoả đáng” – Anh Nguyễn Minh Thảo chia sẻ. 
 
Họ lựa chọn nước ngoài để thành lập công ty không phải vì được ưu đãi thuế mà để… tiết kiệm thời gian làm các thủ tục hành chính. Nhìn từ góc độ là chủ doanh nghiệp tại Mỹ như anh Thảo, hay chủ doanh nghiệp tại Singapore như anh Phúc, cả hai đều chia sẻ quan điểm “quy trình thực hiện các giấy tờ hành chính [ở các nước này] rất rõ ràng, minh bạch và công khai, chủ doanh nghiệp có thể dễ dàng làm thủ tục, khai báo, nộp đơn hay chờ xét duyệt vấn đề nào đó qua hệ thống cổng thông tin điện tử của chính phủ là xong”. Với một công ty khởi nghiệp, họ chỉ muốn dành phần lớn thời gian để xây dựng sản phẩm, chăm sóc khách hàng, phát triển thị trường và kinh doanh, “không ai muốn bị mất quá nhiều thời gian vào những thủ tục hành chính, một lần đi nộp giấy tờ cũng có thể mất đến cả buổi sáng” – anh Phúc cho biết.
 
Hiện nay, đây có thể được nhìn nhận như là một vấn đề nhức nhối đối với bất kỳ ai đang kinh doanh trong nước. Để thử nghiệm, chính bản thân người viết bài đã thử tìm hiểu về việc xin cấp giấy phép thiết lập mạng xã hội trên công cụ tìm kiếm, kết quả được dẫn về website của Bộ Thông tin Truyền thông và sau đó thì website của Bộ thông báo rằng “nội dung không tồn tại”. Hệ thống nhà nước điện tử hiện đại nhất hiện nay có thể “tạm trao” cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư khi đã tiên phong đưa vào hoạt động hệ thống đăng ký thành lập doanh nghiệp mới hay chỉnh sửa thông tin doanh nghiệp trên cổng thông tin điện tử, thế nhưng cũng chỉ mới có thể phục vụ tốt nhất ở hai thành phố Hà Nội và TP.HCM. Hay Tổng cục Thuế – Bộ Tài chính đã làm rất tốt hệ thống kê khai thuế trực tuyến giúp người khai thuế dễ dàng nộp thông tin báo cáo định kỳ – nhưng hệ thống này cũng chỉ dành cho người biết về nghiệp vụ kế toán. 
 
Các thông tin khác hỗ trợ chủ doanh nghiệp đều nằm rải rác, mù mờ và khó lòng theo dõi được sự mới mẻ, mang tính cập nhật thời sự từ nhà nước.
 
Nhiều cơ hội tiếp cận nhà đầu tư hơn
 
Khi công ty khởi nghiệp còn quá non trẻ và mới mẻ thì việc tìm kiếm nhà đầu tư là một trong những công việc cần thiết và được ưu tiên nhất. Thế nhưng, nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ – thẳng thắn mà nhìn nhận – không thực sự mặn mà với các công ty của Việt Nam. Thứ nhất, những nhóm khởi nghiệp trong nước chưa thực sự thể hiện được tiềm năng phát triển, chưa có những sản phẩm nổi bật hấp dẫn người dùng nước ngoài. Thứ hai, việc bỏ ra một số tiền đầu tư rất nhỏ vào các công ty khởi nghiệp công nghệ (50.000 – 200.000 USD), không đáng để các nhà đầu tư mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc cho sự phức tạp của giấy tờ hành chính, quy trình pháp lý ở Việt Nam (chẳng hạn, có một số ngành nghề mà nhà đầu tư không được phép nắm trên 50% cổ phần, chưa có thông tư hướng dẫn về việc bãi bỏ giấy chứng nhận đầu tư đối với trường hợp đầu tư dưới 50% cổ phần, bán lại cổ phần của doanh nghiệp đã niêm yết hay chưa cũng phải chịu một mức thuế như nhau, thoái vốn bằng cách chờ doanh nghiệp lên sàn chứng khoán thì rất lâu hoặc không khả thi). 
 
Vì thế, lẽ dĩ nhiên, nếu thành lập công ty ở nước ngoài, startup có nhiều cơ hội được đầu tư hơn. Được chương trình tăng tốc hỗ trợ khởi nghiệp JFDI Asia có trụ sở chính tại Singapore đầu tư vào sản phẩm Wiindi ngay khi chưa có công ty, anh Phúc đã được JFDI Asia hỗ trợ mở công ty tại Singapore. Số tiền đầu tư vào công ty Wiindi không thực sự lớn, chỉ khoảng 25.000 đô-la Singapore và trong đó chỉ có khoảng 10.000 đô-la Singapore tiền mặt. Thế nhưng, từ khi có pháp nhân công ty tại Singapore, sản phẩm Wiindi được tiếp cận số lượng nhà đầu tư lớn và tiếng tăm hơn so với thời kì ở trong nước. Cũng khá dễ hiểu một điều khi Singapore là một trong năm thị trường tài chính lớn nhất thế giới và đây thực sự là một cổng đầu tư của toàn Đông Nam Á.
 
Thương hiệu để làm tiếp thị sản phẩm v tuyển dụng
 
“[Trước kia] khi tôi nói sản phẩm này là một sản phẩm khởi nghiệp từ Việt Nam, nhiều người còn hỏi ngược lại tôi rằng Việt Nam là ở đâu? Tôi đã rất sốc. Đến khi mày mò con đường đến Mỹ để thành lập công ty vẫn với sản phẩm ấy, rồi khi tham gia những sự kiện lớn tại đây và cho mọi người biết rằng đó là một sản phẩm tại Mountain View, ai cũng trầm trồ ngạc nhiên lẫn ngưỡng mộ. Mountain View hay những cái tên khác gắn liền với Silicon Valley, đều là những minh chứng cho những nỗ lực của các công ty khởi nghiệp. Ai ở đây cũng phải giỏi cả, vì chỉ có phải giỏi đến rất giỏi thì công ty khởi nghiệp mới tồn tại được. Chưa kể đến là trong quá trình tiếp thị và quảng bá sản phẩm, phần lớn người dùng họ vẫn có cảm giác thích những sản phẩm đến từ Mỹ hơn tất thảy. Minh chứng là Facebook, Google, Uber,… tất cả đến từ Mỹ!” – Anh Thảo chia sẻ.
 
Ngoài lợi thế quảng bá vì “thương hiệu ngoại phủ ngoài sản phẩm nội”, anh Thảo cho biết công ty có văn phòng ở nước ngoài còn có lợi thế trong việc tuyển dụng. “Anh nhận được hồ sơ ứng tuyển của các ứng viên trên khắp thế giới, thậm chí, có những người có thành tích rất “khủng”. Hệ sinh thái khởi nghiệp ở Silicon Valley mang đến cho người ta những ước mơ đổi đời khi làm việc trong các công ty khởi nghiệp, ngoài lương – ở một mức rất vừa phải, họ thường thích làm việc vì cổ phần hơn. Điều này là không thể có tại Việt Nam khi hầu hết bạn trẻ hiện nay đi làm, chỉ muốn hỏi về lương trước khi biết mình có thể đóng góp gì cho công ty hay có những nỗ lực đóng góp để cả công ty phát triển.”
 
Có thể thấy, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp thành công, ngoài việc thay đổi chính sách, pháp luật (công việc luôn đòi hỏi thời gian) thì điều có thể làm được ngay là minh bạch và đơn giản hóa các thủ tục, giấy phép bằng cách công khai cụ thể, rõ ràng các bước mà doanh nghiệp cần thực hiện lên trang web của các bộ, ngành liên quan và cho phép thực hiện hoàn toàn trên internet để tiết kiệm thời gian. Nếu không, thì dù tinh thần khởi nghiệp trong nước có sục sôi thì Việt Nam vẫn là một cái áo “chật chội”, hạn chế nhiều cơ hội phát triển của doanh nghiệp.
 
Ngân Sâu

Ba phương trình “thế kỷ” làm thay đổi thế giới

 
 
Biểu diễn số Pi.
Trong thế giới toán học có vô số những phương trình, nhưng chỉ có 3 phương trình có vai trò ứng dụng to lớn nhất trong thế kỷ 20.
 
 
Hãng tin BBC của Anh đã tiến hành cuộc khảo sát lấy ý kiến bình chọn của độc giả về các phương trình toán học có ý nghĩa nhất.
 
Sau đây là 3 phương trình được độc giả bình chọn nhiều nhất. 3 phương trình này là tiền đề phát triển của các ngành vật lý, hóa học, khám phá vũ trụ…
 
Phương trình Dirac
 
 
Phương trình này của nhà vật lý người Anh Paul Dirac (1902 – 1984), người sống cùng thời với nhà bác học Albert Einstein. Năm 1933, ông từng cùng nhận giải Nobel vật lý cùng với Erwin Schrodinger cho giả thuyết lượng tử.
 
 
 
Nhà vật lý Paul Dirac.
 
Phương trình của Paul Dirac kết hợp với thuyết tương đối của Albert Einstein dùng để tính chuyển động của các vật thể với tốc độ ánh sáng, với cơ học lượng tử được mô tả là hoạt động của những phân tử rất nhỏ.
 
Bằng cách tìm phương trình giải thích các electron xoay thế nào khi đạt tốc độ ánh sáng, Paul Dirac đã bước đầu đưa ra giả thuyết lượng tử và dự đoán sự tồn tại của kháng thể, mà lúc đó các nhà vật lý chưa hề nghĩ tới hay quan sát được.
 
Phương trình Dirac miêu tả cấu trúc tinh tế trong dải phổ hydro theo cách rất phức tạp. Phương trình cũng là sự hiệu chỉnh lý thuyết bằng việc đưa ra các hàm sóng chứa một số thành phần trong lý thuyết của Pauli về chuyển động xoay.
 
Hàm sóng trong lý thuyết của Dirac là các vectơ với bốn thành phần là các số phức (còn gọi là bispinor).
 
Hai trong số chúng giống với hàm sóng Pauli trong giới hạn phi tương đối tính, khác với phương trình Schrödinger mà miêu tả hàm sóng chỉ có một thành phần phức. Hơn nữa, trong trường hợp khối lượng gán bằng 0, phương trình Dirac trở thành phương trình Weyl.
 
Mặc dù ban đầu Dirac không hoàn toàn đánh giá được đầy đủ ý nghĩa quan trọng của phương trình này.
 
Nhưng với hệ quả của việc giải thích chuyển động xoay trong sự thống nhất giữa cơ học lượng tử với thuyết tương đối hẹp, phương trình Dirac là một trong những thành tựu to lớn của vật lý lý thuyết.
 
Phương trình Dirac là sự hội tụ trí tuệ của nhà bác học Newton, Maxwell và Einstein. Trong lý thuyết trường lượng tử, phương trình Dirac được giải thích theo nghĩa khác nhằm miêu tả trường lượng tử tương ứng với các hạt có chuyển động xoay.
 
Đồng nhất thức Leonhard Euler
 
 
Nhà toán học Leonhard Euler (1707 – 1783), người Thụy Sĩ, được mệnh danh là “Mozart trong toán học” bởi ông có sức làm việc phi thường nhất.
 
 
 
Chân dung nhà toán học Leonhard Euler.
 
Các công trình khoa học của ông thuộc về nhiều ngành lĩnh vực khác nhau để lại cho hậu thế nhiều vô kể.
 
Tính ngang bằng của đồng nhất thức này của Leonhard Euler trông có vẻ đơn giản hơn phương trình của Diract.
 
Nhưng đồng nhất thức nhìn tưởng như đơn giản này lại thâu tóm một số nguyên tắc toán học cơ bản nhất.
 
Phương trình chứa 5 con số quan trọng nhất trong toán học là 1, 0, Pi, i, và e với 3 phép tính cơ bản trong toán học là: cộng, nhân và mũ hóa.
 
Chữ “I” ở đây là con số tưởng tượng, bình phương gốc của -1. Chữ “e” là con số tương đương 2.71828, nhưng giống như Pi, e vô tỉ.
 
Nhìn tưởng như đơn giản nhưng đồng nhất thức này có vai trò rất quan trọng trong mọi khía cạnh cơ bản của toán học.
 
Con số Pi
 
 
 
Biểu diễn số Pi.
 
Con số Pi có lẽ được sử dụng nhiều nhất trong trường phổ thông. Pi là tỷ số của chu vi của một đường tròn với đường kính của đường tròn đó
 
Pi tương đương 3.14159, nhưng nó cũng vô tỉ. Người Babylon cổ đại nghĩ ra con số Pi cách đây 4.000 năm và vẫn được sử dụng đến ngày nay.
 
Số Pi giúp chúng ta khám phá các hành tinh, phóng tàu vũ trụ, thậm chí còn được ứng dụng vào tính đường xoắn ốc ADN kép.
 
Tính siêu việt của Pi kéo theo sự vô nghiệm của bài toán cầu phương. Các con số thập phân của Pi dường như xuất hiện theo một thứ tự ngẫu nhiên, mặc dù người ta chưa tìm được bằng chứng cho tính ngẫu nhiên này.
 
Hàng ngàn năm qua, các nhà toán học đã nỗ lực mở rộng hiểu biết của con người về số Pi bằng việc tính ra giá trị của nó với độ chính xác ngày càng cao hơn.
 
*Nguồn: Tech Insider