Khai mạc Hội thảo Việt Nam – Liên bang Nga về hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân

Sáng ngày 23/6/2015, Hội thảo Việt Nam – Liên bang Nga về hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân đã được khai mạc tại trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ. Hội thảo do Cục Năng lượng nguyên tử chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan của Việt Nam và Liên bang Nga tổ chức từ ngày 23-25/6/2015.
 
Các đại biểu tham dự Hội thảo
 
 
 
Đây là một trong các hoạt động chính nhằm triển khai kết luận của Khóa họp 7 Ủy ban điều phối hợp tác năng lượng nguyên tử vì hòa bình của Việt Nam – Liên bang Nga. Mục đích của Hội thảo là xây dựng khung kế hoạch hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga về phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân giai đoạn 2015-2017.
 
Đoàn công tác của Liên bang Nga do ông Yury SOKOLOV, Trưởng ban hợp tác quốc tế về Khoa học và kỹ thuật của Công ty Rosenergoatom làm Trưởng đoàn và 7 cán bộ quản lý của Tập đoàn Năng lượng nguyên tử quốc gia ROSATOM (Cục Chính sách nhân lực, Ban Kinh doanh quốc tế, Công ty Mạng lưới quốc tế RUSATOM, Văn phòng dự án cơ sở hạ tầng điện hạt nhân) và Cơ quan liên bang Rostechnadzor.
 
Về phía Việt Nam, tham dự Hội thảo có các đại biểu của các Bộ, ngành, cơ quan: Bộ Khoa học và Công nghệ (Cục Năng lượng nguyên tử, Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, Vụ Hợp tác quốc tế), Bộ Công Thương (Tổng Cục Năng lượng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Văn phòng Ban Chỉ đạo Nhà nước Dự án Điện hạt nhân Ninh Thuận), Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công an, Bộ Xây dựng.
 
Cũng trong sáng ngày 23/6, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Việt Thanh đã tiếp xã giao Đoàn công tác của Liên bang Nga. Tại buổi tiếp, Thứ trưởng đánh giá cao sự hỗ trợ kịp thời và hiệu quả của Liên bang Nga đối với chương trình điện hạt nhân ở Việt Nam. Thứ trưởng cho biết Kế hoạch Tổng thể về phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2014. Bộ Khoa học Công nghệ với vai trò là cơ quan điều phối, chủ trì về phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân sẽ tạo mọi điều kiện để thúc đẩy hợp tác với Nga trong lĩnh vực này, đặc biệt là hợp tác xây dựng đội ngũ chuyên gia quản lý và kỹ thuật phục vụ phát triển điện hạt nhân. Thứ trưởng mong muốn phía Nga sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng Trung tâm khoa học công nghệ và hạt nhân trở thành cơ sở nghiên cứu đào tạo nhân lực hạt nhân tầm cỡ trong khu vực.
 
Thứ trưởng Trần Việt Thanh tiếp đoàn
 
 
Thay mặt Đoàn công tác của Liên bang Nga, ông Y. SOKOLOV bày tỏ cam kết Nga sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong các hoạt động phục vụ phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân như tăng cường đào tạo trong lĩnh vực quản lý nhà nước, nghiên cứu triển khai, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng, quản lý và vận hành nhà máy điện hạt nhân, góp phần phát triển một cách an toàn và hiệu quả điện hạt nhân ở Việt Nam. Với kinh nghiệm nhiều năm làm việc tại cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) ở cương vị Phó Tổng Giám đốc phụ trách lĩnh vực điện hạt nhân, ông Yury SOKOLOV đã giành nhiều sự giúp đỡ trong việc phát triển cơ sở hạ tầng hạt nhân quốc gia cho các nước mới bắt đầu chương trình hạt nhân, trong đó có Việt Nam.
 
Về đào tạo nhân lực cho điện hạt nhân, ông Y. SOKOLOV khẳng định phía Nga sẽ tạo điều kiện cho các cán bộ, sinh viên Việt Nam sang thực tập tại các cơ sở hạt nhân của Liên bang Nga.
 
Trong 03 ngày làm việc, các đại biểu sẽ tiến hành thảo luận về khung kế hoạch hợp tác song phương để phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân Việt Nam giai đoạn 2015-2017 theo19 vấn đề về phát triển điện hạt nhân của IAEA, trong đó tập trung thảo luận về 3 nhóm vấn đề chính bao gồm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện khuôn khổ pháp quy và thông tin tuyên truyền điện hạt nhân.
 
Liên bang Nga hiện có 10 nhà máy điện hạt nhân với 34 tổ máy. Hiện nay, Nga đang xúc tiến các dự án mới tại các nước như Belarus, Thổ Nhĩ Kỳ, Banglades, Jordan, Việt Nam, vv…
 
Nguồn:  Cục Năng lượng nguyên tử

Hội thảo Nghiên cứu và Phát triển nguồn nhân lực công nghệ hạt nhân Việt – Nhật lần thứ 4

 
Tiếp nối thành công của 3 lần tổ chức trước, Hội thảo Nghiên cứu và Phát triển nguồn nhân lực công nghệ hạt nhân Việt – Nhật lần thứ 4 đã được tổ chức trong 2 ngày 11 – 12/6/2015 dưới sự tài trợ của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (Viện NLNTVN), Tổ chức phát triển năng lượng hạt nhân quốc tế (JINED) và Trung tâm hợp tác quốc tế thuộc Diễn đàn công nghiệp năng lượng nguyên tử Nhật Bản (JICC), tại Hội trường Trung tâm Đào tạo hạt nhân 140 Nguyễn Tuân, Thanh Xuân, Hà Nội.
 
Tới tham dự Diễn đàn về phía Việt Nam có sự tham dự của lãnh đạo Viện NLNTVN, lãnh đạo các đơn vị – ban ngành trực thuộc Viện NLNTVN; đại diện Cục Năng lượng nguyên tử; đại diện Cục An toàn bức xạ và hạt nhân; đại diện đến từ các trường Đại học như Đại học khoa học tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học Đà Lạt. Về phía khách mời, Hội thảo vinh dự có sự tham dự của GS. Trần Hữu Phát, GS. Phạm Duy Hiển và GS. Pierre Darriulat.
 
Các đại biểu tham dự đến từ Nhật Bản gồm có các giáo sư, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu đến từ Học viện công nghệ Tokyo, Đại học Tokyo, Đại học Kyoto, Đại học Nagaoka, Đại học Osaka; JINED, JIC, các công ty Misubishi, Toshiba, Hitachi v.v.
 
Nội dung thảo luận của Hội thảo lần này tập trung chủ yếu vào vấn đề xây dựng và đào tạo nguồn nhân lực cho công nghệ hạt nhân, song hành với đó là cách sử dụng và xây dựng các thiết bị – hệ thí nghiệm sao cho có hiệu quả. Chương trình Hội thảo được chia thành 2 phần: (1) Hội thảo lắng nghe và thảo luận về các bài trình bày của các đại biểu; (2) phần thảo luận chung với chủ đề “Các chương trình phát triển nguồn nhân lực để làm tăng thêm nhà quản lý cao nhất trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân”.
 
Bắt đầu Hội thảo, TS. Trần Chí Thành – Viện trưởng Viện NLNTVN và GS. Masaki SAITO – Học viện công nghệ Tokyo, đã phát biểu khai mạc và chào mừng các đại biểu tới tham dự Hội thảo.
 
 
TS. Trần Chí Thành đại diện phía Việt Nam phát biểu khai mạc Hội thảo
 
 
 
GS. Masaki SAITO đại diện phía Nhật Bản phát biểu khai mạc Hội thảo
 
 
Tiếp đó Hội thảo đã được nghe 16 bài trình bày, trong đó có 6 bài trình bày của các đại biểu Việt Nam và 10 bài của các đại biểu Nhật Bản. Trong các bài trình bày của mình, các đại biểu Việt Nam đã khái quát bức tranh tổng thể về nguồn nhân lực của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ hạt nhân hiện nay, cả ở Cơ quan pháp quy, các Viện nghiên cứu và các trường Đại học. Bức tranh tổng thể này cho thấy hiện nay Việt Nam đang thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực có chất lượng và chất lượng cao, cơ sở vật chất và thiết bị còn thiếu hoặc chưa được sử dụng một cách hiệu quả cho việc đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học. Sự phối hợp – hợp tác để đào tạo nguồn nhân lực giữa các cơ quan trong nước hiện nay mới chỉ ở bước đầu và còn có nhiều hạn chế. Trong khi đó hợp tác với nước ngoài trong việc đào tạo nhân lực chưa mang lại nhiều bước tiến đáng kể, đặc biệt hiện nay thiếu hụt nghiêm trọng đội ngũ cán bộ trẻ đáp ứng được các yêu cầu để cử đi đào tạo ở nước ngoài cả về kiến thức chuyên môn cũng như kỹ năng ngoại ngữ, trong đó ngoại ngữ đang là rào cản lớn nhất. Với những khó khăn và thách thức như vậy, các cơ quan này đang từng bước khắc phục khó khăn bằng việc vạch ra kế hoạch đào tạo nhân lực cụ thể, tiến hành hợp tác sâu rộng hơn nữa với các cơ quan trong nước và với các đối tác nước ngoài.
 
Nhật Bản có hơn 50 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ hạt nhân, do đó các bài trình bày các đại biểu Nhật Bản cho thấy những kinh nghiệm trong việc đào tạo nguồn nhân lực, hệ thống liên kết hợp tác sâu rộng trong việc đào tạo nhân lực và các trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học. Các đại biểu Nhật Bản bày tỏ sẵn sàng hợp tác và hỗ trợ Việt Nam trong vấn đề tạo nguồn nhân lực cũng như việc sử dụng một cách hiệu quả các trang thiết bị thí nghiệm.
 
Xen kẽ các bài trình bày của các đại biểu là các câu hỏi và những sự góp ý về nội dung liên quan đến bài trình bày, các câu hỏi của đại biểu Việt Nam dành cho Nhật Bản tập trung về vấn đề như: Nhật Bản có những giải pháp gì để hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo nguồn nhân lực?; Khi triển khai các chương trình đào tạo ở Việt Nam thì Việt Nam cần phải làm gì để tham gia một cách hiệu quả nhất? v.v. Về phía các đại biểu Nhật Bản, các câu hỏi chủ yếu quan tâm tới sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan của Việt Nam trong việc đào tạo nguồn nhân lực.
 
Phần thảo luận chung với chủ đề “Các chương trình phát triển nguồn nhân lực để làm tăng thêm nhà quản lý cao nhất trong việc sử dụng năng lượng hạt nhân”, với các bài trình bày của 6 đại biểu: TS. Trần Chí Thành – Viện NLNTVN, TS. Lê Quang Hiệp – Cục An toàn bức xạ và hạt nhân, TS. Võ Hông Hải – Đại học Khoa học tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh, GS. Masaki SAITO – Học viện công nghệ Tokyo, GS. Akira YAMAGUCHI – Đại học Tokyo, GS. Tadashi NARABAYASHI – Đại học Hokkaido. Phần thảo luận chung đã diễn ra trong không khí thẳng thắn, cởi mở với những ý kiến được trình bày từ 6 đại biểu và các câu hỏi cũng như lời đóng góp đến từ các đại biểu.
 
 
TS. Lê Quang Hiệp trình bày trong phần thảo luận chung
 
 
Kết thúc Hội thảo, TS. Nguyễn Hào Quang – Phó Viện trưởng Viện NLNTVN và GS. Jun SUGIMOTO – Đại học Tokyo, đại diện cho hai bên phát biểu tổng kết hai ngày làm việc của Hội thảo. Thông qua các bài trình bày của các đại biểu, phía Nhật Bản hiểu và nắm rõ hiện trạng nguồn nhân lực của Việt Nam, về phía Việt Nam thấy được những kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc đào tào nguồn nhân lực cho lĩnh vực công nghệ hạt nhân, từ đó hai bên sẽ tìm ra những cơ hội hợp tác cũng như các bước đi cụ thể trong chương trình hợp tác để mang lại hiệu quả tốt nhất cho Việt Nam./.
 
Nguồn:  Đoàn Mạnh Long, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam

Thông báo kêu gọi đề xuất dự án nghiên cứu chung của Quỹ Newton – Vương quốc Anh, Việt Nam, Thái Lan, Philippines và Trung Quốc trong lĩnh vực nghiên cứu lúa gạo

Hạn nộp hồ sơ: 16:00 ngày 13/8/2015
 
 
Tổng quan
 
Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam (MOST) và Hội đồng nghiên cứu Công nghệ sinh học và Khoa học sinh học Vương quốc Anh (BBSRC) mời nộp các đề xuất dự án nghiên cứu chung trong lĩnh vực lúa gạo.
Đây là sáng kiến chung thuộc khuôn khổ Quỹ Newton với sự tham gia hợp tác của:
 
· Hội đồng nghiên cứu Môi trường tự nhiên Vương quốc Anh(NERC);
 
· Cục Phát triển Khoa học và Công nghệ quốc gia Thái Lan (NSDTA);
 
· Cục Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Thái Lan (ARDA);
 
· Hội đồng Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp, Thủy sản và Tài nguyên Philippines(PCAARRD);
 
· Viện nghiên cứu lúa gạo Philippines, Bộ Nông nghiệp Philippines(Philrice);
 
· Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc
 
Mục tiêu của thông báokêu gọi này làthúc đẩykết hợp thế mạnh của các viện nghiên cứu Việt Nam, Thái Lan, Philippines,Trung Quốc và Vương quốc Anh trong các dự án hợp tác nghiên cứu nhằm củng cố việc sản xuất lúa gạo bền vững.
 
Phạm vi
 
Các nhà nghiên cứu đạt tiêu chuẩn hợp lệ của Vương quốc Anh, Việt Nam, Thái Lan, Philippines, Trung Quốc được mời nộp đề xuất các dự án nghiên cứu song phương hoặc đa phương. Tất cả các đề xuất cho Việt Nam phải có sự tham gia của một cơ quan nghiên cứu của Vương quốc Anh và một cơ quan nghiên cứu của Việt Nam. Sự tham gia của các cơ quan nghiên cứu của các nước còn lại được khuyến khích nhưng không bắt buộc.
 
Các nhà tài trợ mong muốn hỗ trợ các ý tưởng trong nghiên cứu cơ bản, chiến lược hoặc ứng dụng nhằm củng cố sản xuất lúa gạo bền vững dài hạn. Các đề xuất nghiên cứu trong thời hạn tối đa 3 năm cần giải quyết được những mục tiêu sau đây tại Việt Nam:
 
· Nâng cao năng khả năng kháng chịu các điều kiện bất thuận sinh học và phi sinh học;
 
· Cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên (nitơ, phốt pho, nước);
 
· Cải thiện chất lượng lúa gạo (tăng cường dinh dưỡng và chất lượng hạt);
 
· Tận dụng các sản phẩm phụ của sản xuất lúa gạo;
 
· Phát triển các công nghệ và công cụ mới nhằm hỗ trợ các lĩnh vực nói trên (bao gồm các hệ thống sinh học, tin sinh học, sàng lọc và mô tả đặc điểm của vật liệu di truyền để khám phá gene và các tính trạng);
 
Các nhà tài trợ mong muốn phát triển và tăng cường hợp tác liên quốc gia với những dự án có tác động thực sự. Các ứng viên phải chứng minh rõtính bền vững của việc hợp tác và các tác động tiềm năng của đề xuất dự án này.
 
Thông tin chi tiết được ghi đầy đủ trong bản Hướng dẫn ứng viên trên trang tin của BBSRC.
 
Tài trợ
 
Theo dự kiến, chương trình hợp tác này của Việt Nam sẽ hỗ trợ được tối đa 5 dự án hợp tác. Mỗi dự án sẽ kéo dài trong thời gian tối đa là 3 năm.
 
BBSRC và NERC sẽ tài trợ tối đa 1.6 triệu Bảng Anh/5 dự án cho các nhà khoa học Anh hợp tác với Việt Nam. Bộ KH&CN sẽ tài trợ tối đa tương đương 600.000 bảng Anh cho các nhà khoa học Việt Nam tham gia chương trình này.
 
Thông tin chi tiết đối với từng nước được ghi đầy đủ trong Phụ lục của bản Hướng dẫn ứng viên.
 
Điều kiện tham gia
 
Các ứng viên tham gia chương trình này phải đáp ứng đủ các điều kiện hợp lệ theo quy định quốc gia của mỗi nước. Các hạng mục xin tài trợ cũng cần tuân thủ quy định của mỗi nước. Thông tin chi tiết được ghi đầy đủ trong bản Hướng dẫn ứng viên, trên trang tin của BBSRC.
 
Các viện nghiên cứu của Vương quốc Anh phải đáp ứng đủ điều kiện của BBSRC và NERC.
 
Các ứng viên Việt Nam phải tuân theo các điều kiện do Bộ KH&CN quy định tại Thông tư 12/2014/TT-BKHCN ngày 30/5/2014 về việc quy định quản lý các nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo Nghị định thư.
 
Quỹ Newton
 
Tổng số tiền đóng góp của Vương quốc Anh sẽ được phân bổ từ quỹ Newton. Quỹ Newton là sáng kiến đẩy mạnh quan hệ hợp tác về nghiên cứu và đổi mới sáng tạo giữa Vương quốc Anh với các nền kinh tế tri thức mới nổi trong đó có Việt Nam. Quỹ sẽ tài trợ tổng cộng 375 triệu bảng Anh trên toàn cầu trong vòng 5 năm.
 
Quỹ Newton yêu cầu việc tài trợ phải dành cho các dự án nghiên cứu có liên quan tới cộng đồng dân cư của các nước tham gia. Tất cả các ứng viên nằm trong khuôn khổ kêu gọi này phải đáp ứng được yêu cầu từ phía RCUK.
 
Cách thức tham gia
 
Đối với nhà khoa học Anh:
 
Đề xuất chi tiết của phía Anh sẽ phải được nộp cho BBSRC thông qua hệ thống Je-S trước 16:00 ngày 13/8/2015.Các ứng viên mong muốn tham gia kêu gọi này phải sử dụng bản Đề xuất xin tài trợ dành riêng cho lần mời nộp hồ sơ này. Các ứng viên của Anh sẽ nộp hồ sơ và được đánh giá bởi BBSRC.
 
Đối với nhà khoa học Việt Nam:
 
Các ứng viên Việt Nam phải nộp Đề cương đề xuất ý tưởng (bản cứng) cho Bộ KH&CN muộn nhất vào ngày 13/8/2015.
 
Hồ sơ được gửi tới Bộ KH&CN phải bao gồm các tài liệu sau:
 
– Mẫu chung Đề xuất xin tài trợ (bằng tiếng Anh). Xin xem tại phần tải tài liệu
 
– Công văn đề xuất của Bộ chủ quản;
 
– Đề cương đề xuất nhiệm vụ Khoa học và Công nghệ theo Nghị định thư (Mẫu 1 Thông tư 12/2014/TT-BKHCN) (bằng tiếng Việt).
 
Đối với nhà khoa học Thái Lan, Philippines, Trung Quốc:Thông tin chi tiết được nêu tại bản Hướng dẫn ứng viên, đăng trên trang tin của BBSRC.
 
Tiêu chí đánh giá
 
Các đề xuất muốn nhận được tài trợ phải có tính cạnh tranh quốc tế và đạt các tiêu chuẩn do các nhà tài trợ quy định.
 
Các tiêu chí đánh giá chính đối với các hồ sơ bao gồm:
 
· Tính hợp lý về khoa học: tính mới, tầm quan trọng và tính cấp thiết của các đề xuất;
 
· Thiết kế và tính khả thi của phương pháp luận;
 
· Giá trị gia tăng của đề xuất đối với các nghiên cứu hiện tại trong lĩnh vực quan tâm;
 
· Ý nghĩa và tác động của nghiên cứu;
 
· Phát triển quan hệ hợp tác nghiên cứu: thế mạnh và sự rõ ràng của sự hợp tác cũng như các cơ hội mang lại;
 
· Sự phù hợp của cấu trúc dự án (quản trị, quản lý các dữ liệu, chia sẻ và quản lý các tài sản sở hữu trí tuệ);
 
· Giá trị gia tăng của việc hợp tác nghiên cứu chung;
 
· Tiềm năng hợp tác để nâng cao năng lực giữa các nước đối tác;
 
· Giá trị về mặt kinh phí.
 
Thông tin chi tiết về quá trình đánh giá được nêu trong bản Hướng dẫn ứng viên.
 
Liên hệ
 
Để biết thêm chi tiết các ứng viên Vương quốc Anh vui lòng liên hệ: newtonfund@bbsrc.ac.uk
 
Để biết thêm chi tiết các ứng viên Việt Nam vui lòng liên hệ:
 
Ông Đỗ Xuân Anh
 
Vụ Hợp tác Quốc tế
 
Bộ Khoa học và Công nghệ
 
113 Trần Duy Hưng, Hà Nội
 
Tel: + 84.4.39435376
 
Mobile: + 84(0)986828788
 
Fax: + 84.4.39439987
 
Email: dxanh@most.gov.vn
 
Tệp đính kèm:
 
– Rice research initiative – Case for support
 

Viện Ứng dụng Công nghệ, Bộ KH&CN: Lĩnh vực công nghiệp quốc phòng là hướng đi chiến lược

 
ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ
 
Từ khi thành lập đến nay, Viện Ứng dụng Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) luôn “theo đuổi” nghiên cứu công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng (CNQP). Với những thành công đã đạt được, viện đã được Tổng cục CNQP (Bộ Quốc phòng) tin tưởng, trao trọng trách trong việc tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu những ứng dụng mới trong lĩnh quốc phòng.
 
Phóng viên đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Mạnh Cường, Phó viện trưởng Viện Ứng dụng Công nghệ về vấn đề này.
 
Thành công từ sự tin cậy
 
Phóng viên (PV): Viện Ứng dụng Công nghệ vừa được Tổng cục CNQP trao Giấy chứng nhận đủ điều kiện tham gia hoạt động CNQP. Ông đánh giá thế nào về việc này?
 
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Việc được trao Giấy chứng nhận vừa qua là một bước tuân thủ quy định của Bộ Quốc phòng về việc tham gia hoạt động CNQP của các đơn vị dân sự. Đây là sự ghi nhận về quá trình hợp tác cùng phát triển các sản phẩm, giải pháp, công nghệ của viện trong lĩnh vực quân sự. Ngay từ những ngày đầu thành lập, hơn 30 năm trước, viện đã được tin tưởng, giao các nhiệm vụ tham gia vào xây dựng tiềm lực kỹ thuật, công nghệ ứng dụng trong các khí tài của nhiều quân, binh chủng. Với một tổ chức dân sự, chúng tôi nhìn nhận lĩnh vực CNQP là một thị trường quan trọng có tính chiến lược trong tầm nhìn phát triển của viện cả trước đây và sau này.
 
Các sản phẩm, giải pháp của viện trong một chặng đường dài vừa qua là tâm huyết, sự tích tụ của nhiều thế hệ cán bộ; của sự hợp tác gắn bó giữa viện và các cơ quan kỹ thuật, các quân, binh chủng thuộc Bộ Quốc phòng. Sự tiếp tục tin cậy qua việc cấp Giấy chứng nhận vừa qua chính là chứng chỉ thành công của quá trình tham gia của viện trong lĩnh vực quốc phòng.
 
PV: Viện đã có những nghiên cứu, ứng dụng gì nổi bật trong lĩnh vực quốc phòng, thưa ông?
 
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Thời gian qua, chúng tôi tập trung vào công nghệ laser; hệ thống thu và xử lý hồng ngoại; công nghệ màng mỏng quang học; các giải pháp liên quan đến hệ thống radar; các ứng dụng mô phỏng, giả lập trong đào tạo huấn luyện. Lĩnh vực vật liệu tiên tiến, chúng tôi có một số giải pháp ứng dụng trong các thiết bị khí tài, phục vụ cho bộ binh, hải quân. Một số sản phẩm đã được Bộ Quốc phòng ghi nhận và đã được chuyển giao như: Hệ thống đo xa bằng laser, hệ thống quan trắc quang học bằng hồng ngoại, thiết bị huấn luyện, linh kiện quang học hồng ngoại…
 
Một trong những công việc chúng tôi đang tham gia sâu, đó là hiện đại hóa các hệ thống radar theo hướng nâng cao độ phân giải, độ phát quét, giảm kích thước và bảo đảm hoạt động ổn định trong môi trường khí hậu nhiệt đới ở nước ta. Bên cạnh đó, chúng tôi tham gia vào chương trình cải tiến chức năng của kênh thu cao tần radar và thiết kế hệ thống hiển thị sơ cấp của hệ thống radar P18 trên màn hình dân dụng; các hệ thống thông tin chỉ huy vô tuyến điện phục vụ công tác lãnh đạo, cảnh báo di chuyển bằng sóng siêu âm; cung cấp giải pháp thiết bị trắc thủ pháo binh trên sa bàn mô phỏng, thiết bị giải mã tái hiện quy trình bay trên màn hình máy tính nhằm đánh giá việc thực hành bay của phi công trong buồng tập bắn tên lửa; huấn luyện cho phi công sử dụng tên lửa không đối không… Trong lĩnh vực điều khiển, chúng tôi cùng tham gia xây dựng hệ thống bám sát tự động mục tiêu bằng ảnh hồng ngoại cho tác chiến tên lửa; hệ thống cảnh giới tầm xa cho đài điều khiển tên lửa Volga; hệ thống phục vụ chiến đấu ban đêm tự động; máy chỉ huy phục vụ đánh đêm trong pháo phòng không. Một trong những giải pháp mà chúng tôi đã chuyển giao rất thành công đó là các thiết bị mô phỏng phục vụ huấn luyện bắn đạn thật; thiết bị mô phỏng trường bắn mini trong nhà…
 
Đồng hành với đối tác
 
PV: Từ những nghiên cứu đến ứng dụng thành công vào thực tiễn là một khoảng cách khá xa. Vậy viện và nhóm nghiên cứu đã có những biện pháp gì để thu hẹp khoảng cách này?
 
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Theo tôi, từ nghiên cứu đến ứng dụng thành công vào thực tiễn không chỉ là một khoảng cách xa mà nhiều khi không bao giờ tới. Tuy nhiên, những kinh nghiệm thành công đã chỉ rõ, để nhanh chóng tiến lại gần với thực tiễn, để các sản phẩm mà chúng tôi cung cấp đến được với địa chỉ sử dụng thì một trong những giải pháp mang tính chất quyết định là sự vào cuộc sớm, đồng hành với đối tác ngay từ những ngày đầu. Sự kết nối thường xuyên giữa viện và các đối tác đã giúp các giải pháp của viện nhanh chóng được ứng dụng vào thực tiễn. Trong lĩnh vực CNQP, hợp tác sớm là vấn đề mang tính nguyên tắc. Nếu không tham gia vào ngay từ đầu thì không thể nắm được thực tiễn. Những sản phẩm kể trên chính là sự khẳng định cho quá trình hợp tác lâu dài giữa viện với các đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng. Để theo đuổi những dòng sản phẩm này phải mất hàng chục năm. Sự tin cậy của Bộ Quốc phòng là giá trị gia tăng lớn nhất mà viện đã tích lũy được.
 
Quá trình hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng đã có lịch sử lâu dài và đã có những bài học thành công. Việc có thêm Giấy chứng nhận là cam kết tăng cường trách nhiệm, tiếp tục đẩy mạnh và là sự cam kết mãnh mẽ cùng tham gia hiện đại hóa CNQP. Về cơ sở pháp lý, đây như một giấy thông hành quan trọng. Với những dòng sản phẩm truyền thống thì đây là khẳng định sự hợp tác tường minh.
 
PV: Ông có thể cho biết, trong thời gian tới, viện triển khai những nghiên cứu ứng dụng gì nổi bật?
 
Ông Nguyễn Mạnh Cường: Quan điểm của viện là vẫn phát triển các sản phẩm truyền thống và mở rộng theo định hướng gắn kết chặt chẽ với thị trường, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, đồng hành cùng phát triển. Chính vì vậy, các dòng sản phẩm trong lĩnh vực quốc phòng vẫn là hướng chiến lược của viện. Ngoài ra, viện tiếp tục phát triển một số ứng dụng có tiềm năng như: Quang điện tử, điện tử chuyên dụng ứng dụng trong lĩnh vực công nghiệp, giao thông vận tải, thăm dò và khai thác dầu khí, thiết bị y tế và sẽ mở rộng các ứng dụng trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ; thúc đẩy, mở rộng tham gia vào lĩnh vực khoa học sự sống như: Công nghệ sinh học trong phục vụ nông nghiệp; lĩnh vực bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu và công nghệ y sinh.
 
Ví dụ như trong lĩnh vực quang điện tử ứng dụng, chúng tôi đang tham gia vào nghiên cứu hệ thống giao thông thông minh ITS. Đây là hệ thống tích hợp, phức hợp rất nhiều công nghệ như: Hệ thống xử lý hình ảnh thời gian thực, hệ thống trung tâm chỉ huy, hệ thống thông tin liên lạc… Trong đó các hệ thống quang điện tử là một trong những hệ thống nền tảng…
 
PV: Xin cảm ơn ông!
 
Nguồn tin: http://www.qdnd.vn

Đầu tư cho khoa học và công nghệ đã mang lại hiệu quả cao nhất

 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân. Ảnh: Trần Minh
 
Những năm qua, thành tựu của nền khoa học và công nghệ (KH&CN) nước ta đã góp phần quan trọng vào sự phát triển chung của kinh tế-xã hội, làm tăng ngân sách Nhà nước, tăng năng suất lao động và thực sự trở thành động lực cho sự phát triển.
Để KH&CN đi vào mọi ngóc ngách của đời sống thì không chỉ cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị mà cần sự chung tay, góp sức của cả xã hội. Với góc độ quản lý nhà nước về KH&CN, Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân đã có trao đổi với phóng viên báo chí về vấn đề này.
 
Phóng viên: Mỗi năm, Nhà nước chi 2% cho KH&CN trong tổng chi ngân sách. Xin Bộ trưởng cho biết một vài đánh giá về hiệu quả đạt được của công tác nghiên cứu, ứng dụng KH&CN tới sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Theo tôi, mức chi 2% của ngân sách nhà nước cho KH&CN trong tổng chi ngân sách nhà nước là mức không phải thấp so với tỷ lệ chung của thế giới. Đánh giá về hiệu quả, có thể nói GDP của nước ta còn thấp nên tổng chi ngân sách Nhà nước cho KH&CN không nhiều. Những năm gần đây, GDP của cả nước đạt khoảng hơn 1 triệu tỷ đồng, trong đó chi cho KH&CN khoảng 20 nghìn tỷ đồng. Do phải dành một phần cho dự phòng và an ninh-quốc phòng nên thực chi chỉ giao động từ 1,3-1,5% tổng chi ngân sách Nhà nước cho KH&CN. Trong số này đã dành khoảng hơn 80% cho chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, không trực tiếp dành cho nghiên cứu và ứng dụng. Chỉ khoảng hơn 10% trong số đó (mỗi năm khoảng hơn 2.000 tỷ đồng) là dành cho các đề tài nghiên cứu, cấp nhà nước và cấp bộ. 
 
Trong 5 năm qua, các sản phẩm KH&CN đã có được những con số ấn tượng, nhiều sản phẩm tốt. Ví dụ như nước ta đã trở thành một trong 4 quốc gia trên thế giới sản xuất đươc vắc-xin tiêu chảy Rota; là 1 trong 10 quốc gia trên thế giới, 3 quốc gia châu Á tự thiết kế và đóng được giàn khoan đạt tiêu chuẩn quốc tế, giàn khoan 90m nước và 120m nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã có thể tự lực được trong việc chế tạo tàu hộ vệ tên lửa thế hệ tương đối hiện đại theo thiết kế của LB Nga. Lần đầu tiên nước ta cũng vượt ngưỡng 2.000 công bố quốc tế trên các tạp chí uy tín về KH&CN.
 
Để đánh giá tổng quan hiệu quả của hoạt động KH&CN, tôi có thể đưa ra những con số cụ thể. Trước đây, ICOR (chỉ số đánh giá hiệu quả đầu tư) của nước ta rất lớn, thường trên 7 nhưng gần đây đã giảm xuống sau khi nước ta thực hiện tái cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư thì ICOR đã giảm xuống còn trên 5. Nghĩa là bỏ ra 5 đồng vốn thì đem lại 1 đồng cho tăng trưởng GDP. Trong KH&CN, chỉ tiêu quan trọng nhất là yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đánh giá đóng góp của đổi mới và tăng trưởng vào GDP quốc gia. Theo kinh nghiệm của các nước, phần đóng góp về KH&CN trong TFP thường rất lớn, ví dụ như Ma-lai-xi-a, đóng góp của KH&CN trong TFP là hơn 70%. Ở nước ta, nếu lấy mức đóng góp của KH&CN trong TFP với mức khiêm tốn nhất là 10% thì sẽ có nghĩa là KH&CN đã đóng góp khoảng 3% vào GDP quốc gia. Như vậy, đầu tư 2% tổng chi ngân sách Nhà nước, tương đương khoảng 0,5% GDP quốc gia cho KH&CN thì sẽ tạo ra được 3% GDP quốc gia. Hay nói cách khác, chỉ số ICOR trong lĩnh vực KH&CN của nước ta là 0,5/3. Trái ngược với ICOR trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản là 5/1. Có thể khẳng định, một đồng vốn đầu tư cho KHCN có hiệu quả cao gấp nhiều lần so với đầu tư vào các lĩnh vực khác.
 
PV: Bên cạnh những thành tựu mà Bộ trưởng vừa chia sẻ thì Bộ trưởng có lý giải thế nào về thực trạng còn nhiều công trình và đề tài nghiên cứu khoa học có tính khả thi rất thấp?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Tôi nghĩ rằng làm khoa học là phải chấp nhận rủi ro và mạo hiểm, nếu không sẽ không thể làm khoa học. Có những loại nghiên cứu mà chúng ta phải chấp nhận “bỏ ngăn kéo”, ví dụ như nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu cơ bản luôn phải đi trước nghiên cứu ứng dụng, là tiền đề để chuẩn bị cho những nghiên cứu ứng dụng. Vì vậy những nghiên cứu này chưa được ứng dụng trong một giai đoạn nhất định. Khi năng lực của xã hội đạt đến trình độ nhất định mới có thể ứng dụng được. Ví dụ như phát minh về chất bán dẫn được nghiên cứu thành công ở Hoa Kỳ từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước nhưng đã phải “xếp ngăn kéo” gần 1 thập kỷ, cho đến khi Nhật Bản mua lại bằng sáng chế đó vào cuối thập kỷ 50. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, chất bán dẫn đã đem lại hiệu quả cao cho nền kinh tế không chỉ của Nhật Bản mà của toàn thế giới. Ngày nay, không có lĩnh vực nào của khoa học kỹ thuật mà không có mặt của chất bán dẫn. Tương tự như vậy, có nhiều nghiên cứu cũng như vậy.
 
Thứ hai là những đề tài nghiên cứu ứng dụng nhưng phải chờ đợi quá trình thương mại hóa hoặc phải chờ đời sự chấp nhận của xã hội, ví dụ như nghiên cứu vắc-xin. Chúng ta phải có giai đoạn rất dài thử nghiệm lâm sàng, sau đó phải có cấp phép của ngành y tế thông qua hội đồng y đức vì liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người. Có những dược phẩm, thuốc phải mất 10, 15 năm mới có thể hoàn thành công đoạn thử nghiệm lâm sàng, thương mại hóa để trở thành sản phẩm hàng hóa. Xã hội nào cũng phải chấp nhận một tỷ lệ nhất định những nghiên cứu không được ứng dụng. Không có một quốc gia nào có thể có 100% các đề tài nghiên cứu khoa học đều thành công, đều được ứng dụng. Những nước như Hoa Kỳ, Nhật Bản cũng chỉ có 20% các nghiên cứu được ứng dụng và thương mại hóa thành công.
 
PV: Năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam hiện rất thấp, vậy tới đây Bộ có những giải pháp nào về KH&CN để tăng năng suất chất lượng sản phẩm hàng hóa và bắt kịp các nước trong khu vực?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Theo tôi, NSLĐ của Việt Nam hiện rất thấp, chính là yếu tố làm cho đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian gần đây có biểu hiện chững lại. Trước đây, những doanh nghiệp nước ngoài (FDI) nhận định Việt Nam có nhân công giá rẻ, tiền lương thấp nên kỳ vọng vào tỷ trọng chi phí cho nhân công trong sản phẩm khi đầu tư vào Việt Nam thấp, nâng cao cạnh tranh cho sản phẩm. Tuy nhiên, những năm gần đây, các doanh nghệp FDI nhận thấy rằng, tiền lương có thể thấp nhưng NSLĐ của Việt Nam còn thấp hơn nên thực tế chi phí nhân công trong các sản phẩm vẫn cao hơn khi đầu tư vào nước khác. Ví dụ, mặc dù tiền lương của nước ta thấp bằng 1/5 của Xin-ga-po nhưng nếu như NSLĐ chỉ bằng 1/15 của họ tức là chi phí nhân công của Việt Nam gấp 3 lần so với Xin-ga-po. Điều này làm cho các nhà đầu tư cảm thấy nhân công giá rẻ ở nước ta không còn là yếu tố hấp dẫn nữa.
 
NSLĐ phụ thuộc vào trình độ KH&CN của doanh nghiệp và quốc gia. Khi đưa KH&CN vào sản xuất kinh doanh thì quy trình sản xuất hợp lý hơn, mức độ tự động hóa của dây chuyền sản xuất cao hơn thì NSLĐ sẽ được nâng lên. Bộ KH&CN trong thời gian 5 năm vừa qua đã có một số hoạt động giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao NSLĐ. Chúng tôi hướng dẫn cho doanh nghiệp thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO). Đây là quy trình quản lý tiên tiến, hợp lý hóa tất cả các khâu trong hệ thống sản xuất của doanh nghiệp từ khâu quản lý cho đến sản xuất. Doanh nghiệp nào áp dụng ISO thì có NSLĐ cao hơn. Bộ cũng đã trình với Chính phủ hàng loạt chương trình quốc gia về KHCN nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp. Có 3 chương trình quốc gia lớn, khoảng 7 chương trình cấp quốc gia tác động trực tiếp đến doanh nghiệp.
 
PV: Viện KH&CN Việt Nam-Hàn Quốc (V-KIST) đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế để đi vào hoạt động trong thời gian sớm nhất, Bộ trưởng mong muốn điều gì khi Viện này hoạt động?
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân: Dự án Viện KH&CN Việt Nam-Hàn Quốc là dự án quan trọng. Hiện nước ta có hơn 200 viện nghiên cứu của Nhà nước. Nhưng tất cả các Viện nghiên cứu này được tổ chức theo mô hình cũ, mức độ tự chủ chưa cao, mặc dù theo Nghị định 115, từ năm 2005 các viện này phải chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm để nâng cao hiệu quả hoạt động nhưng quá trình chuyển đổi còn chậm do nhiều cơ chế chính sách không đồng bộ. Bộ KH&CN đã báo cáo với Chính phủ và được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cũng như Tổng thống Hàn quốc ủng hộ trong việc ký Hiệp định giữa 2 Chính phủ về việc Hàn Quốc giúp Việt Nam xây dựng một Viện nghiên cứu tiên tiến. Đây là mô hình tiên tiến, xây dựng theo mô hình Viện KIST của Hàn Quốc. Tôi mong muốn có đủ những yếu tố thành công của Viện KIST đó là: Có đạo luật đặc biệt dành riêng để vượt qua những vướng mắc từ những luật khác chưa kịp đổi mới để phù hợp; được người đứng đầu quốc gia đỡ đầu và có một đội ngũ các nhà khoa học trong nước và quốc tế giàu tâm huyết có tài năng với chính sách hấp dẫn để thu hút các nhà khoa học ở nước ngoài.
 
Mới đây, Thủ tướng đã ký ban hành Nghị định 50 của Chính phủ về việc thành lập Viện KH&CN Việt Nam-Hàn Quốc, trong đó cũng đã tận dụng tối đa quyền hạn của Chính phủ trong việc giao cơ chế tự chủ cao nhất cho Viện. Ví dụ như cơ chế tự chủ cao trong thực hiện ngân sách Nhà nước; tự chủ về định mức chi tiền lương, hoạt động thường xuyên… vốn đầu tư ban đầu. Bên cạnh 35 triệu USD do chính phủ Hàn Quốc viện trợ không hoàn lại thì Việt Nam có nguồn đối ứng tương đương. Chúng tôi đang xúc tiến thành lập hội đồng Viện lâm thời cũng như ban điều hành lâm thời. Hội đồng Viện sẽ do Thủ tướng chỉ định ban đầu. Nhưng khi Viện đã đi vào hoạt động thì sẽ tuân thủ những nguyên tắc, thông lệ mà các viện nghiên cứu tiên tiến trên thế giới đang áp dụng là cơ chế tự chủ cao. Chính phủ cũng như Bộ KH&CN kỳ vọng sẽ xây dựng Viện trở thành địa chỉ tin cậy để các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài đặt hàng. Viện sẽ chỉ thực hiện các nhiệm vụ, đề tài ứng dụng KH&CN, nghiên cứu theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp và xã hội. Chắc chắn, các đề tài nghiên cứu thành công sẽ có địa chỉ ứng dụng, giảm thiểu tỷ lệ đề tài không ứng dụng được.
 
PV: Xin cảm ơn Bộ trưởng!
 
Nguồn tin: http://www.qdnd.vn

Trường Đại học Hàng hải đẩy mạnh liên doanh, liên kết trong nước và quốc tế đào tạo trình độ trên đại học

 
Chiều ngày 03/6/2015 tại Sở KH&CN TP. Hải Phòng đã diễn ra Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp thành phố “Nghiên cứu xây dựng đề án liên doanh, liên kết, kêu gọi đầu tư mở các cơ sở đào tạo trình độ trên đại học giữa Trường Đại học Hàng hải Việt Nam với các trường đại học danh tiếng trong nước và quốc tế, các Viện nghiên cứu KH&CN đầu ngành của quốc gia”. 
 
(Ảnh minh họa)
 
Theo báo cáo tại Hội nghị, hiện nay Trường Đại học Hàng hải đang đào tạo 34 chuyên ngành đại học, 11 chuyên ngành cao học và 8 chuyên ngành tiến sỹ liên quan trực tiếp đến lĩnh vực kinh tế biển. Đối với việc liên doanh, liên kết đào tạo trình độ trên đại học, nhà trường áp dụng hình thức liên doanh, liên kết đào tạo với các trường đại học hay các tổ chức giáo dục trong nước và thế giới. Các khoá đào tạo cao học theo hình thức liên doanh, liên kết trong nước được tổ chức ngay trên địa bàn thành phố với 4 chuyên ngành: quản trị kinh doanh, tài chính kế toán, công nghệ thông tin và ngôn ngữ Anh, tuy nhiên hiệu quả không cao. Hình thức liên kết đào tạo trình độ thạc sỹ khoa học, tiến sỹ chuyên ngành, tiến sỹ khoa học với nhiều trường đại học, học viện lớn trên thế giới đã góp phần tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao cho thành phố và đất nước. Tuy nhiên, điểm hạn chế chung của các chương trình này là ngành nghề đào tạo còn bị giới hạn; cơ sở vật chất chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, nghiên cứu. 
 
Đối với các chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài, học viên gặp phải rào cản ngôn ngữ và khó khăn về chi phí đi lại do phải bảo vệ tốt nghiệp tại nước đối tác. Việc nghiên cứu xây dựng đề án góp phần đưa ra lời giải cho những vấn đề trên.
 
Theo kế hoạch đưa ra, nhà trường sẽ liên kết đào tạo trình độ thạc sỹ ngay tại trường với 5 nước Bỉ, Hàn Quốc, Nga, Hoa Kỳ và Áo. 5 chuyên ngành đào tạo liên kết tương ứng với 5 nước là: đóng tàu, công nghệ thông tin, kỹ thuật tàu thuỷ, kinh tế hàng hải và toàn cầu hoá, quản lý kinh tế. Đây là những chuyên ngành đào tạo thuộc thế mạnh của nhà trường. Học viên tham gia chương trình đào tạo phải vượt qua vòng thi tuyển và đảm bảo các tiêu chí: tốt nghiệp đại học loại khá trở lên, tuổi không quá 45, đảm bảo trình độ tiếng Anh đầu vào tương đương trình độ tuyển sinh. Thời gian đào tạo từ 18-24 tháng. Giảng viên là các giáo sư, tiến sỹ của các trường đại học trong nước đã được bên đối tác kiểm định chọn lựa và các giáo sư, tiến sỹ của phía đối tác. Sau khi hoàn thành chương trình, học viên được cấp bằng chính quy theo sự thoả thuận của 2 cơ sở đào tạo. Nguồn tài chính phục vụ việc mở và duy trì các ngành đào tạo được huy động từ công tác xã hội hoá, từ nhà trường và đóng góp của các học viên. 
 
Theo đánh giá của Hội đồng KH&CN, đề án đã xác định được chuyên ngành đào tạo sát với thực tế, khách quan và phù hợp với nhu cầu của thành phố. Tuy nhiên, đề án cũng cần xác định rõ đối tác liên doanh, liên kết đào tạo là trường nào hay tổ chức nào.
 
Nguồn:  Sở KH&CN thành phố Hải Phòng

NGÀY SÁCH VIỆT NAM: Đang tạo một tiền lệ, một con đường, một hướng đi

 
Ngày 24/02/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 284/QĐ-TTg lấy ngày 21/4 hàng năm là Ngày Sách Việt Nam. Sau đây Tri Thức Thời đại chia sẻ một số suy nghĩ của những đơn vị dẫn đầu trong lĩnh vực xuất bản sau 1 năm triển khai Ngày Sách Việt Nam.
 
Văn hóa đọc là một bộ phận của nền văn hóa nói chung, chính xác hơn nó là một hoạt động văn hóa cao cấp trong xã hội. Hoạt động này là một trong những động lực thúc đẩy sự hình thành nên con người mới, những công dân có tri thức, có trí tuệ để hòa nhập, thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại, một xã hội dựa trên nền tảng của nền kinh tế tri thức. Văn hóa đọc có thể giúp cho mỗi cá nhân có được một cuộc sống trí tuệ hơn, đẹp đẽ, ý nghĩa, hạnh phúc và hài hòa hơn. Chính vì vậy, phát triển văn hóa đọc luôn là một vấn đề mang ý nghĩa chiến lược của mọi quốc gia trong việc nâng cao dân trí, góp phần phát triển bền vững nguồn nhân lực – nhân tố quyết định mọi thành công. Xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là góp phần đem lại cho dân tộc Việt Nam sức mạnh của trí tuệ trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Đánh giá thực trạng văn hóa đọc ở Việt Nam hiện nay, nếu nhìn lại những cuộc hội thảo, tọa đàm, những ý kiến của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, những người làm công tác quản lý văn hóa trong thời gian qua gần như đều thống nhất một quan điểm là bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, vẫn tồn tại một thực tế hết sức đáng lo ngại rằng văn hóa đọc vẫn đang ở trong tình trạng báo động. Có những ý kiến bức xúc, gay gắt hơn còn cho rằng văn hóa đọc đang ngày một xuống cấp, hay thậm chí người Việt Nam chưa có văn hóa đọc… Không hề thiếu cơ sở cho sự tồn tại của những nhận định này, tuy nhiên để nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo, khách quan về hiện trạng văn hóa đọc hiện nay, chúng ta cần soi chiếu từ bản chất sâu xa của khái niệm này. Văn hóa đọc hiểu một cách ngắn gọn và đầy đủ nhất đó là ứng xử đọc, giá trị đọc và chuẩn mực đọc của từng cá nhân, của cộng đồng xã hội và của các nhà quản lý, cơ quan quản lý nhà nước. Như vậy, một quốc gia muốn văn hóa đọc phát triển, cần phải phát triển đồng đều ứng xử, giá trị, chuẩn mực đọc của cả ba thành phần: các nhà quản lý, các cơ quan quản lý, cộng đồng xã hội và từng thành viên trong xã hội. Với các cơ quan quản lý, ứng xử, giá trị, và chuẩn mực đọc đó là đường lối, chính sách phát triển nền văn hóa đọc, phát triển ngành xuất bản, tạo cơ chế và hành lang pháp lý để thỏa mãn nhu cầu đọc của toàn xã hội. Với cộng đồng xã hội, ứng xử, giá trị, chuẩn mực đọc ở đây là sự phát triển của các hội nghề nghiệp liên quan đến việc đọc, đó là những hoạt động để quảng bá, cổ vũ, phát triển văn hóa đọc, đó là sự tôn vinh những người viết sách, những người làm sách… Ứng xử, giá trị và chuẩn mực đọc của mỗi cá nhân là sự hội tụ của ba yếu tố: thói quen đọc, khả năng lựa chọn và kỹ năng đọc. Ba yếu tố này được hình thành phụ thuộc rất nhiều vào truyền thống gia đình, môi trường giáo dục, môi trường sống, làm việc, trình độ văn hóa.
Căn cứ vào thực tế trong thời gian qua, có thể khẳng định rằng Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển văn hóa đọc. Chỉ thị số 42/CT-TW ngày 25 tháng 8 năm 2004 của BCH Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Chăm lo phát triển nhu cầu văn hóa đọc của các tầng lớp nhân dân, tổ chức và phát triển các lực lượng, mạng lưới phát hành xuất bản phẩm đáp ứng đầy đủ, đúng đối tượng và địa bàn, đặc biệt quan tâm vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và miền núi …  Tập trung củng cố và phát triển hệ thống thư viện, các loại phòng đọc, trước hết là ở cơ sở …”. Thực hiện chủ trương, đường lối trên, đã có rất nhiều chương trình sách đưa về phục vụ nông thôn, phục vụ cơ sở, trong đó có Chương trình Mục tiêu quốc gia về văn hóa. Hơn 10 năm qua, Nhà nước đã cấp hàng trăm tỷ đồng thông qua Chương trình này để cung cấp sách báo cho các thư viện công cộng phục vụ cho người dân ở cơ sở.
Chúng ta cũng đã hình thành được môi trường đọc khá thuận lợi cho người dân ở mọi trình độ, mọi lứa tuổi, kể cả người khiếm thị. Cho đến nay đã có một mạng lưới thư viện rộng khắp trong cả nước, từ trung ương tới cơ sở, với hai loại hình thư viện cơ bản: thư viện công cộng và thư viện đa ngành, chuyên ngành. Bên cạnh mạng lưới thư viện nhà nước, đã bắt đầu hình thành và phát triển mô hình thư viện tư nhân, tủ sách dòng họ… phục vụ cộng đồng, đáp ứng nhu cầu đọc của người dân. Công tác xuất bản và phát hành ngày càng phát triển. Số lượng xuất bản phẩm gia tăng nhanh chóng, từng bước thích ứng với với cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người đọc. Các xuất bản phẩm khá đa dạng về chủng loại (dạng in truyền thống, dạng điện tử …), phong phú về nội dung vừa đáp ứng, vừa kích thích nhu cầu đọc sách của mọi tầng lớp nhân dân. Nhận thức của xã hội về vấn đề đọc sách và phát triển văn hóa đọc được quân tâm; đã có sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội trong việc tuyên truyền, khích lệ, quảng bá cho văn hóa đọc trong đời sống xã hội, góp phần tạo ra thói quen đọc, từng bước hình thành văn hóa đọc trong cộng đồng. Nhu cầu đọc của người dân rất lớn và đa dạng. Người dân đã có xu hướng chọn lựa sách báo chất lượng và phù hợp với nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác chuyên môn, lao động – sản xuất và giải trí để đọc.
Tuy nhiên, rất dễ dàng để nhận thấy văn hóa đọc của chúng ta vẫn còn khá nhiều những hạn chế, tồn tại. Đối tượng đọc mới chỉ rất hạn chế, chủ yếu là các nhà nghiên cứu, những người hoạt động trong lĩnh vực chuyên sâu liên quan đến văn hóa đọc. Những đối tượng cần đọc nhất trong xã hội là học sinh, sinh viên, những người làm công tác quản lý (ở các cấp, các ngành) lại là những người chưa thực sự mặn mà với việc đọc. Thói quen đọc của người Việt Nam chưa được hình thành một cách vững chắc. Xu hướng đọc hiện nay, đặc biệt là của giới trẻ, đối tượng chúng ta đang hướng tới xây dựng thế hệ đọc tương lai ít nhiều có biểu hiện lệch lạc. Môi trường đọc chưa thật sự đáp ứng nhu cầu đọc đa dạng, luôn thay đổi của cộng đồng, Mạng lưới thư viện, tủ sách công cộng đã phát triển nhưng chất lượng tổ chức và hoạt động chưa đáp ứng được nhu cầu đọc của người dân, cơ sở vật chất nghèo nàn, cán bộ thiếu, kinh phí hoạt động thấp. Việc giáo dục thói quen đọc, kỹ năng đọc – một vấn đề có tính chất quyết định tới việc hình thành văn hóa đọc – chưa được quan tâm. Công tác xuất bản – phát hành trong cơ chế thị trường rất sôi động, số lượng xuất bản phẩm gia tăng, tuy nhiên lại thiếu những sách có chất lượng. Rất nhiều xuất bản phẩm có nội dung vô bổ, tính giáo dục chưa cao, nặng về giải trí rẻ tiền, thị hiếu tầm thường..
 
Có thể dẫn ra một vài nguyên nhân của tình trạng trên: chính sách đầu tư của Nhà nước để tạo điều kiện cho văn hóa đọc phát triển chưa thỏa đáng, còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ; nhận thức của các ngành, các cấp về văn hóa đọc chưa đúng mức; Chất lượng các xuất bản phẩm chưa đảm bảo, bị thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận, văn hóa nghe – nhìn và các loại hình giải trí khác đang ngày một lấn át, thu hẹp văn hóa đọc. Tuy nhiên, điều cốt yếu đó chính là giáo dục, đào tạo trong nhà trường chưa chú trọng đến việc hướng dẫn học sinh, sinh viên thói quen, khả năng lựa chọn và phương pháp đọc sách, và đặc biệt quan trọng, đó là nhu cầu tự thân của mỗi cá nhân trong việc tiếp cận, tích lũy, bổ sung nguồn tri thức thông qua hoạt động đọc.
Nhìn vào hiện trạng của văn hóa đọc, quả thực vẫn còn đó những buồn vui lẫn lộn. Buồn vì quá nhiều những tồn tại, hạn chế, bất cập. Nhưng cũng vui vì vẫn có rất nhiều tín hiệu khả quan để tạo dựng một xã hội ham đọc, một nền văn hóa đọc phát triển. Cần lắm những hoạt động để quảng bá, tôn vinh, định hướng, phát triển văn hóa đọc và việc ra đời Ngày Sách Việt Nam (21/4) là một việc làm hết sức đúng đắn, kịp thời. Cũng không thể trông mong động thái này trong một sớm một chiều lập tức chấn hưng văn hóa đọc ở Việt Nam, thế nhưng vẫn phải có một ngày, thậm chí là nhiều hơn thế để định hướng, cổ vũ, để tôn vinh những người làm sách, những người viết sách, những tác phẩm có giá trị, để lan tỏa niềm đam mê, tình yêu sách đến tất cả mọi người. Hãy tâm niệm rằng, chúng ta đang bồi đắp, gia cố vào nền móng vốn đang mong manh, yếu ớt của văn hóa đọc dân tộc. Hãy xác định rằng chúng ta đang tạo một tiền lệ, một con đường, một hướng đi. Xin trích dẫn câu nói của nhà văn Lỗ Tấn để kết thúc bài viết này: Kỳ thực trên mặt đất vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường đó thôi. q
 
>> NGUYỄN ANH VŨ
 
     Giám đốc NXB Văn học 

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN SÁCH ĐIỆN TỬ ở Việt Nam trong tương lai

Sách điện tử (eBook) – là một trong những phát minh kỳ diệu của nhân loại trong thời đại số. Ngày nay, xuất bản sách điện tử đang có tốc độ phát triển cực kỳ nhanh chóng. Chỉ vài năm trước đây, sách điện tử còn được xem là phương thức đọc dành riêng cho người yêu thích công nghệ thì đến nay, trên thế giới sách điện tử đã vượt xa sách in cả về doanh thu, số bản và trở nên rất phổ biến. Việc xuất bản sách điện tử tại Việt Nam, ngoài việc tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về xuất bản cũng như các quy định về Sở hữu trí tuệ, Thông tin điện tử, Thương mại điện tử, Giao dịch điện tử… thì vấn đề đặt ra đối với chúng ta cần thực hiện những điều kiện cụ thể gì để thúc đẩy phát triển sách điện tử tại Việt Nam?
 
Chính sách hỗ trợ của Nhà nước 
 
Bên cạnh hành lang pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản nói chung và xuất bản điện tử nói riêng thì chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho hoạt động này là rất quan trọng. Trong những năm qua Nhà nước đã có các chính sách: đặt hàng, mua bản quyền tác phẩm, trợ cước vận chuyển…, tuy nhiên vẫn còn ở mức hạn chế. Để khuyến khích hoạt động xuất bản nói chung và xuất bản điện tử nói riêng phát triển, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ về tài chính, đầu tư phát triển khoa học – công nghệ, ưu đãi về thuế, tín dụng, cơ sở vật chất… Cụ thể: Tăng cường thực hiện chính sách đặt hàng các xuất bản phẩm có giá trị, khuyến khích các nhà xuất bản đầu tư phát triển loại hình xuất bản này; Tăng cường hỗ trợ mua bản quyền đối với các tác phẩm hay; Tăng cường hỗ trợ, đầu tư vốn, trang thiết bị kỹ thuật; Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ; Ưu đãi hơn nữa về thuế.
 
Chính sách hỗ trợ của Nhà nước là một điều kiện quan trọng để thúc đẩy hoạt động xuất bản; tuy nhiên cũng cần có sự phân biệt, không bao cấp tràn lan, mà chính là phải tạo điều kiện về cơ chế để các nhà xuất bản năng động trên cơ sở phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện sản xuất kinh doanh, và quản lý minh bạch, công khai. Sự ưu tiên đầu tư từ ngân sách nhà nước cần dành cho việc hiện đại hóa nhà xuất bản, khuyến khích hoạt động sáng tạo và phát triển vốn để nhà xuất bản chủ động trong hoạt động của mình.
 
Tăng cường các biện pháp quản lý
 
Chống vi phạm bản quyền: Xuất bản sách điện tử là một xu thế mới của hoạt động xuất bản Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên loại hình xuất bản này bên cạnh những ưu việt như nhanh, gọn, nhẹ, có thể đọc ở mọi nơi… song cũng nảy sinh nhiều thách thức đòi hỏi ngành Xuất bản nói chung và bản thân các tác giả phải bảo vệ bản quyền, lợi ích chính đáng của mình trước vấn nạn sao chép lậu. Việc sao chép bất hợp pháp sẽ gây nhiều ảnh hưởng đối với tác giả và xã hội như: ngăn cản các tác giả hưởng thù lao từ việc sử dụng tác phẩm, hủy hoại tính sáng tạo và việc xuất bản các tác phẩm trong nước, gây rối loạn các chức năng trên thị trường. Trên thực tế việc sao chép lậu hay ngang nhiên sử dụng tác phẩm không xin phép tác giả hoặc nhà xuất bản đang có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, cần tuyên truyền sâu rộng để nâng cao nhận thức cho tác giả và người sử dụng tác phẩm về quyền tác giả; phải có biện pháp quản lý tập thể dưới dạng một tổ chức đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ sở hữu quyền và hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng tiếp cận hợp pháp với tác phẩm… Đồng thời, các cơ quan quản lý cũng cần tăng cường trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, xử phạt đối với việc vi phạm bản quyền nói chung và trong xuất bản điện tử nói riêng, đặc biệt là đối với các trang mạng có nhiều ấn phẩm lậu, không có bản quyền, v.v… Đồng thời tăng nặng hơn chế tài xử phạt, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự để răn đe đối với những trường hợp vi phạm.
 
 Nghiêm khắc xử lý việc xuất bản sách điện tử mà không qua nhà xuất bản: Theo quy định của pháp luật, việc xuất bản sách, tài liệu phải qua nhà xuất bản. Đối với sách in thì việc kiểm soát vấn đề này đã khó, với sách điện tử thì vấn đề này lại càng khó khăn. Một thực tế, tình trạng sách lậu tràn lan trên mạng Internet ở nước ta đã làm đau đầu và thiệt hại không ít cho tác giả và các nhà xuất bản. Nhiều cuốn sách (sách in) hay, bán chạy chỉ sau chừng một đến hai tuần là đã có eBook bất hợp pháp trên mạng; thậm chí có Website còn thu phí dowload của người dùng, mặc dù họ không được bán các tác phẩm ấy; ngoài ra người đọc có thể tìm thấy eBook bất hợp pháp trên nhiều diễn đàn khác.
 
Vì vậy, nếu không có biện pháp hữu hiệu để giải quyết được vấn đề này thì việc xuất bản lậu sớm muộn cũng sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Và có giải quyết được điều này thì mới tạo điều kiện để xuất bản sách điện tử được hoạt động đúng định hướng của Đảng và pháp luật Nhà nước.
 
 XU THẾ PHÁT TRIỂN SÁCH ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 
 
Ở Việt Nam, sách điện tử mới được biết đến nhiều trong vài năm trở lại đây, song đã mở ra nhiều triển vọng mới cho ngành Xuất bản. Theo thời gian, có thể thấy eBook đang dần thế chỗ của sách in, với sự hỗ trợ của công nghệ đã và đang làm thay đổi triệt để cách đọc sách của mọi người; nhiều người coi eBook như một cuộc cách mạng trên cả hai lĩnh vực xuất bản và văn hóa đọc trên thế giới. Vì sao eBook lại nhanh chóng lên ngôi như vậy? Dù eBook có những ưu, nhược điểm nhưng có thể nhận định rằng, trong tương lai, sách điện tử sẽ rất phát triển ở Việt Nam bởi các lý do sau:
 
Thứ nhất: Hiện nay, hạ tầng viễn thông và các dịch vụ viễn thông – CNTT Việt Nam đang được đánh giá là đã phát triển ngang tầm khu vực. Việt Nam hiện nằm trong top 10 nước châu Á – Thái Bình Dương và đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á về số người sử dụng Internet. Đây là những tiền đề rất quan trọng về mặt hạ tầng – điều kiện quan trọng cho việc phát triển sách điện tử trong tương lai ở Việt Nam.
 
Thứ hai: Giới trẻ ở nước ta luôn tỏ ra thích ứng nhanh với những cái mới, đặc biệt là sử dụng thiết bị điện tử cá nhân và thưởng thức các ấn phẩm điện tử trong giải trí và học tập đang là một nhu cầu không thể thiếu trong xã hội hiện đại. Một minh chứng cho điều đó là hiện nay hầu hết các nhà mạng di động đều bằng cách nào đó phối hợp với các NXB hoặc công ty sách để hình thành nên những kho dịch vụ nội dung số là sách điện tử để cung cấp dịch vụ đọc cho khách hàng.
 
Thứ ba: Trong xã hội hiện đại và ở thời điểm nền giáo dục nước ta đang có những bước đi rất mạnh và táo bạo trong việc đổi mới cách dạy và học thì các sách, ấn phẩm là một trong những yếu tố đầu tiên đang được ngành Giáo dục và cả xã hội quan tâm, đã và đang tạo một cơ hội rất lớn cho sách điện tử phát triển.
 
Thứ tư: Sự phát triển của sách điện tử ở Việt Nam sau một quá trình tự phát và kinh doanh nhỏ lẻ nay đã hướng dần đến việc nâng tầm và chuyên môn hóa. Đã có nhiều công ty công nghệ và các công ty sách nhanh nhạy nắm bắt cái mới, nắm bắt được xu hướng người dùng, đã tập trung đi sâu vào phát triển loại hình sách này. Bên cạnh đó là nhiều NXB và công ty sách cũng đang bước đầu làm quen và bắt đầu bước chân vào thị trường mới mẻ này. Tất cả những điều đó sẽ góp phần thúc đẩy phát triển một thị trường sách điện tử đầy tính cạnh tranh và sôi động.
 
Thứ năm: Với ưu điểm rất lớn của sách điện tử là không có giới hạn về nội dung và hình thức thể hiện, không giới hạn về dung lượng thông tin chứa trong nó; một nội dung nhỏ trong sách điện tử cũng có thể cho phép người đọc tra cứu tức thời hoặc liên kết trực tiếp đến những kho tài nguyên khác trên mạng để đối chiếu hoặc tìm hiểu thêm những nội dung liên quan,… chính những điều này đã làm cho sách điện tử được ưu tiên xuất bản, đặc biệt là ở mảng sách, tài liệu học tập. Bên cạnh đó là các ưu điểm như có thể khắc khó khăn trong khâu phát hành do những hạn chế về hệ thống phân phối; giảm chi phí in ấn, lưu kho; bảo vệ được bản quyền tác giả qua việc hạn chế được nạn vi phạm bản quyền bằng các công cụ kỹ thuật… sẽ giúp cho sách điện tử ngày càng được kỳ vọng phát triển.
 
Xu thế phát triển về hình thức của sách điện tử:
 
Sách điện tử hiện nay có thể tổng hợp và được phân thành bốn loại:
 
– Loại 1: Dạng sách điện tử đơn giản; nội dung sách chủ yếu là text, có thể có thêm hình ảnh tĩnh liền với nội dung như trình bày trong sách in. Sách thường được xem ở dạng lật trang, trượt trang hoặc cuộn trang thông thường Sách ở cấp độ này thường có các định dạng: pdf, epub, mobi, prc, lit,…
 
– Loại 2: Dạng sách điện tử có thêm phần minh họa là các dữ liệu hình ảnh, âm thanh, video, biểu đồ được nhúng (embed) vào sách làm phong phú hơn so với các sách điện tử chỉ có dữ liệu tĩnh hoàn toàn.
 
– Loại 3: Dạng sách có tính năng cho phép người đọc có sự tương tác qua lại giữa người đọc sách và nội dung sách. Ví dụ người đọc trả lời câu hỏi và sách tự chấm điểm, hoặc người đọc nhập dữ liệu và sách tự tính toán ra kết quả.
 
– Loại 4: Dạng sách có cấu trúc dữ liệu được tổ chức phức tạp, dữ liệu lớn, khi xem phải cài đặt như phần mềm. Giao diện sách được tổ chức với cấu trúc menu nhiều cấp. Ví dụ các sách được tạo bởi các công cụ lập trình Web (html), Flash, và một số công cụ lập trình khác.
 
Việc phân định này chỉ mang tính chất tương đối, và không có nghĩa là mỗi loại sách này có sự rạch ròi về cách thức thể hiện như trên. Trong thực tế, có những ấn phẩm sách điện tử có các tính năng hỗn hợp.
 
Qua khảo sát thực tế hiện nay và xét về đặc tính của từng loại sách điện tử, có thể nhận định hình thức của sách điện tử sẽ có xu thế phát triển mạnh cả về 4 loại như trên. Tuy nhiên, mỗi loại sách điện tử lại có xu hướng phát triển mạnh theo từng mảng sách khác nhau. Cụ thể:
 
Sách điện tử loại với đặc tính đơn giản, dễ thực hiện, dễ sử dụng, dung lượng nhỏ, định dạng tương thích và phù hợp cho đa số các thiết bị đọc và các thiết bị di động khác như máy tính bảng, điện thoại thông minh sẽ chủ yếu dành cho các loại sách vốn chỉ toàn nội dung text như mảng sách như văn học, và một phần thuộc các mảng sách thường thức gia đình, khoa học xã hội, kinh tế, quản trị kinh doanh… Thực tế hiện nay cho thấy loại này đang phát triển mạnh nhất ngoài lý do vừa nêu cũng còn vì lý do sách đơn giản, các Nhà xuất bản, công ty sách có thể dễ dàng nắm bắt kỹ thuật làm sách khi bước đầu tiếp cận và làm quen với sách điện tử.
 
Sách điện tử loại 2 cũng sẽ phát triển song song và sẽ phù hợp với các sách yêu cầu có thêm nhiều dữ liệu multimedia để minh họa thêm cho nội dung text.
 
Sách điện tử loại 3, loại 4 cũng là những loại có khả năng phát triển mạnh, và thiên về các sách, ấn phẩm cho giáo dục, trong đó tiêu biểu là các sách giáo khoa phổ thông các cấp học, các sách giáo trình đào tạo nghề. Thực tế hiện nay cho thấy các sách điện tử giáo khoa phổ thông hoặc sách điện tử hỗ trợ dạy và học được biên soạn theo sách giáo khoa hầu hết đều có độ phức tạp cao. Điển hình là các sách điện tử được Công ty Shool@net xuất bản và phát hành trên trang www.shoolnet.vn. Về môi trường đọc, sách thuộc các loại này chủ yếu chỉ phù hợp với máy vi tính vì có dung lượng lớn, cần phải cài đặt trước khi sử dụng và hầu hết chỉ phù hợp với môi trường Windows. Trong tương lai, việc hiện đại hóa ngành giáo dục, đổi mới cách dạy và học, trong đó có đổi mới sách giáo khoa sẽ là điều kiện rất tốt cho sách điện tử loại này phát triển.
 
Sự phát triển nhanh chóng của CNTT trong những năm qua đã và đang tác động mạnh mẽ vào đời sống xã hội và nền kinh tế nói chung, trong đó có ngành Xuất bản. Số lượng các xuất bản phẩm được xuất bản ngày một tăng, và xuất bản phẩm điện tử cũng đã bước đầu đặt chân vào thị trường xuất bản. Sách điện tử và các hình thức xuất bản trên phương tiện truyền thông hiện đại ra đời mặc dù không phải để thay thế xuất bản truyền thống (sách in), nhưng đang tạo ra một sự lựa chọn tuyệt vời trong việc thưởng thức văn hóa đọc với việc mang trong nó đầy đủ những tiện ích mà sách in không đáp ứng được như tự động dàn trang, đọc được trên nhiều thiết bị điện tử thông dụng, tích hợp trên nhiều hệ điều hành… giúp độc giả có những trải nghiệm tuyệt vời không chỉ cảm giác là đang đọc một cuốn sách in, lật giở từng trang mà còn giúp độc giả cá nhân hóa cuốn sách của mình như tự thay đổi phông chữ, cách trình bày, ghi chú những nội dung cần thiết… Hy vọng, trong thời gian tới khi các điều kiện về cơ chế chính sách của Nhà nước đến những điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, nhân lực của từng Nhà xuất bản đáp ứng đầy đủ các nội dung phân tích nêu trên; sách điện tử sẽ mang lại một diện mạo mới cho ngành Xuất bản Việt Nam và đem đến nhiều trải nghiệm khác biệt trong việc thưởng thức văn hóa đọc ở nước ta. q
 
>> ThS. TRẦN CHÍ ĐẠT 
 
Phó Giám đốc NXB Thông tin và Truyền thông

HỘI CHỢ SÁCH FRANKFURT Cánh cửa rộng mở đưa xuất bản Việt Nam ra với thị trường thế giới

 
 
Vừa qua, đại diện của Hiệp hội xuất bản Đức bà Holpp Ursula, giám đốc kinh doanh khu vực Châu Á, Châu Phi và Iran, bà Claudia Kaiser, Phó Chủ tịch Hội chợ sách Frankfurt sang thăm Việt Nam và đã có buổi làm việc với Cục Xuất bản, In và Phát hành đại diện là ông Chu Văn Hòa – Cục trưởng. Hai bên trao đổi về tình hình xuất bản giữa Việt Nam và Đức, đồng thời bà Claudia Kaiser cũng đã chia sẻ rất chân thành về cách thức tổ chức hội chợ sách quốc tế cũng như các phương thức để mở rộng cánh cửa nền xuất bản Việt Nam với bạn bè thế giới thông qua Hội chợ sách Frankfurt.
 
Vừa qua, đại diện của Hiệp hội xuất bản Đức bà Holpp Ursula, giám đốc kinh doanh khu vực Châu Á, Châu Phi và Iran, bà Claudia Kaiser, Phó Chủ tịch Hội chợ sách Frankfurt sang thăm Việt Nam và đã có buổi làm việc với Cục Xuất bản, In và Phát hành đại diện là ông Chu Văn Hòa – Cục trưởng. Hai bên trao đổi về tình hình xuất bản giữa Việt Nam và Đức, đồng thời bà Claudia Kaiser cũng đã chia sẻ rất chân thành về cách thức tổ chức hội chợ sách quốc tế cũng như các phương thức để mở rộng cánh cửa nền xuất bản Việt Nam với bạn bè thế giới thông qua Hội chợ sách Frankfurt.
 
Bà Claudia Kaiser cho biết: Hội chợ sách Frankfurt trực thuộc Hiệp hội Xuất bản và Phát hành sách của Đức mỗi năm chỉ tổ chức duy nhất 1 lần, đây là một Hiệp hội phi chính phủ, chỉ đại diện lợi ích cho các nhà xuất bản, các nhà sách. Mỗi năm chúng tôi xuất bản cuốn sách mang tính chất thống kê về thị trường xuất bản của Đức. Việt Nam và Đức có nhiều khác biệt tuy nhiên vẫn có một số nét tương đồng như: dân số sấp xỉ nhau, đất nước đều được thống nhất từ 2 miền. Còn cái khác nhau là ở Đức là dân số đang bị già hóa nên không có thị trường phát triển như Việt Nam. Mỗi năm chúng tôi xuất bản 80 nghìn đầu sách thường là sách dịch chiến khoảng 12% tổng giá trị thị trường. So với Việt Nam, tôi có nói chuyện với một số NXB Việt Nam thì họ cung cấp cho các số liệu khác nhau, có người nói khoảng 80%, tôi nghĩ khoảng 60%. Ở Đức mỗi đầu sách in dao động khoảng 3 nghìn đến 100 nghìn bản. Chúng tôi tham gia rất tích cực vào xuất bản điện tử. Doanh số sách in giảm, doanh số sách điện tử tăng. Tổng lượng bán sách ở Đức vẫn là giảm. Về thể loại phần lớn là sách văn học. Chúng tôi cũng có NXB của chính phủ, nhưng đa phần là không phải của chính phủ, chúng tôi có rất nhiều NXB nhỏ và rất nhỏ, các NXB nhỏ họ không kiếm được nhiều tiền, họ vẫn làm thêm các công việc khác. Hội chợ sách Frankfurt đại diện cho hiệp hội các NXB Đức nên chúng tôi đảm bảo cho tất cả dù lớn hay nhỏ đều được tham gia Hội chợ. Chúng tôi có những giải thưởng đặc biệt không chỉ dành cho các NXB nhỏ mà còn dành cho các quầy sách quốc gia ở Hội chợ. Chúng tôi thường ví hội chợ sách Frankfurt như là Liên hiệp quốc của ngành xuất bản, ở đây chúng tôi giải quyết được mọi công việc liên quan đến xuất bản, một cửa hàng nhỏ có thể làm được tất cả mọi thứ đặc biệt là mua bán bản quyền. Năm nay ở Hội chợ sách Frankfurt sẽ có đại diện khách mời danh dự là Indonesia, đây là đất nước đầu tiên của khu vực Đông Nam Á được vinh dự này. Khách mời danh dự ở Hội chợ sẽ có các chương trình khổng lồ, khoảng 300 đến 400 sự kiện trong và ngoài hội chợ, màn trình diễn về văn hóa của nước đó. Năm nay Indonesia là khách mời danh dự nên sẽ được ban tổ chức quan tâm đến cả các nước trong khu vực Đông Nam Á. Chúng tôi đang cố gắng làm sao để đưa được nhiều nước Đông Nam Á hơn đến với hội chợ sách Frankfurt, chúng tôi muốn được thấy các sách của các nước này trến thị trường của Đức. Sự kiện Indonesia là khách mời danh dự năm nay là cánh cửa mở rộng cho các nước khu vực Đông Nam Á, và đây cũng là cơ hội để cánh cửa này mở rộng hơn nữa đối với Việt Nam, đặc biệt là năm nay kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao Việt – Đức, là điều kiện thuận lợi để tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và Đức. Vì vậy sẽ có nhiều cơ hội để quảng bá sách và các tác giả Việt Nam ở hội chợ sách Frankfurt. Niệt Nam nên tổ chức một số các sự kiện để các NXB thế giới biết đến nhiều hơn. Năm nay hội chợ sách sẽ được tổ chức ở trung tâm thành phố và tập trung hết trong một tòa nhà, Việt Nam sẽ được đứng cùng với các nước Đông Nam Á khác, và vì có Indonesia là khách mời danh dự nên sẽ có rất nhiều sự chú ý. Về phía bà Holpp Ursula thì hứa sẽ giúp đỡ để tổ chức các sự kiện kèm theo tại hội chợ bằng cách chia sẻ các ý tưởng để tổ chức. Tại hội chợ sách Frankfurt hàng năm thì trung bình mỗi năm có khoảng 3000 sự kiện khác nhau, các NXB đến đây ngoài việc mua bán bản quyền họ có thể học hỏi được nền công nghiệp xuất bản trên thế giới từ các nước họ mang đến.
 
Những năm gần đây Việt Nam đã tham dự hội chợ sách Frankfurt nhưng quy mô hoạt động thì vẫn còn nhỏ hẹp, sau khi chia sẻ những khó khăn, ông Chu Văn Hòa – Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành đã trân trọng mời đại diện của Hiệp hội xuất bản Đức tới dự Ngày Sách Việt Nam (21/4) và tặng hai bà tác phẩm Truyện Kiều đã được dịch sang tiếng Anh. Sự kiện này đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ hợp tác xuất bản giữa hai nước ngày càng bền vững. 
 
 
 
>> THU HIỀN

40 công trình được trao giải Sáng tạo KH&CN Việt Nam năm 2014

 
Ngày 28/5/2015, tại Hà Nội, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN), Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức Lễ tổng kết và trao Giải thưởng Sáng tạo khoa học công nghệ Việt Nam 2014, Giải thưởng Cúp vàng Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2014. Ðồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam dự và phát biểu ý kiến.
 
 
 
Ðồng chí Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam trao giải Sáng tạo KH&CN Việt Nam năm 2014
 
 
Giải thưởng Sáng tạo KH&CN Việt Nam được trao cho các nhà khoa học, tác giả của những công trình có giá trị khoa học, kinh tế-xã hội tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm như: Sinh học phục vụ sản xuất và đời sống; công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông; cơ khí và tự động hóa; công nghệ vật liệu; công nghệ nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên; công nghệ nhằm tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng mới.
 
Giải thưởng là sự động viên, khuyến khích to lớn đối với các nhà khoa học, các nhà sáng tạo trong cả nước hăng say đóng góp trí tuệ của mình cho sự nghiệp phát triển KH&CN và góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. 
 
Năm 2014, Ban tổ chức nhận được 92 công trình tham dự, trong đó: Cơ khí tự động hóa (25 công trình); Sinh học phục vụ sản xuất và đời sống (27); Công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông (11); Công nghệ mới nhằm bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên (11); Công nghệ vật liệu (12); Công nghệ nhằm tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng mới (6). 
 
Ban Tổ chức đã trao giải cho 40 công trình thuộc 6 lĩnh vực, trong đó có 4 Giải Nhất trị giá 40 triệu đồng/giải, 7 Giải Nhì – 25 triệu đồng/giải, 11 Giải Ba – 20 triệu đồng/ giải và 18 Giải khuyến khích, mỗi giải 15 triệu đồng. Nhân dịp này, Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen cho 11 cá nhân là chủ nhiệm và đồng chủ nhiệm của 4 công trình đạt Giải Nhất.
 
Ban tổ chức cũng đã đề nghị Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới tặng Giải WIPO cho một công trình xuất sắc nhất (lĩnh vực môi trường) của Công ty cổ phần công nghệ sinh học; Giải WIPO cho một tác giả nữ xuất sắc nhất thuộc Công ty cổ phần đầu tư và ứng dụng công nghệ cao HCT có công trình đoạt Giải Nhất lĩnh vực công nghệ Vật liệu.
 
Phát biểu ý kiến tại buổi lễ, đồng chí Nguyễn Thiện Nhân chúc mừng Ban tổ chức và các nhà khoa học nhân dịp tổng kết 20 năm và trao Giải thưởng VIFOTEC 2014. Ðồng chí khẳng định, 20 năm qua, các tác giả sau khi nhận giải đã không ngừng tiếp tục sáng tạo; các công trình đoạt giải thưởng đã giúp nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm, tạo được uy tín lớn trong nước, đồng thời nâng cao năng lực nghiên cứu, sáng chế của đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu phát triển chung của đất nước và hội nhập quốc tế.
 
Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng ghi nhận những đề xuất của Ban Tổ chức đưa ra để Giải thưởng đạt hiệu quả cao hơn nữa. Trong đó, sẽ ưu tiên các giải pháp nhằm thu hút sự tham gia của nhiều nhà khoa học, sáng tạo. Ngoài ra, Nhà nước sẽ hỗ trợ để tăng tính ứng dụng của các đề tài nghiên cứu cũng như tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp trong nghiên cứu KHCN.
 
Trong 20 năm qua, kể từ năm 1995 đã có gần 2.000 công trình tham dự giải và gần 700 công trình đạt giải thưởng. Các công trình đạt giải tiếp tục được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất và đời sống, giải quyết các yêu cầu của thực tiễn, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao.
 
Nguồn:  Mai Hà, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN