Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ nêu cao năng lực kiến tạo

Tinh thần "quyết liệt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có năng lực kiến tạo để đưa sự nghiệp khoa học công nghệ thắng lợi" đã được Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh tại Lễ bàn giao công tác bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN). 
 
Sáng 14/4/2016, Bộ KH&CN tổ chức Lễ bàn giao công tác bộ trưởng giữa ông Nguyễn Quân và ông Chu Ngọc Anh. Buổi Lễ được tổ chức trang trọng, ấm cúng với sự tham dự của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam. Lễ bàn giao công tác bộ trưởng còn có sự tham gia của đại diện Ban tổ chức Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, các Lãnh đạo Bộ KH&CN.
 
Phát biểu tại Lễ bàn giao, ông Nguyễn Quân cho biết, trong suốt nhiệm kỳ qua cá nhân ông cùng tập thể cán bộ quản lý đã hết sức nỗ lực xây dựng hệ thống pháp lý với nhiều đổi mới và cũng đạt được những thành công nhất định. Thành công này đã nhận được sự ủng hộ của Chính phủ. Đặc biệt, việc thực hiện Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020 đã qua 5 năm triển khai cũng đã đạt được những kết quả bước đầu, song cũng còn nhiều khó khăn phía trước.
 
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh nhiệm kỳ 2016-2020 và Bộ trưởng Nguyễn Quân nhiệm kỳ 2011-2016 cùng ký nhận bàn giao công tác bộ trưởng. Ảnh Loan Lê.
Chính vì vậy, ông Nguyễn Quân hy vọng và tin tưởng trong giai đoạn tới ông Chu Ngọc Anh cùng với các đồng chí thứ trưởng, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động sẽ tiếp tục chung sức, chung lòng, đoàn kết cùng tháo gỡ những khó khăn, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nhiệm kỳ 2016-2020.
 
Xúc động trước sự kỳ vọng này, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh bày tỏ lòng cảm ơn đối với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và trực tiếp là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Nguyễn Quân nhiệm kỳ 2011-2016.
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh cũng cho biết cá nhân nhận thức được sự tín nhiệm của Đảng, Nhà nước, Quốc hội giao cho là vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm, song nguyện sẽ cùng chung tay với các cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tiếp tục kế tục những thành quả đóng góp hết sức quan trọng tư lệnh ngành KH&CN trong suốt những năm qua, khởi xướng những đổi mới, tháo gỡ những rào cản một cách quyết liệt, năng động và sáng tạo nhất trong thời gian qua.
 
Bộ trưởng cũng mong muốn nhận được sự ủng hộ của Đảng, Chính phủ, cộng đồng khoa học, các cán bộ công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân cùng chung tay để khoa học công nghệ ngày càng đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển chung.
 
"Cá nhân tôi cam kết thể hiện nỗ lực tối đa của bản thân cùng tập thể vào cuộc với tinh thần như trong buổi họp đầu tiên Thủ tướng đã chỉ đạo là quyết liệt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và có năng lực kiến tạo để thực sự cùng cộng đồng khoa học trong và ngoài nước, xã hội chung tay đóng góp, đưa sự nghiệp khoa học công nghệ thắng lợi, cùng với sự phát triển của đất nước" – Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh.
 
Phát biểu tại Lễ bàn giao ông Vũ Đức Đam ghi nhận và đánh giá cao những nỗ lực, cố gắng của ông Nguyễn Quân – Bộ trưởng Bộ KH&CN nhiệm kỳ 2011-2016. Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đây là nhiệm kỳ có nhiều đột phá, đặc biệt là tạo cơ chế chính sách để hoạt động nghiên cứu khoa học được thuận lợi hơn, được cộng đồng khoa học ghi nhận.
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đánh giá cao những kết quả ông Nguyễn Quân khi còn đương nhiệm đã nỗ lực thực hiện và kỳ vọng người kế nhiệm sẽ tiếp tục phát huy thành quả này, tiếp tục gặt hái thành công. Ảnh Loan Lê.
 
"Xin chúc mừng đồng chí Nguyễn Quân đã hoàn thành nhiệm kỳ với những kết quả đáng ghi nhận" – Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh.
 
Phó Thủ tướng cũng chúc mừng Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nhận được sự tín nhiệm và trên cương vị Bộ trưởng Bộ KH&CN nhiệm kỳ 2016-2020 cùng với những kinh nghiệm từng kinh qua nhiều vị trí lãnh đạo sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
 
Phó Thủ tướng cũng nhắn nhủ Bộ trưởng Chu Ngọc Anh, từng đi qua thực tế địa phương, đã nắm được hơi thở của cuộc sống làm sao có được mối quan hệ tốt với địa phương, làm sao để khoa học đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển kinh tế địa phương. Đặc biệt cần nỗ lực để những chính sách mới về khoa học công nghệ nhanh chóng vào cuộc sống, tạo ra được sản phẩm cho xã hội giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển ngày càng mạnh mẽ.
 
Một số hình ảnh tại Lễ bàn giao:
 
 
Lễ bàn giao có sự tham dự của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, đại diện Ban tổ chức Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Nội vụ, các Lãnh đạo Bộ KH&CN.
 
 
 
Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân phát biểu tại Lễ bàn giao và bày tỏ kỳ vọng vào người kế nhiệm. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh bày tỏ sự cảm ơn đối với những lãnh đạo tiền nhiệm và mong muốn nhận được sự ủng hộ để hoàn thành nhiệm vụ cùng những mục tiêu cao đẹp đã đặt ra. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tặng hoa chúc mừng ông Nguyễn Quân đã hoàn thành nhiệm kỳ với nhiều kết quả đáng ghi nhận. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
 
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tặng hoa chúc mừng Bộ trưởng Chu Ngọc Anh trên cương vị mới. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân tặng hoa chúc mừng Bộ trưởng Chu Ngọc Anh. Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh bày tỏ lòng biết ơn và trân trọng tặng món quà nhỏ tới nguyên Bộ trưởng Nguyễn Quân.
Ảnh: Loan Lê.
 
 
 
Các Lãnh đạo Bộ KH&CN chụp ảnh lưu niệm tại Lễ bàn giao. Ảnh: Loan Lê.
 
Ngày 09/4/2016, Chủ tịch nước đã ký quyết định bổ nhiệm ông Chu Ngọc Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ KH&CN nhiệm kỳ 2016-2020. Cũng trong ngày 09/4/2016, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 142/QĐ/TW phân công ông Chu Ngọc Anh đảm nhiệm vị trí Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ KH&CN.
 
Nguồn:  Báo Khoa học và Phát triển

Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN: đổi mới từ cách làm

Nhân lực nói chung, nhân lực khoa học và công nghệ (KH&CN) nói riêng luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm cả về chất và lượng. Nhìn về tổng thể, số lượng nhân lực KH&CN của nước ta không phải ít so với quy mô dân số cũng như so với các nước trong khu vực, thậm chí số có trình độ sau đại học khá lớn, nhưng chất lượng còn nhiều bất cập. Điều này đặt ra vấn đề là chính sách phát triển nhân lực KH&CN thời gian qua còn nhiều bất cập, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng. Vậy chúng ta cần làm gì để cải thiện thực trạng này?
 
Sau 20 năm Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII đi vào cuộc sống, KH&CN nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống, đưa nước ta từ một nước kém phát triển gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, so với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, KH&CN nước ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự trở thành động lực phát triển kinh tế – xã hội, giúp nâng cao năng suất, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế và vẫn còn tụt hậu so với khu vực và thế giới. Đội ngũ nhân lực KH&CN và mạng lưới tổ chức KH&CN tuy gia tăng về số lượng nhưng chất lượng còn thấp, thiếu các chuyên gia đầu ngành và nhân lực trình độ cao trong nhiều lĩnh vực KH&CN, thiếu những nhóm nghiên cứu mạnh và thiếu những tổ chức KH&CN mạnh có đủ khả năng giải quyết những vấn đề KH&CN lớn của quốc gia và hội nhập quốc tế.
Thực trạng nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân chủ yếu là thiếu chính sách cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và khai thác hiệu quả năng lực của đội ngũ nhân lực KH&CN. Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH&CN, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện hiện nay, cần thiết phải có chính sách phù hợp trong việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN ở trong nước và nước ngoài một cách bài bản, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển của đất nước.
 
Nhân lực KH&CN của Việt Nam qua một vài con số
 
Nhân lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (NC&PT )
 
Theo Sách Trắng KH&CN Việt Nam năm 2014 cho thấy, trong năm 2013, cả nước có 164.744 người tham gia hoạt động NC&PT. Trong đó, số người làm công tác nghiên cứu chuyên nghiệp tại các viện, trung tâm nghiên cứu là 37.481 người. Xét theo chức năng làm việc, nhân lực NC&PT được phân bố như sau: 128.998 cán bộ nghiên cứu (có trình độ cao đẳng, đại học trở lên); 12.798 cán bộ kỹ thuật; 15.250 cán bộ hỗ trợ; 7.800 người làm chức năng khác1.
 
 
Đội ngũ nhân lực làm NC&PT của nước ta đông
nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế
Với đội ngũ nhân lực NC&PT nêu trên, KH&CN Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, đóng góp thiết thực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Một số lĩnh vực trong khoa học tự nhiên (toán, vật lý lý thuyết) có thứ hạng khá cao trong khu vực ASEAN2. Nhiều kết quả trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ đã được ứng dụng rộng rãi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ3.
Nhân lực quản lý KH&CN
 
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý KH&CN hiện nay được chia thành 3 nhóm chính: 1) Cán bộ đang làm công tác quản lý tại Bộ KH&CN (hiện tại có khoảng hơn 700 người); 2) Cán bộ thuộc Vụ (Ban) KH&CN tại các bộ/ngành (theo thống kê có khoảng gần 300 người); 3) Cán bộ quản lý thuộc các Sở KH&CN tại các tỉnh/thành phố (hiện cả nước có khoảng 3.138 cán bộ tham gia quản lý tại các Sở KH&CN thuộc các tỉnh/thành phố).
 
Những bất cập phổ biến
Mặc dù có đội ngũ nhân lực KH&CN hùng hậu, nhưng trên thực tế Việt Nam chưa có nhiều công trình, sản phẩm nổi bật, mang tính đột phá ở tầm khu vực và thế giới. Số công trình khoa học được công bố quốc tế có tốc độ tăng trung bình 22%/năm, nhưng giá trị tuyệt đối và chỉ số trích dẫn còn thấp, nhất là khi so sánh với các nước trong khu vực và thế giới. Tổng số công bố KH&CN của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu Web of Science giai đoạn 2010-2014 là 9.976 bài báo, xếp thứ 59 trên thế giới; so với khu vực, Việt Nam đứng sau Singapore (xếp thứ 32), Malaysia (xếp thứ 38) và Thái Lan (xếp thứ 43), cao hơn Indonesia (xếp thứ 62) và Philipin (xếp thứ 66). Số lượng đơn sáng chế đăng ký bảo hộ giai đoạn 2011-2013 của người Việt Nam là 1.126 đơn, trong khi có 10.690 đơn của người nước ngoài; số bằng độc quyền sáng chế được cấp của người Việt Nam còn thấp hơn nhiều, chỉ đạt 144 văn bằng, kém 21,7 lần so với số văn bằng được cấp của người nước ngoài (3.128).
 
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả KH&CN của Việt Nam chưa cao, trong đó phải kể đến nguyên nhân do năng lực của đội ngũ nhân lực KH&CN ở nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của KH&CN, cụ thể:
 
Thiếu hụt nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành: mặc dù số lượng cán bộ KH&CN có trình độ tiến sỹ, thạc sỹ khá đông4, nhưng hiện nay tình trạng thiếu hụt đội ngũ kế cận đang diễn ra. Số lượng nhà khoa học có trình độ cao và có kinh nghiệm ngày càng giảm do đến tuổi nghỉ hưu, đặc biệt trong các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, lĩnh vực công nghệ cao. Bên cạnh đó, hiện tượng “chảy máu chất xám” vẫn đang diễn ra trong nhiều năm, nền kinh tế thị trường đang phát triển đã dẫn tới nhiều cán bộ có chuyên môn sâu chuyển sang làm việc tại khu vực doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với mức thu nhập cao hơn. Nhiều người sau khi hoàn thành xong chương trình đào tạo đại học, thạc sỹ, tiến sỹ ở nước ngoài đã không trở về nước làm việc. Chính vì thế, đội ngũ kế cận các nhà khoa học giỏi trong các viện nghiên cứu, trường đại học ngày càng thiếu hụt nghiêm trọng, đặc biệt là thiếu các nhà khoa học đầu ngành, các tổng công trình sư đủ năng lực chủ trì các nhiệm vụ KH&CN quan trọng quy mô quốc gia và quốc tế.
 
Một ví dụ cụ thể là, tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cán bộ khoa học có học hàm GS, PGS phần lớn tuổi cao (trung bình trên 55 tuổi), tỷ lệ cán bộ có đủ năng lực chủ trì đề tài nghiên cứu cấp quốc gia rất thấp (khoảng 15%; một số lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao như công nghệ sinh học, vắc xin, vật liệu mới… rất thiếu cán bộ khoa học giỏi5. Ngành y tế cũng xảy ra tình trạng thiếu nhân lực khoa học trong một số chuyên ngành sâu, đặc biệt là một số chuyên ngành trước đây thường được đào tạo ở các nước Đông Âu. Số chuyên gia được đào tạo theo mô hình này dần đến tuổi nghỉ hưu nhưng lớp cán bộ trẻ được đào tạo bài bản ở nước ngoài hiện nay lại quá ít, không thể đáp ứng được nhu cầu của ngành6… Ở Bộ Công thương, Đại học Quốc gia Hà Nội hay Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và nhiều cơ quan, đơn vị khác cũng tương tự. Thêm vào đó, nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghệ cao còn khá mỏng, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
 
 
Việt Nam hiện thiếu rất nhiều các nhà khoa học đầu ngành
ở nhiều lĩnh vực
 
Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm của đội ngũ nhân lực KH&CN còn yếu7: một hạn chế khác của đội ngũ nhân lực KH&CN nước ta là sự hợp tác, gắn kết giữa các nhà khoa học chưa cao, khó hình thành được các nhóm nghiên cứu mạnh, nhóm nghiên cứu mạnh liên ngành hoạt động theo định hướng lâu dài và bền vững. Điều này thường dẫn đến nội dung các nhiệm vụ KH&CN bị phân tán, không có sự phối hợp giữa các nhóm khác nhau để thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quan trọng, quy mô lớn.
 
Nhân lực KH&CN phân bố không đều: nhân lực KH&CN ở nước ta, nhất là nhân lực có trình độ tiến sỹ chủ yếu tập trung tại các tổ chức KH&CN ở Trung ương, đặc biệt ở hai Viện Hàn lâm và các trường đại học lớn. Nhân lực KH&CN trình độ cao ở địa phương cũng phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở 5 thành phố trực thuộc Trung ương, ở các địa phương khác rất ít người có trình độ tiến sỹ. Chính sự phân bố không đồng đều đã dẫn tới hệ quả là không có cán bộ KH&CN đảm nhận các nhiệm vụ KH&CN ở các địa bàn xa xôi, miền núi.
 
Một bộ phận không nhỏ nhân lực KH&CN trình độ cao không trực tiếp làm NC&PT8, do cơ chế bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay vẫn dựa trên trình độ chuyên môn cao (học hàm, học vị) nên có tình trạng một số cán bộ lãnh đạo là GS, PGS, TS tập trung chủ yếu thời gian cho công tác quản lý, điều hành mà ít tham gia trực tiếp các hoạt động nghiên cứu khoa học.
 
Chính sách thu hút, đãi ngộ, sử dụng cán bộ KH&CN mới được ban hành, nên chưa tạo động lực, chưa phát huy hiệu quả năng lực sáng tạo và đóng góp của đội ngũ trí thức KH&CN, nhất là người có trình độ cao, tài năng trẻ. Chưa có chính sách thoả đáng để thu hút và sử dụng các trí thức tài năng là người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động NC&PT ở Việt Nam. Thủ tục hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực KH&CN còn rườm rà, thiếu đồng bộ, khó triển khai. Việc tổ chức thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực KH&CN (đã được Bộ trưởng Bộ KH&CN ban hành tại Quyết định số 4009/QĐ-KHCN ngày 29.12.2011) tại các bộ/ngành, địa phương chưa thực sự được chú trọng.
Điều đáng phải suy nghĩ là, những hạn chế của nhân lực KH&CN hiện nay như phân tích trên đây đã tồn tại từ những năm 90 của thế kỷ trước9. Điều đó có nghĩa là, những chính sách phát triển nhân lực KH&CN của Việt Nam giai đoạn gần đây chưa thực sự tác động có hiệu quả đến việc xây dựng đội ngũ này và dường như những thay đổi về chất của đội ngũ trong những năm qua là không đáng kể.
 
Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, thách thức lớn nhất đối với nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam hiện nay là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng suy giảm; đội ngũ cán bộ khoa học hiện nay không chỉ thiếu cán bộ đầu ngành giỏi, thiếu các tổng công trình sư mà còn thiếu cả cán bộ trẻ có trình độ cao; khả năng thu hút, tuyển dụng nguồn nhân lực trẻ có trình độ vào làm việc tại các tổ chức nghiên cứu và triển khai rất thấp; cơ chế, chính sách phát triển nhân lực KH&CN còn hạn chế và chưa thực sự khuyến khích phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN; việc đào tạo cán bộ có trình độ cao trong KH&CN còn nhiều bất cập… Việc thiếu nhà khoa học giỏi, nhà khoa học đầu ngành làm đầu tàu dẫn dắt, định hướng hoạt động nghiên cứu – triển khai được xem là điểm yếu lớn nhất của đội ngũ nhân lực KH&CN nước ta hiện nay.
 
Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN: đổi mới từ cách làm
 
Những hạn chế của đội ngũ nhân lực KH&CN nêu trên đặt ra yêu cầu, đòi hỏi cần có những đổi mới mang tính đột phá trong chính sách phát triển nhân lực KH&CN thời gian tới, trong đó chính sách đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN được xem là khâu đột phá. Cần xây dựng một chính sách đồng bộ, đào tạo có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, đào tạo theo nhu cầu thực tiễn.
 
 
Ngày 25.12.2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN ở trong nước và nước ngoài bằng ngân sách nhà nước (tại Quyết định số 2395/2015/QĐ-TTg). Đây là Đề án rất có ý nghĩa nhằm nâng cao chất lượng nhân lực KH&CN quốc gia, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước quyết tâm đầu tư nâng cao về chất của đội ngũ nhân lực KH&CN. Đề án đã xác định các nhóm đối tượng cần đào tạo, bồi dưỡng như sau:
 
(1) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng thực hành nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ cho đội ngũ nhân lực NC&PT:
– Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực KH&CN trình độ cao, chuyên gia cho các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, trọng điểm, lĩnh vực công nghệ mới; bồi dưỡng sau tiến sỹ cho đội ngũ tiến sỹ làm công tác nghiên cứu và triển khai nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu chuyên nghiệp, hiện đại, tạo ra được những sản phẩm KH&CN có chất lượng cao. Qua đó từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học đầu ngành trong từng lĩnh vực để định hướng, dẫn dắt sự phát triển của ngành/lĩnh vực KH&CN theo kịp trình độ của khu vực và thế giới.
 
– Phát hiện, thu hút, đào tạo, bồi dưỡng nhà khoa học trẻ tài năng nhằm hình thành đội ngũ nhà khoa học kế cận có trình độ cao, tâm huyết với hoạt động KH&CN.
(2) Đào tạo, bồi dưỡng theo ê-kíp để thúc đẩy việc hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu:
 
Nhóm nghiên cứu nói chung, nhóm nghiên cứu mạnh nói riêng được xem như một bộ phận quan trọng trong tổ chức KH&CN. Hiện nay ở Việt Nam đã hình thành một số nhóm nghiên cứu chủ yếu ở trong các trường đại học10. Tuy nhiên, việc hình thành và phát triển các nhóm còn mang tính chất tự phát, thiếu định hướng và sự hỗ trợ cần thiết, chưa đồng bộ, chưa có hệ thống; nhiều nhóm nghiên cứu sau khi hình thành gặp phải những khó khăn và tan rã. Vì vậy, định hướng tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng hỗ trợ để hình thành, phát triển các nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu mạnh là hết sức cần thiết từ đó phát triển thành các trung tâm nghiên cứu xuất sắc với nhiều nhóm nghiên cứu đơn ngành và đa ngành.
 
(3) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý KH&CN ở Bộ KH&CN, các bộ/ngành và địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ trực tiếp tham gia hoạch định chính sách KH&CN nhằm nâng cao trình độ, tư duy đổi mới, sáng tạo và cập nhật kỹ năng quản lý KH&CN tiên tiến, hiện đại của khu vực và thế giới.
 
Với nhóm đối tượng được đầu tư có chọn lọc, dựa trên nhu cầu thực tiễn của đất nước, việc triển khai Đề án trong thời gian tới chắc chắn sẽ đem lại một không khí mới cho KH&CN của đất nước. Đề án được kỳ vọng là một trong những chính sách đột phá về nhân lực KH&CN, góp phần hình thành một đội ngũ nhân lực khoa học trình độ cao của nước nhà.
TS Trần Đắc Hiến
Bộ KH&CN
____________________________
1Theo sách “KH&CN Việt Nam 2014” của Bộ KH&CN , Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2015.
2Xếp hạng một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản của Việt Nam: Toán học: thứ hai ASEAN; vật lý lý thuyết: thứ ba ASEAN; toán tối ưu: 19 thế giới và đứng đầu khu vực ASEAN. Nguồn: Nhà xuất bản ELSEVIER.
3Một số kết quả nổi bật như: thiết kế chế tạo thiết bị cơ khí thủy công cho các nhà máy thủy điện công suất lớn; giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90 m nước; công nghệ khai thác dầu trong đá móng; các giống lúa mới năng suất cao; khai thác vệ tinh viễn thông; làm chủ công nghệ đóng tàu, xây dựng công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc; ghép tạng và sản xuất vắc xin…
4Theo thống kê của Bộ KH&CN, cả nước có 24.300 tiến sỹ và 101.000 thạc sỹ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó tiến sỹ tăng 7%/năm, thạc sỹ tăng 14%/năm.
5Theo Báo cáo hiện trạng và nhu cầu nhân lực KH&CN trình độ cao của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 9.7.2012.
6Theo Báo cáo hiện trạng và nhu cầu nhân lực KH&CN trình độ cao của Bộ Y tế , ngày 6.8.2012.
7Theo Đề án “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
8Theo Đề án “Phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”.
9Xem thêm: Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 50 năm KH&CN Việt Nam (1945-1995). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật 1995, tr 34,35.
10Tính đến năm 2014, Đại học Quốc gia Hà Nội đã hình thành được hệ thống trên 80 nhóm nghiên cứu mạnh ở các cấp độ khác nhau. Trong đó, 16 nhóm đã được công nhận là nhóm nghiên cứu mạnh cấp Đại học Quốc gia năm 2014.

Để xây dựng một tạp chí khoa học đẳng cấp quốc tế

Dư luận ồn ào gần đây về việc tranh chấp quyền sở hữu tạp chí Asian-Pacific Journal of Computational Engineering giữa GS. Nguyễn Đăng Hưng và Đại học Tôn Đức Thắng đã ít nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới uy tín của giới khoa học Việt Nam, đồng thời cho thấy có những sự hiểu sai về quyền sở hữu một tạp chí đẳng cấp quốc tế. Để làm rõ vấn đề này, nhóm phóng viên đã có cuộc phỏng vấn GS. Hoàng Tụy, người từng tham gia ban biên tập của một số tạp chí toán học quốc tế.
 
 
 Xin giáo sư cho biết để hình thành một tạp chí khoa học theo thông lệ quốc tế, người ta thường làm như thế nào?
 
GS. Hoàng Tụy: Từ xưa, các tạp chí khoa học vốn do các đại học, viện nghiên cứu, hiệp hội khoa học lập ra và tự xuất bản. Đến bây giờ số tạp chí như vậy vẫn rất nhiều. Nhưng khi đã xuất hiện những nhà xuất bản (NXB) lớn chuyên kinh doanh việc xuất bản và phát hành sách và tạp chí khoa học, thì nhiều tạp chí thấy việc tự xuất bản và phát hành không hiệu quả bằng hợp tác với một NXB có uy tín để nhượng hẳn việc xuất bản và phát hành tạp chí cho NXB. Trong trường hợp này,  tạp chí vẫn thuộc quyền chủ quản của tổ chức đã lập ra nó, NXB chỉ lo việc xuất bản. Cũng có trường hợp một nhóm nhà khoa học về một chuyên ngành nào đó muốn ra một tạp chí về chuyên ngành đó thì sau khi thỏa thuận với nhau về tổng biên tập (TBT) và thành phần ban biên tập thì TBT chịu trách nhiệm thay mặt đứng ra thương thảo với NXB để lập ra tạp chí. Khi đó tạp chí là của NXB (tức là bản quyền thuộc NXB), tuy NXB vẫn không can thiệp vào việc tổ chức biên tập, việc này vẫn để thuộc quyền TBT. Trong mọi trường hợp, mỗi bài được đăng đều do tác giả ký nhượng bản quyền bài đó cho tổ chức (NXB, trường, viện) chủ quản tạp chí đó.  
 
Trong khoảng chục năm gần đây đã ra đời loại tạp chí truy cập tự do (open access). Bài muốn đăng ở tạp chí loại này thì tác giả phải trả tiền cho NXB, nhưng khi đã đăng thì có thể truy cập tự do trên mạng. Trái với các tạp chí thông thường đã có trước đây là loại phải “đặt mua”, bài đăng ở đây thì tác giả không mất tiền để được đăng, nhưng độc giả phải trả tiền đặt mua từng năm, hoặc truy cập từng bài. Ngày nay các tạp chí loại “đăt mua” quá nhiều rồi, lập ra thêm một tạp chí loại đó rất khó tiêu thụ, cho nên các  NXB thường khó nhận xuất bản thêm tạp chí mới loại này. Trái lại  kinh doanh tạp chí tự do truy cập (TDTC) thu lãi lớn, cho nên các NXB dễ chấp nhận. Cũng vì lẽ đó, thị trường tạp chí TDTC rất sôi động, đã xuất hiện những NXB chỉ chuyên cho ra tạp chí TDTC. Trong tình hình đó tất nhiên nảy ra xu hướng thương mại hóa tiêu cực, cho nên có những tạp chí TDTC có chất lượng rất thấp.     
 
Vậy thưa giáo sư, chúng ta đã có những mối quan hệ hợp tác giữa các trường/viện trong nước và các nhà xuất bản quốc tế để xây dựng tạp chí khoa học như vậy chưa?
 
Tạp chí Vietnam Journal of Mathematics là ví dụ về một tạp chí loại “đặt mua”  trước đây do ta tự xuất bản, từ vài năm nay đã do NXB Springer hợp tác với ta xuất bản. Tạp chí Acta Mathematica Vietnamica cũng như vậy. Phía ta là chủ của tạp chí, cử TBT và Ban Biên tập, phụ trách toàn bộ nội dung tạp chí và bản thảo điện tử, còn Springer lo việc xuất bản và phát hành, theo những điều khoản đã thỏa thuận. Một ví dụ khác là gần đây, có tờ Vietnam Journal of Computer Science là một tạp chí TDTC đã ra đời, do Đại học Nguyễn Tất Thành (ĐH NTT) mời được GS Nguyễn Ngọc Thanh, một nhà khoa học Việt kiều Ba Lan có tiếng nhận đứng ra làm TBT và thành lập ban biên tập, đồng thời cử một người của ĐH NTT làm assistant editor (trợ lý biên tập), rồi  liên hệ với Springer đề nghị NXB này nhận thành lập tạp chí theo những điều kiện trên. Trong trường hợp này, Springer là chủ của tạp chí và xuất bản tạp chí với sự hợp tác của  ĐH NTT (điều này được ghi rõ trên trang bìa của tạp chí). 
 
Giới khoa học Việt Nam luôn mong đợi sự ra đời những tạp chí trong nước được lọt vào danh sách ISI, trong đó người ta thường kỳ vọng nhiều ở toán học và vật lý là những ngành mà Việt Nam có thế mạnh. Vậy vì sao trong hai ngành này chúng ta vẫn chưa xây dựng được các tạp chí trong danh sách ISI?  
 
Trước đây chúng ta có những khó khăn, hạn chế rất lớn về nguồn lực, khả năng và điều kiện kỹ thuật trong việc xuất bản các tạp chí khoa học có chất lượng cao, cả về nội dung và hình thức. Ví dụ như  hai tạp chí Acta Mathematica Vietnamica và Vietnam Journal of Mathematics tuy đã ra đời được mấy chục năm nay, nhưng trước đây điều kiện thông tin liên lạc còn hạn chế, kỹ thuật in lạc hậu, việc xếp chữ mang tính thủ công nên rất khó cho việc in ấn các ký hiệu toán học, báo thường xuyên phát hành trễ, giấy in xấu, chữ in lèm nhèm nên bán rất khó khăn, chủ yếu chỉ dùng để trao đổi với các đại học nước ngoài mà cũng vô cùng vất vả và khó khăn. Dễ hiểu là trong những điều kiện đó làm sao thu hút được bài vở có chất lượng. Dù vậy ngay thời đó, hai tạp chí đó cũng đã được Math Review điểm duyệt thường xuyên và cũng đã có một số ít bài được đồng nghiệp quốc tế quan tâm, trích dẫn và đánh giá cao. 
 
Hơn chục năm nay, hai tạp chí toán của ta đã được cải tiến đáng kể, về cả nội dung và hình thức đang tiến nhanh tới chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, trở ngại vẫn còn nhiều. Bên cạnh đó, việc đăng bài trên các tạp chí quốc tế gần đây được coi là điều kiện để được xét duyệt các đề tài nghiên cứu – ví dụ Quỹ Nafosted yêu cầu các đề tài trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đều phải có công bố quốc tế trên các tạp chí ISI. Việc xét chức danh PGS, GS cũng dần dần đi theo xu hướng đó. Phải nói đó là xu hướng lành mạnh, tích cực. Nhưng đồng thời, mặt trái của nó là đối với những nhà khoa học có năng lực, đăng bài trên tạp chí trong nước ít nhiều là một sự hi sinh. Không mấy người thích đăng ở tạp chí trong nước, những bài viết tốt đều tìm cách đăng ở tạp chí nước ngoài, khiến chất lượng bài đăng trên các tạp chí trong nước không cao. Tất nhiên đây cũng là điều tự nhiên, từ trình độ lạc hậu đi lên không thể tránh được những chuyện như vậy. 
 
Vì sao một số tạp chí của các nước trong khu vực như Malaysia và Thái Lan có chất lượng không hơn tạp chí của Viện Toán học nhưng vẫn được nằm trong danh sách ISI?
 
Chuyện này tôi nghe nói nhiều, nhưng thật tình tôi chưa có dịp kiểm chứng. Ở Thái Lan hay Malaysia, những người lập ra tạp chí phần lớn học từ Mỹ về và khi trở về nước họ vẫn giữ mối quan hệ tốt với thầy, bạn ở Mỹ. Đất nước họ từ lâu đã hội nhập quốc tế, tờ báo của họ ít nhất về hình thức không khác quốc tế mấy. Nhờ những yếu tố đó, việc được lọt vào danh sách ISI thuận lợi hơn ta nhiều. Chưa kể, tiền bạc cũng đóng vai trò nhất định. Tôi nghĩ việc có tạp chí lọt vào danh sách ISI hay có đại học lọt vào tốp mấy trăm trong các bảng xếp hạng quốc tế, ta cũng chỉ nên quan tâm vừa phải thôi. Một số nước phát triển dùng một bảng xếp hạng các tạp chí khoa học, không phụ thuộc danh sách ISI mà chỉ căn cứ trên chất lượng thật, chia các tạp chí trên thế giới làm bốn hạng: A* cao nhất, rồi đến A, B, C; C là hạng cuối trong thang đó. Trong bảng này các tạp chí của Malaysia và Thái Lan được xếp cùng hạng C với hai tạp chí của ta. Cho nên tôi có đề nghị Nafosted nên tham khảo bảng này, thay vì chỉ chú ý ISI.
 
Theo giáo sư, chúng ta cần có những giải pháp gì để các tạp chí khoa học trong nước được xuất bản bởi những nhà xuất bản nổi tiếng – một trong những yếu tố quan trọng để tạp chí dễ vào danh sách ISI? 
 
Chỉ có cách là chúng ta tự cải thiện năng lực của mình và tăng cường các mối quan hệ với cộng đồng khoa học quốc tế, từ đó giành được sự quan tâm của những nhà xuất bản quốc tế có uy tín cùng tham gia xuất bản và quảng bá các tạp chí khoa học của Việt Nam. Chẳng hạn, mấy năm qua, mối quan hệ giữa Viện Toán học và giới toán học quốc tế có cải thiện rõ rệt do một số nhà toán học của ta tạo được uy tín tốt với cộng đồng toán quốc tế. Đặc biệt đối với các NXB lớn như Springer, nhiều nhà khoa học của ta có vai trò trong ban biên tập của nhiều tạp chí của họ, hoặc có sách chuyên khảo do họ xuất bản. Bên cạnh đó, một số thành tích nổi bật của các nhà toán học của ta thời gian gần đây, những hội thảo quốc tế về Toán có chất lượng cao do ta tổ chức, có sự tham gia của nhiều người nổi tiếng thế giới, kể cả Chủ tịch hay Tổng Thư ký Hội Toán quốc tế, tất cả những yếu tố đó kết hợp lại đã gây ấn tượng khiến hai năm gần đây, tạp chí Vietnam Journal of Mathematics do phía Việt Nam tự xuất bản đã được xuất bản bởi Springer.  
 
Với những tiến bộ đáng kể ở nhiều lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, cùng với giới khoa học của chúng ta cũng có ý thức chăm lo hơn đến chất lượng của tạp chí mình, tôi tin trong vòng ít năm nữa ta sẽ có tạp chí lọt vào danh sách ISI.
 
Xin trân trọng cảm ơn giáo sư! 
 
Là người từng được mời tham gia ban biên tập hoặc làm TBT  một vài tạp chí khoa học quốc tế, xin giáo sư chia sẻ về khó khăn lớn nhất mà ông từng trải qua trước đây khi hợp tác làm các tạp chí khoa học quốc tế?
 
Lần đầu tiên tôi được mời tham gia ban biên tập một tạp chí quốc tế là năm 1976. Hôm ấy, ở Budapest, trong phiên họp toàn thể của Hội thảo Quốc tế về Qui hoạch Toán học (mathematical programming), sau khi đọc xong báo cáo mời, tôi vừa trên diễn đàn bước xuống thì Balinski, TBT tạp chí Mathematical Programming, đến gặp và tỏ ý mời tôi tham gia ban biên tập của tạp chí. Thời đó, một trong những khó khăn lớn nhất cho các nhà khoa học trong nước gặp phải trong việc hợp tác với các tạp chí quốc tế là vấn đề thông tin liên lạc. Cách đây mấy chục năm, lần đầu tiên cộng đồng Tối ưu toàn cục gặp nhau ở Nhật và đề nghị tôi làm TBT của tờ tạp chí Tối ưu Toàn cục. Công việc TBT đòi hỏi phải gửi rất nhiều thư từ cho các tác giả. Tất cả thư từ chúng tôi gửi đi nước ngoài đều phải đợi đến lúc có người nước ngoài sang Việt Nam về nước thì nhờ họ cầm đi. Ngược lại, thư từ nước ngoài gửi về Việt Nam thì có khi mất hàng tháng trời mới tới nơi hoặc có khi không có. Vì vậy tôi tập hợp tất cả các phong bì mà ngày gửi và ngày đến cách nhau mấy tháng rồi đưa cho cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng và ông đã chỉ thị cho Tổng cục Bưu điện nhưng cũng không thay đổi được. Trước năm 1975 khi tôi còn nằm trong Ban Biên tập của tạp chí Mathematical Programing thì tình hình thậm chí còn khó khăn hơn, bởi thời đó người ta cấm gửi thư ra nước ngoài, muốn gửi thì phải qua kiểm duyệt chứ không được tự động, khiến nhiều khi tôi phải làm “liều”, nhận “chui”. Chỉ đến khi Việt Nam mở cửa, quan hệ với các nước bình thường thì giao lưu thư từ đó mới được cải thiện. Nhưng thời kỳ mới mở cửa cũng vẫn còn những bất cập, một là các nhân viên bưu tá nhiều khi không làm đúng trách nhiệm, có khi để dồn mới đưa, có khi để mất, rồi có khi mấy tờ báo ở nước ngoài về có mấy hình đẹp đẽ thì giữ lại cho con cháu chơi. Thứ hai là các bưu kiện quốc tế của Việt Nam hồi đó đều qua Bangkok thì họ đều giữ lại, lúc nào thuận tiện mới gửi qua.
 
 
   
 
Tác giả bài viết: Nhóm PV thực hiện

Lực lượng khoa học và công nghệ phải không ngừng đổi mới

 
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm thành viên Chính phủ cho ông Chu Ngọc Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)
 
Là một trong 18 thành viên mới của Chính phủ được Quốc hội Khóa XIII phê chuẩn theo đề nghị của Thủ tướng, trên cương vị mới, tân Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, tiến sỹ Chu Ngọc Anh đã chia sẻ với báo chí về những vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chỉ đạo, điều hành trong nhiệm kỳ của ông. 
 
– Xin trân trọng chúc mừng ông đã được Quốc hội tín nhiệm phê chuẩn chức vụ Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Xin ông cho biết cảm nghĩ của mình trên cương vị mới? 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Tôi cảm nhận sâu sắc niềm vinh dự đi đôi với trách nhiệm rất lớn trước đất nước, nhân dân và cộng đồng khoa học và công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh mới, khi khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo phải trở thành đòn bẩy cho công cuộc tái cấu trúc kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Kỳ vọng và sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với khoa học và công nghệ là một thuận lợi nhưng cũng là một áp lực buộc lực lượng khoa học và công nghệ phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện. 
 
Tôi trân trọng nỗ lực và tâm huyết của các bộ trưởng tiền nhiệm trong việc khởi xướng các đổi mới trong khoa học và công nghệ, thiết lập hành lang pháp lý và tháo gỡ vướng mắc để tạo thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Tôi cũng thấu hiểu các khó khăn và rào cản trong thực tiễn thi hành để biến các chủ trương tiến bộ thành hiện thực và đi vào cuộc sống. Con đường phía trước đầy thách thức, nhưng tôi tin rằng, với trí tuệ, nhiệt huyết và sự quyết tâm đồng lòng của lực lượng khoa học và công nghệ Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, chúng ta sẽ đến đích thành công. 
 
– Thời gian tới, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, xin ông cho biết những ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành? 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Ưu tiên hàng đầu trong nhiệm kỳ sắp tới của tôi là tập trung chỉ đạo thực hiện thành công các định hướng, giải pháp phát triển khoa học và công nghệ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 20-NQ/TW, những ưu tiên và trọng tâm công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó đặc biệt chú trọng vấn đề hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ, sao cho khoa học và công nghệ tác động trực tiếp và mạnh mẽ hơn tới năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. 
 
Muốn vậy, chúng tá cần xác định trúng và đúng tầm nhiệm vụ khoa học và công nghệ, xuất phát từ thực tiễn và giải quyết được các yêu cầu bức thiết của thực tiễn phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là chủ thể đi đầu trong thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ. Để triển khai có hiệu quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nhân tố con người là quan trọng nhất. 
 
Cần gây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học mạnh trong nước và ở nước ngoài, kết hợp đồng thời biện pháp động viên, khuyến khích và đặt yêu cầu trở lại đối với nhà khoa học; đào tạo, trọng dụng người tài kết hợp với đòi hỏi về tính liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu. Bên cạnh đó, cần đảm bảo phương tiện và môi trường làm việc thuận lợi cho cán bộ khoa học. Đầu tư có hiệu quả cho hạ tầng khoa học và công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nguồn lực thông tin và tài chính, kể cả hạ tầng mềm, đó là môi trường học thuật tiên tiến, lành mạnh. 
 
Có con người giỏi và phương tiện hiện đại chưa đủ, chúng ta cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ theo hướng dỡ bỏ các rào cản, giải phóng tối đa tiềm năng sáng tạo, nới rộng quyền tự chủ đi đôi với đánh giá công khai, minh bạch kết quả hoạt động nghiên cứu. 
 
Cuối cùng, với một nước đi sau như Việt Nam, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thúc đẩy hợp tác nghiên cứu chung để tranh thủ nguồn lực và tri thức của các quốc gia tiên tiến, đồng thời từng bước nâng tầm năng lực và trình độ nghiên cứu trong nước để có thể tham gia hợp tác đối tác bình đẳng và cùng có lợi trong dài hạn. 
 
– Nhân dịp này, ông mong muốn gửi gắm thông điệp gì tới cộng đồng khoa học và công nghệ Việt Nam? 
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Tôi tin tưởng vào trí tuệ, lòng tự trọng và trách nhiệm đối với công việc, với đất nước của các nhà khoa học Việt Nam. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự ủng hộ và chia sẻ của cộng đồng khoa học và công nghệ Việt Nam trong nước và ở người ngoài, cùng chung sức, đồng lòng đóng góp cho thành công của sự nghiệp khoa học và công nghệ. 
 
Tôi cũng mong ngành khoa học và công nghệ tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân và các lực lượng xã hội, để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững.
 
– Xin cảm ơn Bộ trưởng!/. 

Việt Nam muốn cạnh tranh trong TPP: Khoa học công nghệ phải là số 1

Theo Bộ trưởng Nguyễn Quân, để DN Việt Nam có thể cạnh tranh được với DN các nước trong TPP thì KH&CN là lĩnh vực cần phát triển mạnh nhất.
 
Chiều 25/2 tại Ninh Bình, Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt năm 2016. Đến dự có lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ cùng lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trong Bộ. Ngoài ra, có sự tham gia của ông Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại và lãnh đạo UBND tỉnh Ninh Bình.
 
 
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân phát biểu tại hội nghị. Ảnh Viết Cường
Phát biểu khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Quân cho biết, hội nghị được tổ chức tại Ninh Bình năm nay là cơ hội để các cán bộ chủ chốt của Bộ có thể tiếp cận được với các đơn vị trong Sở Khoa học và Công nghệ, cùng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vựckhoa học công nghệ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
 
“Thông qua hoạt động này, tôi hi vọng chúng ta sẽ biết về nhau nhiều hơn và hỗ trợ nhau tốt hơn nữa trong thời gian tới”, ông Quân bày tỏ.
 
Bộ trưởng Nguyễn Quân tiếp tục câu chuyện: Hội nghị này diễn ra trong không khí phấn khởi khi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta chào mừng thành công đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 và bắt tay vào thực hiện các nghị quyết của đại hội. Chúng ta cũng đang chuẩn bị tích cực cho bầu cử Quốc hội và không lâu nữa sẽ có Chính phủ mới.
“Tôi rất vui mừng vì đồng chí Chu Ngọc Anh – Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ được Đại hội 12 tín nhiệm bầu vào Ban chấp hành Trung ương khóa 12. Chúng ta cũng vui mừng bởi trong năm qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Chính phủ giao”, ông Quân nói.
 
Theo đó, trong năm 2015, lần đầu tiên khoa học công nghệ Việt Nam được cộng đồng quốc tế thừa nhận là nền khoa học có tốc độ tăng trưởng tốt với nhiều sản phẩm khoa học đạt trình độ khu vực và xứng tầm thế giới.
 
“Năm 2015, Việt Nam được xếp hạng thứ 52 trên 141 nền kinh tế về năng lực đổi mới sáng tạo. Trong khối Asean, Việt Nam xếp thứ 3, vượt qua cả Thái Lan. Đây là lần đầu tiên chúng ta đạt được thứ hạng cao như vậy”, Bộ trưởng Nguyễn Quân vui mừng chia sẻ.
 
Ông Quân cho rằng, những thành quả trên thể hiện sự nỗ lực không mệt mỏi của cộng đồng khoa học Việt Nam, trong đó có phần đóng góp rất quan trọng của những người làm công tác quản lý khoa học công nghệ.
Thay mặt cho Bộ khoa học và Công nghệ, Bộ trưởng Nguyễn Quân gửi lời cảm ơn đến những người làm khoa học đã nỗ lực trong thời gian qua để khoa học công nghệ Việt Nam có nhiều kết quả tốt đẹp.
 
 
Giàn khoan tự nâng 90m nước là một trong nhiều thành tựu khoa học nổi bật của Việt Nam năm 2015. Sau khi dự án được lắp đặt thành công trên biển, Việt Nam có thể tự hào là quốc gia sở hữu giàn khoan có chất lượng nằm trong top 3 khu vực châu Á và top 10 trên thế giới.
 
Tuy nhiên, trong niềm vui thì Bộ trưởng Nguyễn Quân vẫn không quên nhắc đến những khó khăn, thách thức của ngành thời gian tới.
 
Ông Quân dẫn giải, trước Tết âm lịch, Việt Nam đã ký kết tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Cũng trong năm 2015, Việt Nam đã tham gia nhiều thương mại tự do như với Liên minh Châu Âu, với Hàn Quốc, với Á Âu,… Năm 2016 này, chúng ta đang chuẩn bị tích cực cho quá trình hội nhập sâu rộng với thế giới.
“Mặc dù TPP còn phải chờ Quốc hội các nước phê chuẩn mới có hiệu lực nhưng ngay từ bây giờ, tất cả các quốc gia tham gia TPP đều đang căng mình chuẩn bị để khi hiệp định có hiệu lực, chúng ta có đầy đủ nguồn lực tham gia vào sân chơi lớn này”, ông Quân nói.
 
Bởi theo nhận định của “tư lệnh” ngành khoa học công nghệ, trong sân chơi này, Việt Nam phải chơi cùng với nhiều quốc gia rất mạnh trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản,…
“Có lẽ tất cả những người chơi đều có trình độ cao hơn chúng ta, giàu có hơn chúng ta. Điều này khiến Việt Nam phải nỗ lực hơn tất cả các quốc gia khác trong TPP”, ông Quân nêu rõ.
 
“Không gì có thể thay thế được khoa học công nghệ trong cuộc cạnh tranh này. Thực chất, cạnh tranh trong thời buổi hiện đại chính là cạnh tranh nhau về khoa học công nghệ, cạnh tranh về năng suất lao động, cạnh tranh về chất lượng sản phẩm hàng hóa. Như vậy, khoa học công nghệ sẽ là lĩnh vực luôn phải đi đầu trong cuộc cạnh tranh khốc liệt này”, Bộ trưởng Nguyễn Quân nhấn mạnh.
 
Ông Quân hi vọng, khoa học công nghệ sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa để hàng Việt Nam có thể tồn tại, cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thế giới.
 
Từ đó, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị các nhà khoa học Việt Nam phải tăng cường hoạt động nghiên cứu để chúng ta có nhiều sản phẩm khoa học hữu ích.
Theo ông, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ là nguồn vào quan trọng cho doanh nghiệp. Đó là công nghệ nguồn, công nghệ lõi, công nghệ mới, công nghệ cao.
“Vì thế, chúng tôi mong muốn các cán bộ chủ chốt của Bộ Khoa học và Công nghệ thông qua hội nghị này sẽ hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình đối với xã hội, với đất nước”, Bộ trưởng Nguyễn Quân tiếp tục nhấn mạnh về vai trò của những người làm khoa học công nghệ đối với sự phát triển của đất nước./.
 
Theo: Viết Cường (vietq.vn)

Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: ‘KH-CN phải tác động mạnh mẽ hơn tới năng lực cạnh tranh quốc gia’

 Trả lời phóng viên trên cương vị người đứng đầu ngành KH&CN, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh cho biết một trong những ưu tiên của ông trong nhiệm kỳ sắp tới là "chú trọng vấn đề hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ, sao cho khoa học và công nghệ tác động trực tiếp và mạnh mẽ hơn tới năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đất nước".

Xin trân trọng chúc mừng ông đã được Quốc hội tín nhiệm phê chuẩn chức vụ Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Xin Bộ trưởng cho biết cảm nghĩ của mình trên cương vị mới?
 
 
Bộ trưởng Bộ KHCN Chu Ngọc Anh. Ảnh: VGP/Nguyễn Hoàng
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Tôi cảm nhận sâu sắc niềm vinh dự đi đôi với trách nhiệm rất lớn trước đất nước, nhân dân và cộng đồng khoa học và công nghệ, đặc biệt trong bối cảnh mới, khi khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo phải trở thành đòn bẩy cho công cuộc tái cấu trúc kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
 
Kỳ vọng và sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và xã hội đối với khoa học và công nghệ là một thuận lợi nhưng cũng là một áp lực buộc lực lượng khoa học và công nghệ phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện.
 
Tôi trân trọng nỗ lực và tâm huyết của các Bộ trưởng tiền nhiệm trong việc khởi xướng các đổi mới trong khoa học và công nghệ, thiết lập hành lang pháp lý và tháo gỡ vướng mắc để tạo thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Đồng thời, tôi cũng thấu hiểu các khó khăn và rào cản trong thực tiễn thi hành để biến các chủ trương tiến bộ thành hiện thực và đi vào cuộc sống.   
 
Con đường phía trước đầy thách thức, nhưng tôi tin rằng, với trí tuệ, nhiệt huyết và sự quyết tâm đồng lòng của lực lượng khoa học và công nghệ Việt Nam trong nước và ở nước ngoài, chúng ta sẽ đến đích thành công.
 
Thời gian tới, trên cương vị Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, xin ông cho biết những ưu tiên trong chỉ đạo, điều hành?
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Ưu tiên hàng đầu trong nhiệm kỳ sắp tới của tôi là tập trung chỉ đạo thực hiện thành công các định hướng, giải pháp phát triển khoa học và công nghệ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 20-NQ/TW, những ưu tiên và trọng tâm công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó đặc biệt chú trọng vấn đề hiệu quả của hoạt động khoa học và công nghệ, sao cho khoa học và công nghệ tác động trực tiếp và mạnh mẽ hơn tới năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của quốc gia và doanh nghiệp, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.
 
Muốn vậy, cần xác định trúng và đúng tầm nhiệm vụ khoa học và công nghệ, xuất phát từ thực tiễn và giải quyết được các yêu cầu bức thiết của thực tiễn phát triển đất nước, ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là chủ thể đi đầu trong thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ.
 
Để triển khai có hiệu quả nhiệm vụ khoa học và công nghệ, nhân tố con người là quan trọng nhất. Cần gây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học mạnh trong nước và ở nước ngoài, kết hợp đồng thời biện pháp động viên, khuyến khích và đặt yêu cầu trở lại đối với nhà khoa học; đào tạo, trọng dụng người tài kết hợp với đòi hỏi về tính liêm chính và đạo đức trong nghiên cứu.
 
Bên cạnh đó, cần bảo đảm phương tiện và môi trường làm việc thuận lợi cho cán bộ khoa học. Đầu tư có hiệu quả cho hạ tầng khoa học và công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm, nguồn lực thông tin và tài chính, kể cả hạ tầng mềm, đó là môi trường học thuật tiên tiến, lành mạnh.  
 
Có con người giỏi và phương tiện hiện đại chưa đủ, chúng ta cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động khoa học và công nghệ theo hướng dỡ bỏ các rào cản, giải phóng tối đa tiềm năng sáng tạo, nới rộng quyền tự chủ đi đôi với đánh giá công khai, minh bạch kết quả hoạt động nghiên cứu.
 
Cuối cùng, với một nước đi sau như Việt Nam, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, thúc đẩy hợp tác nghiên cứu chung để tranh thủ nguồn lực và tri thức của các quốc gia tiên tiến, đồng thời từng bước nâng tầm năng lực và trình độ nghiên cứu trong nước để có thể tham gia hợp tác đối tác bình đẳng và cùng có lợi trong dài hạn.
 
Nhân dịp này, Bộ trưởng muốn gửi gắm thông điệp gì tới cộng đồng khoa học và công nghệ Việt Nam?
 
Bộ trưởng Chu Ngọc Anh: Tôi tin tưởng vào trí tuệ, lòng tự trọng và trách nhiệm đối với công việc, với đất nước của các nhà khoa học Việt Nam. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự ủng hộ và chia sẻ của cộng đồng khoa học và công nghệ Việt Nam trong nước và ở người ngoài, cùng chung sức, đồng lòng đóng góp cho thành công của sự nghiệp khoa học và công nghệ.
 
Tôi cũng mong ngành khoa học và công nghệ tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân và các lực lượng xã hội, để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững.
 
Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
 
Nguyễn Hoàng

Ứng dụng mới ra mắt của Israel sẽ thay đổi hoàn toàn cách giao tiếp của loài người

Các nhà phát triển của Israel vừa tung ra một ứng dụng mới có tên MyState giúp bạn tiết kiệm thời gian và công sức khi liên lạc với bạn bè hay đối tác bằng cách cung cấp thông tin về người mà bạn đang nói chuyện theo thời gian thực.
 
Ứng dụng bắt đầu được phát triển vào năm 2014 tại Bnei Brak bởi Assaf Pney-El và một đối tác với mục đích giảm thiểu những khó khăn liên quan tới các hoạt động kinh doanh như liên hệ với khách hàng và xác thực thanh toán.
 
 
Ứng dụng MyState cung cấp thông tin về người mà bạn đang nói chuyện theo thời gian thực.
 
"Chúng tôi phải dành cả ngày để tiếp cận khách hàng qua điện thoại. Tôi phải liên tục nhắc bản thân mình phải gọi cho ai đó sau năm phút hoặc phải đặt báo thức nhưng máy của khách hàng luôn bận. Đôi khi, tôi mất tới hai ngày mới có thể gọi được cho một khách hàng và khi họ gọi lại cho chúng tôi thì chúng tôi lại đang trong tình trạng máy bận. MyState sẽ giải quyết những phiền phức trên", Pney-El giải thích.
 
MyState cho phép bạn xem tình trạng pin điện thoại của mọi người trong danh bạ và thậm chí xem họ có đang gọi hoặc nghe một cuộc gọi khác hay không. Thậm chí, bạn còn có thể xem múi giờ của người được gọi và biết việc người bạn sắp gọi có để điện thoại trong chế độ im lặng hay không.
 
"Nếu đối tác để điện thoại ở chế độ im lặng thì bạn có gọi 100 lần họ cũng không hề biết. Nếu pin của họ đang sắp cạn kiệt thì họ cũng không muốn nghe máy của bạn. MyState sẽ giúp bạn tiết kiệm thời gian và tiền bạc khi chỉ cho bạn thời điểm gọi điện phù hợp nhất", Pney-El nói.
 
Ngoài ra, ứng dụng còn cho phép bạn thiết lập thông báo thời điểm không nên gọi cho bạn bè, người thân. Bạn có thể chọn màu hoặc chia sẻ những ghi chú ngắn như "tôi đang họp, hãy gọi lại vào lúc 4h30 chiều".
 
 
MyState chỉ cho bạn thời gian gọi điện hợp nhất, giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc.
 
Pnay-El bác bỏ quan điểm cho rằng MyState xâm phạm quyền riêng tư của người dùng. "Vấn đề bảo mật rất quan trọng nên bạn có thể chọn những người mà bạn muốn chia sẻ hoặc không. Nếu bạn không muốn ai đó thấy trạng thái của bạn, bạn có thể chặn anh ta trên MyState", anh chia sẻ.
 
Pnay-El và nhóm của anh đã nhận được 6,5 triệu USD trong vòng gây vốn trước khi ra mắt ứng dụng. Sau khi ra mắt, MyState đã xuất hiện trên hơn 30 kênh báo chí, truyền thông khác nhau và đang phát triển nhanh chóng ở quê nhà Israel cũng như các thị trường khác như Mỹ, Anh, Nga, Nhật…
 
Theo genK.vn

Phụ kiện selfie “sang chảnh” mới: Flycam

Gậy tự sướng đã là phụ kiện của năm ngoái rồi. Nếu bạn muốn chứng tỏ mức độ sành điệu và thức thời về công nghệ trong năm 2016, selfie drone – máy bay không người lái chụp ảnh tự sướng mới là lựa chọn số 1.
 
Dù còn gây nhiều tranh cãi song gậy tự sướng vẫn là một trong những món phụ kiện smartphone ăn khách nhất thời gian qua. Nhiều người coi đây là biểu tượng của văn hóa "yêu bản thân quá lố", thậm chí gậy tự sướng còn bị cấm cửa ở một số địa điểm công cộng như sân vận động, bảo tàng để phòng ngừa nguy cơ người chụp vung vẩy nó vào người khác/vật phẩm trưng bày. Thế nhưng các fan của tự sướng vẫn mê mẩn món phụ kiện này.
 
 
Máy bay tự hành chụp selfie kiểu như ROAM-e sẽ là mốt "hot" của 2016?
Sang đến năm 2016, gậy tự sướng còn tiến hóa thành một thứ kỳ dị hơn và cũng nguy hiểm hơn.
 
Hãy làm quen với ROAM-e, một máy bay mini điều khiển từ xa được thiết kế dành riêng cho mục đích selfie. Công việc của món đồ nhỏ bé là luôn luôn bay lượn xung quanh bạn, hoặc để chụp những bức ảnh hoàn hảo, hoặc để tường thuật trực tiếp một cảnh tượng nào đó. Máy tích hợp công nghệ nhận dạng khuôn mặt để luôn bám sát chủ nhân của nó và không bay xa bạn quá bán kính 25m (mặc định).
 
Ngoài ra, nó còn có chế độ Follow Me, kiên trì theo sát bạn ở khoảng cách cố định là 3 mét. Cuối cùng, máy còn có một chế độ chụp toàn cảnh, cho phép máy bay bay một vòng quanh bạn và cung cấp hình ảnh 360 độ.
 
ROAM-e có giá 349 USD và giao hàng trong vòng 12 tuần kể từ ngày đặt hàng. Thiết bị có thể kết nối với smartphone của người dùng, miễn là chúng cài hệ điều hành Android hoặc iOS. Tuy nhiên, camera tích hợp có độ phân giải khá khiêm tốn (chỉ 5MP). Máy có thể bay khoảng 20 phút sau mỗi lần sạc pin kéo dài 2 giờ.
 
 
ROAM-e có giá 349 USD nhưng camera chỉ có 5 chấm.
 
Xét về khía cạnh công nghệ thuần túy, món phụ kiện này khá hay ho và thú vị. Các blogger và vận động viên leo núi có thể sử dụng nó để tăng thêm gia vị cho video clip của họ, hoặc ghi lại một phần của chuyến leo núi nghẹt thở. Mặc dù vậy, với cái giá 349 USD để đổi lấy camera 5MP cùng 20 phút bay lượn, ROAM-e chỉ dành cho dân chơi công nghệ thứ thiệt mà thôi. Nếu giá bán của nó giảm nhanh trong thời gian tới, chắc chắn nhu cầu sử dụng sẽ tăng lên. Thế nhưng các khu vực "cấm máy bay selfie" cũng sẽ xuất hiện nhiều hơn trên phố vì mục đích an toàn.
 
Theo Vietnamnet

Muốn hòa hợp với thiên nhiên, người Nhật đã chế tạo ra tàu cao tốc biết tàng hình

Kĩ sư Kazuyo Sejima muốn những con tàu cao tốc tại Nhật Bản sẽ có khả năng tàng hình như chiếc máy bay trong bộ phim Wonder Woman.
 
Tàu cao tốc của Nhật Bản từ trước đến nay vẫn nổi danh vì tốc độ nhanh đến nỗi mà nhiều khi, bạn không có cảm giác chúng vừa chạy qua. Gần đây, công ty đường sắt Nhật Bản Seibu vừa có một đơn đặt hàng cho chiếc tàu mới với kiến trúc sư Kazuyo Sejima. Với thiết kế mới nay, chiếc tàu sẽ gần như trở nên vô hình, kể cả khi đứng im. Giống như một chú tắc kè hoa, tàu Seibu mới sẽ hòa lẫn vào khung cảnh nông thôn khi chúng chạy qua đây.
 
Theo dự kiến, chiếc tàu sẽ được đưa vào sử dụng vào năm 2017. Chiếc tàu tàng hình đầu tiên sẽ có hình dáng hữu cơ khác hẳn với tàu New Red Arrow mà đang vận hành tại khu vực Tokyo. Với phần khung được thiết kế với lớp vỏ có thể phản chiếu lại môi trường xung quanh, các nhà thiết kế hy vọng chiếc tàu mới sẽ cho ra đời những hình ảnh thú vị khi chúng hòa lẫn vào môi trường xung quanh.
 
Tàu Seibu sẽ là chiếc tàu đầu tiên được thiết kế bởi nhà thiết kế Sejima – chủ nhân của giải thưởng Pritzker, giải thưởng được ví như giải Nobel trong ngành thiết kế. Đây là lần đầu tiên mà ngành đường sắt và tàu hỏa tại Nhật Bản trao quyền cho một nhà thiết kế với nhiều phá cách độc đáo giúp thay đổi lại hình ảnh những con tàu vốn đã trở nên quen thuộc tại Nhật Bản.
 
Sejima nói rằng điều thu hút cô ở dự án này là sự khác nhau giữa việc xây dựng một công trình thường chỉ gắn với một địa điểm nhất định, trong khi thiết kế một con tàu đi qua nhiều khung cảnh môi trường khác nhau sẽ khó khăn hơn.
 
 
Liệu chiếc tàu tàng hình này có thể đưa vào vận hành trong tương lai?
"Con tàu này sẽ đi qua nhiều vùng khác nhau của Nhật Bản, từ vùng núi tỉnh Chichibu cho tới trung tâm thành phố Tokyo. Tôi nghĩ rằng nó sẽ thật tuyệt nếu con tàu có thể trở nên hài hòa với cảnh quan xung quanh", Sejima trao đổi khi thông cáo báo chí về tàu Seibu được đưa ra. "Tôi cũng muốn biến chiếc tàu cao tốc này thành nơi mà hành khách có thể thư giãn theo cách riêng của họ, như trong chính phòng khách của mình. Nhờ vậy, họ sẽ cảm thấy thích thú và muốn đi tàu lại lần nữa".
 
Theo tính toán, thiết kế của con tàu mới này sẽ không gây ảnh hưởng nhiều lên môi trường. Lượng khí thải, ô nhiễm âm thanh và những cản trở khi thi công tuyến đường ray là những vấn đề lớn mà chúng ta sẽ gặp phải, hơn là hình ảnh của con tàu khi đi qua các khu vực sẽ trông như thế nào.
 
Người Nhật luôn cố gắng phát triển những ứng dụng hài hòa với thiên nhiên môi trường và việc đưa những con tàu hòa hợp với môi trường xung quanh sẽ là một bước tiến lớn đáng kể. Hãy hy vọng rằng Nhật Bản sẽ sớm đưa vào hoạt động những con tàu tàng hình như vậy trong tương lai gần.
 
Theo Trí Thức Trẻ

Để diệt trừ thực phẩm bẩn, người Đức đã có một phát kiến quá sức tuyệt vờ

Thay vì tới tận trang trại để lựa chọn rau sạch cho gia đình, giờ đây bạn có thể chỉ cần ra siêu thị và sẽ có ngay những sản phẩm rau an toàn.
 
Chúng ta đều biết rằng bữa ăn hàng ngày không thể thiếu các loại rau sạch để cung cấp lượng vitamin cần thiết. Tuy nhiên, với chi phí năng lượng và nhiên liệu cao, việc vận chuyển rau củ quả từ trang trại đến siêu thị rồi đến tay người tiêu dùng sẽ đẩy giá cả lên cao hơn.
 
Để giải quyết bài toán trên, một công ty Đức đã nẩy ra ý kiến giúp người tiêu dùng có thể lựa chọn các loại rau sạch với giá cả phải chăng: tích hợp trang trại mini ngay trong siêu thị.
 
Kräutergarten, có nghĩa là "vườn rau gia vị", là sản phẩm của một công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp Infarm. Công ty này đã đưa những trang trại rau siêu nhỏ vào thử nghiệm tại Metro group – một chuỗi bán lẻ tại Đức.
 
 
Hình ảnh Kräutergarten tại một siêu thị tại Đức.
 
"Hầu như bất cứ loại nhà kính nào phải có quy mô lớn để tiết kiệm và trở nên hiệu quả", đồng sáng lập của Infarm, Guy Galonska chia sẻ với Adele Peters trên tờ Fast Company. "Trong trường hợp của chúng tôi, công nghệ được sử dụng áp dụng với các khối đơn nhất và hiệu quả của chúng cao hơn. Chúng có thể áp dụng trên quy mô nhỏ, chỉ vài mét vuông. Do đó, việc đưa vào hoạt động trong siêu thị với diện tích nhỏ là hoàn toàn hợp lý".
 
Như các phương pháp trồng rau trên giàn phổ biến tại Mỹ và Anh, hệ thống của Infarm tận dụng được những lợi thế như sản xuất quanh năm, lượng nước sử dụng ít, công nghệ không sử dụng thuốc trừ sâu để mang đến phương pháp trồng rau chi phí rẻ và không gây ảnh hưởng tới môi trường.
 
Rau xanh và các loại gia vị sẽ phát triển trong một ô cho tới khi sẵn sàng đem bán. Không như các hệ thống nhà kính khác, cây giống và cây trưởng thành không phải di chuyển xung quanh, do đó các hộp trồng cây sẽ tận dụng mọi milimet không gian bên trong.
 
Vào thời điểm này, chỉ có một trang trại mini đang được đưa vào hoạt động tại một siêu thị đặc biệt, được dành riêng cho các đầu bếp và khách hàng mua buôn. Tuy nhiên, công ty đang có ý định sản xuất hàng loạt các mô hình như vậy để đưa vào nhiều hệ thống siêu thị hơn trước cuối năm nay. Bên cạnh việc tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường khi nó đã cắt giảm chi phí vận chuyển từ trang trại đến các hệ thống phân phối, Infarm nói rằng hệ thống này sẽ thay đổi thói quen mua sắm của người tiêu dùng.
 
 
Khách hàng có thể lựa chọn những loại rau cho mình ngay tại khu trang trại mini.
 
 
"Chúng tôi nhận được nhiều phản hồi thú vị từ các đầu bếp khi họ nhìn thấy các loại rau mà họ biết bởi vì họ sử dụng chúng mỗi ngày nhưng không biết chúng mọc và phát triển như thế nào", Galonska nói. "Nó thực sự thu hút mọi người. Việc đi chợ và siêu thị đôi khi thật nhàm chán với bạn. Chỉ việc đến và chọn các thứ đã có sẵn. Tuy nhiên ở đây, bạn sẽ thấy một trang trại thực sự – một trang trại trong siêu thị".
 
Những mô hình thử nghiệm đang tập trung vào các loại rau sống và rau đặc sản, bao gồm cải xanh mizuna và wasabi. Tuy nhiên, Infarm cũng chia sẻ những hộp như vậy có thể sử dụng để trồng các sản phẩm như cà tím, cà chua, ớt. Sử dụng kết hợp với một app trên điện thoại giúp khách hàng có thể đặt loại rau họ muốn mua, khách hàng có thể dễ dàng lựa chọn sản phẩm thay cho việc đến các cửa hàng nông sản địa phương và căng mắt ra để tìm sản phẩm bạn muốn.
 
"Chúng tôi coi loại trang trại này như một dịch vụ", Galonska chia sẻ. "Nó tương tự như thế giới phần mềm, nơi mà chúng ta bán công nghệ ở mức giá rẻ và sau đó cung cấp tất cả chi tiết và dịch vụ đi kèm như các phần mềm".
 
Infarm hy vọng rằng các siêu thị sẽ triển khai lắp đặt các trang trại mini trong thời gian sớm. Nếu ý tưởng này được đưa vào rộng rãi, nó có thể giúp thay đổi suy nghĩ của mọi người về việc phương pháp trồng rau giàn và nhiều phương pháp nông nghiệp trong đô thị không phải là một giải pháp hữu hiệu để tăng sản lượng và giảm ảnh hưởng so với nông nghiệp truyền thống.
 
 
Phương pháp trồng rau trên giàn được áp dụng nhiều tại các đô thị lớn, nơi diện tích đất nông nghiệp gần như không tồn tại.
 
 
"Nếu bạn nhìn vào năm hoặc mười năm tới, bạn sẽ thấy sự phát triển của công nghệ trong nông nghiệp. Chúng ta sẽ thấy những mô hình nông nghiệp trên giàn có thể cho ra đời nhiều sản phẩm như gạo, đậu và vài loại trái cây", Galonska nhận định. "Liệu nó có thể thay thế hoàn toàn nông nghiệp truyền thống?". Có thể, nhưng chắc chắn sẽ là một quá trình lâu dài để con người có thể đạt tới trình độ canh tác như vậy.
 
Theo Trí Thức Trẻ