Sách mới của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

GIÁO TRÌNH LẬP TRÌNH ỨNG DỤNG WINDOWS FORMS

TS. Nguyễn Minh Quý (Chủ biên)
TS. Nguyễn Văn Quyết, ThS. Trần Đỗ Thu Hà, TS. Vũ Khánh Quý

Cuốn sách “Lập trình ứng dụng Windows Forms” là một tài liệu học tập và tham khảo hữu ích, được biên soạn bởi các giảng viên tâm huyết đến từ Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên. Giáo trình được thiết kế nhằm cung cấp cho sinh viên ngành Công nghệ thông tin, cũng như những ai có đam mê lập trình, một nền tảng vững chắc về phát triển ứng dụng trên nền Windows Forms bằng ngôn ngữ C#. Được cấu trúc chi tiết và chặt chẽ, cuốn sách giúp người học không chỉ nắm bắt lý thuyết mà còn thực hành xây dựng các ứng dụng phần mềm một cách dễ dàng và bài bản.

Nội dung giáo trình được chia thành nhiều phần chính, bắt đầu từ phần giới thiệu tổng quan, mang đến cái nhìn toàn cảnh về Windows Forms và vai trò của nó trong lập trình ứng dụng. Tiếp đó, mỗi chương sẽ lần lượt trình bày kiến thức lý thuyết nền tảng, từ những khái niệm cơ bản đến các kỹ thuật phức tạp trong lập trình Windows Forms. Mỗi phần lý thuyết đều kèm theo các bài tập áp dụng thực tế, giúp người học có cơ hội thực hành và hiểu sâu hơn về kiến thức vừa học. Để đảm bảo tính toàn diện, các chương còn bao gồm phần tóm tắt, tổng kết, giúp người học nắm lại những điểm quan trọng một cách hệ thống. Ngoài ra, các câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tự làm ở cuối mỗi chương sẽ là công cụ kiểm tra và củng cố kiến thức, giúp người học tự đánh giá và cải thiện kỹ năng của mình.

Điểm nhấn đặc biệt của giáo trình là case study “Quản lý cán bộ” – một phần mềm thực tế được xây dựng từ đầu đến cuối trong nội dung giáo trình. Qua phần này, người học sẽ được hướng dẫn chi tiết từ khâu phân tích yêu cầu, thiết kế giao diện, đến triển khai và xử lý các chức năng quan trọng trong một phần mềm quản lý. Đây là một dự án thực hành toàn diện, mang lại cho người học không chỉ kỹ năng lập trình mà còn kinh nghiệm về quá trình phát triển một phần mềm ứng dụng hoàn chỉnh, điều này rất quan trọng đối với những ai muốn bước chân vào ngành phát triển phần mềm chuyên nghiệp.

Giáo trình được phân công biên soạn theo từng chương cụ thể bởi các giảng viên nhiều kinh nghiệm: TS. Vũ Khánh Quý chịu trách nhiệm biên soạn Chương 1, TS. Nguyễn Văn Quyết đảm nhiệm Chương 2 và Chương 3, TS. Nguyễn Minh Quý biên soạn Chương 4 và Chương 5, và ThS. Trần Đỗ Thu Hà phụ trách Chương 6 và Chương 7. Với sự đóng góp của từng tác giả, cuốn sách mang đến một nguồn kiến thức phong phú, thực tế và có tính ứng dụng cao.

Mặc dù nhóm tác giả đã dành nhiều công sức để biên soạn và hoàn thiện giáo trình, nhưng cuốn sách có thể còn một số thiếu sót. Vì vậy, các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ độc giả và đồng nghiệp để có thể cải tiến cho những lần tái bản tiếp theo, nhằm phục vụ tốt hơn cho cộng đồng học tập và nghiên cứu về lập trình.

Cuốn “Lập trình ứng dụng Windows Forms” không chỉ là một tài liệu học tập mà còn là nguồn cảm hứng cho những ai muốn theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực lập trình. Với sự hướng dẫn rõ ràng, nội dung chi tiết và các ví dụ thực tế, giáo trình này sẽ là công cụ hữu ích giúp người học phát triển kỹ năng và trở thành những lập trình viên tự tin, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong ngành công nghệ thông tin.

Mời bạn đọc mua sách tại Website Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật hoặc các sàn điện tử của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

Giống cá chép Hungary ‘vượt khó’ vào Việt Nam 50 năm trước

Cách đây 50 năm, hơn một vạn con cá chép giống từ Hungary trên đường về Việt Nam những tưởng “đứt gánh” ở Đức, nhưng nhờ thuyết phục của TS Vũ Kim Cầu đã vận chuyển thành công.

Đầu thập niên 70, nghề nuôi cá chép ở Việt Nam suy thoái nghiêm trọng do giống dần bị thoái hóa. Cá giống không bán được, người dân không còn mặn mà với việc nuôi cá khiến ngành thủy sản phải tìm giải pháp cải thiện giống và phát triển các chương trình lai tạo cá chép.

Lúc bấy giờ, Việt Nam có 8 loài cá chép, trong đó cá chép trắng được nuôi phổ biến nhất. Cá chép bản địa có sức chống chịu tốt nhưng tốc độ sinh trưởng chậm, thành thục sớm. Để cải tạo giống, cần lai tạo cá bản địa với các dòng có ưu điểm sinh trưởng nhanh như của Hungary. TS Vũ Kim Cầu, khi đó là nghiên cứu sinh về cá chép duy nhất của Việt Nam tại Hungary, đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Budapest giao nhiệm vụ đưa cá chép Hungary về nước.Cá chép Hungary. Ảnh: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I

Cá chép Hungary. Ảnh: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản

Đầu tháng 2/1974, ông đến Viện Nghiên cứu Cá Szarvas để khảo sát quy trình sinh sản, nuôi dưỡng cá và nghiên cứu kỹ thuật vận chuyển cá sống. Việc đưa vật nuôi ra nước ngoài thời đó cần có sự phê duyệt của Bộ Nông nghiệp Hungary và giấy kiểm dịch. Nhờ khả năng ngoại giao, ông đã thuyết phục được Viện Szarvas tặng Việt Nam hơn một vạn cá chép giống, cùng các thủ tục xuất khẩu và giấy kiểm dịch bằng bốn ngôn ngữ: Hungary, Nga, Anh và Đức. Các chuyên gia từ Hungary, Ba Lan, và Tiệp Khắc cũng hỗ trợ ông trong việc ươm nuôi cá bột thành cá giống kích thước 1,5-2 cm và thử nghiệm thời gian vận chuyển bằng túi nylon chứa oxygen.

Ông đóng gói 10 túi nylon, mỗi túi nặng 20 kg, chứa hơn một vạn cá chép giống ra sân bay. Chuyến bay của hãng MALEV đưa ông và lô cá từ Budapest sang Berlin. Tại sân bay Berlin, ông bị hãng Lufthansa từ chối vận chuyển do thiếu chi phí. Sứ quán Việt Nam khi đó mới chỉ thanh toán cước vận chuyển từ Budapest đến Berlin.

Thời gian chờ chỉ còn một giờ, nếu không giải quyết kịp, cá sẽ chết và nhiệm vụ thất bại. “Nhà nước không có giống cá này, và không phải lúc nào cũng có cơ hội xin được giống mới để bổ sung vào quỹ gene thủy sản, đặc biệt phục vụ cho các chương trình lai tạo cá chép ở Việt Nam” TS Vũ Kim Cầu nhớ lại.TS Vũ Kim Cầu. Ảnh: Nhật Minh

TS Vũ Kim Cầu kể lại chuyện đưa giống cá chép Hungary về Việt Nam. Ảnh: Nhật Minh

Lúc đó, do là ban đêm, ông không thể liên hệ với Đại sứ quán Việt Nam tại Budapest. Một mình ở sân bay Berlin, không biết tiếng Đức, ông Cầu như “ngồi trên đống lửa”. Chỉ còn khoảng 40 phút là máy bay cất cánh, ông quyết định tìm giám đốc sân bay để nhờ hỗ trợ. Tuy nhiên, không có phiên dịch khiến việc tìm trợ giúp trở nên khó khăn. May mắn sau đó ông cũng tìm được một nhân viên hàng không biết tiếng Hungary đồng ý làm phiên dịch và hướng dẫn ông đến gặp giám đốc sân bay.

Nhờ lời thuyết phục chân thành rằng đây là món quà hữu nghị của Hungary dành cho Việt Nam, hãng Lufthansa đồng ý chở lô cá về Hà Nội. Những túi cá giống sau đó được chuyển cho Trạm Nghiên cứu Cá nước ngọt (nay là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I). “Những con cá này phát triển tốt, bổ sung vào quỹ gene cá chép ở Việt Nam, mở ra bước ngoặt cho ngành nuôi trồng thủy sản”, TS Cầu nói.

Với nguồn cá chép giống này, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I, dưới sự dẫn dắt của TSKH Trần Mai Thiên, đã triển khai đề tài “Lai kinh tế cá chép Hung và cá chép Việt”. Đề tài kết thúc vào năm 1977, các nhà khoa học tạo ra được giống cá chép mới có đầu nhỏ, tỷ lệ thịt cao và sinh trưởng nhanh. Trong điều kiện bình thường, cá chép một năm tuổi đạt trọng lượng từ 0,8 đến 1 kg, gấp đôi so với cá chép thường. Nhờ đó, nghề nuôi cá chép ở Việt Nam khởi sắc vào cuối thập niên 70.

Trong chương trình chọn giống cá chép Việt Nam do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I thực hiện từ 1984 -1995, cá chép Hungary được lai với cá chép trắng Việt Nam và cá chép vàng Indonesia. Theo nghiên cứu của GS.TSKH Trần Mai Thiên, sau 5 thế hệ chọn lọc, tốc độ tăng trưởng của cá chép lai tăng 33% so với ban đầu. Đến nay, thế hệ V1, kết quả lai tạo giữa cá chép Việt Nam, Hungary và Indonesia là thế hệ chọn lọc thứ 6, được nuôi phổ biến ở Việt Nam và mang lại giá trị kinh tế cao.

TS Vũ Kim Cầu, 82 tuổi, người Hải Dương. Ông tốt nghiệp trường Đại học Nông nghiệp, sau đó làm việc tại Tổng cục Thủy sản. Từ 1981-2002, ông công tác tại Viện Khoa học Việt Nam, là cộng tác viên khoa học tại Đại học Szent Istvan, Hungary (1991-1999).

Hướng nghiên cứu chính của TS Vũ Kim Cầu tập trung vào sinh hóa, dinh dưỡng và protein, với các ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản. Việc ông đưa cá chép Hungary về Việt Nam góp phần làm phong phú thêm sự đa dạng di truyền của quần thể cá chép Việt Nam, đặt nền tảng cho nuôi trồng thủy sản bền vững, năng suất cao.

Nhật Minh

Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là trụ cột phát triển

Ngày 08/02/2022, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã ban hành Quyết định số 286/QĐ-ĐHQGHN về Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) giai đoạn 2021-2030. Theo đó, quan điểm và mục tiêu xuyên suốt trong giai đoạn 2021-2030 là coi KH,CN&ĐMST đóng vai trò trụ cột, góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược phát triển ĐHQGHN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành đại học nghiên cứu và ĐMST thuộc nhóm 300 đại học hàng đầu thế giới, tham gia giải quyết một số thách thức và cấp bách của quốc gia. Để đạt được mục tiêu trong Chiến lược nêu trên, ĐHQGHN đã triển khai các chính sách đổi mới hoạt động KH,CN&ĐMST và bước đầu đạt được nhiều kết quả đáng nghi nhận.

Đầu tư cho các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu trọng điểm

Giai đoạn 2020 đến nay, ĐHQGHN đã ban hành và thực hiện một số chính sách ưu tiên, đầu tư cho phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu trọng điểm (PTNTĐ/TTNCTĐ) như: quy hoạch phòng thí nghiệm trọng điểm, ban hành hướng dẫn phát triển và chế độ ưu đãi dành cho nhóm nghiên cứu mạnh ở ĐHQGHN; quy định về công nhận, quản lý và phát triển phòng thí nghiệm/trung tâm nghiên cứu trọng điểm cấp ĐHQGHN; ưu tiên các hạng mục trong các dự án đầu tư về KH&CN hằng năm; ưu tiên đề xuất các nhiệm vụ cấp quốc gia và quốc tế, nhiệm vụ hợp tác với doanh nghiệp; tăng cường nguồn lực đầu tư từ nguồn ngân sách của ĐHQGHN, nguồn tài trợ quốc tế, địa phương và doanh nghiệp; ưu tiên bố trí vốn đầu tư phát triển, đầu tư tăng cường năng lực nghiên cứu để có hạ tầng nghiên cứu hiện đại, gắn kết; ưu tiên không gian làm việc tại Hòa Lạc…

Theo đó, ĐHQGHN đầu tư cho PTN/TTNCTĐ theo dự án tăng cường năng lực gắn với nhiệm vụ nghiên cứu có mức kinh phí từ 5-7 tỷ đồng trong vòng 3 năm; đầu tư cho nhóm nghiên cứu mạnh theo nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia từ 1-3 tỷ đồng trong vòng 3 năm; đầu tư cho phát triển sản phẩm trọng điểm từ 2-3 tỷ đồng trong vòng 3 năm; đầu tư cho hoạt động khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp spin-off từ 1-2 tỷ đồng để hỗ trợ phát triển thị trường thương mại hóa.

ĐHQGHN hiện nay có 10 PTNTĐ/TTNCTĐ, trong đó có 01 PTNTĐ cấp Nhà nước, 07 PTNTĐ cấp ĐHQGHN, 02 TTNCTĐ cấp ĐHQGHN. Với các chính sách này, năm 2022 ĐHQGHN đã đầu tư cho 6 nhóm nghiên cứu/phòng thí nghiệm triển khai nhiệm vụ để tạo sản phẩm trọng điểm, với tổng kinh phí 7,6 tỷ đồng. Năm 2023, ĐHQGHN đã tiếp nhận 11 đề xuất dự án tăng cường năng lực của các PTNTĐ/TTNCTĐ xem xét đầu tư.

Phòng thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tính đến 11/2023, ĐHQGHN có 36 nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó 30 nhóm được cấp kinh phí thường xuyên năm 2023 là 100 triệu đồng, bên cạnh nguồn ưu tiên đầu tư từ nguồn quỹ khoa học và công nghệ và nguồn đầu tư các dự án trung, dài hạn của ĐHQGHN, 6 nhóm có thành tích công bố đỉnh cao được hỗ trợ dưới dạng nhiệm vụ khoa học và công nghệ (1 tỷ đồng/nhóm).

Hỗ trợ các sản phẩm đầu ra của nghiên cứu

Chính sách hỗ trợ công bố bài báo quốc tế được cụ thể hóa tại Hướng dẫn số 3115/HD-ĐHQGHN của ĐHQGHN ngày 22/10/2020, theo đó, mức hỗ trợ cao nhất cho tác giả đứng đầu; tác giả liên hệ trên tạp chí khoa học thuộc top 5% tạp chí hàng đầu được phân loại theo nhóm lĩnh vực, ngành/chuyên ngành của Scimago và tương ứng với lĩnh vực chuyên môn của tác giả là 40 triệu đồng; hội thảo có từ 10-20 bài ISI/Scopus của nhà khoa học thuộc ĐHQGHN mức hỗ trợ cao nhất 100 triệu đồng/hội thảo.

Năm 2021, ĐHQGHN đã hỗ trợ 262 công trình công bố quốc tế đối với nghiên cứu sinh và cán bộ khoa học tiềm năng với tổng kinh phí trên 4,4 tỷ đồng. Số lượng các công bố quốc tế chất lượng cao không ngừng gia tăng. Năm 2022 đạt 1.444 bài báo thuộc hệ thống Web of Science, tăng 17% so với năm 2021, trong đó có 572 bài Q1, 410 bài Q2. Tính đến tháng 11/2023, đạt hơn 1.400 bài, hơn 60% là Q1 và Q2.

Chính sách hỗ trợ sáng chế/giải pháp hữu ích được thể hiện thông qua Quy định số 3416/QĐ-ĐHQGHN ngày 02/11/2021 của ĐHQGHN về Quy định quản lý tài sản trí tuệ ở ĐHQGHN, nhằm tạo mọi điều kiện để tổ chức, cá nhân phát triển tài sản trí tuệ đưa vào khai thác, tạo ra giá trị tích cực cho ĐHQGHN và xã hội. Theo đó, chính sách ưu tiên đối với nhiệm vụ KH&CN (phê duyệt và cấp kinh phí triển khai nhiệm vụ KH&CN có sản phẩm đầu ra là tài sản trí tuệ có khả năng khai thác thương mại, hoặc chuyển giao cho cơ quan nhà nước sử dụng); chính sách hỗ trợ đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) (hỗ trợ hoạt động viết hồ sơ đăng ký SHTT; hỗ trợ lệ phí nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, lệ phí cấp văn bằng bảo hộ, cấp chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; hỗ trợ 100% lệ phí duy trì, gia hạn và phí sử dụng văn bằng bảo hộ quyền SHTT trong 3 năm đầu tiên, 50% trong 3 năm tiếp theo, 25% trong các năm còn lại). Tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động phát triển và khai thác tài sản trí tuệ được áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao, được Giám đốc ĐHQGHN xem xét khen thưởng. Nguồn kinh phí khen thưởng và mức khen thưởng được thực hiện theo quy định của pháp luật và của ĐHQGHN.

Trong năm 2022, hoạt động đăng ký SHTT tiếp tục giữ được mức độ phát triển với 51 đăng ký SHTT đạt được, trong đó Trường Đại học Khoa học Tự nhiên tiếp tục là đơn vị dẫn đầu ĐHQGHN với 24 đăng ký SHTT. Tính đến 11/2023 toàn ĐHQGHN đạt được 23/72 bằng, đơn SHTT.

Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Thực hiện chính sách hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN, thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ ở ĐHQGHN, ngày 01/03/2023, ĐHQGHN đã ban hành văn bản số 581/HD-ĐHQGHN hướng dẫn tạm thời về việc thành lập và phát triển doanh nghiệp trong ĐHQGHN để hỗ trợ các nhà khoa học hiện thực hóa cơ hội phát triển các nghiên cứu theo hướng ứng dụng, chuyển giao vào cuộc sống.

Hiện nay, ĐHQGHN đang triển khai các giải pháp hỗ trợ để thành lập một số doanh nghiệp spin-off như: Công ty TNHH Ứng dụng và Giải pháp công nghệ vi sinh thuộc Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học; Công ty TNHH Công nghệ Tiên tiến GTS Quốc tế thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên; Công ty TNHH MTV ECOMEDIPHARM thuộc Trường Đại học Y Dược; Công ty Cổ phần Công nghệ VNU-CRES thuộc Viện Tài nguyên và Môi trường; Công ty Cổ phần Công nghệ xanh BABIO-VNU; Công ty Cổ phần công nghệ VNU gắn với định hướng chuyển giao như: sản phẩm thuộc lĩnh vực y dược; thiết kế vi mạch, vật liệu sinh học, công nghệ vi sinh, vật liệu bảo vệ môi trường và phụ gia bảo vệ đồ gia dụng tự nhiên…

Các giải pháp mà ĐHQGHN hỗ trợ rất đa dạng, có thể dưới hình thức cấp nhiệm vụ KH&CN cho các nhóm thực hiện hoàn thiện sản phẩm; tìm kiếm quỹ, doanh nghiệp đầu tư; hỗ trợ, tư vấn về quy trình, thủ tục thành lập và vận hành doanh nghiệp; xác lập tài sản trí tuệ, phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường, kết nối nhà đầu tư… thông qua đầu mối Ban Khoa học và Công nghệ, Ban Xúc tiến đầu tư, Câu lạc bộ Nhà khoa học, Trung tâm Chuyển giao Tri thức và Hỗ trợ Khởi nghiệp. Đặc biệt, Trung tâm Chuyển giao Tri thức và Hỗ trợ Khởi nghiệp đã phát huy vai trò trong việc ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN (spinoff/startup) với 2 doanh nghiệp được thành lập trong năm 2023 và một số doanh nghiệp trong 2024.

Ban Xúc tiến Đầu tư và Quỹ Phát triển ĐHQGHN đã thu hút được tài trợ 5 tỷ đồng từ cựu sinh viên Đỗ Quang Hiển, góp vốn điều lệ thành lập VNUHoldings – Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển ĐHQGHN theo mô hình công ty đầu tư tài chính, đầu tư vốn cho các doanh nghiệp spin-off, start-up của cán bộ giảng viên, sinh viên ĐHQGHN và hơn 40 tỷ cho các hoạt động học bổng nghiên cứu sinh, thực tập sinh, sinh viên xuất sắc, nhà khoa học xuất sắc của ĐHQGHN trong năm 2022-2023.

Thu hút và trọng dụng nhà khoa học

ĐHQGHN đã triển khai hiệu quả một số giải pháp của Đề án phát triển đội ngũ nhà khoa học trình độ cao, đầu ngành; áp dụng cơ chế tiếp nhận vào viên chức, tuyển dụng theo trường hợp đặc biệt hoặc mời các nhà khoa học xuất sắc ở trong và ngoài nước về làm việc, đảm nhiệm các vị trí quản lý hoặc vị trí chuyên môn quan trọng ở các đơn vị trực thuộc.

Ngày 10/5/2022, Giám đốc ĐHQGHN đã phê duyệt Đề án chăm sóc sức khỏe đối với đội ngũ giáo sư đang làm việc tại ĐHQGHN, trên cơ sở nguồn lực y tế của ĐHQGHN, đồng thời giao cho Bệnh viện ĐHQGHN làm đầu mối triển khai thực hiện Đề án này. Chính sách này là tiền đề cho việc phát triển, tạo môi trường trọng dụng, đãi ngộ phục vụ công tác thu hút nhân lực chất lượng cao về làm việc tại ĐHQGHN. Sau hơn 1 năm triển khai Đề án, qua khảo sát lấy ý kiến của các giáo sư sau khi tham gia trải nghiệm sử dụng các dịch vụ nêu trên tại Bệnh viện, kết quả cho thấy, hầu hết các giáo sư đều cảm thấy hài lòng và mong muốn ĐHQGHN tiếp tục duy trì và phát triển chính sách này tốt hơn nữa. Các giáo sư đã sử dụng hầu hết các dịch vụ của Đề án tại Bệnh viện, trong đó dịch vụ thăm khám sức khỏe ban đầu (khám chữa bệnh theo yêu cầu) đạt tỷ lệ cao nhất, chiếm 43,2% trên tổng số giáo sư đã tham gia sử dụng dịch vụ.

Hầu hết các giáo sư đều cảm thấy hài lòng với Đề án chăm sóc sức khỏe đối với đội ngũ giáo sư đang làm việc tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

Triển khai có hiệu quả Đề án ươm tạo đội ngũ nhà khoa học trẻ có trình độ cao và nhân lực tri thức đến năm 2025 và Đề án tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế của đội ngũ nhà khoa học, nghiên cứu sinh thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Chính sách của Đề án đem đến cơ hội cho các cán bộ khoa học trẻ, vừa được tham gia các chương trình ươm tạo, vừa có cơ hội nhận học bổng làm nghiên cứu sinh và thực tập sinh tại ĐHQGHN, trong nước và quốc tế. Các mức học bổng tại ĐHQGHN lên đến 100 triệu đồng/năm cho nghiên cứu sinh và 120 triệu đồng/năm cho tiến sỹ trẻ có năng lực nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế xuất sắc hay nghiên cứu sau tiến sỹ.

Ngày 06/12/2022, Giám đốc ĐHQGHN ban hành Thông báo số 4299/ĐHQGHN-TCCB về việc thí điểm chính sách hỗ trợ tài chính đối với cán bộ khoa học trẻ (dưới 40 tuổi), có học vị tiến sỹ trở lên, có khả năng nghiên cứu về công tác tại ĐHQGHN, trong 3 năm đầu được đảm bảo cấp 1 đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQGHN hoặc 2 đề tài nghiên cứu khoa học cấp đơn vị có tổng kinh phí tương đương kinh phí cấp cho 1 đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQGHN; hỗ trợ các công bố quốc tế chất lượng cao: 100 triệu đồng/bài đăng trên các tạp chí thuộc top 5% ngành/lĩnh vực; 70 triệu đồng/bài đăng trên các tạp chí thuộc nhóm Q1; 50 triệu đồng/bài đăng trên các tạp chí thuộc nhóm Q2; đối với các ngành khoa học cơ bản, hỗ trợ tài chính thông qua đặt hàng và giao nhiệm vụ cho cán bộ khoa học trẻ mới về công tác dưới 5 năm, để đảm bảo mức thu nhập bình quân tối thiểu là 15 triệu đồng/tháng.

Đặc biệt, ngày 20/09/2023, Giám đốc ĐHQGHN đã ban hành Thông báo số 3481/TB-ĐHQGHN về chính sách thu hút nhà khoa học xuất sắc, trong đó đối tượng thu hút là các nhà khoa học có thành tích nghiên cứu xuất sắc, ở trong và ngoài nước (bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài), có mong muốn tham gia nghiên cứu khoa học, đảm nhận các vị trí trưởng nhóm nghiên cứu mạnh ở các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà ĐHQGHN định hướng nghiên cứu ưu tiên.

Thúc đẩy hợp tác với các bộ, ngành/địa phương, doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức

ĐHQGHN có trách nhiệm đi đầu trong thực hiện sứ mệnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chuyển giao tri thức đa ngành, đa lĩnh vực, góp phần xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước, phát triển bền vững các vùng, địa phương. Do đó, ĐHQGHN luôn chú trọng đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp, địa phương, góp phần giải quyết bài toán về xác lập cơ sở lý luận, phát triển kinh tế – xã hội trong việc triển khai các chương trình khoa học cấp Nhà nước. Hai trong số các chương trình tiêu biểu được ĐHQGHN triển khai thực hiện gồm: (i) Chương trình trọng điểm “KH&CN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc” giai đoạn 2013-2020; (ii) Nhiệm vụ KH&CN đặc biệt cấp Quốc gia “Xây dựng bộ Địa chí Quốc gia Việt Nam” (Nhiệm vụ Quốc chí). ĐHQGHN tiếp tục tham gia xây dựng và đề xuất các chương trình nghiên cứu cấp quốc gia mới như: Chương trình chíp, bán dẫn, hydrogen, công nghệ sinh học, khoa học biển, khoa học sức khỏe, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo…

ĐHQGHN tham gia tư vấn chính sách, tổng kết nghị quyết, chương trình cho các bộ, ban, ngành Trung ương như Ban Kinh tế Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ KH&CN. Ngoài ra, ĐHQGHN cũng tích cực tham gia tư vấn chính sách cho các địa phương về luận cứ, ý kiến góp phần hoàn thiện dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng như: Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020 và nhiệm kỳ 2020 – 2025 lồng ghép tư vấn phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2020-2025 cho các tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (14 tỉnh) và một số địa phương khác (Quảng Ninh, Thái Bình, Hòa Bình); góp phần hoàn thiện dự thảo “Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” cho một số địa phương (Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Cà Mau…).

Thúc đẩy các hoạt động kết nối, chuyển giao khoa học và công nghệ, thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ của cộng đồng nhà khoa học, nhóm nghiên cứu mạnh với cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân. Hội nghị xúc tiến đầu tư tại ĐHQGHN được tổ chức thường niên nhằm giới thiệu tiềm lực và các sản phẩm khoa học và công nghệ của ĐHQGHN, từ đó thúc đẩy cơ hội hợp tác, xúc tiến đầu tư, chuyển giao khoa học và công nghệ với các doanh nghiệp, địa phương.

ĐHQGHN

Việt Nam – Australia: Giải quyết vấn đề mang tính toàn cầu bằng các giải pháp KH,CN&ĐMST

Chính phủ Australia và Chính phủ Việt Nam xác định đổi mới sáng tạo (ĐMST) là một trụ cột mới trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, góp phần tăng cường quan hệ song phương. Quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam – Australia nói chung và quan hệ hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) Việt Nam – Australia nói riêng trong thời gian qua đã và đang phát triển mạnh mẽ.
Từ ngày 01-02/11/2024, tại Hà Nội, Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ) phối hợp với Đại học công nghệ Sydney tổ chức Hội thảo quốc tế “Thúc đẩy hợp tác công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa Việt Nam và Australia”. Hội thảo nhằm thúc đẩy hoạt động hợp tác giữa hai nước để giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu bằng các giải pháp KH,CN&ĐMST như: biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, phát triển đô thị thông minh…
Hội thảo có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh, Đại sứ Australia tại Việt Nam Andrew Goledzinowski, Phó Hiệu trưởng Đại học Công nghệ Sydney Andrew Parfitt cùng đại diện từ các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, doanh nghiệp, tổ chức thúc đẩy ĐMST của hai nước.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh cho biết, tại Việt Nam, Đảng và Chính phủ xác định KH,CN&ĐMST đóng vai trò, sứ mệnh đặc biệt quan trọng, là động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh phát biểu tại Hội thảo.
Thời gian qua, Việt Nam đã tập trung xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật về KH,CN&ĐMST nhằm hoàn thiện môi trường thể chế, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động KH,CN&ĐMST; tiềm lực KH&CN đã được cải thiện cả về số lượng tổ chức, nhân lực và nguồn lực đầu tư cho KH&CN, trong đó tỷ trọng đầu tư từ khu vực doanh nghiệp ngày càng tăng; doanh nghiệp được xác định là trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia, viện nghiên cứu, trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh. Các điều kiện khung cho phát triển hệ thống ĐMST quốc gia đã được hình thành, bao gồm hành lang pháp lý và cơ sở hạ tầng như: Các chính sách về đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, đổi mới hoạt động KH,CN&ĐMST, phát triển các quỹ hỗ trợ, tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh và đào tạo, hình thành các trung tâm ĐMST ở cấp quốc gia và địa phương… Hệ sinh thái KNST ngày càng phát triển mạnh mẽ, năng động, tạo ra một thế hệ doanh nghiệp mới kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ và tiếp cận thị trường toàn cầu. Kết quả chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được khẳng định thông qua Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2024 cho thấy, Việt Nam tiếp tục tăng 2 bậc so với năm 2023, xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế. Trong 14 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển.
Thứ trưởng Hoàng Minh cũng cho biết, hiện nay Việt Nam đang tập trung hoàn thiện các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển hệ thống ĐMST quốc gia, đặc biệt là các chính sách liên quan đến phát triển công nghệ và thử nghiệm có kiểm soát các công nghệ mới, sản phẩm mới, mô hình kinh doanh mới.
Chính phủ Australia và Chính phủ Việt Nam xác định ĐMST là một trụ cột mới trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, góp phần tăng cường quan hệ song phương. Quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam – Australia nói chung và quan hệ hợp tác về KH,CN&ĐMST Việt Nam – Australia nói riêng trong thời gian qua đã và đang phát triển mạnh mẽ.
Việt Nam và Australia đã nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vào đầu năm 2024, mở ra nhiều cơ hội hợp tác cho hai nước. Do vậy, Hội thảo có ý nghĩa quan trọng trong việc cụ thể hóa các định hướng hợp tác giữa hai Bên, thúc đẩy kết nối giữa các cơ quan, doanh nghiệp, nhà khoa học nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giải quyết nhiều vấn đề thách thức hiện nay trên toàn cầu như: ứng phó biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, phát triển xanh dựa trên KH,CN&ĐMST.
Thứ trưởng Hoàng Minh khẳng định, Bộ KH&CN Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng nhà khoa học, doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và các đối tác quốc tế trong các hoạt động KH,CN&ĐMST. Đồng thời, Bộ KH&CN hoan nghênh sự tham gia ủng hộ, hợp tác của các đối tác quốc tế, trong đó có vai trò quan trọng của các đại học uy tín trên thế giới, trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và ĐMST để thúc đẩy phát triển hệ thống ĐMST quốc gia tại Việt Nam.
Trong hai ngày diễn ra Hội thảo, các chủ đề chính được thảo luận gồm: Thành phố thông minh – hạ tầng công nghệ, tài nguyên và bền vững; kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh; công nghệ quản lý nước và đổi mới sáng tạo. Những chủ đề này không chỉ có giá trị đối với sự phát triển của Việt Nam mà còn thúc đẩy việc thực thi của hai quốc gia trong các cam kết quốc tế.
Phiên thảo luận về chủ đề: Thành phố thông minh – Hạ tầng công nghệ, tài nguyên và bền vững.
Bên cạnh đó, các hoạt động giao lưu, kết nối, chia sẻ kinh nghiệm giữa các chuyên gia, cựu du học sinh Việt Nam tại Australia, các tổ chức thúc đẩy KH,CN&ĐMST diễn ra trong khuôn khổ sự kiện.
Tại Hội thảo, đã diễn ra Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Đại học Công nghệ Sydney và Đại học Bách khoa Hà Nội nhằm thúc đẩy các hoạt động hợp tác nghiên cứu, trao đổi chuyên gia để đẩy mạnh KH,CN&ĐMST hướng đến phát triển bền vững của hai nước.
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Đại học Công nghệ Sydney và Đại học Bách khoa Hà Nội.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

TP HCM liên kết các tỉnh trong quản lý chất thải rắn

TP HCM hạn chế quỹ đất nên muốn liên kết các các tỉnh lân cận phát triển ngành công nghiệp tái chế, quản lý chất thải rắn.

Thông tin được Phó giám đốc Sở Tài nguyên Môi trường TP HCM Nguyễn Thị Thanh Mỹ nói tại hội thảo về quản lý chất thải rắn theo hướng phát triển bền vững, ngày 31/10. Theo bà Mỹ, Sở đang tham mưu UBND TP HCM đề án phân loại rác tại nguồn gồm ba loại theo Luật bảo vệ môi trường 2020, phục vụ cho hoạt động tái chế.

Để làm được, TP HCM cần có hạ tầng kỹ thuật và công nghệ. Tuy nhiên, TP HCM hiện chưa có quy hoạch lĩnh vực tái chế rác thải và phát triển công nghiệp tái chế. “Cần lập quy hoạch cấp độ vùng, khu vực chứ không thể giải quyết cấp độ địa phương”, bà Mỹ nói và giải thích TP HCM không còn quỹ đất cho quy hoạch tái chế rác. Các địa phương lân cận có thể phối hợp gồm: Bình Dương, Long An, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu…

Hiện thành phố phối hợp với tỉnh Long An chuẩn bị khoảng 200 ha tại Khu liên hiệp xử lý rác ở Thủ Thừa phục vụ xử lý rác, trong đó bao gồm việc di dời các nhà máy tái chế chất thải vào khu vực này. Ngoài vị trí này, TP HCM dự kiến có hai nhà máy xử lý rác tại TP Thủ Đức và một ở huyện Cần Giờ. “Thành phố đã đặt những viên gạch đầu tiên cho công nghiệp tái chế tại Long An”, bà Mỹ nói.Công nhân phân loại rác khi thu gom tại quận Bình Thạnh, TP HCM hồi tháng 7/2019. Ảnh: Thành Nguyễn

Công nhân phân loại rác khi thu gom tại quận Bình Thạnh, TP HCM hồi tháng 7/2019. Ảnh: Thành Nguyễn

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường, TP HCM mỗi ngày phát sinh hoảng 13.000 tấn rác sinh hoạt, trong số này có khoảng 20% – 30% có thể tái chế. Năm 2020, thành phố có chủ trương ưu tiên chuyển đổi công nghệ từ chôn lấp sang đốt rác phát điện, tái chế với mục tiêu đến 2027 đạt trên 80%.

Hiện, Nhà máy Tâm Sinh Nghĩa tại Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Củ Chi sử dụng công nghệ đốt không thu hồi năng lượng và làm phân compost. Hồi tháng 7, nhà máy này khởi công ứng dụng công nghệ đốt rác phát điện tổng vốn khoảng 4.600 tỷ đồng. Nhà máy VietStar ứng dụng công nghệ sản xuất compost và hạt nhựa. Nhà máy xử lý rác lớn nhất TP HCM tại xã Đa Phước, huyện Bình Chánh đang sử dụng công nghệ chôn lấp và sản xuất compost.

Ông Nguyễn Văn Thiền, Chủ tịch HĐQT công ty nước và môi trường Bình Dương (BIWASE), cho biết hiện các doanh nghiệp chủ yếu thực hiện phương thức ủ phân compost và đốt rác phát điện. Đây được cho là hai kỹ thuật cao, đòi hỏi kinh phí đầu tư lớn, đặc biệt là công nghệ đốt phát điện.

Ông Thiền tính toán, với công nghệ của Nhật công suất 500 tấn rác mỗi ngày, tạo ra 12 – 13 MWh điện, chi phí đầu tư lên tới 65 triệu USD (hơn 1.600 tỷ đồng). Lý do, công nghệ đốt rác phát điện cần dùng các loại vật liệu đặc biệt, có thể chịu đựng mức nhiệt hàng nghìn độ C liên tục. Thông thường tại vị trí buồng đốt rác, trong 2 – 3 năm phải thay vật liệu, do các kim loại này đã bị thay đổi tính chất. Khu vực đốt rác cần có các loại gạch, bê tông chịu lửa. Những vật liệu này thường phải nhập khẩu, do Việt Nam chưa có nhiều đơn vị cung cấp. Ngoài ra, nhiệt thu được từ lò đốt, chuyển hóa sang điện công suất lớn, cần trải qua nhiều công đoạn, đầu tư lớn.

Ông cho rằng đầu tư công nghệ đốt rác phát điện cần có phân xưởng tái chế với các khu vực riêng biệt để xử lý. “Nhiều người nói rác là tài nguyên, là tiền nhưng muốn được vậy cần chi phí đầu tư rất lớn”, ông nói. Đại diện BIWASE mong mong muốn các nhà khoa học chung tay hiến kế, tìm ra ý tưởng công nghệ tối ưu hóa các loại chi phí để cùng phát triển hạ tầng công nghệ xử lý rác thải.

PGS.TS Nguyễn Lữ Phương, Giảng viên trường Đại học Tài nguyên Môi trường TP HCM cho rằng, cần nâng cao nhận thức người dân, doanh nghiệp trong hạn chế, tái chế rác thải nhựa theo chiến lược 10 Rs. Chiến lược này hướng dẫn người dân bắt đầu bằng việc từ chối sản phẩm rác thải nhựa dùng một lần, sau đó tiến tới giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, thu hồi…

Theo PGS Phương, việc đầu tiên trong hạn chế rác thải nhựa là người dân cần từ chối với sản phẩm dùng một lần. Khi đi chợ họ có thể mang theo túi của mình để hạn chế sử dụng túi nilong. Chai nước nhựa cần chuyển sang các loại chai bằng thủy tinh, nhôm để sử dụng nhiều lần. “Việc thay đổi thói quen giúp hạn chế số lượng lớn rác thải nhựa dùng một lần”, PGS Phương nói.

Hà An

Đánh giá đúng nghề độc hại nguy hiểm để có chính sách, chế độ phù hợp

Ngày 30/10/2024, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Khoa học kỹ thuật, an toàn, vệ sinh lao động đã tổ chức hội thảo với chủ đề: Nâng cao kiến thức, giải pháp, chế độ chính sách cho các nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm trong môi trường lao động giai đoạn hiện nay.

Toàn cảnh Hội thảo.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS. TS Phạm Quang Thao – Phó chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho biết, trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của công nghệ khiến cho các phương thức sản xuất cũng có nhiều thay đổi, do đó việc đánh giá, phân loại công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm cũng khác trước.  Điều này có vai trò quan trọng, làm căn cứ thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động như: Bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, phụ cấp lương, bồi dưỡng bằng hiện vật…

Theo ông Nguyễn Khánh Long – Phó cục trưởng Cục An toàn Lao động, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Việt Nam càng hội nhập sâu rộng với quốc tế, những tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội trên thế giới ngày càng được nâng lên. Trong bối cảnh đó, cần hết sức quan tâm tới việc đánh giá, phân loại nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm này bởi nếu không đưa ra phương pháp đánh giá, phân loại chính xác, công bằng, hợp lý, hài hòa, giúp cải thiện điều kiện lao động thì rất khó để cạnh tranh. Ngày 28/12/2021, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 29/2021/TT-BLĐTBXH về quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động. Cách phân loại này góp phần giúp người lao động được hưởng các chế độ, chính sách phù hợp; người sử dụng lao động cũng giải quyết được vấn đề chế độ đối với người lao động, qua đó giữ chân người lao động trong bối cảnh cạnh tranh lực lượng lao động hiện nay. Tuy nhiên, Thông tư cũng bộc lộ một số hạn chế như: Chưa xác định cụ thể tổ chức, cơ sở nào có đủ năng lực và điều kiện để đánh giá phân loại cho chính xác. Để thuận tiện hơn trong việc đánh giá phân loại điều kiện lao động, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đang dự thảo Thông tư mới nhằm thay thế Thông tư số 29.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã trình bày các báo cáo nghiên cứu về điều kiện lao động của giáo viên mầm non, lao động ngành may… các yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe người lao động. Các báo cáo còn chỉ rõ, không chỉ người lao dộng làm việc trong nhà xưởng sản xuất mới có các yếu tố nặng nhọc, độc hại, mà những người làm việc trong văn phòng cũng chịu một số tác động có hại. Hội chứng bệnh nhà kín của người làm việc và sinh sống trong không gian kín phổ biến là: Vấn đề về hô hấp; kích ứng da và mắt; mệt mỏi; đau đầu và chóng mặt; mất tập trung và suy giảm trí nhớ; triệu chứng liên quan đến dị ứng…

PT

Kiểm soát ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường bằng công nghệ và giải pháp xanh

Ngày 01/11/2024, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ) và Phòng Thí nghiệm trọng điểm Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Công nghệ xử lý chất thải bậc cao (Trường Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh) phối hợp tổ chức Hội thảo “Công nghệ xanh trong kiểm soát ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường”. Nhiều công nghệ, giải pháp “xanh” đã được chia sẻ và trao đổi tại Hội thảo nhằm góp phần xử lý ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường.

Đại biểu tham dự chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo.

Công nghệ xanh là việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hướng tới mục đích bảo vệ môi trường, khắc phục những tác động tiêu cực mà con người gây ra với môi trường. Công nghệ xanh không chỉ mang lại những lợi ích đối với môi trường mà còn tạo dựng cho con người thói quen sống xanh. Công nghệ xanh đang dần trở thành xu hướng trong cuộc sống hiện đại, giúp môi trường trở lại trạng thái ban đầu (trước khi bị ô nhiễm). Đặc biệt, trong thời điểm cả môi trường đất, không khí, nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng thì công nghệ xanh lại càng được các quốc gia trên thế giới quan tâm.

Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Phạm Thị Minh Nguyệt phát biểu khai mạc Hội thảo.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Phạm Thị Minh Nguyệt cho biết, đây là dịp để các nhà khoa học trao đổi, thảo luận về các công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực môi trường, nhằm tìm ra những giải pháp thiết thực và bền vững cho các vấn đề ô nhiễm môi trường và quản lý tài nguyên. Hội thảo là cơ hội để kết nối Tạp chí với cộng đồng các nhà khoa học, chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ xanh. Phó Tổng biên tập mong muốn nhận được sự cộng tác chặt chẽ từ các đại biểu và các nhà khoa học thông qua những bài viết chất lượng cao, góp phần thúc đẩy công bố quốc tế trong lĩnh vực công nghệ xanh, kiểm soát ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường.

Trong khuôn khổ của Hội thảo, Phó Tổng biên tập Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam Phạm Thị Minh Nguyệt cũng đã giới thiệu về Tạp chí, trong đó nhấn mạnh những nội dung quan trọng mà Tạp chí đang thực hiện nhằm hướng tới chuẩn mực quốc tế. Nhiều nhà khoa học với tư cách là các tác giả đã có công bố trên Tạp chí đánh giá cao những kết quả đạt được, khẳng định uy tín và tin tưởng vào sự phát triển của Tạp chí trong tương lai.

PGS.TS Bùi Xuân Thành – Trưởng phòng Phòng Thí nghiệm trọng điểm Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh Công nghệ xử lý chất thải bậc cao trình bày tham luận tại Hội thảo.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã chia sẻ và trao đổi nhiều công nghệ, giải pháp xanh nhằm xử lý ô nhiễm và quản lý tài nguyên môi trường như: Một số công nghệ xử lý sinh học mới nổi trong xử lý chất thải; Giáo dục STEAM khoa học trái đất và du lịch địa chất; Hấp thụ dinh dưỡng và loại bỏ nhôm bằng vi tảo nước ngọt: Công nghệ xử lý bằng thực vật tiềm năng; Ứng dụng chùm tia điện tử để phân hủy các hợp chất hữu cơ bền vững trong nước và nước thải; Ứng dụng than sinh học có nguồn gốc từ phụ phẩm nông nghiệp loại bỏ chất kháng sinh trong dung dịch nước; Công nghệ Anammox trong xử lý nước thải dòng chính; Ứng dụng hệ thống thực vật nổi cải thiện chất lượng nước kênh; Công nghệ tạo hạt vi tảo vi khuẩn trong xử lý nước thải.

Một số hình ảnh tại Hội thảo:

 

VH

Hợp tác quốc tế trong trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng giữa Bộ KH&CN Việt Nam với UAE và Ả rập Xê út

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức của Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng đoàn cấp cao Việt Nam đến Các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất (UAE), Ả rập Xê út và Qatar, đoàn Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt dẫn đầu đã có buổi làm việc song phương với Bộ Công nghiệp và Công nghệ tiên tiến UAE (MoIAT) và ký kết Thỏa thuận hợp tác kỹ thuật với Tổ chức Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Ả rập Xê út (SASO) vào ngày 29/10/2024.

Tăng cường thúc đẩy trao đổi chuyên gia giữa Việt Nam và UAE

Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp và Công nghệ tiên tiến UAE, ông Omar Al Suwaidi bày tỏ vui mừng được đón tiếp đoàn Bộ KH&CN Việt Nam, ông đánh giá cao quan hệ hợp tác giữa hai bên và nhấn mạnh sự cần thiết của việc đẩy mạnh các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực Halal dựa trên Biên bản ghi nhớ đã ký kết năm 2023 về tiêu chuẩn đo lường chất lượng.


Buổi làm việc giữa Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt và Thứ trưởng Bộ Công nghiệp và Công nghệ tiên tiến UAE (MoIAT) – Ông Omar Al Suwaidi.

Trao đổi với đoàn UAE, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao quan hệ hợp tác và ủng hộ lẫn nhau giữa hai bên, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho Trung tâm Chứng nhận Halal thuộc Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia (STAMEQ) của Việt Nam – thuộc Bộ KH&CN. Bộ trưởng cũng mong muốn thúc đẩy việc trao đổi chuyên gia giữa hai nước coi đây là một yếu tố quan trọng để phát triển các hoạt động hợp tác; kêu gọi tìm kiếm cơ hội hợp tác trong việc đánh giá sự phù hợp của sản phẩm hàng hóa trước khi xuất khẩu nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường UAE. Bộ trưởng bày tỏ hi vọng nhận được sự đồng thuận và ý kiến đóng góp từ Thứ trưởng Omar Al Suwaidi để hiện thực hóa các kế hoạch này trong thời gian tới.

Kết thúc buổi làm việc, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đã gửi lời mời và hi vọng được đón tiếp lãnh đạo Bộ MoIAT UAE sang thăm và làm việc tại Bộ KH&CN Việt Nam trong thời gian tới.

Ký kết thỏa thuận hợp tác kỹ thuật với SASO

Chiều ngày 29/10/2024 tại trụ sở của Tổ chức Tiêu chuẩn Đo lường và Chất lượng Ả-rập Xê út (SASO), Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác kỹ thuật (Technical Cooperation Program) giữa STAMEQ (Bộ KH&CN) với SASO đã diễn ra trang trọng dưới sự chứng kiến của Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt.

Trao đổi với ông Saad Alkasabi – Chủ tịch của SASO, Bộ trưởng đánh giá cao tiềm năng hợp tác giữa hai cơ quan trong lĩnh vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng, đặc biệt là trong lĩnh vực Halal. Theo Thỏa thuận này, hai bên dự kiến hợp tác trong các lĩnh vực như: tiêu chuẩn và đào tạo tiêu chuẩn, đánh giá sự phù hợp, đo lường pháp định và đo lường công nghiệp, thử nghiệm và phòng thí nghiệm, hiệu chuẩn, trao đổi thông tin, thừa nhận lẫn nhau giữa các tổ chức đánh giá sự phù hợp, chuyển đổi số về hạ tầng chất lượng, cũng như trao đổi chuyên môn và nhân lực.


Ông Hà Minh Hiệp – Quyền Chủ tịch STAMEQ ký Thỏa thuận hợp tác với SASO.

Ông Saad Alkasabi cũng bày tỏ mong muốn STAMEQ và SASO sẽ hỗ trợ lẫn nhau để đưa các hoạt động hợp tác đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn.
Hai bên đều tin tưởng rằng việc ký kết thoả thuận nhân dịp đặc biệt này sẽ tạo nền tảng để STAMEQ và SASO triển khai các hoạt động hợp tác thiết thực trong thời gian tới, đóng góp tích cực vào quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Ả-rập Xê-út.

MoIAT là cơ quan chính phủ được thành lập vào tháng 7/2020 trên cơ sở sáp nhập chức năng của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Công nghệ tiên tiến, Cơ quan Tiêu chuẩn và Đo lường UAE (ESMA) và Ban Công nghiệp thuộc Bộ Năng lượng và Cơ sở hạ tầng. MoIAT có nhiệm vụ xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến thúc đẩy nghiên cứu phát triển, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo; thiết lập khuôn khổ phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu; và hoàn thiện hệ thống hạ tầng chất lượng quốc gia UAE. MoIAT cũng là cơ quan quản lý hoạt động chứng nhận Halal tại UAE.

SASO được thành lập theo Nghị định Hoàng gia số M/10 ngày 17/4/1972 với tư cách là một cơ quan có tư cách tư pháp nhân và ngân sách độc lập. SASO có thẩm quyền phụ trách mọi vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn hóa, đo lường và chất lượng tại Ả Rập Xê-út, đồng thời đại diện quốc gia tham gia vào các tổ chức và diễn đàn quốc tế, tác chặt chẽ với khu vực tư nhân và các cơ quan chính phủ và các bên liên quan để phát triển hạ tầng chất lượng.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Văn phòng Bộ

Bước ngoặt mạnh mẽ và tích cực để doanh nghiệp Việt Nam – Hoa Kỳ hợp tác đầu tư

Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) mong muốn trở thành một trong những địa chỉ tin cậy hỗ trợ doanh nghiệp, đối tác Hoa Kỳ hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, cùng đầu tư nghiên cứu phát triển tăng trưởng xanh, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tham gia chuỗi sản xuất thông minh, phối hợp đào tạo khởi nghiệp sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực về trí tuệ nhân tạo, chip bán dẫn để phát triển các dự án đầu tư sản xuất thông minh, khu công nghiệp xanh tại các địa phương.
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh tại buổi làm việc với đại diện Mạng lưới các tổng giám đốc tập đoàn vì an ninh quốc gia (Business Executives for National Security – BENS) do ngài Timothy M.Ray – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc điều hành làm trưởng đoàn.
Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Hoàng Minh và đại diện lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Bộ KH&CN đã trao đổi về một số mục tiêu trong Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,ĐMST) của Việt Nam, một số mục tiêu cụ thể trong triển khai chương trình KH&CN quốc gia để hiện thực hóa cam kết của Việt Nam tại COP 26 về đạt phát thải ròng bằng 0 vào 2050, cụ thể hóa chiến lược quốc gia của Việt Nam về tăng trưởng xanh và chống biến đổi khí hậu. Trong đó, có nội dung liên quan đến chuyển đổi năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo như năng lượng gió, năng lượng mặt trời. Chương trình này cũng hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện quá trình chuyển đổi xanh thông qua khuyến khích đầu tư, chuyển giao, làm chủ công nghệ.
Năm 2024, Việt Nam tăng hai bậc trong bảng xếp hạng ĐMST toàn cầu, đặc biệt dẫn đầu thế giới về chỉ số xuất khẩu hàng hóa sáng tạo. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức mua bán máy móc, thiết bị, các doanh nghiệp chưa chú trọng nâng cao năng lực hấp thụ, làm chủ công nghệ. Lao động Việt Nam chủ yếu tham gia vào quá trình vận hành máy móc, chưa tham gia nhiều vào các khâu sản xuất công nghệ cao. Nguồn nhân lực cần tương xứng và đồng bộ với mức độ phát triển KH&CN.
Thứ trưởng Hoàng Minh chủ trì buổi làm việc với BENS.
Về khuyến khích đầu tư vào các ngành, lĩnh vực công nghệ cao, đại diện lãnh đạo cơ quan trực thuộc Bộ KH&CN cho biết, tại Việt Nam hành lang pháp lý về chuyển giao công nghệ cao, phát triển thị trường công nghệ, phát triển các sàn giao dịch công nghệ đang là lĩnh vực được Chính phủ Việt Nam ưu tiên. Một số địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ đã xây dựng các dự án sàn giao dịch công nghệ nhằm tạo ra nền tảng cho các giao dịch, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, sở hữu trí tuệ. Bên cạnh các chính sách của Nhà nước như: cơ chế ưu đãi, khuyến khích về thuế, thủ tục pháp lý…, các tập đoàn trong và ngoài nước được kỳ vọng sẽ đầu tư nguồn lực để chuyển giao công nghệ cao vào Việt Nam, đặc biệt là các đối tác đến từ Hoa Kỳ thuộc nhóm dẫn đầu về nghiên cứu phát triển công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo. Đồng thời, rất cần sự tham gia, chung tay của các đơn vị tư nhân, các tập đoàn, doanh nghiệp trong kết nối thị trường KH&CN Việt Nam với quốc tế.
Đại diện BENS cho biết, tổ chức này sẽ phát huy vai trò tư vấn chính sách cho các bộ, cơ quan liên quan của Chính phủ Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy hợp tác về nghiên cứu và phát triển, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, BENS sẽ tư vấn cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ quan tâm đầu tư vào Việt Nam để phát triển các sản phẩm công nghệ cao thuộc danh mục được Chính phủ Việt Nam ưu tiên, khuyến khích, vì lợi ích chung của hai nước.
Đại diện lãnh đạo Công ty Cổ phần Công nghệ Viễn thông Sài Gòn (SaigonTel) chia sẻ, chương trình hợp tác với Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp KH&CN trong triển khai dự án đầu tư phát triển mô hình trung tâm ĐMST (SoiHub) như một mô hình thí điểm về hợp tác công – tư để thúc đẩy phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, thu hút nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp cho thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đào tạo khởi nghiệp sáng tạo, phát triển đội ngũ doanh nhân công nghệ trong quá trình triển khai dự án tăng trưởng xanh, sản xuất thông minh tại các địa phương cùng các đối tác quốc tế.
Đại diện BENS đánh giá cao những nỗ lực và thành quả của Việt Nam trong thu hút đầu tư nước ngoài và nhấn mạnh những triển vọng hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong các lĩnh vực KH&CN mới nổi. Đồng thời, bày tỏ sự quan tâm về các chính sách của Việt Nam trong thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, khuyến khích chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất chip bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, phương tiện giao thông chạy điện, tăng trưởng xanh, giảm phát thải khí nhà kính, chuyển đổi năng lượng và môi trường.
Toàn cảnh buổi tiếp.
Để thúc đẩy năng lực ĐMST của doanh nghiệp Việt Nam, yếu tố quan trọng nhất là thị trường cho sản phẩm công nghệ mới, Thứ trưởng Hoàng Minh đề xuất doanh nghiệp Hoa Kỳ có sáng kiến hợp tác, liên kết với doanh nghiệp Việt Nam để cùng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
BENS là tổ chức hoạt động phi lợi nhuận, bao gồm thành viên là các chủ tịch, tổng giám đốc của các tập đoàn hàng đầu của Hoa Kỳ như Amazon, Cisco, Infor, Morgan Stanley & Houlihan Lokey, Honeywell, First Atlantic Capital, Carlyle… BENS đóng vai trò thúc đẩy quan hệ giữa khu vực doanh nghiệp tư nhân với các cơ quan của Chính phủ như Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại Hoa Kỳ và các cơ quan khác trong một số lĩnh vực như năng lượng, chăm sóc sức khỏe, quản trị rủi ro, dịch vụ, ngân hàng, đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp công nghệ.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Cục Phát triển thị trường và Doanh nghiệp KH&CN

‘VinFuture ngày càng được giới khoa học toàn cầu đón nhận’

Theo GS. Sir. Richard Henry Friend Chủ tịch hội đồng VinFuture, đề cử tăng về số lượng, đa dạng về lĩnh vực, cho thấy giới khoa học ngày càng biết, hiểu những giá trị VinFuture tôn vinh.

VinFuture khởi động đầu năm nay, Ban tổ chức hoàn thành việc chấm giải hồi tháng 9. Lễ trao giải VinFuture mùa 4 dự kiến diễn ra vào 6/12 tới. Dịp này GS. Sir. Richard Henry Friend chia sẻ các thông tin về giải thưởng.

– Ông đánh giá thế nào về giải thưởng VinFuture qua các mùa?

– Giải thưởng VinFuture ngày càng được đón nhận tích cực bởi cộng đồng khoa học thế giới. Mùa thứ 4 có gần 1.500 đề cử đến từ hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, hơn 9.000 nhà khoa học trở thành đối tác đề cử. Các đề cử năm nay không chỉ tăng về số lượng mà còn đa dạng, trải dài trên nhiều lĩnh vực như khoa học vật liệu, y học tái tạo, khoa học công nghệ máy tính…

Việc này cho thấy giới khoa học ngày càng biết và hiểu về những giá trị mà VinFuture tôn vinh. Giải thưởng không chỉ được trao cho những ý tưởng khoa học đột phá, mà còn vinh danh những công trình tạo ra thay đổi đáng kể trong các lĩnh vực quan trọng như sức khỏe, nguồn cung thực phẩm bền vững và khí hậu.

Chúng tôi cũng mong muốn tìm kiếm những đổi mới, những khám phá chưa được biết đến hoặc chưa được áp dụng rộng rãi nhưng hứa hẹn tiềm năng tạo nên bước ngoặt tích cực trong tương lai.Giáo sư Richard Henry Friend, Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng VinFuture, nhấn mạnh tầm quan trọng của Giải thưởng VinFuture trong sứ mệnh kết nối khoa học với thực tiễn.

Giáo sư Richard Henry Friend, Chủ tịch hội đồng Giải thưởng VinFuture, nhấn mạnh tầm quan trọng của Giải thưởng VinFuture trong việc kết nối khoa học với thực tiễn. Ảnh: VinFuture

– Những lĩnh vực nào thu hút sự chú ý trong mùa giải năm nay?

– Tôi không thể tiết lộ cụ thể, nhưng tính tác động toàn cầu của những công trình này sẽ khiến mọi người phải chú ý. Chúng tôi không chỉ vinh danh những đột phá trong khoa học kỹ thuật, mà còn đánh giá cao về tác động của những công trình đoạt giải. Những lĩnh vực có thể khác nhau, nhưng tất cả đều góp phần vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống.

– Thông điệp VinFuture năm nay mà ông muốn hướng đến là gì?

– Chúng tôi hướng đến một giải thưởng có thể phản ánh sinh động về cách mà các tiến bộ khoa học công nghệ tác động đến tình hình phát triển chung toàn cầu. Thông điệp quan trọng nhất chính là sự công nhận toàn cầu đối với những công trình được trao giải, qua đó, nâng cao nhận thức của mọi người về những vấn đề cấp bách chung mà nhân loại đang đối mặt.

Những mùa giải trước, các đề cử được vinh danh đều góp phần vào giải pháp giải quyết những vấn đề toàn cầu, như đại dịch Covid-19, hay khử carbon trong hệ thống năng lượng bằng pin lưu trữ.

Công chúng ngày càng hiểu rằng những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến từng quốc gia hay xã hội riêng lẻ, mà là toàn bộ thế giới. Không nơi nào có thể tránh được hậu quả của những hành động sai lầm hay sự thờ ơ. Ngược lại, mọi xã hội và quốc gia đều có cơ hội chung tay tạo nên những điều tốt đẹp.GS Friend khẳng định, khoa học vật liệu vẫn còn rất nhiều tiềm năng, đặc biệt là cho nền công nghiệp năng lượng.

GS Friend (trái) khẳng định, khoa học vật liệu còn nhiều tiềm năng, đặc biệt là cho nền công nghiệp năng lượng. Ảnh: VinFuture

– VinFuture có ý nghĩa như thế nào đối với tương lai, thưa ông?

– Tôi tin giải thưởng VinFuture đã tạo ra tác động tích cực to lớn trên toàn cầu. Không chỉ thế, VinFuture còn cho thấy con người phải thay đổi, thích nghi. Bởi vì không có giải pháp nào là duy nhất cho tất cả vấn đề. Điều thách thức là chúng ta phải tìm ra cách sử dụng vật liệu một cách hiệu quả, từ sản xuất đến lưu trữ và sử dụng năng lượng.

Chúng ta cũng đã chứng kiến những tiến bộ lớn trong việc sử dụng năng lượng mặt trời. Ở mùa giải năm 2023, VinFuture đã tôn vinh phát minh giúp cải tiến đáng kể hiệu suất pin mặt trời silicon. Tuy nhiên, còn nhiều tiềm năng để cải thiện hiệu quả của các tấm pin này thông qua việc sử dụng vật liệu mới. Đây sẽ là chủ đề quan trọng trong tọa đàm khoa học sắp tới tại Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2024 vào đầu tháng 12 này.GS. Henry Friend chia sẻ về những đề cử cho mùa giải VinFuture năm nay. Ảnh:

GS. Henry Friend chia sẻ về những đề cử cho mùa giải VinFuture năm nay. Ảnh: VinFuture

– Ông kỳ vọng VinFuture giúp Việt Nam nâng vị thế trên bản đồ khoa học toàn cầu như thế nào?

– Uy tín và sức hút của Việt Nam trên bản đồ khoa học toàn cầu ngày càng rõ nét. Giải thưởng VinFuture đã thu hút sự quan tâm từ nhiều nơi, chào đón những nhà khoa học tuyệt vời đến Việt Nam. Ở mùa đầu tiên, TS. Katalin Karikó và GS. Drew Weissman – hai nhà khoa học đoạt giải VinFuture với công trình nghiên cứu giúp phát triển vaccine mRNA ngừa Covid-19 – đã có mặt tại Hà Nội. Hai năm sau khi được vinh danh, họ tiếp tục được trao giải Nobel Y Sinh 2023. Hai chủ nhân khác của giải đặc biệt VinFuture mùa 2 (năm 2022) là TS. Demis Hassabis và TS. John Jumper cũng vừa thắng giải Nobel Hóa học 2024.

Ngoài ra, nhóm tác giả từng được vinh danh ở giải đặc biệt VinFuture 2023 dành cho Nhà khoa học nghiên cứu các lĩnh vực mới là GS. Daniel Joshua Drucker (Canada), GS. Joel Francis Habener (Mỹ), GS. Jens Juul Holst (Đan Mạch) và PGS. Svetlana Mojsov (Mỹ) lần lượt được tạp chí Time vinh danh trong danh sách 100 người ảnh hưởng nhất thế giới và danh sách 100 người ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực sức khỏe. Họ cũng tiếp tục được vinh danh ở nhiều giải thưởng quốc tế uy tín khác trong năm nay như Tang Prize, giải thưởng Lasker Awards…

Những nhà khoa học này đều đã đến Hà Nội và giao lưu với cộng đồng khoa học cùng sinh viên Việt Nam. Điều đó đã truyền cảm hứng, chứng minh rằng Việt Nam cũng dần trở một trong những điểm đến thu hút các tài năng khoa học hàng đầu thế giới.

Lâm Anh/Vnexpress.net