Một nghiên cứu mới đăng tải trên Tạp chí American Journal of Preventive Medicine cho thấy, dù bạn bỏ thuốc lá ở độ tuổi nào cũng sẽ giúp kéo dài tuổi thọ. Kết quả của nghiên cứu một lần nữa khẳng định, không bao giờ là quá muộn để ngừng hút thuốc.
Hút thuốc lá từ lâu đã được biết đến là một trong những nguyên nhân gây ung thư, đột quỵ, các bệnh tim mạch và phổi. Vì vậy, các chiến dịch kêu gọi bỏ thuốc lá đã luôn khuyến khích mọi người ngừng hút thuốc để cải thiện sức khỏe. Tuy nhiên, trọng tâm thường là khuyến khích những người trẻ bỏ thuốc “trước khi quá muộn”. Nghiên cứu mới của Trường Y tế Công cộng Đại học Michigan (Hoa Kỳ) đã phát hiện rằng, dù bỏ thuốc ở độ tuổi nào cũng có thể kéo dài tuổi thọ thêm.
Tiến sỹ Thuy Le – thành viên nhóm nghiên cứu cho biết, nhóm đã chứng kiến sự giảm thiểu đáng kể số lượng người trẻ hút thuốc trong thập kỷ qua. Tuy nhiên, tỷ lệ người cao tuổi hút thuốc vẫn không thay đổi và chưa có nghiên cứu nào chứng minh lợi ích của việc bỏ thuốc với nhóm đối tượng này. Do đó, nhóm nghiên cứu muốn chứng minh việc ngừng hút thuốc có lợi ở bất kỳ độ tuổi nào và tạo động lực cho người cao tuổi bỏ thuốc. Các nhà khoa học đã tính toán tỷ lệ tử vong theo từng độ tuổi và tình trạng hút thuốc – gồm những người chưa từng hút, người hiện đang hút và người từng hút nhưng đã bỏ. Sử dụng dữ liệu từ các nguồn quốc gia của Hoa Kỳ và xây dựng “bảng tuổi thọ”, các nhà khoa học đã tiến hành dự đoán tuổi thọ ở các mốc 10 năm (từ 35 đến 75 tuổi).
Kết quả cho thấy, so với những người chưa từng hút thuốc, những người hút thuốc đến các độ tuổi 35, 45, 55, 65, hoặc 75 sẽ mất trung bình lần lượt là 9,1, 8,3, 7,3, 5,9 và 4,4 năm tuổi thọ nếu tiếp tục hút thuốc đến cuối đời. Tuy nhiên, nếu họ bỏ thuốc ở các độ tuổi đó, họ sẽ tránh mất lần lượt 8,0, 5,6, 3,4, 1,7 và 0,7 năm tuổi thọ. Cụ thể, đối với người bỏ thuốc ở tuổi 65, cơ hội kéo dài thêm ít nhất một năm tuổi thọ là 23,4%, nếu bỏ ở tuổi 75, cơ hội này là 14,2%. Ngoài ra, dữ liệu còn chỉ ra rằng, gần 10% những người bỏ thuốc ở tuổi 65 có thể sống thêm ít nhất 8 năm so với người tiếp tục hút. Tương tự, 8% những người bỏ thuốc ở tuổi 75 có thể sống thêm ít nhất 4 năm.
Tiến sỹ Kenneth Warner – đồng tác giả của nghiên cứu cho biết, lợi ích của việc bỏ thuốc không chỉ tác động tới người trẻ và trung niên. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng, ngay cả người lớn tuổi cũng có thể nhận được lợi ích đáng kể. Dù số năm tuổi thọ tăng thêm có vẻ ít, nhưng đó là một phần lớn trong thời gian sống còn lại của mỗi người. Nhóm nghiên cứu hy vọng rằng, các bác sỹ có thể sử dụng kết quả của nghiên cứu này để thuyết phục bệnh nhân, đặc biệt là người cao tuổi ngừng hút thuốc nhằm cải thiện sức khỏe và kéo dài tuổi thọ.
TS Đỗ Thanh Nhỏ cùng cộng sự Đại học New South Wales, Australia thiết kế trái tim nhân tạo tâm thất trái, có khả năng mô phỏng chuyển động, áp suất máu và dòng chảy như trái tim thật.
Trái tim này có thể tái tạo lại các thông số của tim bình thường và bệnh nhân bị bệnh tim (như suy tim). Kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Robotics, tạp chí đầu ngành thế giới về lĩnh vực robot. Nhóm nghiên cứu cũng nộp bằng sáng chế cho công nghệ này.
Công nghệ tim nhân tạo hướng tới hỗ trợ bác sĩ trong chẩn đoán, điều trị cho bệnh nhân cần cấy ghép van tim, người cần dùng bơm tim nhân tạo trong khi chờ tim hiến tặng hoặc sau phẫu thuật tim.
Chia sẻ với VnExpress từ Australia, TS Đỗ Thanh Nhỏ, 39 tuổi, Giám đốc Phòng thí nghiệm Robot Y tế, chủ nhiệm dự án, có ý tưởng từ năm 2021 khi anh làm việc tại một số bệnh viện ở Sydney. Khi đó các bác sĩ tim lâm sàng rất trăn trở vì nhiều bệnh nhân sử dụng van tim và bơm tim nhân tạo xuất hiện biến chứng sau cấy ghép. Họ mong muốn có một trái tim nhân tạo giống tim bệnh nhân cho phép thử cấy ghép và kiểm tra nếu có các biến chứng hay các thông số nguy hiểm trước khi thực hiện trên bệnh nhân. Đây là lý do TS Nhỏ bắt tay vào nghiên cứu trái tim nhân tạo sử dụng chính công nghệ robot mềm mà phòng thí nghiệm của anh tiên phong.
Nhóm nghiên cứu bắt đầu quá trình tạo ra một trái tim nhân tạo tâm thất trái bằng cách tập trung tái tạo cấu trúc cơ tim. Trước tiên, một trái tim người thật được chụp cắt lớp, sử dụng phần mềm 3D trên máy tính để xác định các góc sắp xếp của các sợi cơ ở lớp trong, lớp giữa và lớp ngoài cùng. Tiếp theo, nhóm sử dụng các sợi cơ nhân tạo đã phát triển trước đó và sắp xếp các sợi cơ này chính xác theo hình dạng và góc của các sợi cơ của tim thật. Việc lựa chọn loại cơ nhân tạo và cấu trúc nhiều lớp cho phép tạo ra một mạng lưới cơ tim dày đặc gần giống với trái tim tự nhiên nhất.
Anh giải thích, tâm thất trái là buồng bơm chính và phức tạp nhất của tim. Bộ phận này hoạt động theo cách đặc biệt nhờ hệ thống liên tục các sợi cơ tim sắp xếp với nhiều lớp chồng chất lên nhau và với các góc khác nhau. Nếu có thể tái tạo hoạt động tâm thất trái, việc tạo ra tâm thất phải và các tâm nhĩ còn lại sẽ rất dễ dàng.
Theo nhóm nghiên cứu, hai cơ chế quan trọng nhất của một trái tim nhân tạo là khả năng tái tạo các thông số liên quan đến đặc tính cơ học, lực tác động đến cấu trúc và chức năng của tim (biomechanics), các thông số liên quan đến động lực học của dòng chảy, huyết áp trong tim, mạch máu (hemodynamics).
Ban đầu họ gặp khó khăn trong việc tái tạo nhiều lớp cơ tim chồng chất lên nhau và sắp xếp chúng, gia công và điều khiển để tái tạo chính xác giống tim người. Sau nhiều lần thất bại, nhóm đã thành công thiết kế và tạo một tâm thất trái của trái tim với 3 lớp cơ tim bao gồm ngoại tâm mạc (epicardium), cơ tim (myocardium) và nội tâm mạc (endocardium). Nhờ có cấu trúc gần giống với tim thật nhất, nhóm đã tạo ra các chuyển động sinh học ba chiều, độ co bóp, áp suất máu và dòng chảy giống tim người nhất.
“Đến nay thế giới chưa có một trái tim nhân tạo nào có khả năng tái tạo những thông số như vậy giống như tim người. Hiện nay mới chỉ có một nhóm nghiên cứu ở Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) của Mỹ cũng phát triển công nghệ tim nhân tạo, song chưa thể thành công tái tạo lại các thông số của tim người”, TS Nhỏ nói.
PGS.TS Phan Hoàng Phương, Trường Kỹ thuật Cơ khí và Chế tạo, Đại học New South Wales cho biết: “Đây là trái tim robot mềm đầu tiên trên thế giới có khả năng tái tạo cơ sinh học cơ tim và huyết động học của tim người”.
Nhóm nghiên cứu đang mở rộng công trình và bắt đầu tích hợp thêm các cơ quan bên trong tim như các van tim, động mạch chủ, các tâm thất, cơ nhú. Để thử nghiệm tính khả thi, nhóm đã sử dụng trái tim mới để đánh giá các hệ thống máy bơm tim cho người bị suy tim và các cơ cấu mổ ống thông mềm (catheters). Mục đích hỗ trợ việc mổ tim nội soi ít xâm lấn dùng để sửa chữa van tim hay các thủ thuật khác liên quan đến tim mạch. Kết quả, trái tim nhân tạo còn dự đoán trước những biến chứng xảy ra với một máy bơm tim hỗ trợ tâm thất trái (LVAD) và máy bơm tim bóng đối xung trong động mạch chủ (IABP). Đây là những thiết bị hỗ trợ tim mạch được sử dụng để tăng cường lưu lượng máu và giảm gánh nặng cho tim trong các trường hợp suy tim hoặc sau phẫu thuật tim.
GS Nigel Lovell, trưởng khoa Trường Cao học Kỹ thuật Y sinh, Giám đốc Viện Công nghệ sức khỏe Tyree IHealthE cho hay, tính hữu ích của công trình này là khả năng tái tạo chính xác chuyển động, áp suất máu và dòng chảy của máu của người bình thường và người bị bệnh tim. Khả năng này cung cấp thông tin có ý nghĩa lâm sàng cho những người đang phát triển các thiết bị y tế mới và các thủ thuật phẫu thuật ở giai đoạn đầu. Nhờ vậy họ giảm phụ thuộc vào thử nghiệm trên động vật, các chi phí tài chính và đạo đức liên quan.
Thiết bị có thể dùng như công cụ hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng đánh giá tác động dự đoán của các can thiệp tim mạch, chẳng hạn như cấy ghép van hoặc máy bơm tim trước khi bệnh nhân trải qua phẫu thuật. Các bác sĩ cũng có thể dùng để nghiên cứu các cơ chế đằng sau một số bệnh tim mạch và cách điều trị. “Đây sẽ là một cuộc cách mạng trong ngành tim mạch”, GS Nigel Lovell nhấn mạnh.
TS Đỗ Thanh Nhỏ sinh ra tại xã Hiệp Thạnh, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh, trong gia đình làm nông. Anh là cựu học sinh của trường THPT Quang Trung, Gò Dầu. Năm 2004, anh theo học tại Khoa Cơ khí thuộc Đại học Bách Khoa TP HCM và được chọn vào lớp Kỹ sư tài năng, chuyên ngành Kỹ thuật chế tạo. Năm 2011, anh nhận học bổng toàn phần cho chương trình tiến sĩ, chuyên ngành robot mổ tại trường Kỹ thuật Cơ khí và Hàng không, thuộc ĐH Công nghệ Nanyang, Singapore. TS Nhỏ làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại ĐH California, Santa Barbara (UCSB), Mỹ. Anh gia nhập Đại học New South Wales (UNSW Sydney), Australia với vai trò giảng viên cao cấp (Scientia) và thành lập phòng thí nghiệm Robot y tế.
Hướng nghiên cứu chính của anh chuyên về robot mổ nội soi ít xâm lấn cho tim mạch và ung thư đường tiêu hóa, in 3D sinh học, robot mềm, cơ nhân tạo, vải thông minh, thiết bị trợ tim, thiết bị nâng cao khả năng của con người và phục hồi chức năng cho người tàn tật, và các thiết bị tái tạo cảm xúc. Hiện anh sở hữu hơn 10 bằng phát minh sáng chế quốc tế.
“KỸ THUẬT PHẪU THUẬT TUYẾN GIÁP” – Phương Pháp “Gỡ cá khỏi lưới”
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ.
Ngày 10/10/2024, trong khuôn khổ Tuần lễ Sách Khoa học và Công nghệ 2024, buổi tọa đàm giới thiệu sách mới xuất bản của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật – cuốn sách Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” – tác giả Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm đã diễn ra thành công, thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia y tế, bác sĩ và sinh viên y dược và y khoa. Buổi tọa đàm không chỉ là cơ hội để các bác sĩ trẻ và sinh viên tiếp cận với những kiến thức mới mẻ trong lĩnh vực y học, mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chia sẻ kiến thức trong cộng đồng y tế..
Mở đầu buổi tọa đàm, Ban Tổ chức Tuần Lễ sách Khoa học và Công nghệ 2024 và Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật giới thiệu cuốn sách Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” như một giải pháp cấp thiết trong bối cảnh số lượng bệnh nhân mắc các bệnh lý tuyến giáp, đặc biệt là ung thư tuyến giáp, ngày càng gia tăng. Mỗi năm tại Việt Nam có khoảng 5.000 ca ung thư tuyến giáp mới, và phẫu thuật được coi là phương pháp chính để điều trị căn bệnh này. Tuy nhiên, việc thực hiện phẫu thuật tuyến giáp đòi hỏi sự tỉ mỉ và kỹ năng chuyên môn cao để tránh các biến chứng nguy hiểm như tổn thương dây thần kinh thanh quản hoặc tuyến cận giáp.
Chia sẻ từ tác giả – Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm
Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm trong buổi tọa đàm giới thiệu cuốn sách
“KỸ THUẬT PHẪU THUẬT TUYẾN GIÁP” – Phương Pháp “Gỡ cá khỏi lưới” do Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Bộ Khoa học và Công nghệ xuất bản
Trong buổi tọa đàm, bác sĩ Mai Văn Sâm đã chia sẻ về hành trình hình thành và phát triển cuốn sách. Ông nhấn mạnh rằng các bệnh lý tuyến giáp, đặc biệt là ung thư, không chỉ là một thách thức y học mà còn là cơ hội để các bác sĩ không ngừng hoàn thiện kỹ năng phẫu thuật của mình. Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” được giới thiệu trong cuốn sách là một kỹ thuật phẫu thuật giúp bảo vệ các cấu trúc quan trọng xung quanh tuyến giáp như dây thần kinh thanh quản và tuyến cận giáp, giảm thiểu các biến chứng và giúp bệnh nhân hồi phục nhanh chóng.
Câu nói đầy ý nghĩa của bác sĩ Sâm “Một kỹ thuật thành công, một đề tài thành công là một kỹ thuật, một đề tài mà ai cũng có thể sử dụng” đã thể hiện mong muốn của ông trong việc chia sẻ kinh nghiệm và kỹ thuật phẫu thuật với cộng đồng y tế, để không chỉ cá nhân ông mà các bác sĩ khác cũng có thể áp dụng và nâng cao hiệu quả điều trị.
Giá trị trong việc nâng cao chất lượng tuyến giáp ở Việt Nam
Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm chia sẻ kinh nhiệm của bản thân trong ngành y khoa.
Cuốn sách không chỉ là một tài liệu khoa học, mà còn mang tính cấp bách trong việc nâng cao chất lượng phẫu thuật tuyến giáp ở Việt Nam, cuốn sách ra đời như một nguồn tài liệu hữu ích, cung cấp những kiến thức cần thiết giúp các bác sĩ tiếp cận và áp dụng phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” trong điều trị bệnh nhân.
Thảoluận và tương tác – điểm nhấn của tọa đàm
Khách mời tham gia thảo luận cùng Thạc sĩ, Bác sĩ Mai Văn Sâm.
Buổi tọa đàm trở nên sôi nổi hơn khi khán giả đặt câu hỏi về quá trình phẫu thuật thực tế và những khó khăn mà bác sĩ Sâm đã gặp phải trong việc bảo đảm an toàn cho bệnh nhân trong các ca phẫu thuật tuyến giáp. Bác sĩ đã chia sẻ về một số ca phẫu thuật phức tạp mà ông đã thực hiện thành công, nhấn mạnh rằng sự tỉ mỉ và kiên nhẫn là những yếu tố không thể thiếu trong quá trình phẫu thuật. Ông cũng chia sẻ về các yếu tố quan trọng giúp đạt được kết quả phẫu thuật thành công, như việc chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi mổ, kỹ năng phân tích hình ảnh siêu âm và tư duy chiến lược trong khi mổ.
Một trong những điểm nhấn của buổi tọa đàm chính là giá trị thực tiễn mà cuốn Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp –Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” mang lại. Cuốn sách không chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà còn cung cấp những hướng dẫn chi tiết về quy trình phẫu thuật, từ việc chuẩn bị cho ca mổ đến việc xử lý các biến chứng sau mổ. Các bác sĩ tham dự buổi tọa đàm đều đánh giá cao tính ứng dụng cao của cuốn sách, là một tài liệu tham khảo cần thiết trong quá trình học tập và làm việc của các sinh viên và bác sĩ trẻ.
Buổi tọa đàm kết thúc với những lời khuyên từ bác sĩ Mai Văn Sâm dành cho các bạn sinh viên y dược và các bác sĩ trẻ. Ông khuyến khích họ luôn giữ niềm đam mê với nghề, không ngừng học hỏi và rèn luyện kỹ năng để có thể mang lại kết quả điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. Những chia sẻ của bác sĩ Sâm không chỉ truyền cảm hứng cho thế hệ bác sĩ trẻ, mà còn khẳng định tầm quan trọng của việc cập nhật kiến thức và không ngừng cải tiến các kỹ thuật trong ngành y.
Cuốn sách Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” hứa hẹn sẽ trở thành một tài liệu tham khảo quý báu, góp phần nâng cao chất lượng điều trị và giảm thiểu biến chứng cho các bệnh nhân mắc bệnh lý tuyến giáp.
Tại buổi làm việc với Học viện Kỹ thuật Quân sự (Bộ Quốc phòng), ngày 10/10/2024, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt khẳng định, Bộ KH&CN luôn phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng bám sát các định hướng của Quân ủy Trung ương để xây dựng và triển khai những nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, tiến tới trang bị cho quân đội góp phần vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới.
Tại buổi làm việc, Thượng tướng Lê Minh Thái, Giám đốc Học viện báo cáo với đoàn công tác một số kết quả thực hiện nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học giai đoạn 2018-2024, phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn tiếp theo.
Theo đó, giai đoạn từ 2018-2024, Học viện đã triển khai gần 1.200 đề tài, nhiệm vụ KH&CN các cấp trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu định hướng cơ bản. Đặc biệt, hoạt động nghiên cứu ứng dụng luôn là thế mạnh của Học viện. Hiện Học viện có 18 nhóm nghiên cứu mạnh làm cơ sở phát huy năng lực nghiên cứu, bồi dưỡng đội ngũ, hình thành và phát triển lực lượng nghiên cứu chuyên sâu theo mô hình nhóm nghiên cứu mạnh; có định hướng và sản phẩm nghiên cứu cơ bản bám sát định hướng công nghệ ưu tiên của Nhà nước, Quân đội, các công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, Học viện đã tạo ra nhiều sản phẩm KH&CN phục vụ quốc phòng và sản phẩm lưỡng dụng phục vụ phát triển KT-XH như: Hệ thống dẫn đường quán tính, Thiết bị chế áp flycam, Rô bốt hỗ trợ học tiếng Anh, Rô bốt ứng dụng trong y tế…
Trong giai đoạn vừa qua đã có gần 1.400 đề tài nghiên cứu khoa học của học viên, sinh viên được triển khai thực hiện với hơn 1.200 công bố khoa học trên các tạp chí ISI/Scopus, trong đó có nhiều công bố trên các tạp chí thuộc nhóm Q1 có chỉ số trích dẫn cao…
Toàn cảnh buổi làm việc.
Để tăng tiềm lực KH&CN trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Học viện đề xuất Bộ KH&CN, Bộ Quốc phòng được triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu tiềm năng hỗ trợ các nhà khoa học trẻ sáng tạo, đột phá nghiên cứu trong lĩnh vực ứng dụng; có chính sách ưu đãi với nhóm nghiên cứu mạnh khi thực hiện các nhiệm vụ KH&CN quốc gia; hướng dẫn việc xử lý tài sản hình thành thông qua việc triển khai thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng NSNN; đồng thời có cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư, thương mại hoá sản phẩm.
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt chúc mừng Học viện trong giai đoạn 5 năm vừa qua luôn là đơn vị hàng đầu trong hoạt động giáo dục đại học, sau đại học và nghiên cứu khoa cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Với các con số gần 6000 bài báo được công bố; 18 nhóm nghiên cứu mạnh; 52 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản; 55 nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng các cấp thực sự là những con số rất ấn tượng, phản ánh rõ nét nhất năng lực của Học viện.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt phát biểu tại buổi làm việc.
Bộ trưởng cho biết, trong thời gian vừa qua, Bộ KH&CN và Bộ Quốc phòng đã có sự phối hợp chặt chẽ, bám sát các định hướng của Quân ủy Trung ương để xây dựng và triển khai những nhóm sản phẩm chủ lực phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, tiến tới trang bị cho quân đội góp phần vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, Học viện Kỹ thuật quân sự là một trong những đơn vị thường xuyên phối hợp với Bộ KH&CN, không chỉ cung cấp các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau mà còn trực tiếp chủ trì thực hiện nhiều đề tài, dự án lớn được Bộ Quốc phòng giao thực hiện.
Trên cơ sở các đề xuất, kiến nghị của Học viện và các ý kiến trao đổi, thảo luận của các đơn vị chuyên môn thuộc Bộ KH&CN, Bộ trưởng đề nghị đối với những đề xuất, kiến nghị đã được trao đổi thống nhất, Học viện Kỹ thuật quân sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chuyên môn liên quan của Bộ KH&CN tập trung triển khai theo đúng quy định; với các kiến nghị, đề xuất đang trong quá trình xem xét, giải quyết, Học việc tiếp tục bám sát các đơn vị chức năng của Bộ KH&CN để được tháo gỡ, hướng dẫn triển khai thực hiện.
Bộ trưởng nhận định, với tiềm lực KH&CN lớn mà không nhiều đơn vị giáo dục đại học có được, Học viện cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò đơn vị giáo dục đại học, nghiên cứu KH&CN đầu ngành trong quân đội, tập trung nghiên cứu, ứng dụng KH&CN trong chế tạo mới, cải tiến vũ khí, trang bị kỹ thuật theo các định hướng đã được Bộ Quốc phòng phê duyệt để phục vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.
Trong khuôn khổ buổi làm việc, Bộ trưởng và đoàn công tác đã tới thăm, kiểm tra khu trưng bày các kết quả nghiên cứu khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, một số sản phẩm nghiên cứu khoa học điển hình của Học viện; tham quan các phòng thí nghiệm, phòng trang bị và các phòng học chuyên môn.
Các đại biểu tham quan phòng thí nghiệm thiết kế vi mạch chuyên dụng trong quốc phòng.
Các đại biểu tham quan phòng trang bị sonar thủy âm.
Hệ thống mô phỏng bán tự nhiên đài điều khiển TLPK S-300PMU1.
Nguồn: Trung tâm NC&PT truyền thông KH&CN, Vụ Công nghệ cao
Triển lãm sách khoa học và công nghệ (KH&CN) năm 2024 với chủ đề “Tri thức và công nghệ: Hành trình Đổi mới sáng tạo” không chỉ phản ánh sự phát triển của nền KH&CN Việt Nam qua các thời kỳ mà còn truyền tải thông điệp về vai trò của KH&CN đối với phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định tại Lễ khai mạc Triển lãm sách KH&CN năm 2024 do Cục Thông tin KH&CN quốc gia phối hợp với Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật tổ chức.
Phát biểu tại Triển lãm, ông Trần Đắc Hiến, Cục trưởng Cục Thông tin KH&CN quốc gia cho biết, Triển lãm sách KH&CN 2024 là sự kiện thường niên của Bộ KH&CN, nhằm lan tỏa văn hóa đọc và thúc đẩy khai thác các nguồn tin KH&CN phục vụ hoạt động đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, góp phần tôn vinh những thành tựu KH&CN, vai trò của tri thức KH&CN đối với sự phát triển bền vững của xã hội. Đây cũng là sự kiện đánh dấu kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2024), 65 năm thành lập Bộ KH&CN (1959-2024) và hướng tới Ngày khoa học vì hòa bình và phát triển thế giới 10/11.
Ông Trần Đắc Hiến phát biểu khai mạc Triển lãm.
Chia sẻ tại sự kiện, Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định cho biết, trong những năm qua, Bộ KH&CN đã quan tâm, chú trọng đầu tư phát triển tiềm lực thông tin KH&CN, thông qua các đơn vị đầu mối là Cục Thông tin KH&CN quốc gia và Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu về tài liệu của cộng đồng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST); tuyên truyền, phổ biến các thành tựu KH,CN&ĐMST của đất nước, đồng thời đưa những tri thức mới nhất của nhân loại đến với bạn đọc. Các đơn vị cũng tiếp tục đổi mới cả về hình thức và nội dung cung cấp thông tin KH&CN để đáp ứng yêu cầu phát triển KH,CN&ĐMST trong giai đoạn mới.
Thứ trưởng Lê Xuân Định phát biểu tại Lễ khai mạc Triển lãm sách KH&CN.
Nhận định tài nguyên thông tin trở thành tiềm lực cơ bản cho mọi hoạt động kinh tế – xã hội, văn hóa, khoa học, giáo dục, quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia, Thứ trưởng Lê Xuân Định mong muốn, bạn đọc không chỉ dừng lại ở việc tham quan và dự các hoạt động của Triển lãm mà còn tiếp tục khai thác, sử dụng kho tri thức phong phú và đa dạng hiện có tại Cục Thông tin KH&CN quốc gia và Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, lan tỏa tới các cộng đồng khoa học trong cả nước.
Các đại biểu cắt băng khai mạc Triển lãm.
Dự Triển lãm, khách tham quan được tìm hiểu về hành trình đổi mới sáng tạo của đất nước qua những trang sách khoa học theo 3 giai đoạn:
Trước 1975 với những cuốn sách quý của các nhà khoa học nổi tiếng, có đóng góp lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước như: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di… Trong đó, có những cuốn sách độc bản còn duy nhất tại Thư viện của Cục Thông tin KH&CN quốc gia.
Giai đoạn 1975-2002 là sách của các nhà khoa học, chính trị, quân sự, y dược có đóng góp lớn vào công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh như: Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Tài Thu, Bùi Huy Giáp, Nguyễn Điền…
Giai đoạn từ 1975 đến nay được chia làm 2 khu trưng bày sách in và tài liệu số. Khu vực sách in trưng bày sách giai đoạn đổi mới, đặc biệt là các nhà khoa học Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng các lĩnh vực khoa học trên thế giới. Khu vực tài liệu số giới thiệu tài liệu điện tử cập nhật mới nhất từ các cơ sở dữ liệu hàng đầu thế giới.
Ông Bùi Minh Cường, Giám đốc – Tổng biên tập Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật trao tặng sách cho các đơn vị.
Trong khuôn khổ Triển lãm diễn ra 3 Hội thảo khoa học với chủ đề: “Gen AI: Công cụ đột phá trong nghiên cứu học thuật”, “Kỹ năng khai thác nguồn tin KH&CN phục vụ nghiên cứu khoa học”, “AI và Hướng nghiệp”; 2 phiên Tọa đàm giới thiệu sách: “Từ điển KH,CN&ĐMST Việt-Anh-Trung”; “Kỹ thuật phẫu thuật tuyến giáp – Phương pháp “gỡ cá khỏi lưới” cùng nhiều hoạt động bên lề khác như tập huấn bạn đọc, giới thiệu sách và cơ sở dữ liệu.
Thứ trưởng Lê Xuân Định và các đại biểu tham quan các gian hàng Triển lãm sách.
Đặc biệt, đại biểu tham dự Lễ khai mạc Triển lãm và Hội thảo sẽ được tặng tài khoản truy cập miễn phí tới các cơ sở dữ liệu quốc gia và quốc tế của Cục Thông tin KH&CN quốc gia như: Cơ sở dữ liệu công bố KH&CN Việt Nam, Nhiệm vụ KH&CN Việt Nam, ScienceDirect, SpringerNature, IEEE, Sage, OECD, ACS, ProQuest Central… Đây là cơ hội để người dân, đặc biệt là những người yêu thích KH&CN có thể tiếp cận nguồn tài nguyên khoa học chất lượng, hỗ trợ tối đa cho học tập và nghiên cứu.
Triển lãm diễn ra từ ngày 10-12/10/2024 tại Cục Thông tin KH&CN quốc gia.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
68 công trình nghiên cứu lĩnh vực năng lượng nguyên tử được giới thiệu tại hội nghị khoa học công nghệ hạt nhân cán bộ trẻ, trong đó có nhiều đề tài tiềm năng ứng dụng phát triển kinh tế.
Các tác giả báo cáo kết quả tại hội nghị trong 2 ngày 3 – 4/10 tổ chức tại Hà Nội. TS Phạm Quang Minh, Viện phó Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, cho biết đây là lần thứ 8 hội nghị được tổ chức, số lượng cán bộ trẻ tham gia ngày càng nhiều với chất lượng nghiên cứu ngày càng cao. Đây được coi là diễn đàn, tạo bước đệm cho con đường học thuật của các nhà khoa học.
Tại hội nghị, nhóm nghiên cứu đến từ Viện Di truyền Nông nghiệp chia sẻ kết quả sử dụng tia gamma tạo đột biến lúa và chọn lọc các dòng đột biến năng suất cao, chất lượng tốt đóng góp vào sản xuất lương thực tại Việt Nam. Kết quả chiếu xạ bằng tia gamma (Co60) vào giống lúa ST20 và ST5. Sau sàng lọc, nhóm đã chọn được 4 dòng lúa có chất lượng tương đương hoặc cao hơn giống gốc với đặc tính cơm mềm, mùi thơm và dẻo vừa phải, độ trắng trong cao, hàm lượng amylose thấp dưới 16%. Dòng lúa đột biến này được cải thiện và có thời gian sinh trưởng ngắn hơn đối chứng. Giải trình tự hệ gene dòng lúa đột biến đã được tiến hành và phát triển cho thấy sau chiếu xạ có chứa nhiều biến thể khác nhau khi so với hệ gene của giống gốc ST5.
Nhóm tác giả Viện Công nghệ Xạ hiếm giới thiệu nghiên cứu điều chế keo silica làm nguyên liệu cho phân bón lá. Đại diện Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội giới thiệu nghiên cứu anh hưởng của chiếu xạ gamma tới khả năng đối kháng của Trichoderma với Rhizoctonia solani gây bệnh khô vằn trên lúa và nghiên cứu ứng dụng chùm điện tử gia tốc cho xử lý phế phẩm thuốc trừ sâu Hexanchlorane…
Một nghiên cứu khác được trình bày là tổ hợp gia tốc lớn do nhóm nhà khoa học trẻ Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) và Viện Khoa học Kỹ thuật hạt nhân phối hợp thực hiện. Máy gia tốc là một trong số ít thiết bị được ứng dụng ở nhiều lĩnh vực: nghiên cứu khoa học, y tế, môi trường, công nghiệp.
Ví dụ trong nghiên cứu máy gia tốc được sử dụng để làm cho các hạt hạ nguyên tử va chạm với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng nhằm nâng cao hiểu biết về nguồn gốc vũ trụ. Một số máy này còn được sử dụng để tạo ra nơtron, thường được sử dụng cho các mục đích khác nhau của lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu.
Trong y tế, máy gia tốc được dùng để tiêu diệt tế bào ung thư, khám phá cấu trúc của protein và virus, sản xuất thuốc…
Theo đó TS Trần Đình Trọng, Viện Vật lý, đại diện nhóm nghiên cứu cho rằng một tổ hợp gia tốc có thể tập hợp và thúc đẩy nhiều lĩnh vực khác nhau cùng phát triển, do đó việc sở hữu một tổ hợp gia tốc là mong muốn của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Hiện nay có rất nhiều loại tổ hợp gia tốc khác nhau về chi phí xây dựng, vận hành cũng như phạm vi ứng dụng. Nhóm nghiên cứu đưa ra những đánh giá về tính khả thi, sự cần thiết của tổ hợp gia tốc lớn tại Việt Nam cũng như cung cấp những thông tin về quá trình chuẩn bị của Việt Nam.
Bên cạnh các công trình ứng dụng, nhiều nghiên cứu cơ bản lĩnh vực vật lý, công nghệ hạt nhân được chia sẻ tại hội nghị. Nhóm tác giả trường đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội nghiên cứu ảnh hưởng lưới giằng tới sự đối lưu tự nhiên đối với mô hình thanh nhiên liệu của lò phản ứng. Nhóm nhà khoa học Viện Khoa học Kỹ thuật Hạt nhân giới thiệu nghiên cứu mô phỏng đặc trưng của trường chuẩn bức xạ gamma suất liều thấp sử dụng nguồn Cs-137…
TS Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết ngành năng lượng nguyên tử có thể đóng góp tốt cho phát triển kinh tế trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Theo đó việc khuyến khích các nhà khoa học trẻ tham gia nghiên cứu khai thác ứng dụng thế mạnh của năng lượng nguyên tử được Viện chú trọng nhiều năm qua. Đây cũng là cách để đào tạo và chuẩn bị nhân lực cho ngành trong tương lai.
Từ năm 2010, hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân cán bộ trẻ ngành Năng lượng nguyên tử được tổ chức hai năm một lần. Sự kiện là dịp để các nhà khoa học trẻ trao đổi ý tưởng, kinh nghiệm, kết quả nghiên cứu, kết nối hợp tác giữa các các đơn vị nghiên cứu.
Vườn ươm thuộc Khu Công nghệ cao TPHCM là cơ sở ươm tạo đầu tiên cả nước được Bộ Khoa học và Công nghệ cấp chứng nhận đạt các tiêu chí ươm tạo công nghệ cao.
Thông tin được ông Lê Quốc Cường, Phó Ban quản lý Khu Công nghệ cao TP HCM (SHTP) cho biết chiều 5/10 trong khuôn khổ công bố cuộc thi Smart City 2024 – Sáng kiến xây dựng thành phố thông minh.
Chứng nhận cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao cho Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao, Khu Công nghệ cao TP HCM (SHTP-IC) được Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định ký hôm 23/9. Để được cấp chứng nhận, cơ sở ươm tạo phải đạt được các tiêu chí theo Thông tư 27 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định các điều kiện với cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao và thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận.
Nói với VnExpress, ông Cường cho biết, để đạt được chứng nhận này, nhiều năm qua SHTP đã kiến tạo hệ sinh thái nhằm phát huy năng lực nội sinh của các doanh nghiệp trong nước, phục vụ công nghiệp công nghệ cao. Khu công nghệ cao TP HCM đã phát triển ba đơn vị trực thuộc gồm Trung tâm đào tạo (SHTP Training), Trung tâm nghiên cứu triển khai (SHTP Labs) và Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao (SHTP-IC).
Lãnh đạo Khu công nghệ cao TP HCM cho biết, điểm khác biệt của vườn ươm SHTP-IC, sản phẩm của doanh nghiệp được chọn ươm tạo phải đạt các tiêu chí danh mục công nghệ cao được Thủ tướng phê duyệt.
Theo ông Cường, vườn ươm có sự hợp tác chặt chẽ với SHTP-Lab là đơn vị nghiên cứu chủ lực với phòng thí nghiệm được đầu tư, SHTP-Training có chức năng đào tạo nhân lực chất lượng cao. Cùng với đó SHTP-IC phối hợp nhiều trường đại học và hệ sinh thái các doanh nghiệp công nghệ cao trong khu, tạo nên một mô hình ba nhà với tiềm lực mạnh hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ phát triển.
Ông Quách Anh Sen, Phó giám đốc phụ trách SHTP-IC nói giấy chứng nhận chứng minh nỗ lực ươm tạo gần 18 năm hình thành và phát triển. Đây là cơ hội giúp SHTP-IC thúc đẩy hoạt động ươm tạo, đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp khi hoạt động tại Khu Công nghệ cao TP HCM. Đến nay, đơn vị này có hơn 130 dự án đã và đang ươm tạo, năng lực ươm cùng lúc 50 dự án công nghệ cao với hệ thống phòng thí nghiệm, không gian làm việc, đội ngũ hơn 100 chuyên gia, đối tác hỗ trợ.
Ông Lê Quốc Cường cho rằng, giấy chứng nhận là động lực giúp vườn ươm hoàn thiện các tiêu chí ươm tạo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các dự án và xu hướng phát triển công nghệ. Khu công nghệ cao TP HCM sẽ kết nối với các đơn vị uy tín trong mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo, thu hút các chuyên gia công nghệ, chuyên gia tài chính… để hỗ trợ tốt nhất cho các dự án.
Ngày 03/10/2024, tại Hà Nội, Cục Lâm nghiệp đã phối hợp với Hội Khoa học Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam tổ chức Hội thảo “Carbon rừng – Tiềm năng tạo nguồn tài chính mới cho bảo vệ và phát triển rừng”.
Với vai trò là thành viên của Công ước khung Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) và Thỏa thuận Paris, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc giảm phát thải khí nhà kính. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) năm 2021, Việt Nam đã cam kết đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Cam kết này mở ra những cơ hội mới cho ngành lâm nghiệp trong việc thiết lập và vận hành cơ chế tài chính nhằm huy động nguồn lực quốc tế và trong nước, thông qua việc phát triển thị trường và thúc đẩy trao đổi tín chỉ carbon rừng.
Hiện tại, lâm nghiệp là lĩnh vực duy nhất có khả năng phát thải ròng âm, nhờ vào quá trình bảo vệ và phát triển rừng của cả hệ thống chính trị và sự hỗ trợ của các đối tác quốc tế. Tuy nhiên, thị trường carbon rừng ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu, gặp nhiều khó khăn và thách thức.
Với hơn 14,8 triệu ha rừng, chiếm khoảng 42,02% diện tích tự nhiên – rừng Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu tác động tiêu cực từ biến đổi khí hậu. Theo ước tính, nếu được quản lý và phát triển tốt, thị trường này có thể mang lại hàng trăm triệu USD mỗi năm. Nguồn lợi này sẽ giúp mang lại nguồn thu lớn cho lâm nghiệp, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương, đồng thời bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường.
Để thúc đẩy phát triển thị trường và triển khai thương mại tín chỉ carbon rừng trong thời gian tới, cần thực hiện một số nhiệm vụ như: nghiên cứu tiềm năng và phân bổ hạn ngạch giảm phát thải và hấp thụ carbon từ rừng cho các địa phương; hoàn thiện thể chế chính sách về chuyển nhượng và quản lý tài chính nguồn thu từ tín chỉ carbon rừng; xây dựng tiêu chuẩn carbon rừng Việt Nam, phương pháp luận tính toán kết quả giảm phát thải và hệ thống đo đạc, báo cáo, thẩm định lượng giảm phát thải/tăng hấp thụ carbon của rừng; hướng dẫn xây dựng và triển khai thí điểm một số dự án tiềm năng; tăng cường hợp tác, huy động nguồn lực quốc tế và khối tư nhân… Bên cạnh đó, các địa phương, cũng cần chủ động huy động và lồng ghép các nguồn lực hợp pháp thực hiện các biện pháp giảm phát thải/tăng hấp thụ trong lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Ngày 04/10/2024, Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải đã tổ chức Hội nghị khoa học và công nghệ năm 2024 chào mừng 68 năm thành lập Viện.
TS Trần Bảo Ngọc – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải cho biết, Viện Thí nghiệm Vật liệu, tiền thân của Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải được thành lập cách đây 68 năm nhằm đáp ứng yêu cầu về công tác nghiên cứu, giải quyết được những khó khăn, thiếu thốn về vật tư, vật liệu, kỹ thuật xây dựng và bảo vệ các công trình cơ sở hạ tầng giao thông vận tải. Trải qua 68 năm xây dựng, phấn đấu và trưởng thành, các thế hệ viên chức và người lao động của Viện đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách, không ngừng đổi mới, sáng tạo, xây dựng Viện trở thành một trong những đơn vị đi đầu trong công tác nghiên cứu và ứng dụng công nghệ mới trong ngành và nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác.
TS Trần Bảo Ngọc – Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Giao thông Vận tải phát biểu khai mạc Hội nghị.
Trong mỗi giai đoạn phát triển, Viện luôn thực hiện tốt vai trò tiên phong với phương châm “Khoa học và công nghệ luôn đi trước một bước”, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chính trị được giao. Đến nay, Viện đã chủ trì thực hiện hàng trăm đề tài các cấp, biên soạn hàng trăm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật… Các kết quả nghiên cứu khoa học của Viện đã được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất của ngành, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng công trình, mang lại hiệu quả kinh tế cho xã hội.
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, ngành giao thông vận tải đang đứng trước những vận hội và thời cơ phát triển mới. Để góp phần xây dựng một hệ thống hạ tầng giao thông đa dạng, đồng bộ và hiện đại ở tất cả các lĩnh vực đường bộ, hàng không, đường sắt, hàng hải và đường thủy nội địa…, nhiệm vụ quan trọng nhất của Viện với vai trò là cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ của ngành cần tiếp tục, tập trung vào các lĩnh vực ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ phục vụ phát triển, quản lý khai thác, bảo trì hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông theo hướng đồng bộ, hiện đại, chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, bền vững, thân thiện với môi trường.
Toàn cảnh Hội nghị.
Hội nghị khoa học và công nghệ năm 2024 chào mừng 68 năm thành lập là một trong những sự kiện quan trọng nhằm giới thiệu, tổng kết, đánh giá các kết quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ nổi bật của Viện thực hiện trong năm 2024 và những năm trước đây phục vụ yêu cầu sản xuất của ngành và đất nước. Tại Hội nghị, các kết quả nghiên cứu được công bố trong 29 báo cáo khoa học thuộc các lĩnh vực đường bộ, sân bay, cầu, hầm, cảng đường thủy, cơ khí, tự động hóa, vật liệu xây dựng, bảo vệ công trình và môi trường… Những hoạt động này, Viện tiếp tục khẳng định vị thế là cơ quan tham mưu cho Bộ Giao thông Vận tải về khoa học và công nghệ, đáp ứng những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả các hoạt động của ngành và đất nước.
Ngày 03-04/10/2024 tại Hà Nội, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã tổ chức Hội nghị Khoa học và công nghệ hạt nhân cán bộ trẻ ngành năng lượng nguyên tử lần thứ VIII. Hội nghị thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học, nghiên cứu viên trẻ đến từ các đơn vị trực thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Di truyền Nông nghiệp, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Chợ Rẫy…
TS Trần Chí Thành – Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam cho biết, khoa học và công nghệ hạt nhân là lĩnh vực rất rộng, trong đó, ứng dụng năng lượng nguyên tử có thể giúp giải quyết nhiều vấn đề ở các lĩnh vực của đời sống – xã hội như: nông nghiệp, công nghiệp, môi trường, y tế… Trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang có những diễn biến phức tạp, năng lượng nguyên tử ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc tham gia giải quyết vấn đề môi trường, tài nguyên nước, sản xuất dược chất phóng xạ…
Hội nghị khoa học và công nghệ hạt nhân cán bộ trẻ ngành năng lượng nguyên tử lần thứ VIII.
Để phát triển lĩnh vực khoa học và công nghệ hạt nhân, điều quan trọng là nguồn nhân lực, nhất là trong thời gian tới Việt Nam đang triển khai nhiều hoạt động như: Dự án xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ hạt nhân; dự án xây dựng mạng quan trắc phóng xạ quốc gia… Đặc biệt, mới đây, Chính phủ đã đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu kinh nghiệm phát triển điện hạt nhân của các nước trên thế giới để đề xuất phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam. Do đó, nếu phát triển chương trình điện hạt nhân thì cũng cần tính toán việc đào tạo, chuẩn bị thêm nguồn nhân lực.
Báo cáo viên Trần Đình Trọng – Viện Vật lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam chia sẻ tại Hội nghị.
Tại Hội nghị, nhiều kết quả nghiên cứu của các cán bộ trẻ đã được chia sẻ và thảo luận sôi nổi như: Tổ hợp gia tốc lớn và sự cần thiết của một tổ hợp cho Việt Nam; sử dụng tia gamma tạo đột biến ở lúa và chọn lọc các dòng lúa có năng suất cao, chất lượng tốt; hoạt độ các đồng vị phóng xạ trong môi trường tại một số tỉnh phía Nam Việt Nam; nghiên cứu tính toán thiết kế sơ bộ bình sinh hơi sử dụng cho nhà máy điện hạt nhân nổi…