Vụ rò rỉ methane từ giếng lớn nhất lịch sử

Sử dụng dữ liệu vệ tinh, các chuyên gia ghi nhận vụ rò rỉ methane lớn nhất từ giếng khai thác, giải phóng 131.000 tấn trong 205 ngày.

Giếng bốc cháy tại mỏ Karaturun East, Kazakhstan, năm 2023. Ảnh: Mangistau Reginal Admininistration

Giếng bốc cháy tại mỏ Karaturun Vostochny, Kazakhstan, năm 2023. Ảnh: Mangistau Reginal Admininistration

Nhóm nhà khoa học quốc tế dẫn dắt bởi Luis Guanter, giáo sư tại Đại học Bách khoa Valencia kiêm trưởng nhóm LARS thuộc Viện Nước và Kỹ thuật Môi trường, ghi nhận vụ rò rỉ methane từ giếng lớn nhất lịch sử, SciTechDaily hôm 19/7 đưa tin. Giếng rò rỉ nằm ở mỏ Karaturun Vostochny, Kazakhstan.

Trong nghiên cứu mới trên tạp chí Environmental Science & Technology Letters, nhóm nhà khoa học định lượng và theo dõi sự phát triển của lượng khí methane khổng lồ này nhờ kết hợp dữ liệu từ một số vệ tinh như TROPOMI, GHGSat, PRISMA, EnMAP, EMIT, và từ máy đo bức xạ đa phổ Landsat và Sentinel-2.

Vụ rò rỉ gây ra đám cháy cao 10 m và miệng hố rộng 15 m, vượt xa những sự kiện trước đó tại Aliso Canyon năm 2015, Ohio năm 2018 và Louisiana năm 2019.

Vụ rò rỉ tại mỏ Karaturun Vostochny bắt đầu vào ngày 9/6/2023, khi một vụ nổ xảy ra trong quá trình khoan thăm dò. Một ước tính cũ cho rằng sự kiện thải ra khoảng 127.000 tấn methane. Nhưng trong nghiên cứu mới, các nhà khoa học kết luận chiếc giếng giải phóng khoảng 131.000 tấn methane vào khí quyển trong 205 ngày. Hàng nghìn tấn nước đã được bơm vào để bịt giếng. Cuối cùng, luồng khí được chặn lại ngày 25/12/2023 nhờ bơm bùn khoan, theo Luis Guanter, nhà nghiên cứu tại Viện Nước và Kỹ thuật Môi trường.

Trong nghiên cứu, nhóm chuyên gia đã phát triển các phương pháp xử lý dữ liệu mới. Những phương pháp tối ưu hóa này bao gồm triển khai bộ lọc được thiết kế riêng để phát hiện các luồng khí và triển khai những mô hình định lượng methane cho thiết bị siêu quang phổ. Công nghệ vệ tinh tiên tiến đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và định lượng khí methane thoát ra, đặc biệt là ở những khu vực xa xôi khó quan sát.

Nhóm nghiên cứu nhấn mạnh, thế giới cần giám sát một cách liên tục và chính xác để giảm tác động môi trường của những hoạt động công nghiệp như khai thác dầu khí. “Khí tự nhiên là nguồn năng lượng quan trọng, nhưng cũng là khí nhà kính góp phần gây ra 1/3 mức ấm lên toàn cầu do chứa hơn 90% methane. Điểm khác biệt so với CO2 là nó có tác động lớn hơn trong ngắn hạn. Vì vậy, chúng ta cần hành động ngay từ gốc và giảm phát thải”, họ kết luận.

Thu Thảo (Theo SciTechDaily)

Dự án đổ 273.000 lít hóa chất xuống biển chống biến đổi khí hậu

Các nhà môi trường học và ngư dân đang phản đối kế hoạch của một nhóm nhà khoa học muốn đổ gần 273.000 lít sodium hydroxide xuống vịnh Cape Cod để giảm biến đổi khí hậu.

Vùng biển Cape Cod được chọn cho thí nghiệm đổ hóa chất. Ảnh: National Geographic

Vùng biển Cape Cod được chọn cho thí nghiệm đổ hóa chất. Ảnh: National Geographic

Nhóm nhà khoa học đến từ Viện Hải dương học Woods Hole tại Falmouth đang xin giấy phép để tiến hành dự án đổ 30.000 lít hóa chất ở cách đảo Martha’s Vineyard khoảng 16 km về phía nam, dự kiến bắt đầu vào mùa hè năm nay, theo Phys.org. Dự án mang tên LOC-NESS của Viện Woods Hole tập trung vào hai mục đích chính.

Mục đích đầu tiên là tìm hiểu tác động tiềm ẩn tới môi trường khi tăng cường độ kiềm của nước biển để loại bỏ carbon dioxide (CO2) trong khí quyển. Mục đích còn lại là kiểm nghiệm và báo cáo lượng CO2 có thể bị loại bỏ theo phương pháp này nếu triển khai ở quy mô lớn.

“Dù cắt giảm khí thải đóng vai trò chủ chốt nhằm giảm thiểu tác động của con người tới khí hậu Trái Đất, trong những năm gần đây, rõ ràng việc cắt giảm khí thải cần được hỗ trợ bằng cách loại bỏ carbon dioxide trong không khí”, nhóm nhà khoa học ở Woods Hole cho biết.

Các nhà môi trường học và ngư dân không ủng hộ thí nghiệm dự kiến tiếp tục vào mùa hè năm sau ở quy mô lớn hơn nhiều với khoảng 272.765 lít hóa chất xuống vùng biển phía đông bắc Provincetown ở vịnh Maine.

Friends of the Earth là một trong hàng chục tổ chức viết thư cho Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ nhằm phản đối dự án. Họ nhấn mạnh tăng cường độ kiềm đại dương, quá trình thêm hợp chất kiềm vào nước biển nhằm thay đổi độ Ph và khả năng hấp thụ carbon tự nhiên của đại dương không phù hợp với Công ước về Đa dạng sinh học của Liên Hợp Quốc do rủi ro và tính không chắc chắn của công nghệ này đối với đa dạng sinh học và hệ sinh thái.

Theo nhà vận động Benjamin Day của tổ chức Friends of the Earth, sodium hydroxide là hợp chất cực kỳ nguy hiểm. Nó gây ra bỏng hóa chất nếu tiếp xúc với da người hoặc động vật biển. Hoạt động tăng độ kiềm thường sử dụng khoáng chất như đá vôi và tạo ra một loạt vấn đề khác. Tuy nhiên, sodium hydroxide đặt ra nhiều vấn đề tức thời hơn. Những ngư dân trong vùng cũng lo sợ thí nghiệm có thể ảnh hưởng tới sản lượng đánh bắt của họ.

Các nhà khoa học Woods Hole cho biết dự án sẽ hoạt động trong dải pH an toàn đối với sinh vật sống dưới nước và tuân thủ quy định nghiêm ngặt về theo dõi môi trường. Họ sẽ thường xuyên theo dõi độ kiềm, sử dụng bộ dụng cụ chuyên dụng, cảm biến và thiết bị lấy mẫu. Kết quả sẽ cung cấp dữ liệu đo đầu tiên trong nước về độ an toàn của phương pháp, bao gồm tác động tới thành phần hóa chất trong nước, mạng lưới thức ăn ở biển và sinh vật lớn. Theo Alison Brizius, giám đốc Cơ quan quản lý vùng ven biển Massachusetts, dự án này rất cần thiết nhằm hiểu rõ tác động của việc loại bỏ carbon dioxide bằng nước biển.

An Khang (Theo Phys.org)

Việt Nam có tiềm năng hợp tác lĩnh vực vi mạch

Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… có thể hợp tác với các viện trường, nhà khoa học Việt Nam trong nghiên cứu, đào tạo nhân lực, chuyển giao công nghệ vi mạch.

Thông tin được đại diện khoa học công nghệ các quốc gia chia sẻ tại hội nghị kết nối chuyển giao công nghệ với viện, trường khu vực phía Nam do Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp Đại học Quốc gia TP HCM tổ chức sáng 19/7.

Đại diện khoa học công nghệ Việt Nam tại New York (Mỹ), ông Lê Văn Chính cho biết, năm 2022 quốc gia này thông qua Đạo luật chip và khoa học với số tiền đầu tư lên đến 50 tỷ USD cho nghiên cứu, sản xuất và nguồn nhân lực bán dẫn. Khu vực tư nhân tại Mỹ đã đầu tư trên 250 tỷ USD vào ngành này, trong đó bang Arizona ở miền Tây nước Mỹ chiếm 25%.

Theo ông Chính, bán dẫn một trong những lĩnh vực tiềm năng trong hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ giữa Việt Nam và Mỹ. Quốc gia này hướng đến phát triển các công nghệ chip hiệu suất cao, chi phí thấp và giảm tác động của hoạt động sản xuất chất bán dẫn đến sức khỏe con người và môi trường.

Hồi tháng 6, đại diện phái đoàn Việt Nam trong đó có Đại học Quốc gia TP HCM, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội và một số doanh nghiệp tham quan phòng thí nghiệm bán dẫn phục vụ sản xuất của Đại học Arizona. Theo ông Chính, sắp tới Đại học Arizona sẽ đến Việt Nam làm việc tại Bộ Khoa học và Công nghệ. Dự kiến hai bên xúc tiến xây dựng phòng thí nghiệm bán dẫn dùng chung.

Đại diện khoa học công nghệ Việt Nam tại New York, Mỹ ông Lê Văn Chính chia sẻ tại hội nghị, sáng 19/7. Ảnh: Hà An

Đại diện khoa học công nghệ Việt Nam tại New York, Mỹ ông Lê Văn Chính chia sẻ tại hội nghị, sáng 19/7. Ảnh: Hà An

Ông Nguyễn Đức Minh, đại diện khoa học công nghệ tại Nhật Bản cho biết, giai đoạn 2021 – 2023 quốc gia này chi khoảng 27,5 tỷ USD tài trợ đầu tư xây nhà máy chip bán dẫn với tỷ lệ 40 – 50% chi phí xây dựng. Để đảm bảo chuỗi cung ứng, nhà máy sản xuất vật liệu, công nghiệp phụ trợ ngành bán dẫn, Nhật đã tài trợ 12 dự án xây dựng, mở rộng nhà máy.

Theo ông Minh, cùng với nhu cầu xây dựng nhà máy, Nhật Bản rất cần nguồn nhân lực bán dẫn. Theo dự báo của Bộ Kinh tế và Công thương Nhật Bản, trong 10 năm tới nước này thiếu khoảng 35.000 nhân lực chất lượng cao. “Đây là cơ hội hợp tác hai nước có thể khai thác ngay”, ông Minh nói. Các trường đại học có thể hợp tác bằng cách tham gia dự án nghiên cứu chung, trong đó có hỗ trợ thành lập các phòng thí nghiệm bán dẫn. Cùng với đó là chương trình hỗ trợ học bổng, trao đổi sinh viên nhằm nâng cao chất lượng nhân lực, kỹ năng thực hành tại doanh nghiệp bán dẫn.

Hiện Nhật Bản có nhiều giáo sư gốc Việt làm việc và sẵn sàng hợp tác trong tiếp nhận đào tạo, thành lập các viện nghiên cứu, xây dựng mạng lưới chuyên gia lĩnh vực vi mạch người Việt trên toàn thế giới. Ông mong muốn các hoạt động này được cụ thể hóa bằng các ký kết hợp tác với Nhật Bản trong tương lai.

Bà Đỗ Thị Bích Ngọc, đại diện khoa học công nghệ tại Hàn Quốc nói, với lĩnh vực bán dẫn trong 5 năm tới quốc gia này dự kiến đào tạo khoảng 10.000 nhân lực. Hàn Quốc dự kiến đặt hàng và đầu tư kinh phí cho 8 đại học trong nước để đạt được mục tiêu về nhân lực bán dẫn.

Theo bà Ngọc, chính sách về nhân lực của Hàn Quốc sẽ mang tới cơ hội cho các viện trường Việt Nam cùng tham gia. “Chúng tôi sẽ có các tiếp xúc ngoại giao với một trong 8 trường đại học Hàn Quốc để bàn mô hình hợp tác trong đào tạo nhận lực”, bà nói, gợi mở mô hình phối hợp đưa sinh viên ra nước ngoài nghiên cứu, tài trợ học bổng, hợp tác doanh nghiệp đào tạo theo nhu cầu thị trường.

PGS.TS Vũ Hải Quân, Giám đốc Đại học Quốc gia TP HCM, thông tin trong chiến lược phát triển phát triển ngành vi mạch bán dẫn Việt Nam, Đại học Quốc gia TP HCM là một trong những đơn vị được giao xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm trung tâm cho cả bốn khâu trong chuỗi giá trị ngành này. Đây được coi là trung tâm đầy đủ và có quy mô lớn nhất nước, bên cạnh hoạt động đào tạo, hợp tác quốc tế trong chiến lược. “Dự kiến trong tuần sau chúng tôi sẽ có bài trình bày với với Bộ Kế hoạch Đầu tư về nội dung này”, PGS Quân nói.

Ba lĩnh vực còn lại Đại học Quốc gia TP HCM ưu tiên là lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học và khoa học công nghệ liên ngành. Với AI, hiện Đại học Quốc gia TP HCM xây dựng tổ công tác, đặt mục tiêu trở thành trung tâm xuất sắc về trí tuệ nhân tạo.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy, phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Hà An

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy, phát biểu tại hội nghị. Ảnh: Hà An

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy cho biết, mạng lưới đại diện khoa học công nghệ ở nước ngoài được xây dựng 15 năm qua ở 15 quốc gia với 23 địa bàn trọng điểm, có hợp tác sâu rộng về khoa học công nghệ với Việt Nam.

Theo ông Duy, việc xây dựng mạng lưới nhằm tìm hiểu, chiến lược, pháp luật về khoa học công nghệ các nước làm cơ sở tư vấn cho chính quyền, viện trường, doanh nghiệp Việt Nam. Các đại diện khoa học công nghệ cũng có vai trò cập nhật chính sách khoa học công nghệ các nước, xu hướng công nghệ gần đây như vi mạch, trí tuệ nhân tạo, lượng tử, công nghệ xanh… Thông qua hoạt động kết nối với nhà khoa học người gốc Việt, trường đại học, doanh nghiệp ở các nước, đại diện khoa học công nghệ sẽ chia sẻ thông tin cho phía Việt Nam phục vụ hoạt động chuyển giao, hợp tác phát triển công nghệ với quốc tế.

Với mô hình này, Thứ trưởng Duy mong muốn có mô hình kết nối chuyển giao công nghệ, từ nước ngoài về Việt Nam thông qua chuyên gia viện nghiên cứu, trường đại học với vai trò tư vấn công nghệ phù hợp với doanh nghiệp trong nước.

Hà An

Tiến sĩ Việt chế tạo vật liệu tái tạo dây chằng chéo đầu gối

Từ kỹ sư hóa dầu, TS Nguyễn Ngọc Tuân chuyển hướng nghiên cứu vật liệu sinh học, cùng cộng sự phát triển thành công dây chằng nhân tạo phân hủy sinh học và thúc đẩy tái tạo mô dây chằng.

TS Nguyễn Ngọc Tuân (34 tuổi), trường Đại học Ecole Normale Superieur (ENS-PSL), Paris (Pháp), cùng các cộng sự đang theo đuổi các kỹ thuật mới trong lĩnh vực kỹ thuật mô. Nghiên cứu này được tiếp nối từ Dự án phát triển dây chằng nhân tạo phân hủy sinh học do anh thực hiện tại Đại học Sorbonne Paris Nord (Pháp) từ năm 2017.

“Có rất nhiều mô cơ quan trên cơ thể khi bị tổn thương hay mất đi sẽ rất khó hoặc không thể lành lại. Do đó tái tạo lại những mô tổn thương này trở thành vấn đề hấp dẫn đối với các nhà khoa học”, TS Tuân nói với VnExpress.

Dây chằng nhân tạo phân hủy sinh học được phát triển từ sợi polymer sinh học (polycaprolactone và trước đây là Polyethylene terephthalate) có thể thúc đẩy quá trình tái tạo của mô dây chằng đã đứt. Nó được dùng để ghép thay thế tạm thời dây chằng bị tổn thương nhằm giữ cố định khớp gối và trở thành khung vật liệu để thúc đẩy sự tái tạo tế bào mô thành dây chằng mới.

Bó sợi polymer sinh học của dây chằng nhân tạo được thử nghiệm hoạt tính sinh học trên tế bào mô sợi trong ống nghiệm sau 10 ngày, cho thấy có sự bám dính và phát triển của cụm tế bào rõ rệt. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Bó sợi polymer sinh học của dây chằng nhân tạo được thử nghiệm hoạt tính sinh học trên tế bào mô sợi trong ống nghiệm sau 10 ngày, cho thấy có sự bám dính và phát triển của cụm tế bào rõ rệt. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Điều thú vị là các sợi polymer sẽ phân hủy chậm trong cơ thể mà không gây độc tế bào trong quá trình dây chằng mới được tái tạo lại, do đó không cần phẫu thuật loại bỏ. Đây là giải pháp hữu ích cho bệnh nhân gặp chấn thương liên quan đầu gối, thường gặp ở người chơi thể thao, phổ biến trong các cầu thủ bóng đá, người lao động nặng hoặc vận động sai cách.

Các kết quả từ nghiên cứu cho thấy khả năng thúc đẩy hồi phục chấn thương nhanh hơn, ít rủi ro, hiệu quả và ít tốn kém hơn so với các phương pháp phẫu thuật nối ghép mô truyền thống. Nghiên cứu được đánh giá là “bước đột phá trong lĩnh vực kỹ thuật mô và y học tái tạo”, đăng trên tạp chí quốc tế Polymer Degradation and Stability (2020-2021,NXB Elsevier), Scientific Report (2021, NXB Springer-Nature), Biointerphases (2020, American Institute of Physics).

Quy trình cấy ghép dây chằng nhân tạo trên chuột thí nghiệm. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Quy trình cấy ghép dây chằng nhân tạo trên chuột thí nghiệm. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

TS Tuân cho biết, thách thức lớn nhất là cần “đáp ứng được các yêu cầu khắt khe trong cấy ghép vào cơ thể”, bởi vật liệu cần phải có tính tương thích sinh học với tế bào, không gây độc tế bào, tính chất cơ học phù hợp mô. Ví dụ, đối với sợi biopolymer cho dây chằng nhân tạo, chúng cần chịu được lực kéo, xoắn và trọng lượng từ cơ thể lên khớp đầu gối, để giữ cho các khớp được cố định. Bên cạnh đó còn có yêu cầu tăng cường bám dính cho tế bào và thúc đẩy tế bào phát triển thành các mô đích.

Để giải quyết vấn đề này, nhóm đã hoạt hóa bề mặt sợi bằng cách phủ với các phân tử polystyrene sulfonate có hoạt tính sinh học với tế bào thông qua liên kết hóa học vững chắc. Nhóm nghiên cứu sử dụng kỹ thuật ozone hóa nhằm kiểm soát khả năng phủ hoàn toàn bề mặt 3D của các bó sợi polymer. Toàn bộ quá trình trải qua sự kiểm soát nghiêm ngặt về điều kiện y tế trước khi sản phẩm được thử trong ống nghiệm và cấy ghép trên chuột, cừu và sau đó là con người.

“Khả năng tái sản xuất của các vật liệu này cũng là một thử thách cần vượt qua”, anh cho hay. Những vật liệu cần đáp ứng được yêu cầu về sự ổn định về chức năng, sản xuất và vượt qua các bài kiểm tra khắt khe của các tổ chức y tế như FDA (Mỹ) hay CE (châu Âu).

GS Veronique, Đại học Sorbonne Paris Nord, thành viên hội đồng Hiệp hội Kỹ thuật Y sinh Pháp, trưởng nhóm nghiên cứu cho hay, đứt dây chằng chéo trước (ACL) là một trong những chấn thương thể thao phổ biến nhất ảnh hưởng đến các vận động viên. Do khả năng chữa lành kém của ACL nên thường phải can thiệp bằng phẫu thuật. Theo giáo sư, ngày nay phương pháp phẫu thuật tạo hình dây chằng (utograft replacement) là “tiêu chuẩn vàng”. Tuy nhiên hơn 50% trường hợp cho thấy các rủi ro từ đau nhức, hoại tử xương tại điểm bám và thời gian hồi phục rất lâu (6 đến 12 tháng). “Do đó sự phát triển của dây chằng nhân tạo hoạt tính sinh học và phân hủy sinh học là một hướng đi cần thiết để giải quyết các vấn đề này”, ông nói.

Hiện công nghệ này được công ty Texinov và Movmedix sử dụng sản xuất và đưa vào thử nghiệm lâm sàng tại châu Âu và Mỹ. “Thị trường dây chằng nhân tạo mô phỏng dây chằng tự nhiên, được làm từ vật liệu tương thích sinh học, hoạt động in vivo mà không gây phản ứng hệ thống trong cơ thể. Cấy dây chằng nhân tạo là một kỹ thuật rất chuyên biệt, được khuyên dùng cho các vận động viên và bệnh nhân cần hiệu suất cao”, TS Julien Steinbrunn, Giám đốc nghiên cứu và phát triển, công ty Movmedix, đánh giá.

TS Nguyễn Ngọc Tuân. Ảnh: NVCC

TS Nguyễn Ngọc Tuân. Ảnh: NVCC

Nghiên cứu y học tái tạo song ít ai ngờ TS Tuân vốn xuất phát điểm từ kỹ sư ngành hóa dầu. Anh kể bắt đầu theo đuổi nghiên cứu về vật liệu cao phân tử khi là sinh viên Trường Đại học Bà Rịa (Vũng Tàu). Nhờ sự giúp đỡ từ thầy trưởng khoa lúc đó là PGS. TS Nguyễn Văn Thông, anh nhận được Quỹ nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên từ trường. “Đó là bước ngoặt lớn định hướng tôi theo đuổi con đường nghiên cứu sau này”, anh nói.

Năm 2017, anh Tuân nhận được học bổng tiến sĩ về vật liệu sinh học cho tái tạo dây chằng chéo trước của đầu gối, dưới sự hướng dẫn của GS Veronique Migonney thuộc Đại học Sorbonne Paris Nord. Nghiên cứu nằm trong khuôn khổ dự án LIGA2BIO từ chương trình đầu tư tương lai (PIA) từ BPIfrance, liên kết với các công ty về công nghệ sinh học. Tốt nghiệp, TS Tuân làm việc cho bộ phận nghiên cứu và phát triển của công ty công nghệ sinh học về cấy ghép CERAVER rồi làm nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Ecole Normale Superieur theo hướng nghiên cứu về vật liệu sinh học và tế bào.

Hiện anh phối hợp với nhóm nghiên cứu từ các trường Đại học Công nghệ Compiègne (Pháp) và Đại học Saarland (Đức) trong phát triển chuyển gene và gene hướng dẫn bằng giàn giáo cho tái tạo mô xương, sụn và dây chằng.

“Chúng tôi hướng đến giải quyết các hạn chế của vật liệu sinh học cho tái tạo các mô cơ quan khó hoặc không thể phục hồi và đào tạo nhân lực khoa học về lĩnh vực này”, anh nói.

TS Tuân cho biết thêm, hiện Việt Nam có nhiều các nhóm nghiên cứu lớn và công ty công nghệ vật liệu sinh học tham gia lĩnh vực này. Song anh nhìn nhận cần có nhóm nghiên cứu đa ngành, như hóa học, cơ lý, sinh học và Y, phối hợp chặt chẽ giữa nhóm nghiên cứu và công ty sản xuất. “Tôi luôn tìm kiếm cơ hội hợp tác và làm việc với nhóm nghiên cứu về lĩnh vực kỹ thuật mô tại Việt Nam”.

Như Quỳnh

Truy xuất nguồn gốc: Công cụ kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính

Biến đổi khí hậu (BĐKH) là một trong những thách thức lớn nhất mà toàn cầu phải đối mặt trong hiện tại và tương lai. Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (COP26), tất cả 197 quốc gia tham gia đã thông qua Hiệp ước khí hậu Glasgow với cam kết “tăng tốc các nỗ lực hướng tới giảm thiểu điện than và loại bỏ trợ cấp dành cho nhiên liệu hóa thạch có hiệu suất kém”. Mục tiêu này đòi hỏi phải cắt giảm lớn lượng khí thải CO2 một cách nhanh chóng và bền vững, bao gồm giảm 45% lượng phát thải CO2 vào năm 2030 so với mức năm 2010 và về 0 vào 2050. Tại Việt Nam, truy xuất nguồn gốc là một hoạt động còn khá mới, tuy nhiên, hoạt động này đã và đang được triển khai mạnh mẽ, nhận được sự quan tâm chung từ hệ thống các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Kiểm kê khí nhà kính

Sau cam kết của Việt Nam tại COP26, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP (Nghị định số 06) ngày 07/01/2022 quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) và bảo vệ tầng ô-dôn. Tiếp theo đó, ngày 18/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg (Quyết định số 01) ngày 18/01/2022 ban hành danh mục 1912 cơ sở phát thải KNK phải thực hiện kiểm kê. Hiện tại, các doanh nghiệp đang rất cần những hỗ trợ từ phía các chuyên gia, các công cụ tính toán, các giải pháp công nghệ để thực hiện được lộ trình kiểm kê và giảm nhẹ phát thải KNK.

Theo Quyết định số 01, các đơn vị phải thực hiện kiểm kê KNK có mức phát thải KNK từ 3.000 tấn CO2 tương đương trở lên hoặc thuộc một trong các trường hợp sau: Nhà máy nhiệt điện và cơ sở sản xuất công nghiệp có tổng phát thải KNK hằng năm từ 1.000 tấn dầu tương đương (1.000 TOE) trở lên; công ty kinh doanh vận tải hàng hóa có tổng lượng tiêu thụ nhiên liệu hàng năm từ 1.000 TOE trở lên; tòa nhà thương mại có tổng tiêu thụ năng lượng hằng năm từ 1.000 TOE trở lên; các cơ sở xử lý chất thải rắn có công suất hoạt động hằng năm từ 65.000 tấn trở lên.

Lộ trình thực hiện kiểm kê và giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của 1912 cơ sở theo Quyết định số 01.

Như vậy, hiện nay các cơ sở đang trong giai đoạn 2, kiểm kê và xây dựng báo cáo cấp cơ sở, giai đoạn rất cần nhận được những tư vấn từ các chuyên gia, các công cụ tính toán và biện pháp giảm nhẹ phát thải KNK. Mặt khác, các nước phát triển liên tục ra các luật định mới về xanh hóa, phát triển bền vững… Liên minh châu Âu (EU) siết chặt tiêu chuẩn bảo vệ môi trường, đưa ra cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM). Về bản chất, CBAM sẽ đánh thuế carbon đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào thị trường các nước thuộc EU, dựa trên cường độ phát thải KNK trong quy trình sản xuất tại nước sở tại. Lộ trình và các yêu cầu quan trọng của CBAM: 01/10/2023: bắt đầu báo cáo (theo dõi kỹ lưỡng hàng quý đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc diện CBAM, bao gồm chi tiết sản xuất và dữ liệu phát thải); 31/01/2024: nộp báo cáo đầu tiên (bao gồm hàng hóa nhập khẩu quý 4 năm 2023; rà soát và hoàn thiện báo cáo của đến hết ngày 31/07); giai đoạn chuyển tiếp 2023-2025: cho phép hình thức báo cáo đơn giản bằng cách sử dụng các giá trị mặc định nếu dữ liệu từ nhà cung cấp chính vẫn không có sẵn. Từ năm 2026 trở đi, bắt đầu giai đoạn tài chính. Việc mua chứng chỉ CBAM trở nên bắt buộc để bù đắp lượng khí thải của sản phẩm nhập khẩu. Đơn vị nào không tuân thủ sẽ bị phạt nghiêm khắc.

Phạm vi sản phẩm áp dụng chứng chỉ CBAM.

Việc EU đưa vào thực hiện cơ chế CBAM sẽ là một trong những hàng rào kỹ thuật cho các ngành công nghiệp của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU trong thời gian tới. Khi đó, sẽ có nhiều doanh nghiệp chưa sẵn sàng và không đáp ứng đủ điều kiện. Trong đó, các sản phẩm sắt, thép, nhôm sẽ bị tác động đến tỷ trọng và giá trị xuất khẩu. Thời gian còn lại cho các sản phẩm này chưa đến 2 năm trước khi CBAM chính thức áp dụng (01/01/2026) để thực hiện “chuyển đổi xanh” hoặc sẽ phải chịu một mức thuế carbon theo quy định của CBAM khi xuất khẩu vào EU.

Truy xuất nguồn gốc sản phẩm

TXNG là hoạt động giám sát, xác định được một đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ qua từng công đoạn theo thời gian, địa điểm của quá trình sản xuất, chế biến, lưu trữ, bảo quản, vận chuyển, phân phối và kinh doanh trên nguyên tắc:

Một bước trước – một bước sau: Bảo đảm khả năng giám sát, nhận diện được công đoạn sản xuất, kinh doanh trước và công đoạn sản xuất, kinh doanh tiếp theo trong quá trình sản xuất, kinh doanh đối với một sản phẩm, hàng hóa.

Sẵn có của phần tử dữ liệu chính: Các phần tử dữ liệu chính phải được thu thập, lưu trữ và cập nhật kịp thời trong các báo cáo chi tiết về các sự kiện quan trọng trong quá trình sản xuất và chuỗi cung ứng.

Minh bạch: Hệ thống TXNG phải đạt yêu cầu về tính minh bạch tối thiểu bằng cách sử dụng dữ liệu tĩnh về khách hàng, bên cung ứng, sản phẩm và các điều kiện sản xuất.

Sự tham gia đầy đủ các bên TXNG: Hệ thống TXNG phải có sự tham gia đầy đủ của các bên TXNG của tổ chức.

Tại Việt Nam, TXNG là một hoạt động khá mới, tuy nhiên, song đã và đang được triển khai mạnh mẽ, nhận được sự quan tâm chung từ các cơ quan quản lý, doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Để thống nhất, tiêu chuẩn hóa các hệ thống, nền tảng TXNG đang triển khai trên thị trường, ngày 28/03/2024, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Thông tư số 02/2024/TT-BKHCN về quy định quản lý TXNG sản phẩm hàng hóa. Trong đó quy định dữ liệu TXNG của từng sản phẩm, hàng hóa trong hệ thống TXNG sản phẩm, hàng hóa bao gồm tối thiểu các thông tin sau: tên sản phẩm, hàng hóa; hình ảnh sản phẩm, hàng hóa; tên đơn vị sản xuất, kinh doanh; địa chỉ đơn vị sản xuất, kinh doanh; các công đoạn trong sản xuất, kinh doanh (bao gồm tối thiểu thông tin mã truy vết sản phẩm, mã truy vết địa điểm và thời gian sự kiện TXNG của từng công đoạn); thời gian sản xuất, kinh doanh (thời gian các sự kiện TXNG diễn ra); mã TXNG sản phẩm, hàng hóa; thương hiệu, nhãn hiệu, mã ký hiệu, số sê-ri sản phẩm (nếu có); thời hạn sử dụng của sản phẩm, hàng hóa (nếu có); các tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn cơ sở được áp dụng.

Các bên tham gia trong chuỗi cung ứng sẽ sử dụng mã truy vết sản phẩm, mã truy vết địa điểm bảo đảm phù hợp với TCVN 13274:2020 TXNG (hướng dẫn định dạng các mã dùng trong truy vết) và phải sử dụng vật mang dữ liệu bảo đảm phù hợp theo TCVN 13275:2020 TXNG (định dạng vật mang dữ liệu).

Hệ thống TXNG sản phẩm.

Truy xuất nguồn gốc tích hợp kiểm kê khí nhà kính

Kiểm kê KNK là hoạt động thu thập thông tin, số liệu về các nguồn phát thải KNK, tính toán lượng phát thải và hấp thụ KNK trong một phạm vi xác định và trong một năm cụ thể theo phương pháp và quy trình do cơ quan có thẩm quyền ban hành.

Phạm vi kiểm kê khí nhà kính.

Kiểm kê KNK và quá trình TXNG đều phải thực hiện quá trình xem xét, đánh giá, thu thập dữ liệu tại từng công đoạn sản xuất trong suốt quá trình tạo ra sản phẩm. Các quá trình thực hiện kiểm kê và truy xuất phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế để đảm bảo tính đồng nhất, minh bạch. Do đó, hoàn toàn có thể kết hợp hai hệ thống bằng cách tích hợp hệ số phát thải và công thức tính toán phát thải trong kiểm kê KNK vào hệ thống TXNG. Điều này sẽ tạo thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp, nâng cao tính minh bạch, chính xác qua đó giúp nâng cao khả năng kiểm kê và thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK.

Một ví dụ điển hình mà Trung tâm Mã số, Mã vạch Quốc gia đã hỗ trợ việc kiểm kê KNK là Công ty TNHH Vĩnh Hiệp. Được thành lập năm 1991, sau hơn 30 năm hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, thu mua, chế biến và xuất khẩu cà phê, Vĩnh Hiệp đã trở thành một trong những doanh nghiệp dẫn đầu về xuất khẩu mặt hàng nông sản, thuộc Top 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam. Nguồn nguyên liệu cà phê được chọn lọc từ hơn 10.000 hộ nông dân, với phương thức canh tác trồng trọt đạt tiêu chuẩn 4C, Rainforest Alliance. Bên cạnh đó, Công ty TNHH Vĩnh Hiệp sở hữu nông trại cà phê hữu cơ đạt chứng nhận hữu cơ của Mỹ, châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản.  Trung tâm Mã số, Mã vạch Quốc gia đã hợp tác với Công ty TNHH Vĩnh Hiệp xây dựng và triển khai hệ thống TXNG điện tử sản phẩm cà phê tích hợp tính toán phát thải KNK cho doanh nghiệp. Hệ thống này giúp xác định: nguồn gốc nguyên liệu (xác định nguồn gốc của nguyên vật liệu và các nhà cung cấp phân bón, thuốc bảo vệ thực vật…); quá trình sản xuất (các khâu chăm sóc, chế biến tạo ra các sản phẩm hạt cà phê được hệ thống truy xuất lưu trữ như chế độ tưới, làm cành, thu hoạch, vận chuyển, sấy); kiểm soát chất lượng (các thông tin chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm như độ ẩm hạt…);  tính toán được lượng CO2 phát thải cho 1 kg sản phẩm và tổng lượng phát thải trong phạm vi sản xuất).

Kết quả cho thấy, giải pháp tích hợp kiểm kê KNK vào hệ thống TXNG giúp doanh nghiệp cùng lúc giải quyết hai vấn đề về minh bạch chuỗi cung ứng và kiểm soát lượng phát thải KNK vào khí quyển. Đặc biệt, kết quả này có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu khi mà các nước phát triển trên thế giới yêu cầu ngày càng cao về nguồn gốc sản phẩm và sản phẩm “xanh”.

Trong tương lai, doanh nghiệp có thể tích hợp kiểm kê KNK, TXNG cùng với các giải pháp chuyển đổi số để đưa ra được bộ số liệu, biểu đồ phân tích về phát thải KNK trong từng công đoạn, dự đoán được xu hướng và đưa ra các giải pháp giảm nhẹ phát thải KNK cho quá trình tạo ra sản phẩm của doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và hội nhập.

Nguyễn Ngọc Thụy, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Đắc Minh, Bùi Bá Chính

Trung tâm Mã số, Mã vạch Quốc gia

Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia

Bộ Khoa học và Công nghệ

Nâng cao chất lượng tạp chí khoa học trong nước theo chuẩn quốc tế

Ngày 15/07/2024, tại TP Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã tổ chức Tọa đàm “Xây dựng tạp chí khoa học đạt chuẩn Scopus/ACI”.

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc phát biểu tại Tọa đàm.

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc cho rằng, qua nghiên cứu kinh nghiệm ở các nước châu Á cho thấy, nhiều tạp chí của các nước ở khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore được đưa vào danh mục WoS (Web of Science)/Scopus. Đáng chú ý, Hàn Quốc có trên 300 tạp chí trong danh mục Scopus (cơ sở dữ liệu thư mục chứa bản tóm tắt và trích dẫn các bài báo khoa học).

Hiện nay, có 32 tạp chí khoa học trực thuộc các cơ sở giáo dục đại học do Bộ GD&ĐT quản lý (không tính các trường thành viên của đại học vùng). Thời gian qua, Bộ đã hỗ trợ 18 tạp chí để xây dựng kế hoạch đạt chuẩn trong Hệ thống trích dẫn Đông Nam Á (ACI – Asean Citation Index). Hiện có 2 tạp chí thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đạt chuẩn Scopus gồm: Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh châu Á (Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh) và Tạp chí Kinh tế và Phát triển (Trường Đại học Kinh tế quốc dân).

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT hy vọng, Tọa đàm là nơi trao đổi kinh nghiệm giữa các tạp chí khoa học đã đạt chuẩn Scopus, ACI, đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn để nâng cao chất lượng của các tạp chí khoa học đạt chuẩn Scopus/ACI.

Các tạp chí khoa học Việt Nam đang gặp phải nhiều khó khăn và thách thức

GS.TS Lê Quốc Hội – Tổng biên tập Tạp chí Kinh tế và Phát triển chia sẻ tại Tọa đàm.

Chia sẻ tại Tọa đàm, GS.TS Lê Quốc Hội – Tổng biên tập Tạp chí Kinh tế và Phát triển (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) cho biết, tính đến năm 2024 Việt Nam có khoảng 800 tạp chí khoa học. Trong đó chỉ 12 tạp chí được vào hệ thống WoS và Scopus. Tính đến thời điểm hiện tại, ở cấp độ khu vực, trong số 705 tạp chí khoa học được chỉ mục trong hệ thống ACI, Việt Nam mới chỉ có 37 tạp chí. Quá trình gia nhập quốc tế của các tạp chí khoa học Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn và thách thức.

Cùng quan điểm, PGS.TS Đinh Văn Thuật – Tổng biên tập Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng (Trường Đại học Xây dựng Hà Nội) cho rằng, Có thể nói giữa nhu cầu công bố và khả năng đáp ứng của tạp chí trong nước đang bị mất cân bằng nghiêm trọng. Số lượng tạp chí của Việt Nam thuộc Scopus ít hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực.

Tính đến tháng 06/2024, Việt Nam hiện mới chỉ có hơn 10 tạp chí thuộc WoS/Scopus, thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực Đông Nam Á (như Indonesia, Singapore, Malaysia…). Trong khi đó, tổng số các bài báo khoa học của Việt Nam đăng tải trên các tạp chí khoa học khoảng 40.000 bài/năm, nhưng có khoảng trên 19.000 bài của Việt Nam gửi đăng các tạp chí WoS /Scopus của nước khác. Số lượng bài đăng này của Việt Nam tương đương trên 71% số bài báo Scopus của Thái Lan, 42% của Malaysia và 33% của Indonesia… Nhưng ngược lại, có rất ít bài báo từ nước ngoài gửi đến các tạp chí khoa học của Việt Nam. Từ đó, PGS.TS Đinh Văn Thuật cho rằng có sự bất cập khi số lượng công bố quốc tế khá nhiều nhưng số lượng tạp chí khoa học đạt chuẩn quốc tế lại quá ít.

Kinh nghiệm từ các tạp chí Scopus

Tại Tọa đàm, GS.TS Nguyễn Trọng Hoài – Tổng biên tập Tạp chí Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh châu Á (Journal of Asian Business and Economic Studies – JABES) của Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh đã trình bày tham luận “Kinh nghiệm gia nhập WoS/Scopus: Tình huống Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh châu Á”.

GS.TS Nguyễn Trọng Hoài – Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế và Kinh doanh châu Á trình bày kinh nghiệm tại Tọa đàm.

Theo đó, JABES tiền thân là Tạp chí Phát triển Kinh tế, là tạp chí khoa học về lĩnh vực kinh tế và kinh doanh, bao gồm hai phiên bản đều tuân theo thông lệ chung các tạp chí quốc tế: Phiên bản tiếng Việt (JABES-V) và Phiên bản tiếng Anh (JABES-E). Ngày 06/03/2022, sau quá trình nỗ lực bền bỉ, lâu dài, cùng quy trình đăng ký, thẩm định, đánh giá và xét duyệt hồ sơ nghiêm ngặt, JABES chính thức ghi tên vào danh mục Scopus.

Năm 2023, SCImago và cơ sở dữ liệu Scopus đã thống kê xếp hạng các tạp chí khoa học uy tín thuộc danh mục Scopus và JABES được đánh giá thuộc nhóm Q1. Kết quả này một lần nữa khẳng định uy tín học thuật của JABES-E đối với cộng đồng khoa học trong nước và quốc tế.

Dựa vào tình huống cụ thể của JABES, GS.TS Nguyễn Trọng Hoài chia sẻ 6 bước quan trọng cần chuẩn bị để được chỉ mục chính thức vào WoS và Scopus.

Đầu tiên, ưu tiên đầu tư phiên bản tiếng Anh, tạp chí hoàn thiện theo thông lệ quốc tế và có bề dày lịch sử ít nhất 10 năm khi đã có uy tín học thuật trong nước. Tiếp đó, tên của tạp chí phải mang tính quốc tế chứ không mang tính tổ chức cụ thể hay quốc gia cụ thể và đảm bảo không trùng với bất kỳ tên tạp chí nào khác.

Tạp chí phải đạt các tiêu chuẩn cốt lõi của WoS và Scopus, đồng thời phải gắn với nền tảng trực tuyến của một nhà xuất bản quốc tế.

Ngoài ra, chất lượng bài viết và độ nhận diện từng bước được nâng lên để đáp ứng các tiêu chí về số lượng và chất lượng. Cuối cùng, cần phân tích hiện trạng tạp chí với các tiêu chí WoS và Scopus đảm bảo vượt ngưỡng yêu cầu và làm hồ sơ đề nghị xét duyệt.

Theo PGS.TS Đinh Văn Thuật, Việt Nam cần có nhiều tạp chí Scopus/WoS để đăng các bài báo trong nước và nước ngoài. Muốn vậy, cần có sự đầu tư mạnh ban đầu về con người chuyên trách, cơ sở vật chất. Đặc biệt là tài chính để duy trì các hoạt động bao gồm cả dịch vụ sử dụng hệ thống biên tập, xuất bản quốc tế mà một số tổ chức quốc tế đang độc quyền trong nhiều năm nay. Hoạt động của tạp chí khoa học trong nước hiện nay không thể có đủ nguồn thu cho các chi phí cần thiết.

GS.TS Lê Quốc Hội cho rằng, việc nâng cao chất lượng tạp chí khoa học để gia nhập các cơ sở dữ liệu quốc tế đã trở thành yêu cầu bức thiết hiện nay. Để nâng cao chất lượng các tạp chí khoa học của Việt Nam, cũng như ngày càng có nhiều tạp chí vào danh mục WoS, Scopus và ACI, đã đến lúc các nhà quản lý các tạp chí khoa học của Việt Nam cần làm việc nghiêm túc và xác định đúng lộ trình, bước đi và giải pháp cụ thể theo các tiêu chí hệ thống bình duyệt quốc tế. Đây là việc làm cần nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước, cộng đồng khoa học để Việt Nam sớm có nhiều tạp chí đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc cũng cho rằng, việc phát triển các tạp chí khoa học trong nước hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới là nhiệm vụ quan trọng. Để sau này, các nhà khoa học có thể đăng bài trên các tạp chí khoa học trong nước nhưng mang chất lượng và chuẩn mực của quốc tế. Theo Thứ trưởng, những công việc trên không thể chậm trễ bởi các tạp chí trong nước hoàn toàn có tiềm năng và khả năng thực hiện. Cách đây hơn 10 năm chúng ta chưa tự tin trong việc công bố bài báo quốc tế nhưng bây giờ chúng ta đã tự tin. Tương tự, các tạp chí khoa học bây giờ có thể tự tin vào các danh mục tạp chí quốc tế uy tín.

PT

Những thách thức trong phát triển Trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam

Việt Nam hy vọng sẽ xây dựng được 10 thương hiệu trí tuệ nhân tạo uy tín trong khu vực và trở thành một điểm sáng về trí tuệ nhân tạo trên thế giới.
Trí tuệ nhân tạo (AI) là công nghệ chủ chốt trong thúc đẩy Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số Việt Nam trong năm 2024.
Cùng với đó là blockchain (chuỗi khối), bigdata (dữ liệu lớn) và IoT (Internet vạn vật).Việt Nam đã sớm nhận thức tầm quan trọng của việc tìm kiếm và đẩy mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các ngành, lĩnh vực.
Ngày 26/1/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 127/QĐ-TTg ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030.
Chiến lược này kết hợp cùng Luật Công nghệ cao 2008 đã trở thành khung pháp lý giúp Việt Nam thúc đẩy phát triển trí tuệ nhân tạo.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo cần được nghiên cứu và triển khai trên cơ sở có đầy đủ các quy định và chính sách cụ thể liên quan đến phát triển nguồn nhân lực cũng như sử dụng trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm trong các hoạt động phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.
Từ nguồn nhân lực thiếu…
Trong những năm gần đây, nhiều mô hình về trí tuệ nhân tạo do Việt Nam phát triển như PhoGPT, VinBrain, LovinBot hay FPT AIMentor…
Ông Đặng Hữu Sơn, đồng sáng lập LovinBot trí tuệ nhân tạo, Phó Chủ tịch Liên minh phát triển nguồn nhân lực số Việt Nam (AIID) cho biết: “Riêng tại Việt Nam, lĩnh vực trí tuệ nhân tạo tạo sinh dự kiến sẽ đóng góp cho nền kinh tế số tới 14.000 tỉ đồng vào năm 2030.”
Ông Trần Anh Tú, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, trí tuệ nhân tạo không chỉ là công cụ hữu ích mà còn là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh và tồn tại của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để khai thác tiềm năng của trí tuệ nhân tạo, cần đối mặt với nhiều thách thức, nhất là vấn đề nguồn nhân lực và việc phát triển trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Hoài, Viện trưởng Viện Trí tuệ nhân tạo (Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội), hiện nay, nhân lực làm việc được trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo còn rất thiếu.
Mỗi năm, nguồn nhân lực này chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu tuyển dụng, trong khi chỉ có khoảng 30% trong số 55.000 sinh viên công nghệ thông tin ra trường hàng năm có thể làm việc liên quan tới trí tuệ nhân tạo.
Bên cạnh việc thiếu hụt nhân lực ngành trí tuệ nhân tạo, Việt Nam còn phải đối mặt với những thách thức khác như thiếu cơ hội tiếp cận với các chuyên gia và cố vấn hàng đầu về trí tuệ nhân tạo để đánh giá và thẩm định sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường; thiếu cơ hội tiếp cận các cơ sở hạ tầng, nền tảng và công cụ sẵn sàng cho doanh nghiệp…
Trong bối cảnh đó, nhiều cơ sở giáo dục, trường đại học đã có những bước đi tiên phong nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực trong tương lai trí tuệ nhân tạo.
Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh Vũ Hải Quân chia sẻ, Đại học Quốc gia Thành phố được định hướng để phát triển thành một đại học hàng đầu khu vực, trong đó công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học, trí tuệ nhân tạo là ba mũi nhọn.
Tính riêng tổng quy mô các khối ngành đào tạo liên quan đến trí tuệ nhân tạo, Đại học Quốc gia có khoảng 6.000 sinh viên đại học, 1.000 học viên cao học, 300 thầy, cô giáo. Đại học Quốc gia Thành phố mong muốn được đóng góp nguồn nhân lực cao cấp lĩnh vực trí tuệ nhân tạo cho đất nước.
… đến hoàn thiện chính sách AI có trách nhiệm
Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chiến lược quốc gia về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo đến năm 2030. Mục tiêu của Chiến lược này là đưa Việt Nam trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo và phát triển các giải pháp, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong khu vực ASEAN và trên thế giới.
Giáo viên tại Ninh Thuận sử dụng phần mềm ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI). (Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN)
Để đạt được mục tiêu này, Chính phủ đã đề ra 5 nhóm định hướng chiến lược gồm: Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến trí tuệ nhân tạo; xây dựng hạ tầng dữ liệu, tính toán để hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo; phát triển môi trường hỗ trợ cho trí tuệ nhân tạo; thúc đẩy ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các lĩnh vực khác nhau; tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.
Với những nỗ lực này, Việt Nam hy vọng sẽ xây dựng được 10 thương hiệu trí tuệ nhân tạo uy tín trong khu vực và trở thành một điểm sáng về trí tuệ nhân tạo trên thế giới.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho biết, sau hơn 2 năm triển khai Chiến lược, Việt Nam đã đạt một số kết quả bước đầu đáng khích lệ. Đóng góp của nhà khoa học, nghiên cứu trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo được xã hội và thế giới ghi nhận.
Nhiều sản phẩm dựa trên trí tuệ nhân tạo được ứng dụng trong cuộc sống. Một số tập đoàn, doanh nghiệp Việt Nam quan tâm, đầu tư mạnh mẽ cho trí tuệ nhân tạo và từng bước cải thiện, nâng cao khả năng tiếp cận, hấp thụ, làm chủ công nghệ trí tuệ nhân tạo.
Mới đây, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành Quyết định số 1290/QĐ-BKHCN hướng dẫn một số nguyên tắc về nghiên cứu, phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm.
Ngoài ra, cơ quan, tổ chức khoa học và công nghệ, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân có hoạt động nghiên cứu, thiết kế, phát triển, cung cấp các hệ thống trí tuệ nhân tạo được khuyến khích áp dụng các nội dung trong tài liệu hướng dẫn.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, cùng với xu thế chung trên thế giới, các hệ thống trí tuệ nhân tạo được đánh giá sẽ mang lại các lợi ích to lớn cho con người, xã hội và nền kinh tế Việt Nam thông qua việc hỗ trợ, giải quyết các vấn đề khó khăn mà con người, cộng đồng đang phải đối mặt.
Song song với quá trình đó, cần nghiên cứu, có biện pháp giảm thiểu các rủi ro trong quá trình phát triển, sử dụng trí tuệ nhân tạo và cân đối các yếu tố kinh tế, đạo đức và pháp lý liên quan.
Vì vậy, các cơ quan chuyên môn cần nghiên cứu, xây dựng các tiêu chuẩn, hướng dẫn để định hướng kể cả đó là các quy định mềm và không có tính ràng buộc.
Hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ nêu rõ 9 nguyên tắc trong nghiên cứu, phát triển các hệ thống trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm. Đó là tinh thần hợp tác, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; tính minh bạch; khả năng kiểm soát; nguyên tắc an toàn; nguyên tắc bảo mật; quyền riêng tư; tôn trọng quyền và phẩm giá con người; hỗ trợ người dùng; trách nhiệm giải trình.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy cho rằng, trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm, đạo đức trong trí tuệ nhân tạo đang là vấn đề nghị sự toàn cầu, thu hút sự quan tâm của các quốc gia trên toàn thế giới.
Đây không đơn thuần là vấn đề học thuật, cũng không đơn thuần là vấn đề pháp lý, mà liên quan đến sự phát triển của con người, của quốc gia và nhân loại. Đạo đức và trách nhiệm trong trí tuệ nhân tạo nằm ở tất cả các khâu, từ xây dựng thuật toán, thu thập dữ liệu, đến công cụ huấn luyện, và ứng dụng. Vì vậy, vấn đề này phải được quan tâm ngay từ khâu xây dựng hệ thống, liên quan đến nhiều bộ, ngành.
Nêu quan điểm về trí tuệ nhân tạo có trách nhiệm, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Thị Quế Anh, Hiệu trưởng Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, trí tuệ nhân tạo hoàn toàn khác so với những công nghệ trước đó. Khả năng thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của người máy cũng là thách thức đối với các nhà lập pháp trong bối cảnh mới.
Cũng theo Tiến sỹ Đỗ Giang Nam, Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, việc xây dựng trí tuệ nhân tạo cần tuân thủ nguyên tắc chung và nguyên tắc điều chỉnh cho từng lĩnh vực cụ thể.
Bên cạnh đó, cách tiếp cận “mềm hóa” đề cao các giá trị đạo đức, độ tin cậy và trách nhiệm là chìa khóa để phát triển trí tuệ nhân tạo một cách bền vững.
“Niềm tin là nền tảng cho sự phát triển của trí tuệ nhân tạo. Để đạt được điều này, cần có những công cụ đủ mạnh để đảm bảo trí tuệ nhân tạo được sử dụng một cách có trách nhiệm.
Bên cạnh đó, cần tập trung vào các trụ cột lõi bao gồm tính hợp pháp, đạo đức và bền vững công nghệ, cách tiếp cận “vị nhân sinh” lấy con người làm trung tâm, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động phát triển trí tuệ nhân tạo,” Tiến sỹ Đỗ Giang Nam cho biết thêm.
Trong bối cảnh hiện nay, trí tuệ nhân tạo không chỉ giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất và dự đoán xu hướng mà còn tạo ra những ứng dụng hữu ích trong tương lai ở các lĩnh vực tự động hóa quá trình sản xuất đến hỗ trợ y tế, giao thông thông minh và nhiều lĩnh vực khác.
Trong triển khai Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, trí tuệ nhân tạo đã và đang được Chính phủ coi là một trong những công cụ hữu hiệu tạo ra những đột phá quan trọng trong tương lai./.
Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

Pin dẻo có thể kéo giãn 5.000%

Các nhà khoa học Trung Quốc chế tạo pin dẻo với dung lượng ổn định, có tiềm năng sử dụng cho những thiết bị điện tử linh hoạt.

Pin lithium-ion mới chứa các thành phần co giãn được. Ảnh: ACS Energy Letters

Pin lithium-ion mới chứa các thành phần co giãn được. Ảnh: ACS Energy Letters

Nhóm nghiên cứu do giáo sư Wen-Yong Lai tại Đại học Bưu chính Viễn thông Nam Kinh dẫn dắt phát triển pin lithium-ion với khả năng kéo giãn tới 5.000%, Interesting Engineering hôm 17/7 đưa tin. Nghiên cứu mới xuất bản trên tạp chí ACS.

Pin thường là những khối cứng khó đâm thủng và uốn cong. Tuy nhiên, khi thế giới xuất hiện nhiều thiết bị linh hoạt hơn như điện thoại cuộn, màn hình cuộn và máy theo dõi sức khỏe đeo trên người, loại pin cung cấp năng lượng cho chúng cũng cần cải tiến.

Một số nỗ lực chế tạo pin dẻo trước đây đã ứng dụng vải dẫn điện và nghệ thuật gấp giấy origami, trong đó các thành phần cứng được gấp thành những hình dạng khác nhau và có thể kéo giãn trong giới hạn nhất định. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Wen-Yong Lai muốn chế tạo một loại pin mềm dẻo mà mọi thành phần đều đàn hồi, khiến pin trở nên thực sự dễ uốn, có thể ép thành bất cứ hình dạng nào mà không vỡ.

Đầu tiên, họ rải một lớp màng mỏng keo dẫn điện chứa dây nano bạc, muội than, các vật liệu cực anode và cathode gốc lithium lên một tấm phẳng. Sau đó, họ phủ một lớp polydimethylsiloxane, vật liệu có độ dẻo cao dùng làm kính áp tròng, lên lớp keo dẫn điện.

Nhóm nghiên cứu tiếp tục thêm một chất lỏng dẫn điện tốt, muối lithium và mọi nguyên vật liệu cần thiết để tạo ra một loại polymer với khả năng kéo giãn đáng kể. Sau đó, lớp này được kích hoạt bằng ánh sáng, trở thành chất rắn không chỉ vận chuyển được các ion lithium mà còn có thể kéo giãn. Trên cùng, nhóm chuyên gia đặt thêm một lớp màng điện cực nữa rồi bọc toàn bộ thiết bị trong vỏ bảo vệ.

Kết quả, loại pin dẻo mới có khả năng kéo giãn tới 5.000% chiều dài ban đầu. Các nhà khoa học cũng tăng dung lượng sạc trung bình của pin lên gấp 6 lần so với mức trung bình khi sử dụng chất điện phân dạng lỏng. Pin vẫn giữ được dung lượng tốt sau 70 chu kỳ sạc – xả.

Nhóm nghiên cứu thừa nhận loại pin mới vẫn chưa hoàn hảo và cần thêm nhiều cải tiến. Tuy nhiên, thành công của nguyên mẫu pin giúp mở đường cho việc ứng dụng pin dẻo cho các thiết bị điện tử.

Thu Thảo (Theo Interesting Engineering)

Chương trình nghiên cứu cấp quốc gia hướng mục tiêu Net Zero

Các nghiên cứu cấp quốc gia phục vụ mục tiêu Net Zero sẽ khuyến khích công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn nhằm tối ưu quy trình sản xuất hướng tăng trưởng xanh, chuyển dịch năng lượng sạch hay ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thông tin được nêu tại hội thảo xin ý kiến về khung Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2030 “Nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 tại Việt Nam vào năm 2050”, do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức chiều 18/7.

PGS.TS Đỗ Văn Mạnh, Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ Năng lượng và Môi trường, chủ nhiệm chương trình, cho biết các nghiên cứu hướng mục tiêu cung cấp luận cứ khoa học, giải pháp kỹ thuật, mô hình công nghệ nhằm giảm phát thải khí nhà kính, thu hồi carbon, chuyển đổi, cải thiện công nghệ. Việc tuyển chọn công trình khoa học cũng hướng ứng dụng và phát triển giải pháp công nghệ tiên tiến giảm thiểu phát thải khí nhà kính trong ngành, lĩnh vực như giao thông bền vững, nông lâm nghiệp thông minh hay quản lý, tái chế chất thải, các công nghệ lưu giữ, sử dụng và thu hồi carbon từ khí thải công nghiệp, qua đó tính toán phát thải, dự báo biến đổi khí hậu.

Theo PGS Mạnh, sản phẩm nghiên cứu là công nghệ thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, công nghệ phát thải carbon thấp và xu hướng thân thiện môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu. Trong đó 80% công nghệ, giải pháp quản lý cần đóng góp giảm thiểu ít nhất 30% lượng khí nhà kính so với mức phát thải cơ sở trong lĩnh vực, hoặc đạt chất lượng tương đương các nước khu vực, thế giới.

Theo Ban chủ nhiệm, 6 nội dung được xây dựng khung chương trình, trong đó hướng nghiên cứu nâng cao hiệu quả cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển bền vững, hướng mục tiêu phát thải ròng bằng 0. Định hướng nghiên cứu tập trung trong giải mã, triển khai ứng dụng phát triển công nghệ lưu trữ và quản lý năng lượng mới, giải pháp công nghệ thông minh trong ngành kỹ thuật, giao thông vận tải, hay chuyển giao mô hình công nghệ phục vụ phát triển nông, lâm nghiệp bền vững. Việc ứng dụng các công nghệ cao trong sản xuất, sử dụng công nghệ IoT, trí tuệ nhân tạo (AI) dữ liệu lớn nhằm tối ưu hóa quy trình cũng như công nghệ môi trường, xử lý khí thải ngành công nghiệp… cũng là nhóm nội dung chú trọng phục vụ hạn chế phát thải, dự báo, kiểm kê khí nhà kính.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái điều hành hội thảo. Ảnh: TTTT

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái điều hành hội thảo. Ảnh: TTTT

PGS.TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng cần cơ chế cụ thể trong cách tính tín chỉ carbon, như phương pháp tính với thị trường carbon trong nước và quốc tế. Hay như lĩnh vực thủy sản hiện nay kết quả phát thải chưa được tính trong kiểm kê khí nhà kính, cần lưu tâm đến lĩnh vực này thế nào. Cần có phương pháp đánh giá tiêu chí và phương pháp để lựa chọn ra mô hình công nghệ ưu tiên hay nghiên cứu đánh giá về giá thành phát thải.

Ông Trịnh đề xuất với cứu ứng dụng kỹ thuật hướng canh tác nông nghiệp bền vững, tuần hoàn cần bổ sung nghiên cứu giống phát thải thấp như giống lúa phát thải thấp, hay tìm loại vi sinh vật có lợi cải thiện chất lượng đất, giảm sử dụng phân bón.

Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển giao thông vận tải Khuất Việt Hùng góp ý cần nghiên cứu giải pháp công nghệ quản lý nhằm giảm thiểu carbon trong quá trình sản xuất, bảo trì, sửa chữa tái chế phương tiện và nguồn năng lượng giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, thủy nội địa. Bên cạnh đó xây dựng giải pháp giảm thiểu carbon trong xây dựng, bảo trì sửa chữa trong công trình hạ tầng xây dựng, giao thông.

Về triển khai ứng dụng công nghệ thu hồi sử dụng và lưu trữ carbon, bên cạnh xử lý khí thải công nghiệp, ông Hùng kiến nghị thêm với ngành vận tải biển. Theo ông phát triển sản phẩm từ nguồn nhiên liệu mới, tái chế pin, công nghệ nhiên liệu xanh phù hợp trung hòa carbon là “rất phù hợp”. Nên có thiết kế thi công vật liệu mới giảm carbon so với vật liệu cũ, tái chế sử dụng vật liệu sau khi phá dỡ, bảo trì công trình xây dựng, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo trong quá trình sửa chữa, bảo trì với công trình giao thông.

Để đạt phát thải ròng bằng 0, GS.TS Mai Trọng Nhuận, Chủ tịch Hội đồng Đảm bảo chất lượng Đại học Quốc gia Hà Nội, đề xuất 3 nhóm giải pháp: thể chế cơ chế chính sách phải rạch ròi, thường xuyên cập nhật bổ sung điều chỉnh; giải pháp khoa học công nghệ và đề xuất nội dung về nguồn nhân lực netzero.

Theo ông, cả ba nhóm giải pháp đều dựa cơ sở lý luận thực tiễn, dựa vào đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cách mạng 4.0 với công nghệ như AI, dữ liệu lớn và cần dự án thử nghiệm. “Nghiên cứu phát triển nguồn nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát thải ròng bằng 0, hay gọi là nguồn nhân lực netzero, sẽ là bà đỡ cho toàn bộ các giải pháp và nội dung chương trình”, GS Nhuận nói.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái phát biểu tại hội thảo. Ảnh: TTTT

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái phát biểu tại hội thảo. Ảnh: TTTT

Ghi nhận các góp ý, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái đề nghị Ban chủ nhiệm thực hiện rà soát trùng lặp, làm rõ mục tiêu khi thực hiện nội dung chương trình, đồng thời kế thừa sản phẩm từ chương trình khác thành đầu vào.

Ông gợi ý cải thiện cơ chế, kết nối nhanh giữa ban chủ nhiệm với ý kiến từ chuyên gia, lập tổ chuyên gia tư vấn ở từng lĩnh vực, cơ quan quản lý nhằm lựa chọn khung chương trình có tính định hướng, toàn diện.

Như Quỳnh

TP HCM quy định mức trần mua sắm tài sản trong nghiên cứu

Chính quyền TP HCM quy định tối đa 1 tỷ đồng cho mua sắm tài sản khi thực hiện nhiệm vụ khoa học công nghệ, nhằm tập trung nguồn lực cho hoạt động nghiên cứu.

Nội dung được HĐND TP HCM thông qua tại kỳ họp 17, ngày 17/7 quy định về thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản của nhiệm vụ khoa học công nghệ sử dụng ngân sách thuộc phạm vi quản lý của thành phố.

Theo tờ trình của UBND TP HCM, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ quyết định mua sắm tài sản có giá trị đến 1 tỷ đồng một nhiệm vụ do mình phê duyệt. Trường hợp nhiệm vụ có giá trị tài sản trên 1 tỷ đồng phải có ý kiến của UBND TP HCM trước khi quyết định.

Với nhiệm vụ từ kinh phí của Trung ương giao thành phố quản lý, thủ trưởng đơn vị dự toán ngân sách được UBND TP HCM giao quản lý, sử dụng kinh phí nhiệm vụ quyết định mua sắm tài sản của nhiệm vụ.

Với các nhiệm vụ khoa học công nghệ khác, thủ trưởng các đơn vị dự toán ngân sách các cấp quyết định mua sắm tài sản có giá trị đến 1 tỷ đồng một nhiệm vụ do mình phê duyệt, trong phạm vi dự toán được giao. Trường hợp mua sắm tài sản trên 1 tỷ đồng, sẽ thực hiện lập dự án mua sắm tài sản theo quy định về thực hiện các chương trình, dự án đầu tư công với dự án không có cấu phần xây dựng.

Nghiên cứu khoa học tại Viện tế bào gốc, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP HCM, năm 2023. Ảnh: Hà An

Nghiên cứu khoa học tại Viện tế bào gốc, trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia TP HCM, năm 2023. Ảnh: Hà An

Theo UBND TP HCM việc đưa ra hạn mức mua sắm tài sản của nhiệm vụ khoa học công nghệ do hiện nay ngân sách nhà nước nói chung và chi tiêu cho khoa học công nghệ ngày càng hạn hẹp. Chính quyền thành phố cho rằng, ngân sách chi cho sự nghiệp khoa học công nghệ hàng năm nên tập trung chủ yếu cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Việc quy định mức trần mua sắm tài sản của các nhiệm vụ khoa học công nghệ nhằm hạn chế các đề xuất nhiệm vụ nhưng bản chất chủ yếu để đầu tư trang thiết bị. Mua sắm trong nhiệm vụ theo chính quyền TP HCM nếu có phát sinh cũng chỉ trang bị thêm một số tài sản giá trị nhỏ, cần thiết phục vụ nghiên cứu.

Thực tế thời gian qua, các nhiệm vụ khoa học công nghệ của TP HCM không bố trí kinh phí mua sắm tài sản thực hiện nghiên cứu. Cơ quan chủ trì yêu cầu các đơn vị nghiên cứu phải có tài sản cơ bản phục vụ cho hoạt động đơn vị.

Thống kê từ 2018 đến nay, trung bình mỗi năm Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM phê duyệt 65 nhiệm vụ, trong đó có 70% nhiệm vụ khoa học công nghệ, còn lại thuộc lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn. Các nhiệm vụ khoa học công nghệ có hơn 70% là mua sắm hàng hóa, dịch vụ, chưa phát sinh mua sắm tài sản. TP HCM đang triển khai đề án xây dựng cơ chế thúc đẩy hình thành và phát triển trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế. Hiện có 9 trong số 10 hồ sơ đề án có nội dung mua sắm phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ. Song, trong đề án này, chính quyền thành phố chủ trương đầu tư trang thiết bị, phòng thí nghiệm hiện đại cho trung tâm nghiên cứu chuẩn quốc tế, phục vụ nghiên cứu khoa học.

Hà An