Thiết kế, chế tạo và tích hợp máy chuẩn đầu mô men lực độ chính xác cao phục vụ lĩnh vực đo lường

Vào ngày 19/4/2024, Tuyên bố New York về Ý thức của động vật đã được công bố tại hội nghị “Khoa học mới nổi về ý thức của động vật” tổ chức tại Đại học New York, Hoa Kỳ. Tuyên bố New York là một nỗ lực để thể hiện sự đồng thuận của giới khoa học về sự tồn tại trải nghiệm ý thức ở tất cả các loài có xương sống và nhiều loài không xương sống. Về mặt khoa học, Tuyên bố New York là một bước tiến bộ lớn cho nhân loại, nhưng nó cũng sẽ khiến cho nhiều người có ý thức hơn về các thách thức đạo đức liên quan đến động vật có trải nghiệm ý thức. Bài viết bàn về các cách tiếp cận triết học đối với vấn đề đạo đức của việc giết các sinh vật có tri giác để từ đó chỉ ra nan đề đạo đức đang hiện hữu trong xã hội loài người: Để duy trì sự tồn tại của con người, loài được xem là có đạo đức, thì chúng ta lại vi phạm đạo đức của chính chúng ta, là sát sinh các loài có giá trị nội tại, ý thức, hay tri giác khác. Nan đề đạo đức này đã tồn tại trong xã hội loài người từ rất lâu trước đây. Nhiều giải pháp đã được đề xuất và ứng dụng vào thực tế nhằm giải quyết nan đề này, tuy nhiên chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn giải quyết được nan đề đạo đức, đó là các sinh vật có tri giác vẫn tiếp tục bị giết vì sự sinh tồn của con người.

Tuyên bố New York: Một bước tiến lớn về ý thức ở động vật

Ngày 19/4/2024, Tuyên bố New York về Ý thức của động vật đã nhận được sự đồng thuận của 39 chuyên gia trong các lĩnh vực tâm lý học, thần kinh học, động vật học và triết học. Tuyên bố New York có mục tiêu cập nhật Tuyên bố Cambridge về Ý thức trước đó, được đưa ra vào năm 2012 như một nỗ lực để thể hiện sự đồng thuận của giới khoa học về sự tồn tại ý thức ở các loài động vật không phải con người, bao gồm nhưng không giới hạn ở động vật có vú và chim. Tuyên bố New York viết rằng [1]: Bằng chứng thực nghiệm cho thấy, trải nghiệm ý thức có khả năng tồn tại ở tất cả các loài có xương sống (bao gồm các loài bò sát, lưỡng cư, cá) và nhiều loài không xương sống (các loài mực ống, giáp xác mười chân và côn trùng). Tuyên bố tập trung vào loại ý thức cơ bản nhất, được biết đến là ý thức hiện tượng. Nói một cách đơn giản, nếu một sinh vật có ý thức hiện tượng, thì nó sẽ có khả năng trải nghiệm các cảm giác đau đớn, thích thú hoặc đói, nhưng không nhất thiết phải có các trạng thái tâm thức phức tạp hơn như tự nhận thức.

Ví dụ, các bằng chứng gần đây cho các nhà khoa học biết được rằng bạch tuộc (Octopoda) cảm nhận được đau đớn và có thể thực hiện các hành vi phức tạp như giải quyết vấn đề, sử dụng công cụ và chơi đùa. Trong khi đó, mực nang (Sepia officinalis) có thể nhớ được chi tiết của các sự kiện trong quá khứ cụ thể… Trong thế giới côn trùng, ong nghệ (Bombus terrestris) cũng có các hành vi chơi đùa, còn ruồi giấm (Drosophilidae) có những cách ngủ khác nhau bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội của chúng…

Ong nghệ (Bombus terrestris). Nguồn: Ivar Leidus (CC-BY-SA-4.0).

Mặc dù nhiều loài động vật được đề cập trong Tuyên bố có bộ não và hệ thần kinh rất khác so với con người, các nhà nghiên cứu cho rằng điều này không nhất thiết là rào cản đối với ý thức. Chẳng hạn, não ong chỉ chứa khoảng 1 triệu tế bào thần kinh, so với khoảng 86 tỷ tế bào thần kinh của con người. Nhưng mỗi tế bào thần kinh của ong lại có thể phức tạp hơn về cấu trúc. Mạng lưới kết nối mà chúng tạo thành cũng vô cùng dày đặc, với mỗi tế bào thần kinh có thể tiếp xúc với khoảng 10.000 hoặc 100.000 tế bào khác. Hệ thần kinh của bạch tuộc lại phức tạp theo cách khác. Cấu trúc của nó phân bố rộng rãi hơn là tập trung; một cánh tay bị cắt có thể thể hiện nhiều hành vi của con vật nguyên vẹn.

Nan đề đạo đức giữa sinh vật có tri giác và sự sinh tồn của con người

Về mặt khoa học, Tuyên bố New York là một bước tiến bộ lớn cho nhân loại, vì nó giúp mở ra giới hạn mới về mặt nhận thức của con người đối với thế giới xung quanh, đặc biệt là đối với các sinh vật có tri giác. Đây không chỉ là nền tảng cho các phát kiến khoa học về nhận thức và các kỹ thuật dựa trên mô phỏng sinh học mà còn giúp định hướng sự chuyển dịch của xã hội theo hướng văn minh và hài hòa với môi trường hơn [2]. Tuy nhiên, Tuyên bố cũng sẽ khiến cho nhiều người có ý thức hơn về các thách thức đạo đức liên quan đến động vật có trải nghiệm ý thức. Nói cách khác, Tuyên bố này sẽ khiến nhiều người trong chúng ta phải xem lại giá trị quan, hành vi và cách đối xử đối với các loài động vật “có ý thức” xung quanh.

Có nhiều khía cạnh để chúng ta phân biệt con người và các loài động vật. Bên cạnh các đặc tính sinh học, khả năng nhận thức, cấu trúc xã hội và văn hóa, thì khả năng lý giải đạo đức và luân lý là một dấu hiệu phân biệt cơ bản.

Trong hầu hết các khuôn khổ luân lý, bao gồm và không giới hạn ở các học thuyết tôn giáo và triết học, việc giết người là sai trái về mặt đạo đức. Trong triết học, cả đạo nghĩa luận và chủ nghĩa vị lợi đều cho rằng trong phần lớn trường hợp, hành vi giết người là sai trái [3]. Đạo nghĩa luận cho rằng, việc giết người là sai trái vì nó sử dụng con người như một cách thức để đạt được mục tiêu, vì thế không tôn trọng giá trị nội tại (phẩm giá) của con người như một sinh vật có lý trí. Ngoài ra, nếu hành vi đấy trở thành luật phổ quát nó sẽ dẫn đến một xã hội đầy rối loạn, mất an toàn, không có niềm tin và hợp tác xã hội. Trong khi đó, mặc dù chủ nghĩa vị lợi cho rằng giết người là chấp nhận được về mặt đạo đức nếu kết quả của hành động đấy giúp làm tăng tối đa tổng hạnh phúc và giảm tối đa tổng đau khổ, nhưng phần lớn các hành vi giết người đều bị xem là sai trái. Đó là vì hành động này tước đoạt khả năng hạnh phúc trong tương lai của nạn nhân, mà không có bất kỳ lợi ích bù đắp nào cho người khác, hoặc vì những tác động tiêu cực đối với những người khác ngoài nạn nhân (ví dụ như sự thống khổ của thân nhân) [3].

Trong cuốn sách “The Ethics of Killing: Problems at The Margins of Life”, tác giả phân biệt hai lĩnh vực đạo đức: đạo đức của sự tôn trọng và đạo đức của lợi ích [4]. Cụ thể, đạo đức của sự tôn trọng được áp dụng cho những đối tượng tác giả xem là “người”. Lĩnh vực đạo đức này thể hiện những hạn chế trong hành động của cá nhân đối với người khác, xuất phát từ sự công nhận họ như những cá nhân trưởng thành có vị thế đạo đức ngang bằng với cá nhân đấy. Nói cách khác, tác giả cho rằng giết chóc là sai vì người có giá trị của riêng họ được tạo nên từ việc họ có ý thức về bản thân, nhận thức được danh tính và sự tồn tại liên tục của mình theo thời gian. Trong khi đó, đạo đức của lợi ích cho rằng một hành động là đúng hay sai dựa vào tác động của hành động đó lên hạnh phúc, lợi ích hoặc lợi ích tương đối theo thời gian của người khác. Lĩnh vực đạo đức này được áp dụng cho những đối tượng không đủ điều kiện về khả năng nhận thức liên tục về sự tồn tại của mình, như thai nhi, trẻ sơ sinh và những người bị suy giảm nhận thức nghiêm trọng [4].

Tuy nhiên, cả ba cách lý giải triết học trên đều bị cho là không thành công để giải thích sự sai trái của việc giết chóc. Trong khi chủ nghĩa vị lợi có thể tạo ra quá nhiều lý do để biện minh cho hành vi giết người, không giải thích được những quan niệm đạo đức sâu sắc và phổ biến về các mức độ sai trái khác nhau liên quan đến việc giết người và đưa ra cách lý giả sai lầm về việc tại sao giết người là sai. Cách tiếp cận theo hướng đạo nghĩa luận và lý thuyết đạo đức của J. McMahan (2002) [4] đều thiết lập những ranh giới bất kỳ và thiếu cơ sở thực nghiệm, khiến chúng không phù hợp để chỉ ra sự khác biệt về sức nặng của địa vị đạo đức giữa những đối tượng nằm dưới và trên những ranh giới này.

Vì thế, R. Ebert (2016) [5] đề xuất rằng tính sai trái của việc giết chóc nên được giải thích bằng giá trị nội tại của ý thức. Hay nói cách khác, việc giết chóc là sai trái đối với những đối tượng có khả năng có ý thức hiện tượng vì nó không thể hiện được sự tôn trọng đối với giá trị nội tại của một chủ thể trải nghiệm. Thông qua cách tiếp cận này, các lý do khiến việc giết người trưởng thành bình thường là sai trái cũng có thể áp dụng cho nhiều loài động vật khác và những người không đạt được mức độ nhận thức của người trưởng thành. Đồng thời, cách tiếp cận này cũng cho thấy biện minh cho việc giết động vật có được ý thức hiện tượng không dễ dàng hơn biện minh cho việc giết một con người.

Tuyên bố New York là một bước tiến tiếp nối Tuyên bố Cambridge, mở rộng phạm vi các sinh vật không phải con người có được ý thức hiện tượng. Đồng thời, cũng làm tăng nhận thức của xã hội về sự tồn tại ý thức ở nhiều loài sinh vật hơn Tuyên bố trước đấy. Cùng với đó, các nền tảng của triết học, bao gồm nhưng không giới hạn ở cách tiếp cận của R. Ebert (2016) [5], đã phát triển tới mức độ cho rằng cần phải tôn trọng các đối tượng có ý thức hiện tượng. Khi những giá trị triết học này xuất hiện và được lan tỏa rộng rãi trong không gian thông tin của xã hội, nó có khả năng được tiếp thu và trở thành một phần thế giới quan của nhiều người [2, 6, 7]. Khi đấy, nan đề đạo đức như sau sẽ xuất hiện một cách rộng rãi: Để duy trì sự tồn tại của con người, loài được xem là có đạo đức, thì chúng ta lại vi phạm đạo đức của chính chúng ta, là sát sinh các loài có ý thức hiện tượng khác.

Có lời giải nào cho nan đề đạo đức này không?

Trên thực tế, nan đề đạo đức này đã tồn tại từ lâu trong xã hội và dẫn đến một số phong trào môi trường đáng chú ý. Các phong trào quyền động vật đã xuất hiện và xem việc lạm dụng động vật như một vấn đề xã hội ngang tầm với việc gây hại cho trẻ em, phụ nữ và người già. Họ hoạt động với nguyên tắc cho rằng, động vật là những sinh vật có tri giác chứ không phải là “vật” để bị xem như là hàng hóa, thực phẩm, công cụ nghiên cứu, hay là chiến lợi phẩm săn bắn. Chính vì thế, các phong trào quyền động vật hay nhấn mạnh khả năng tri giác được sự đau đớn và thống khổ của các loài động vật để thúc đẩy “quyền thiêng liêng của kẻ yếu”, từ đấy thúc đẩy phúc lợi động vật, giải phóng động vật và quyền động vật [8].

Mặc dù không trực tiếp nhắc đến quyền của các loài sinh vật, nhưng Phong trào Tuyệt chủng con người tự nguyện (VHEMT) cũng thể hiện rõ sự mâu thuẫn đạo đức giữa sự tồn tại của con người và tự nhiên, bao gồm các sinh vật khác. Phong trào do Les U. Knight, một nhà hoạt động môi trường người Mỹ, phát động vào năm 1991 [9]. Ông cho rằng, “càng có nhiều người (trên trái đất), các vấn đề sẽ càng trở nên tồi tệ hơn”. Nền tảng của phong trào này dựa trên lập luận rằng, dân số loài người đã vượt quá khả năng chịu đựng của Trái đất, khiến việc tuyệt chủng con người một cách tự nguyện trở thành biện pháp tốt nhất cho sự hạnh phúc của các quần thể sinh vật khác [10]. Vì thế, những người có tư tưởng này ủng hộ việc ngừng sinh con một cách tự nguyện, cuối cùng dẫn đến sự tuyệt chủng của loài người.

Các Phong trào quyền động vật và tuyệt chủng con người tự nguyện đều mượn một số nguyên lý từ học thuyết Sinh thái sâu sắc. Học thuyết này ra đời vào những năm đầu thập kỷ 1970 như một phản ứng trước cuộc khủng hoảng môi trường ngày càng nghiêm trọng và thể hiện sự phê phán đối với các cách tiếp cận bảo vệ môi trường hạn hẹp [11]. A. Næss, triết gia người Na Uy đưa ra học thuyết Sâu sắc sinh thái cho rằng, chúng ta không nên tập trung vào vị trí đặc biệt của con người trong tự nhiên, mà thay vào đó nên quan tâm đến mọi thành phần của tự nhiên trên cơ sở bình đẳng, vì trật tự tự nhiên có giá trị nội tại lớn hơn nhiều so với các giá trị con người [11]. Đồng nhất với quan điểm của A. Næss, những người ủng hộ Sinh thái sâu sắc đề cao giá trị nội tại của tất cả các thực thể sống và hệ sinh thái, ủng hộ các biện pháp như giảm dân số và biến đổi lối sống để giảm bớt tác động của con người đối với môi trường [12].

Tuy nhiên, việc xem các thực thể sống và hệ sinh thái có được giá trị nội tại, ý thức, hay tri giác không chỉ mới xuất hiện gần đây mà đã tồn tại hàng nghìn năm và được truyền đạt theo các hình thức khác nhau thông qua các hệ thống tôn giáo và văn hóa. Một trong những nguồn ý tưởng cho học thuyết Sinh thái sâu sắc là những nguyên lý siêu hình học của Phật giáo [13].

Phật giáo bắt đầu được lưu truyền ở vùng đông bắc Ấn Độ thông qua lời giảng của Đức Phật vào khoảng thế kỷ thứ VI và IV trước Công nguyên. Tứ Diệu Đế (hay còn gọi là 4 chân lý của bậc thánh) là nền tảng trong tư tưởng của Phật giáo, trong đó bản chất đạo đức của Phật giáo, một trong các giới luật được Phật dạy là bất bạo động: được giải thích là lời dặn không giết hại hay làm tổn thương người khác vì chúng sẽ tạo ra sự đau khổ. “Người khác” ở đây dùng để chỉ chúng sinh, bao gồm cả các loài động vật có cảm xúc [14]. Vì các loài động vật đều có trải nghiệm ý thức và có khả năng trải qua sự đau khổ, nên việc giết hại chúng sẽ khiến chúng trải qua sự đau khổ, điều bị cho là sai trái về mặt đạo đức trong Phật giáo [15].

Một tôn giáo lớn khác cũng có hệ thống đạo đức riêng cho động vật là Hồi giáo, tôn giáo lớn thứ hai trên thế giới bắt nguồn từ đầu thế kỷ thứ VII sau Công nguyên tại Mecca. Tôn giáo này cho rằng, động vật là những sinh vật phụ thuộc vào Thượng Đế, vì thế chúng có những giá trị nội tại của chúng. Cụ thể, động vật được coi là có cuộc sống và mục đích riêng của chúng, có giá trị đối với chính chúng và đối với Thượng Đế  hơn là bất kỳ giá trị vật chất nào mà chúng có thể mang lại cho loài người. Chính vì thế, con người có nghĩa vụ chăm sóc sức khỏe và điều kiện sống của các loài động vật. Khi giết động vật làm thực phẩm, việc giết mổ phải được thực hiện nhân danh Thượng Đế như một nghi thức thiêng liêng để đảm bảo rằng cuộc sống của động vật không bị coi nhẹ và việc giết mổ không phải là biểu hiện của thái độ thù địch đối với vũ trụ [16].

Có thể thấy được rằng nan đề đạo đức về việc giết các loài sinh vật có trị nội tại, ý thức, hay tri giác để duy trì sự tồn tại của con người đã tồn tại từ rất lâu trước đây. Các cách tiếp cận để giải quyết nan đề cũng rất khác nhau và đa dạng. Trong khi các nước phương Tây xuất hiện các phòng trào đòi quyền cho động vật và thực hiện tuyệt chủng tự nguyện, các tín đồ Phật giáo chọn giải pháp bất bạo lực và ăn chay, còn người theo đạo Hồi tuân theo luật Hồi giáo và tiến hành các nghi lễ thiêng liêng. Tuy nhiên, dù cách nào đi nữa thì hiện nay chúng ta vẫn chưa thể hoàn toàn giải quyết được nan đề đạo đức, đó là các sinh vật có tri giác vẫn tiếp tục bị giết vì sự sinh tồn của con người, giống loài được cho là khác với các sinh vật khác do hệ thống đạo đức và luân lý cho rằng giết sinh vật có ý thức là sai trái. Có lẽ, với sự phát triển của khoa học và công nghệ, ngành công nghiệp chế biến thịt sử dụng tế bào động vật có thể sẽ giúp phần nào giải quyết nan đề đạo đức này trong tương lai, nhưng điều đó vẫn còn nhiều hoài nghi [17].

Tuy nhiên, một điều có thể chắc chắn là nếu chúng ta thay đổi văn hóa tiêu dùng thực phẩm ở hiện tại, nó sẽ giúp giảm bớt số lượng sinh vật có tri giác bị giết hại, không chỉ vì số lượng sinh vật tri giác bị nuôi lấy thịt giảm mà còn là vì số lượng sinh vật bị giết vì biến đổi khí hậu và phá rừng ít đi. Hàng triệu hoặc thậm chí là hàng tỷ sinh vật trên cạn đã bị giết chết bởi các hiện tượng cực đoan gây ra bởi biến đổi khí hậu, với các hoạt động của con người là tác nhân chính. Chỉ tính riêng các vụ cháy rừng do nhiệt độ ngày càng tăng và hạn hán thường xuyên ở vùng đất ngập nước ở Pantanal, Brazil, mà ít nhất 16,952 triệu động vật có xương sống đã thiệt mạng, đấy là còn chưa kể các thiệt hại gián tiếp khác do cháy rừng gây ra [18].

Hệ thống thực phẩm toàn cầu là một trong những tác nhân chính tạo ra khí thải nhà kính. Theo tính toán, thống sản xuất thực phẩm toàn cầu (như sử dụng máy móc nông nghiệp, phun phân bón và vận chuyển sản phẩm) tạo ra xấp xỉ 17,3 tỷ tấn khí thải nhà kính hằng năm. Trong đấy, sản xuất thực phẩm từ động vật chiếm 57% lượng phát thải, gấp đôi lượng phát thải gây ra bởi sản xuất thực phẩm từ thực vật. Thịt bò là mặt hàng đóng góp nhiều nhất vào lượng khí thải tạo ra bởi sản xuất thực phẩm từ động vật, chiếm 25% tổng phát thải của hoạt động sản xuất thực phẩm. Ngoài ra, việc mở rộng đất đồng cỏ để chăn nuôi gia súc là nguyên nhân dẫn đến 41% diện tích rừng nhiệt đới bị phá [19].

Cho nên, nhìn từ góc độ đạo đức của bất kỳ trường phái triết học, văn hóa, hay tôn giáo nào thì việc thay đổi văn hóa tiêu dùng thực phẩm để giảm bớt tiêu thụ thịt đều đúng đắn [20, 21]. Chúng tôi đề nghị thúc đẩy sự chuyển dịch của xã hội ra khỏi các giá trị và hành vi văn hóa có tính thâm hụt hệ sinh thái (như cổ vũ ăn thịt bò, ăn thịt rừng, sử dụng các sản phẩm từ động vật quý hiếm…) và xây dựng các giá trị văn hóa thặng dư sinh thái trong dân chúng (giảm tỷ lệ thịt trong khẩu phần ăn, không sử dụng việc ăn thịt cho các mục tiêu xã hội và văn hóa, đóng góp cho các quỹ động vật…) [22, 23]. Để làm được điều này, sự kết nối giữa người dân với các sinh vật tri giác khác cần được thúc đẩy thông qua các kênh truyền thông, giáo dục và thông tin. Sức kết nối này sẽ là tiền đề dẫn đến sự đồng cảm của người dân, điều này sẽ giúp họ dễ dàng tiếp thu các giá trị nhân văn chứa đựng giá trị của sự bền vững môi trường hơn [24].

Ngoài ra, tất cả các lý lẽ trên sẽ rất ít tác động nếu loài người vẫn tiếp tục gây chiến, tiêu hao tiền của và sinh mạng để tàn sát lẫn nhau dựa trên ý tưởng nguy hiểm “chân lý thuộc về kẻ mạnh” [25, 26]. Bởi lẽ các tuyên bố về đạo đức với động vật sẽ không thể chạm tới ngưỡng đạo đức cần thiết vì “loài người sẽ luôn đứng đầu chuỗi thức ăn”.

Nói tóm lại, khi chúng ta vẫn chưa thể giải quyết triệt để được nan đề đạo đức, thì giải pháp tốt nhất là chúng ta cố gắng giảm thiểu tối đa các hành vi sai trái về mặt đạo đức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] D. Falk (2024), “Insects and other animals have consciousness, experts declare”, Quanta Magazine, https://www.quantamagazine.org/insects-and-other-animals-have-consciousness-experts-declare-20240419/s, accessed 25 April 2024.

[2] M.H. Nguyen, T.T. Le, Q.H. Vuong (2023), “Ecomindsponge: A novel perspective on human psychology and behavior in the ecosystem”, Urban Science7(1), DOI:  10.3390/urbansci7010031.

[3] T. Tannsjo (2015), Taking Life: Three Theories on The Ethics of Killing, Oxford University Press, 328pp.

[4] J. McMahan (2002), The Ethics of Killing: Problems at The Margins of Life, Oxford University Press, USA, 556pp.

[5] R. Ebert (2016), The Wrongness of Killing, Rice University, 251pp.

[6] Q.H. Vuong (2023), Mindsponge Theory, Walter de Gruyter GmbH, 215pp.

[7] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen, V.P. La (2022), The Mindsponge and BMF Analytics for Innovative Thinking in Social Sciences and Humanities, Walter de Gruyter GmbH, 464pp.

[8] L. Munro (2012), “The animal rights movement in theory and practice: A review of the sociological literature”, Sociology Compass6(2), pp.166-181, DOI: 10.1111/j.1751-9020.2011.00440.x.

[9] S. Jarvis (1994), “Live long and die out: Stephen Jarvis encounters the voluntary human extinction movement”, Independent, https://www.independent.co.uk/life-style/live-long-and-die-out-stephen-jarvis-encounters-the-voluntary-human-extinction-movement-1372200.html, accessed 25 April 2024.

[10] K. Keck (2007), “Earth a gracious host to billions, but can she take many more?”, http://edition.cnn.com/2007/TECH/science/10/04/pip.populationquestion/index.html, accessed 25 April 2024.

[11] A. Naess (1973), “The shallow and the deep, long‐range ecology movement”, Inquiry16(1-4), pp.95-100, DOI: 10.1080/00201747308601682.

[12] M. Smith (2014), “Deep ecology: What is said and (to be) done?”, The Trumpeter30(2), pp.141-156.

[13] G. Sessions (1987), “The deep ecology movement: A review”, Environmental Review11(2), pp.105-125, DOI: 10.2307/3984023.

[14] B. Finnigan (2017), “Buddhism and animal ethics”, Philosophy Compass12(7), DOI: 10.1111/phc3.12424.

[15] D.A. Getz (2004), “Sentient beings”, Encyclopedia of Buddhism, Macmillan Reference USA, 760pp.

[16] E.C. Chao (2022), “Islam and veterinary science: Rethinking animal suffering through islamic animal ethics and the evolving definition of halal slaughter”, Frontiers in Veterinary Science9, DOI: 10.3389/fvets.2022.785585.

[17] C.M. Klein (2022), “Could lab-grown meat pave the way for more ethical, environmentally friendly food?”, Northeastern Global News, https://news.northeastern.edu/2022/11/21/lab-grown-meat/, accessed 25 April 2024.

[18] W.M. Tomas, C.N. Berlinck, R.M. Chiaravalloti, et al. (2021), “Distance sampling surveys reveal 17 million vertebrates directly killed by the 2020’s wildfires in the Pantanal, Brazil”, Scientific Reports11(1), DOI: 10.1038/s41598-021-02844-5.

[19] H. Ritchie (2021), “Cutting down forests: What are the drivers of deforestation?”, Our World in Data, https://ourworldindata.org/what-are-drivers-deforestation, accessed 25 April 2024.

[20] M.H. Nguyen, T.E. Jones (2022a), “Building eco-surplus culture among urban residents as a novel strategy to improve finance for conservation in protected areas”, Humanities & Social Sciences Communications9, DOI: 10.1057/s41599-022-01441-9.

[21] Q.H. Vuong (2021), “The semiconducting principle of monetary and environmental values exchange”, Economics and Business Letters10(3), pp.284-290. DOI: 10.17811/ebl.10.3.2021.284-290.

[22] M.H. Nguyen, T.E. Jones (2022b), “Predictors of support for biodiversity loss countermeasures and bushmeat consumption among Vietnamese urban residents”, Conservation Science and Practice4(12), DOI: 10.1111/csp2.12822.

[23] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen (2024), “Call Vietnam mouse-deer “cheo cheo” and let the empathy save them from extinction: A conservation review and call for name change”, Pacific Conservation Biology3, DOI: 10.1071/pc23058.

[24] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen (2023), “Kingfisher: Contemplating the connection between nature and humans through science, art, literature, and lived experiences”, Pacific Conservation Biology, DOI: 10.1071/PC23044.

[25] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen, V.P. La (2024), “The overlooked contributors to climate and biodiversity crises: Military operations and wars”, Environmental Management73, pp.1089-1093, DOI: 10.1007/s00267-024-01976-4.

[26] Q.H. Vuong, M.H. Nguyen (2024), “Further on informational quanta, interactions, and entropy under the granular view of value formation”, https://philpapers.org/rec/VUOARN.

TS Nguyễn Minh Hoàng, TS Nguyễn Thị Hồng Huệ

Trường Đại học Phenikaa

Thiết kế, chế tạo và tích hợp máy chuẩn đầu mô men lực độ chính xác cao phục vụ lĩnh vực đo lường

Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ cấp quốc gia “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và tích hợp máy chuẩn đầu mô men lực độ chính xác cao sử dụng cho lĩnh vực đo lường”, các nhà khoa học của Viện Đo lường Việt Nam (Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ) đã nghiên cứu thiết kế, chế tạo thành công máy chuẩn mô men lực có phạm vi đo đến 2 kN.m. Kết quả này đã giúp các nhà khoa học trong nước làm chủ công nghệ chế tạo chủng loại thiết bị chuẩn đo lường, tiến tới có thể chế tạo các thiết bị chuẩn cùng loại với nhiều dải đo khác nhau.

Các ứng dụng trong cuộc sống của mô men lực

Mô men lực là đại lượng vật lý có nhiều ứng dụng trong cuộc sống. Trong các cơ sở sản xuất, chế tạo, dây chuyền lắp ráp, tỷ lệ các mối ghép sử dụng bu lông, đai ốc là rất lớn. Đối với các mối ghép có độ chính xác cao, mối ghép cho các chi tiết động… vấn đề đảm bảo được mô men xiết chặt tới hạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Các mô men này phải có giá trị đủ lớn để giữ được các bộ phận liên kết với nhau, không bị tháo lỏng khi các mối ghép hoạt động và chịu tải… nhưng các mô men đó cũng không được quá lớn, vượt quá giá trị cho phép, ảnh hưởng đến mối ghép. Khoa học và công nghệ càng phát triển thì nhu cầu sử dụng các thiết bị để xác định mô men ngày càng nhiều. Trong quá trình sử dụng thiết bị, nhiều yếu tố ảnh hưởng khiến độ chính xác của thiết bị có sự thay đổi, do đó các thiết bị đo mô men lực cần được kiểm soát. Để có thể chủ động trong việc kiểm soát độ chính xác của các thiết bị thuộc lĩnh vực đo mô men lực, hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển đều xây dựng một hệ thống chuẩn mô men lực đồng bộ từ thấp đến cao, với nhiều dải đo khác nhau. Ngay cả những nước đang phát triển trong khu vực như Thái Lan, cơ sở đo lường cũng đã có 03 máy chuẩn mô men lực tải trực tiếp, với các dải đo 100 N.m, 1 kN.m và 5 kN.m.

Chế tạo hệ thống chuẩn đầu mô men lực

Việt Nam hiện nay chưa có chuẩn đầu mô men lực, chúng ta mới chỉ có hệ thống hiệu chuẩn mô men lực có độ chính xác thấp (0,25%). Khi chúng ta chưa có chuẩn đầu mô men lực thì chúng ta cũng không thể đánh giá được các thiết bị hiệu chuẩn mô men lực có độ chính xác cao.

Với điều kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay, phương án đầu tư hệ thống chuẩn đầu mô men lực đủ dải đo cần thiết là rất khó khăn, đặc biệt nếu phải mua, nhập khẩu các thiết bị chuẩn đó vì chi phí cao (01 máy chuẩn mô men lực tải trực tiếp có giá khoảng trên 20 tỷ đồng).

Dải đo đến 2 kN.m là dải đo chủ lực của hầu hết các phương tiện đo mô men lực hiện nay ở Việt Nam, chiếm hơn 90% số lượng phương tiện đo mô men lực hiện hành. Chính vì vậy, hiện nay việc nghiên cứu thiết kế, chế tạo máy chuẩn mô men lực có phạm vi đo đến 2 kN.m, tạo cơ sở làm chủ công nghệ chế tạo chủng loại thiết bị chuẩn này, tiến tới có thể chế tạo các thiết bị chuẩn cùng loại với các dải đo khác nhau ở nước ta là phù hợp với điều kiện kinh tế, cũng như năng lực thực tế.

Máy chuẩn đầu mô men lực có các đặc trưng đo lường chính gồm: phạm vi đo: từ 20 đến 2200 N.m cho phép tạo mô men lực chuẩn theo cả 2 chiều thuận và ngược chiều kim đồng hồ; độ không đảm bảo đo: U(*) = 5.10-5.

Máy chuẩn đầu mô men lực do Viện Đo lường Việt Nam nghiên cứu, chế  tạo.

Sau khi chế tạo thành công, máy chuẩn mô men lực đã được Viện Đo lường Việt Nam lắp đặt, vận hành và hiệu chỉnh thành công tại Phòng Đo lường lực – độ cứng đặt tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã tiến hành đánh giá sản phẩm theo các thông số sau:

Kiểm chuẩn để đánh giá các đặc trưng đo lường: Xây dựng quy trình kiểm chuẩn máy chuẩn đầu mô men lực (VMI-CP 144: 2024). Quy trình đã được Hội đồng khoa học thông qua và Viện Đo lường Việt Nam ban hành. Tiến hành kiểm chuẩn: máy chuẩn đầu mô men lực sau khi được hiệu chuẩn theo quy trình (VMI-CP 144: 2024) đạt độ chính xác: U ≤ 5.10-5 (trong khi yêu cầu U ≤ 5.10-4).

So sánh với sản phẩm cùng chủng loại của Hàn Quốc: Sau khi kiểm chuẩn, máy chuẩn đầu mô men lực của Viện Đo lường Việt Nam được so sánh với sản phẩm tương tự của Viện Nghiên cứu Tiêu chuẩn và Khoa học Hàn Quốc (KRISS). Việc này được thực hiện để xác định tính tương đương của thiết bị chuẩn cần so sánh với thiết bị chuẩn được chọn để so sánh, theo quy định quốc tế về so sánh song phương. Quy trình so sánh được hai bên trao đổi, thống nhất và được Viện Đo lường Việt Nam ban hành, số hiệu quy trình: VMI.CP 143:2024. Viện Đo lường Việt Nam đã tiến hành so sánh và nhận được kết quả là tất cả các giá trị En của các phép hiệu chuẩn đều có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn 1.

Đặc biệt, để kết quả so sánh được khách quan, Viện Đo lường Việt Nam đã mời Trung tâm Đo lường, Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng hỗ trợ phối hợp thực hiện so sánh lần 2. Viện Đo lường Việt Nam vận hành máy chuẩn, thực hiện các phép đo theo quy trình so sánh (VMI.CP 143: 2024), Trung tâm Đo lường quan sát quá trình thực hiện, ghi số liệu đo, tính toán và xử lý kết quả so sánh. Kết quả cho thấy, tất cả các giá trị En của các phép hiệu chuẩn đều có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn 1.

Đánh giá độ ổn định của máy chuẩn: Để đánh giá độ ổn định của máy chuẩn, Viện Đo lường Việt Nam đã thực hiện hiệu chuẩn đầu đo mô men lực chuẩn theo quy trình VMI.CP 142: 2024 trên máy chuẩn đầu mô men lực được chế tạo tại 2 thời điểm khác nhau, trong cùng một điều kiện môi trường. Sau đó, thực hiện so sánh 2 kết quả hiệu chuẩn này. Kết quả nhận được là tất cả các giá trị En của các phép hiệu chuẩn tại các điểm đo đều có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn 1.

Đây là thiết bị chuẩn mô men lực có độ chính xác cao nhất của Việt Nam, đưa trình độ chuẩn về lĩnh vực mô men ở phạm vi đo từ 20 đến 2200 N.m của Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực, tạo điều kiện cho việc hội nhập, so sánh chuẩn, công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực đo lường.

TS Ngô Thị Ngọc Hà, TS Phạm Thanh Hà

Viện Đo lường Việt Nam

Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia

Bộ Khoa học và Công nghệ

Bến Tre phát triển xanh và bền vững, hướng tới net zero

Ngày 16/8/2024, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với UBND tỉnh Bến Tre và Trường đại học Cần Thơ tổ chức Hội thảo khoa học ngành dừa với chủ đề: “Bến Tre phát triển xanh và bền vững hướng đến net zero”.
Hội thảo được tổ chức với mục tiêu trao đổi kiến thức về những định hướng nghiên cứu mới trong việc khai thác những tiềm năng, lợi thế cạnh tranh của ngành dừa tỉnh Bến Tre trong bối cảnh hội nhập quốc tế, làm nền tảng xây dựng các giải pháp phù hợp nâng cấp chuỗi giá trị dừa của tỉnh trong thời gian tới.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh điều hành Hội thảo.
Phát biểu tại Hội thảo, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam cho biết: Tỉnh Bến Tre có diện tích dừa lớn nhất cả nước với hơn 79.000 ha, giúp địa phương thu về hơn 400 triệu USD mỗi năm. Tính đến nay, các sản phẩm từ dừa của Bến Tre đã xuất khẩu sang 90 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thị trường xuất khẩu các sản phẩm từ dừa tiếp tục được các doanh nghiệp giữ vững và mở rộng.
Theo các nhà nghiên cứu, với diện tích dừa trên 79.000 ha, Bến Tre có tiềm năng lưu trữ từ 1,9 đến 5,8 triệu tấn CO2. Ngành nông nghiệp tỉnh Bến Tre đã, đang tập trung để tiếp tục phát triển nông nghiệp sinh thái, tuần hoàn, phát thải carbon thấp, thân thiện với môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Bến Tre hiện có hơn 200 sản phẩm được sản xuất, chế biến từ dừa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
PGS.TS. Trần Trung Tính – Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ cho biết: Hội thảo có ý nghĩa rất quan trọng, cấp thiết đối với sự phát triển bền vững của vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), đồng thời khẳng định vai trò, vị trí của cây dừa trong nền kinh tế nông nghiệp, và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cùng tiềm năng lưu giữ carbon của loại cây này. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tiềm năng tín chỉ carbon từ dừa rất lớn. Cây dừa không chỉ là nguồn nguyên liệu chủ yếu cho các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm và các sản phẩm phụ từ vỏ, xơ, gáo dừa… đều có giá trị kinh tế cao và đã tạo nên một chuỗi giá trị bền vững cho ngành dừa Việt Nam.
Hội thảo đã ghi nhận nhiều ý kiến đề xuất giải pháp, kỳ vọng hợp tác trong phát triển ngành dừa bền vững hướng đến net zero của các chuyên gia quốc tế và trong nước, các doanh nghiệp trong và ngoài nước như: Xác định khả năng hấp thụ CO₂ từ dừa; Ứng dụng công nghệ sinh học trong chọn tạo và nhân giống dừa hướng đến sự phát triển bền vững cây dừa cho các tỉnh ĐBSCL; Tiềm năng và giải pháp phát triển bền vững chuỗi giá trị ngành hàng dừa ở ĐBSCL; Thị trường tín chỉ các-bon: kinh nghiệm quốc tế và khung chính sách của Việt Nam; Phát triển liên kết vùng nguyên liệu, mở rộng diện tích trồng dừa chuyên canh, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu; Định hướng ngành dừa tham gia chương trình KH&CN cấp quốc gia hướng tới mục tiêu net zero…
Tiếp thu các kiến nghị tại Hội thảo, Phó chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Nguyễn Minh Cảnh đề xuất Bộ KH&CN hỗ trợ Bến Tre tham gia các chương trình KH&CN liên quan đến phát triển bền vững về cây dừa, hướng tới xây dựng Bến Tre thành nền kinh tế xanh, bền vững.
Thứ trưởng Hoàng Minh và các đại biểu tham quan các gian hàng.
Thông qua Hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý đã gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm nhằm nắm bắt cơ hội mới trong việc xây dựng tín chỉ carbon cho ngành dừa. Từ đó, kết nối các Bộ, ngành, tổ chức, viện trường hỗ trợ tập huấn, hướng dẫn cách tính tín chỉ carbon, đánh giá chứng nhận, thị trường tiêu thụ, phục vụ công tác hoạch định chính sách, chiến lược phát triển ngành dừa Bến Tre bền vững.
Trong chương trình Hội thảo đã diễn ra Lễ ký kết hợp tác về đào tạo, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2024-2025 giữa UBND tỉnh Bến Tre với Viện Hàn Lâm KH&CN Việt Nam, Đại học Cần Thơ, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Chương trình quốc gia tạo ra các sản phẩm bằng công nghệ tiên tiến

Theo Thứ trưởng Trần Hồng Thái, Chương trình sản phẩm quốc gia bước đầu đạt một số kết quả có tính lan tỏa, đã hình thành các sản phẩm của Việt Nam bằng công nghệ tiên tiến, có quy mô lớn.

Thông tin được Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái nêu tại Hội thảo Hướng dẫn triển khai Chương trình sản phẩm quốc gia đến năm 2030, do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức, ngày 16/8.

Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia giai đoạn 2010-2020 đã triển khai 13/18 sản phẩm. Mục tiêu của chương trình góp phần hình thành, phát triển các sản phẩm hàng hóa thương hiệu Việt Nam bằng công nghệ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh về chất lượng, nâng cao năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp và tiềm lực công nghệ quốc gia…

Theo thứ trưởng Thái, chương trình được triển khai bám sát mục tiêu đề ra, đã hình thành các sản phẩm của Việt Nam bằng công nghệ tiên tiến, có quy mô lớn. Trong đó có sản phẩm lúa gạo chất lượng cao; nghiên cứu tạo giống mới thích ứng với biến đổi khí hậu; xây dựng được gói kỹ thuật thâm canh giảm 50% nhu cầu hạt giống nhưng vẫn đảm bảo năng suất đã mang lại doanh thu gián tiếp 1.500 tỷ đồng/năm; sản phẩm giàn khoan dầu khí di động, giúp doanh nghiệp tham gia giảm được chi phí đầu tư so với nhập khẩu từ 10-15% (tương đương khoảng 23 triệu USD).

“Các kết quả này có tính lan tỏa và tác động tích cực, nâng cao hiệu quả của hoạt động khoa học công nghệ, thu hút được sự tham gia của doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế”, Thứ trưởng nói.

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái tại hội thảo sáng 16/8. Ảnh: Bùi Toàn

Thứ trưởng Trần Hồng Thái tại hội thảo sáng 16/8. Ảnh: Bùi Toàn

Tại hội thảo, lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ đề nghị các đơn vị tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào sản xuất, phát triển các sản phẩm quốc gia nhằm tăng năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Đến năm 2030, hình thành và phát triển tối thiểu 10 sản phẩm quốc gia mới.

Hiện Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng, ban hành Thông tư về quy định quản lý Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia đến năm 2030.

Tại hội thảo, các đại diện doanh nghiệp, tổ chức đã thảo luận về các quy định quản lý, cùng đưa ra vướng mắc, khó khăn để điều chỉnh trong khuôn khổ trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ .

Ông Nguyễn Mạnh Hải, đại diện tập đoàn Viettel, cho biết đây là lần đầu tiên đơn vị tiếp cận hướng dẫn triển khai chương trình phát triển sản phẩm quốc gia. Ông đề nghị chương trình bổ sung các sản phẩm mang tính cốt lõi, nền tảng liên quan đến vũ trụ, bán dẫn, năng lượng mới.

Còn ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch tập đoàn ThaiBinh Seed, cho biết công ty của ông đã tham gia chương trình sản phẩm quốc gia trong giai đoạn 2020-2021. Từ việc triển khai các nhiệm vụ, trình độ quản lý công nghệ, nghiên cứu ứng dụng của công ty được nâng lên rõ ràng.

Ông Báo cho biết, công việc kinh doanh của đơn vị cũng ổn định và bền vững hơn, dù thời gian qua có nhiều khó khăn, đặc biệt là ảnh hưởng của dịch Covid-19. “Chương trình có ý nghĩa lớn đối với ngành nông nghiệp, góp phần đảm bảo an ninh lương thực và cải thiện đời sống người dân”, ông nói

Tại hội thảo, ông Báo đề nghị cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình sản phẩm quốc gia; cho các doanh nghiệp đã tham gia từ trước được tiếp tục phát triển sản phẩm ở giai đoạn tiếp theo; đồng thời yêu cầu bộ cần có phương án tạo cơ chế thông thoáng cho doanh nghiệp…

Ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch tập đoàn ThaiBinh Seed, thảo luận về Chương trình sản phẩm quốc gia. Ảnh: Bùi Toàn

Ông Trần Mạnh Báo, Chủ tịch tập đoàn ThaiBinh Seed, thảo luận về Chương trình sản phẩm quốc gia. Ảnh: Bùi Toàn

TS Đỗ Hữu Hào, Chủ nhiệm Chương trình cho biết Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia giai đoạn 2010-2020 được Thủ tướng phê duyệt gồm 18 sản phẩm.

Trong đó Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì 3 sản phẩm là Thiết bị nâng hạ có sức nâng lớn, sản phẩm an ninh, an toàn mạng thông tin (gồm hai sản phẩm) và sản phẩm động cơ sử dụng cho phương tiện giao thông vận tải (gồm 2 sản phẩm);

Bộ Y tế chịu trách nhiệm 1 sản phẩm là vaccine phòng bệnh cho người;

Bộ Công Thương 01 sản phẩm là Giàn khoan dầu khí di động;

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì 5 sản phẩm là: Sản phẩm lúa gạo Việt Nam chất lượng cao, năng suất cao; sản phẩm nấm ăn và nấm dược liệu; sản phẩm cá da trơn Việt Nam chất lượng cao và các sản phẩm chế biến từ cá da trơn; tôm nước lợ; cà phê Việt Nam chất lượng cao;

Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm 3 sản phẩm.

Theo ông Hào, trong số nhóm sản phẩm đã phê duyệt có 05 nhóm sản phẩm chưa được triển khai, trong đó có 2 thuộc nhóm đảm bảo an ninh, an toàn thông tin, 2 thuộc nhóm động cơ sử dụng cho phương tiện giao thông và vi mạch điện tử.

Một số sản phẩm đã phê duyệt được Thủ tướng cho phép thực hiện tiếp trong giai đoạn đến 2030 để tiếp tục hoàn thiện sản phẩm, ổn định chất lượng, nâng cao chất lượng và quy mô sản xuất theo mục tiêu đã phê duyệt, bao gồm: vaccine phòng bệnh cho vật nuôi, Sâm Việt Nam, lúa gạo Việt Nam chất lượng cao, năng suất cao, nấm ăn và nấm dược liệu, cà phê Việt Nam chất lượng cao, cá da trơn Việt Nam chất lượng cao và các sản phẩm từ cá da trơn, tôm nước lợ (tôm sú và tôm thẻ chân trắng) và vi mạch điện tử.

Bùi Toàn

4 người Việt vào bảng xếp hạng ‘ngôi sao mới nổi xuất sắc’ 2024

TS Trần Nguyễn Hải, TS Thái Hoàng Chiến, TS Hoàng Nhật Đức, TS Phùng Văn Phúc được Research.com gắn huy hiệu “Best Rising Star” 2024.

Trang Research.com vừa công bố kết quả xếp hạng các nhà khoa học có thành tích xuất sắc. Theo đó Việt Nam có 6 nhà khoa học được gọi tên, gồm 4 người trong nước và 2 người nước ngoài đang giảng dạy tại các trường đại học.

So với năm 2023, số nhà khoa học Việt Nam trong danh sách giảm một người và không ai lọt Top 10. GS.TS Trần Xuân Bách, Đại học Y Hà Nội, xếp hạng 2 thế giới năm 2023, không có mặt trong danh sách năm 2024.

Các nhà khoa học đang làm việc tại Việt Nam có mặt trong danh sách. Ảnh chụp màn hình

Các nhà khoa học đang làm việc tại Việt Nam có mặt trong danh sách. Ảnh chụp màn hình

Trong số 4 nhà khoa học Việt, TS Trần Nguyễn Hải, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Cơ bản & Ứng dụng (IFAS), trường Đại học Duy Tân, xếp hạng 553. Đây là năm thứ hai anh góp mặt trong danh sách.

TS Hải sở hữu nhiều bài báo khoa học công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín với chỉ số trích dẫn cao. Số lượng các bài báo thuộc hạng Q1 của TS Hải trong lĩnh vực Khoa học Môi trường theo WoS chiếm trên 70% và chỉ số trích dẫn hơn 8.500 lần (theo cơ sở dữ liệu của Google Scholar). Anh là một trong 10 gương mặt tài năng trẻ được trao giải thưởng Quả cầu vàng khoa học công nghệ năm 2019. Hiện anh là thành viên Ban biên tập của 12 tạp chí quốc tế chuẩn ISI và tham gia phản biện cho hơn 100 tạp chí quốc tế uy tín.

TS Trần Nguyễn Hải, thành viên Ban biên tập cho 12 tạp chí quốc tế chuẩn ISI, là gương mặt mới vào danh sách năm 2023. Ảnh:Hai Tran

TS Trần Nguyễn Hải, thành viên Ban biên tập của 12 tạp chí quốc tế chuẩn ISI, mới góp mặt trong danh sách “Best Rising Star” của Research.com từ năm 2023. Ảnh: Hai Tran

Người thứ hai là TS Thái Hoàng Chiến, trường Đại học Tôn Đức Thắng, xếp hạng 771. Anh là thành viên của nhóm Cơ học tính toán (DCM), một trong những nhóm nghiên cứu đầu tiên tại Trường Đại học Tôn Đức Thắng.

TS Chiến đã công bố gần 100 công trình nghiên cứu, trong đó có nhiều bài trên các tạp chí ISI. Năm 2023 anh cũng là một trong 5 nhà khoa học Việt Nam được gắn huy hiệu “Best Rising Star” – Ngôi sao khoa học đang lên xuất sắc.

4 nhà khoa học Việt lọt vào bảng xếp hạng ngôi sao đang lên năm 2024

TS Thái Hoàng Chiến. Ảnh: Trường Đại học Tôn Đức Thắng

Người thứ ba là TS Phùng Văn Phúc, Đại học Công nghệ TP HCM, xếp hạng 859. Anh là nhà khoa học thuộc top 1% thế giới chuyên ngành Cơ khí và hàng không vũ trụ.

Anh có 5 năm liền vào danh sách 100.000 nhà khoa học ảnh hưởng nhất thế giới của Research.com, đồng thời ba năm liên tiếp (2022, 2023, 2024) được gắn huy hiệu “Best Rising Star”. TS Phúc công bố hơn 60 công trình khoa học trên các tạp chí quốc tế thuộc danh mục ISI với những nghiên cứu thuộc lĩnh vực Kỹ thuật cơ khí và Hàng không vũ trụ.

4 nhà khoa học Việt lọt vào bảng xếp hạng ngôi sao đang lên năm 2024 - 1

TS Phùng Văn Phúc. Ảnh: Hutech

Người thứ 4 là TS Hoàng Nhật Đức, trường Đại học Duy Tân, xếp hạng 776. Anh là nhà khoa học trẻ tại Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ cao (IRD), trường Đại học Duy Tân. Anh công bố hơn 120 công trình, bài báo trên các tạp chí trong và ngoài nước, trong đó nhiều công trình thuộc danh mục ISI. TS Đức nhiều năm liền có mặt trong danh sách top 10.000 nhà khoa học xuất sắc của thế giới năm 2021, 2022. Hướng nghiên cứu chính của TS Hoàng Nhật Đức là ứng dụng và phát triển các mô hình học máy và thị giác máy tính trong ngành kỹ thuật xây dựng và cảnh báo thiên tai.

TS Hoàng Nhật Đức. Ảnh: Trường Đại học Duy Tân

TS Hoàng Nhật Đức. Ảnh: Trường Đại học Duy Tân

Đây là năm thứ ba bảng xếp hạng “Best Rising Stars of Science in the World” được công bố. Ở đợt xếp hạng lần này, Research.com xem xét dữ liệu của 166.880 nhà khoa học, có năng suất công bố và trích dẫn hàng đầu thế giới, sử dụng dữ liệu từ Google Scholar và Microsoft Academic Graph.

Năm nay Trung Quốc có nhiều nhà khoa học góp mặt trong danh sách nhất (358, tăng nhẹ so với năm 2023), sau đó là Mỹ (153, giảm so với năm 2023). Số lượng của một số quốc gia khác như sau: Iran – 48, Anh – 43, Australia – 46, Đức – 27, Singapore – 18, Hàn Quốc – 17. Người dẫn đầu bảng xếp hạng là Mohsen Sheikholeslami (Iran).

Tiêu chí đánh giá một nhà khoa học vào bảng xếp hạng toàn cầu dựa trên chỉ số General H-index (chỉ số đánh giá trên cơ sở các bài báo khoa học và giá trị trích dẫn trên tất cả các chuyên ngành), tỷ lệ đóng góp trong lĩnh vực nhất định, bên cạnh các giải thưởng và thành tựu của họ. Chỉ 1.000 nhà khoa học hàng đầu có chỉ số H cao nhất mới được đưa vào bảng xếp hạng.

Bảng xếp hạng thống kê các nhà khoa học hàng đầu thuộc các lĩnh vực nghiên cứu chính, nhưng chỉ xét người có công bố đầu tiên trong 12 năm trở lại đây. Research.com cho biết vị trí xếp hạng không phải là thước đo tuyệt đối để định lượng sự đóng góp của các nhà khoa học.

Như Quỳnh

Những dấu ấn trong sự nghiệp Giáo sư Võ Tòng Xuân

Giáo sư Võ Tòng Xuân có hơn 60 năm gắn bó với ngành nông nghiệp với nhiều đóng góp quan trọng trong nghiên cứu và phổ biến giống lúa năng suất cao, kháng bệnh tốt.

Ông Võ Tòng Xuân sinh năm 1940 tại An Giang. Ông qua đời lúc hơn 7h ngày 19/8 tại một bệnh viện ở TP HCM. Ông được biết đến là chuyên gia nông nghiệp hàng đầu Việt Nam, có nhiều đóng góp trong lĩnh vực khoa học, nghiên cứu về nông nghiệp. Dưới đây là một số thành tựu nổi bật của ông:

Nghiên cứu và phát triển giống lúa: Giáo sư Võ Tòng Xuân được xem là “cha đẻ” của nhiều giống lúa ngon của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ông là người có nhiều đóng góp phổ biến các giống Thần Nông, IR36, IR33, IR64, MTL30 phổ biến khắp các tỉnh miền Tây.

Ông trở thành nhà khoa học Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng VinFuture năm 2023 với đóng góp trong việc phổ biến giống IR36 trên khắp các vùng thường xuyên bị sâu bệnh tấn công ở Đồng bằng sông Cửu Long và hợp tác với nông dân để áp dụng các kỹ thuật cấy ghép tiên tiến. Đến những năm 1980, giống lúa IR36 đã được sử dụng trên toàn cầu với diện tích canh tác lên đến 11 triệu ha. Đến năm 2000, việc phổ biến rộng rãi IR36 và các giống lúa khác đã góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất lúa gạo, với sản lượng tăng lên đến 600 triệu tấn. Giống lúa năng suất cao, kháng bệnh tốt đã góp phần củng cố an ninh lương thực toàn cầu.

Trong dịp nhận giải ông chia sẻ: “Muốn làm sao để người nông dân Việt Nam giàu hơn. Đi nước này nước kia, tôi thấy sao người nông dân người ta giàu quá vậy, mà người nông dân nước mình tại sao lại nghèo thế. Cần làm sao để người nông dân trồng lúa Việt Nam có thu nhập cao lên. Từ đó tôi xác định mục tiêu để học, nghiên cứu nhằm giải quyết vấn đề”. Những giống lúa ông tạo ra cũng với mục tiêu chi phí giảm, ít sâu bệnh, năng suất cao và người dân có thể yên tâm gắn bó với đồng ruộng.

Nhiều chuyên gia nông nghiệp đánh giá “giống lúa IR36 đã tạo ra sự thay đổi lớn cho nền nông nghiệp nhờ khống chế được dịch rầy nâu. Những đóng góp trong ngành nông nghiệp của GS Võ Tòng Xuân góp phần đưa Việt Nam trở thành một trong 3 quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới”.

GS. TS Võ Tòng Xuân (phải) và Giáo sư Gurdev Singh Khush trong ngày nhận giải thưởng VinFuture năm 2023. Ảnh:Giang Huy

GS. TS Võ Tòng Xuân (phải) và Giáo sư Gurdev Singh Khush trong ngày nhận giải thưởng VinFuture năm 2023. Ảnh:Giang Huy

Sau những giống lúa năng suất cao, ông còn tham gia phát triển các giống lúa thơm, chất lượng cao. Trong đó có thể kể đến giống lúa ST 24, ST 25 mà “cha đẻ” các giống lúa này chính là kỹ sư Hồ Quang Cua – học trò của GS Võ Tòng Xuân.

Giải quyết vấn đề đất phèn: Ông đã có những nghiên cứu sâu rộng về việc sử dụng đất phèn. Trong số này có thể kể đến nghiên cứu sử dụng đất phèn Đồng bằng sông Cửu Long, thực hiện từ 1980 – 1992. Nghiên cứu góp phần đưa ra các giải pháp hiệu quả để cải tạo đất phèn, nâng cao năng suất cây trồng. Ông cũng có nhiều nghiên cứu hệ thống canh tác chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp từ năm 1990.

Đào tạo nhân tài: Từng chia sẻ với VnExpress khi ra Hà Nội nhận giải năm 2023, ông cho biết năm 1976, một năm sau khi lấy bằng “bác sĩ nông học” ở Nhật Bản (tương đương với tiến sĩ), ông về nước với mong muốn đào tạo đội ngũ kỹ sư nông nghiệp tại trường Đại học Cần Thơ. Kết quả, đã có hàng nghìn sinh viên được ông truyền kiến thức.

GS.TS Nguyễn Thị Lang, Viện trưởng Viện Nghiên cứu nông nghiệp công nghệ cao Đồng bằng sông Cửu Long cho biết, GS Xuân rất chú trọng đào tạo thế hệ trẻ kế cận. Khi ông còn làm Hiệu trưởng Đại học An Giang đã mời GS Lang xây dựng bộ môn công nghệ sinh học cho trường. “Thầy bảo ở lại trong nước ít tiền hơn nhưng hãy ráng sức vì Việt Nam”, bà nhớ mãi. Đó là lý do bà giữ lời hứa về xây dựng bộ môn công nghệ sinh học cho đại học An Giang trong 5 năm.

Nhà giáo nhân dân, GS.TS Võ Tòng Xuân. Ảnh:Văn Lưu

Nhà giáo nhân dân, GS.TS Võ Tòng Xuân. Ảnh:Văn Lưu

Hỗ trợ nông nghiệp các nước: Giáo sư Võ Tòng Xuân đã tích cực tham gia các dự án hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong việc phát triển nông nghiệp.

GS.TS Nguyễn Thị Lang, kể, có thời điểm khi ở bên Tây Phi, ông gọi điện cho GS Lang nhờ giúp tạo một số giống lúa đưa qua Tây Phi để giúp đỡ người dân. Bà đã gửi 10 giống lúa của Việt Nam sang và hiện phát triển mạnh. “Khi tôi đi dự hội nghị quốc tế, nhiều nhà khoa học nước ngoài đều hỏi tôi có biết thầy Xuân không”, bà nói danh tiếng của GS Xuân lan tỏa ra quốc tế và rất được trân trọng.

Nhóm Phóng viên

FPT động thổ Trung tâm trí tuệ nhân tạo ở Quy Nhơn

Trung tâm trí tuệ nhân tạo và Đô thị phụ trợ do tập đoàn FPT đầu tư rộng hơn 93 ha , tổng vốn 4.362 tỷ đồng, động thổ sáng 18/8.

Dự án Trung tâm trí tuệ nhân tạo (AI) và Đô thị phụ trợ tại Quy Nhơn ở phường Trần Quang Diệu và phường Bùi Thị Xuân, TP Quy Nhơn, do Liên danh FPT Quy Nhơn làm chủ đầu tư, bao gồm ba đơn vị: Công ty Cổ phần Đô thị FPT Đà Nẵng, Công ty TNHH Đầu tư FPT và Công ty TNHH Phần mềm FPT.

Lãnh đạo tỉnh Bình Định, lãnh đạo tập đoàn FPT và quan khách nhấn nút khởi công dự án. Ảnh: FPT

Lãnh đạo tỉnh Bình Định, lãnh đạo tập đoàn FPT và quan khách nhấn nút khởi công dự án. Ảnh: FPT

Dự án có ba phân khu chức năng chính: Trung tâm AI; Khu giáo dục và đào tạo và Khu đô thị phụ trợ. Trong đó, Trung tâm AI sẽ là nơi nghiên cứu, đào tạo, sản xuất phần mềm, hỗ trợ chuyển đổi số, cung cấp các giải pháp về an ninh mạng, an ninh xã hội, và ứng dụng AI trong đời sống nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị dịch vụ. Khu đô thị phụ trợ sẽ đảm bảo cung cấp các tiện ích đặc thù của một khu đô thị AI, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới và AI.

Phát biểu tại lễ khởi công, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định, ông Phạm Anh Tuấn, nhấn mạnh rằng dự án này là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Đây cũng là minh chứng cho sự quyết tâm của tỉnh trong việc nắm bắt và ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ vào thực tiễn, phù hợp với định hướng của Bộ Chính trị.

Theo lãnh đạo tỉnh, từ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 18 (nhiệm kỳ 2010-2015) đến nay, Bình Định luôn coi phát triển khoa học và công nghệ là hướng đi đột phá. Trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 20, tỉnh đã ban hành Chương trình hành động về phát triển khoa học và công nghệ, hướng tới mục tiêu đưa Bình Định trở thành điểm đến của các doanh nghiệp công nghệ, nhà khoa học trong và ngoài nước. Việc xây dựng Khu đô thị Khoa học Quy Hòa và Trung tâm AI – Đô thị phụ trợ tại Quy Nhơn là minh chứng rõ ràng cho quyết tâm này.

Ông Trương Gia Bình, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn FPT, cho biết dự án này sẽ góp phần thu hút đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu, sáng tạo và phát triển trí tuệ nhân tạo theo xu hướng công nghệ 4.0, hướng tới thời đại công nghệ 5.0. Khu đô thị sẽ được xây dựng hiện đại, đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và xã hội, với tính chất là một đô thị AI.

Phối cảnh dự án Trung tâm Trí tuệ nhân tạo (AI) và Đô thị phụ trợ ở Quy Nhơn. Ảnh: FPT

Phối cảnh dự án Trung tâm Trí tuệ nhân tạo (AI) và Đô thị phụ trợ ở Quy Nhơn. Ảnh: FPT

Tại buổi lễ, Liên danh FPT Quy Nhơn cũng đã ký biên bản ghi nhớ về việc bàn giao nhà trong năm 2025 cho các cán bộ, nhân viên có đóng góp tiêu biểu cho sự phát triển của FPT tại Bình Định. Đồng thời, FPT đã trao tặng tỉnh Bình Định 40 bộ máy tính cho Trường THPT Dân tộc nội trú Bình Định, hỗ trợ học sinh tiếp cận tri thức và công nghệ mới.

Trong những năm qua, FPT đã tích cực đồng hành cùng Bình Định trong việc thúc đẩy chuyển đổi số trên cả ba lĩnh vực: kinh tế số, xã hội số và chính quyền số. Tập đoàn cũng đã ký thỏa thuận lập quy hoạch tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, và thỏa thuận hợp tác thúc đẩy chuyển đổi số tỉnh giai đoạn 2021 – 2025, nhằm góp phần sớm đưa Bình Định trở thành tỉnh đi đầu cả nước về chuyển đổi số.

Hiện FPT đào tạo khoảng 2.000 học sinh, sinh viên tại Bình Định, với phân hiệu Trường Đại học FPT tại Bình Định hoạt động từ năm 2021, định hướng đào tạo chuyên sâu về AI. Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng AI của FPT tại Quy Nhơn cũng liên tục mang về các dự án AI triệu đôla từ nước ngoài, đồng thời tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động tại Bình Định và các tỉnh lân cận.

Phạm Linh

Loài động vật có bộ gene lớn nhất hành tinh

Các nhà khoa học giải trình tự thành công bộ gene của cá phổi Nam Mỹ với kích thước lớn gấp 30 lần bộ gene người.

Cá phổi Nam Mỹ có bộ gen lớn nhất trong số các loài động vật từng được kiểm tra. Ảnh: Katherine Seghers/Đại học bang Louisiana

Cá phổi Nam Mỹ có bộ gene lớn nhất trong số các loài động vật từng được kiểm tra. Ảnh: Katherine Seghers/Đại học bang Louisiana

Cá phổi đôi khi được gọi là “hóa thạch sống” vì chúng đã tồn tại hàng trăm triệu năm. Chúng được cho là sinh vật có họ gần nhất với những loài động vật có xương sống 4 chân (tetrapod) đầu tiên, tổ tiên của mọi loài có xương sống. Tetrapod có thể đã mọc chi và bò lên đất liền khoảng 370 triệu năm trước, trong kỷ Devon (cách đây 419 – 359 triệu năm).

Trước đây, giới khoa học đã giải trình tự bộ gene của một số loài cá phổi như cá phổi Australia (Neoceratodus forsteri) và cá phổi châu Phi (Protopterus annectens). Trong nghiên cứu mới trên tạp chí Nature, các chuyên gia giải trình tự bộ gene của cá phổi Nam Mỹ (Lepidosiren paradoxa) và nhận thấy chúng là loài động vật có bộ gene lớn nhất thế giới, Live Science hôm 16/8 đưa tin.

Cá phổi Nam Mỹ sở hữu tới 91 tỷ cặp base ADN (đơn vị cơ sở của ADN) trong bộ gene. Nếu kéo ra như một cuộn len, chiều dài ADN trong mỗi tế bào của loài vật này sẽ dài tới gần 60 m, trong khi ở người chỉ là khoảng 2 m.

Nhóm nhà khoa học cũng tìm hiểu lý do tại sao bộ gene của cá phổi Nam Mỹ lại phát triển nhanh như vậy trong 100 triệu năm qua. Hơn 90% vật liệu di truyền của chúng cấu tạo từ các gene nhảy (TE) có tính lặp lại cao được sao chép từ nơi khác trong bộ gene. Như vậy, có thể cá phổi thiếu cơ chế để ức chế gene nhảy.

Bộ gene quá lớn có thể gây rắc rối. “Đây là một chi phí khổng lồ với cá phổi Nam Mỹ. 18 trong số 19 nhiễm sắc thể của chúng có kích thước tương đương cả bộ gene người, nên cần rất nhiều năng lượng để sao chép ADN đó. Nhân và tế bào bao bọc xung quanh cũng phải lớn hơn”, Axel Meyer, thành viên nhóm nghiên cứu, nhà sinh học tiến hóa tại Đại học Konstanz, giải thích.

Tuy nhiên, ADN dồi dào có thể hữu ích khi động vật cần thích nghi với môi trường thay đổi, Meyer cho biết. Đó là vì TE có thể tăng hoặc giảm biểu hiện gene, giúp thích nghi nhanh hơn.

Cá phổi Nam Mỹ giữ kỷ lục về bộ gene lớn nhất từng ghi nhận trong thế giới động vật, nhưng không phải trong thế giới sinh vật nói chung. Danh hiệu đó thuộc về dương xỉ New Caledonia (Tmesipteris oblanceolate) với lượng ADN trong nhân tế bào nhiều gấp khoảng 50 lần con người. Chúng có tới 160 tỷ cặp base ADN trong bộ gene.

Thu Thảo (Theo Live Science)

‘Hỗ trợ xây dựng tiêu chuẩn quốc gia yến sào và trầm hương Khánh Hòa’

Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Trần Hồng Thái yêu cầu cơ quan trong Bộ hỗ trợ trước đề xuất xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về yến sào và trầm hương, đảm bảo “giảm thiểu tối đa thiệt hại”.

Yêu cầu được Thứ trưởng Trần Hồng Thái nêu tại buổi làm việc của đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ với UBND tỉnh Khánh Hòa, chiều 16/8 nhằm đánh giá kết quả hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo của địa phương. Hai bên dành nhiều thời gian để thảo luận về thuận lợi, khó khăn, đề xuất các giải pháp thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ, và đổi mới sáng tạo phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Khánh Hòa. Trong đó, địa phương đề xuất xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về sản phẩm yến sào, trầm hương; bảo hộ nhãn hiệu “Yến sào Khánh Hòa” và bổ sung “Yến sào” vào danh mục sản phẩm quốc gia.

Thứ trưởng Trần Hồng Thái kết luận cuộc họp tại UBND tỉnh Khánh Hòa, chiều 16/8. Ảnh: Bùi Toàn

Thứ trưởng Trần Hồng Thái phát biểu tại cuộc họp tại UBND tỉnh Khánh Hòa, chiều 16/8. Ảnh: Bùi Toàn

Tại cuộc họp, TS Triệu Việt Phương, quyền Viện trưởng Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam, cho biết trầm hương và yến sào là những sản phẩm có giá trị kinh tế cao, do vậy việc có thêm công cụ giúp cho việc kiểm soát chất lượng tốt hơn “đối với hai sản phẩm này rất cần thiết”.

Theo ông Phương, trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn quốc gia đều hướng đến yếu tố mang tính quốc tế. “Trầm hương và yến sào là sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao, do vậy cách tiếp cận phải vừa mang tính chất đặc thù của Việt Nam nhưng lại phù hợp và đáp ứng được thị trường quốc tế”, ông nói

TS Phương cho biết tiêu chuẩn quốc gia “chắc chắn” là công cụ hữu ích để đảm bảo chất lượng, và vấn đề khoa học, khảo sát, thử nghiệm để xác định đặc tính đặc thù của từng sản phẩm “là rất quan trọng và không thể tách rời”.

Ông cũng cho biết khi xây dựng tiêu chuẩn quốc gia cũng cần có thêm những công cụ hỗ trợ khác để có thể “vừa kiểm tra được chất lượng và vừa kiểm soát được nguồn gốc xuất xứ của những sản phẩm này, để có thể bảo vệ thương hiệu của quốc gia”.

Còn bà Nguyễn Như Quỳnh, Chánh thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết việc tỉnh Khánh Hòa đề xuất xây dựng tiêu chuẩn quốc gia về yến sào và trầm hương nhằm “bảo vệ hai sản phẩm đặc biệt này”, không chỉ là thế mạnh của tỉnh mà còn có những xu hướng phát triển linh hoạt, đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho đất nước.

Bà Quỳnh cho hay khi người dân biết đến Khánh Hòa thì thường nhắc đến yến sào, nhưng “câu hỏi đặt ra là tổ chức nào sẽ có quyền đăng ký nhãn hiệu yến sào Khánh Hòa này và phạm vi bảo vệ đến đâu? Đây là yếu tố rất lớn cần đặt ra để giải quyết, tránh xung đột quyền lợi giữa các tổ chức, cá nhân”.

Trầm hương cũng như vậy, vấn đề bảo hộ sản phẩm đặc biệt này bằng phương thức nào, bằng đối tượng sở hữu trí tuệ nào (nhãn hiệu chứng nhận hay chỉ dẫn địa lý)?. “Tôi nghĩ đấy không chỉ bài toán kỹ thuật mà là bài toán kinh tế rất lớn”, bà Quỳnh nói.

Bà Trịnh Thị Hồng Vân, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty yến sào Khánh Hòa cho biết sản phẩm yến sào tại địa phương đang tồn tại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc xây dựng tiêu chuẩn quốc gia sẽ bảo vệ cho người tiêu dùng cũng giống như công cụ để cơ quan chức năng dễ dàng quản lý và đảm bảo được phát triển bền vững của ngành nghề yến sào.

“Việc này sẽ nâng cao uy tín và năng lực cạnh tranh, mở ra cơ hội xuất khẩu và khẳng định được giá trị, định vị thương hiệu”, bà Vân nói, đồng thời kiến nghị Bộ cho một nhiệm vụ khoa học cấp quốc gia vì “đơn vị đang chú trọng đến phát triển các sản phẩm mới và nghiên cứu khoa học”.

Cuối cuộc họp, ông Lê Hữu Hoàng, Phó chủ tịch UBND tỉnh kiến nghị Bộ Khoa học và Công nghệ quan tâm giúp đỡ địa phương việc lập, trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt các đề án, kế hoạch nêu trong buổi làm việc; đồng thời có văn bản hướng dẫn tỉnh tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tỉnh.

Ông Lê Hữu Hoàng phát biểu tại cuộc hop chiều 16/8. Ảnh: TTTT

Ông Lê Hữu Hoàng phát biểu tại cuộc hop chiều 16/8. Ảnh: TTTT

Kết luận cuộc họp, Thứ trưởng Trần Hồng Thái cho biết sẽ “đặc biệt quan tâm” đến đề xuất của địa phương, đồng thời đề nghị các đơn vị chức năng của Bộ (trực tiếp là Vụ Khoa học và Công nghệ các ngành kinh tế kỹ thuật; Cục Sở hữu trí tuệ, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) phối hợp với các đơn vị liên quan để tiếp tục hướng dẫn địa phương thực hiện.

“Tôi đề nghị các đơn vị chức năng của bộ phối hợp với ngành liên quan tiếp tục tổng hợp những khó khăn, đề xuất của địa phương để kịp thời giải quyết, tháo gỡ giúp địa phương”, Thứ trưởng Thái nói.

Ông cũng đề nghị Khánh Hòa Đẩy mạnh triển khai thực hiện các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ trực tiếp cho các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, phát huy hiệu quả tiềm năng, lợi thế của tỉnh; tập trung phát triển các sản phẩm có lợi thế của địa phương, sản phẩm theo chuỗi giá trị, phục vụ tăng trưởng, phát triển kinh tế -xã hội của tỉnh.

Bùi Toàn

Nhà khoa học Việt tạo giống lúa màu năng suất bằng lúa thường

TS Đào Minh Sô cùng các cộng sự lai tạo thành công ba giống lúa màu đỏ, tím, đen, trong đó giống đỏ (SR20) năng suất cao nhất 8 tấn mỗi hecta, tương đương lúa thường.

TS Sô hiện là Trưởng bộ môn chọn tạo giống cây trồng, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam). Ông cùng với nhóm nghiên cứu dành gần 10 năm chọn lọc thành công ba giống lúa màu đỏ (SR20), tím (SR21), đen (SR22) đạt các tiêu chí về độ thuần, năng suất, khả năng chống chịu bệnh, thành phần dinh dưỡng… Hiện giống SR20 và SR21 được đăng ký bảo hộ giống, lưu hành trong nước.

TS Đào Minh Sô (phải) tại khu trồng lúa thử nghiệm rộng 1 ha ở huyện Củ Chi, TP HCM. Ảnh: Hà An

TS Đào Minh Sô (phải) tại khu trồng lúa thử nghiệm rộng 1 ha ở huyện Củ Chi, TP HCM. Ảnh: Hà An

Theo TS Sô lúa màu biểu hiện ở vỏ cám của hạt, chứa dinh dưỡng tốt cho sức khỏe như chất khoáng, vitamin, chất chống oxy hóa… Lúa màu được chế biến thành các dạng gạo lứt dùng cho người ăn kiêng, người mắc các bệnh mạn tính. Tuy nhiên, nhược điểm lúa năng suất thấp do đặc tính hàm lượng diệp lục ít, làm giảm khả năng quang hợp. Ngoài ra, khi nấu thành cơm ăn không ngon vì không có độ dẻo như gạo trắng thông thường. Nhóm đã tập trung khắc phục được những nhược điểm này. Theo ông Sô, giá mỗi kg từ 50.000 – 100.000 đồng, phục vụ thị trường người ăn kiêng nên rất tiềm năng.

Thử nghiệm cả trăm phép lai, kéo dài nhiều năm trong khoảng 8 – 10 thế hệ, nhóm chọn ra ba giống lúa màu đạt các tiêu chí về năng suất, hàm lượng chất dinh dưỡng, khả năng chống bệnh. Theo TS Sô, công đoạn chọn lọc giống ứng với các tiêu chí đề ra được coi quan trọng nhất, quyết định thành công cho việc tạo giống mới. “Một giống được cho là thuần khi đạt các chỉ tiêu đồng đều về thời gian sinh trưởng, chiều cao, thời gian trổ bông… Các chỉ tiêu về độ dẻo, mềm, thơm… chủ yếu ảnh hưởng bởi kiểu gene trên giống”, TS Sô nói và cho rằng đây là quá trình tốn nhiều thời gian, công sức, chi phí nhất trong chọn tạo giống.

Giống lúa đen SR22 được trồng thực nghiệm tại Củ Chi. Ảnh: Hà An

Giống lúa đen SR22 được trồng thực nghiệm tại Củ Chi. Ảnh: Hà An

Với giống SR20, thời gian thu hoạch trong 90 – 95 ngày, sản lượng 5 – 8 tấn mỗi ha, tương đương với lúa thường. Về độ dẻo, SR20 có hàm lượng amylose (chất có trong tinh bột) 17 – 18% thuộc nhóm mềm. Giống này có chỉ số đường huyết thấp, phù hợp người ăn kiêng, người giảm béo.

Giống SR21 có năng suất thấp hơn SR20 với khoảng 4 – 6 tấn mỗi ha, thời gian thu hoạch 100 – 105 ngày. Theo nhóm nghiên cứu, điểm mạnh của SR21 là có mùi thơm, chỉ số chuyển hóa đường thấp, hạt có độ dài 8 mm phù hợp thị hiếu tiêu thụ gạo hiện nay.

Còn giống SR22 năng suất khoảng 4 – 6 tấn, thời gian thu hoạch 95 ngày. Điểm mạnh của giống SR22 có hàm lượng anthocyanin cao nhất trong ba giống. Chất này có tác dụng hỗ trợ giúp cơ thể chống lại các tế bào oxy hóa, giúp phòng chống ung thư. “Anthocyanin là chất chỉ có trong các loại gạo màu”, TS Sô nói.

Ba loại lúa màu của nhóm chọn tạo phù hợp với nhiều vùng trồng, có khả năng chống chịu các loại bệnh phổ biến như đạo ôn, bạc lá, rầy nâu…Theo TS Sô, với gạo trắng khi lúa đạt độ chín 85% là thu hoạch. Riêng lúa màu, nông dân cần đợi trên 95% mới thu. Vì ở giai đoạn này lúa màu mới hoàn toàn tích lũy đầy đủ màu sắc, chất dinh dưỡng.

Ba giống gạo màu do nhóm nghiên cứu lai tạo thành công. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Ba giống gạo màu do nhóm nghiên cứu lai tạo thành công. Ảnh: Nhóm nghiên cứu

Theo nhóm nghiên cứu, giống lúa hiện nay có thể trồng mở rộng, phục vụ sản xuất thương mại. Tuy nhiên lãnh đạo một doanh nghiệp xuất nhập khẩu nông sản tại TP HCM, cho rằng các loại gạo màu chỉ phù hợp cho người ăn kiêng, người đang điều trị bệnh… Do đó, thị phần cho gạo màu tại Việt Nam chưa nhiều, tập trung vào nhóm nhỏ, nên tiêu thụ không cao ở thời điểm hiện tại. “Mặc dù cải thiện được năng suất, nhưng yếu tố quan trọng nhất của lúa màu phải đạt có độ mềm dẻo, ngon khi ăn mới phù hợp khẩu vị của người dân”, ông nói.

Hà An