Microsoft công bố Majorana 1, mẫu chip mới được khẳng định giúp máy tính lượng tử tiến ra đời thực trong vài năm thay vì nhiều thập kỷ.
“Hãy tưởng tượng một chip nằm gọn trong lòng bàn tay bạn nhưng vẫn có khả năng giải quyết những vấn đề mà tất cả máy tính trên Trái Đất ngày nay cộng lại cũng không thể”, CEO Microsoft Satya Nadella đăng trên X sau khi công ty ra mắt Majorana 1 ngày 19/2.
Nadella không đề cập trực tiếp đến Majorana 1, nhưng tiết lộ những tiến bộ khoa học đang giúp tiến gần hơn đến tương lai đó. Majorana 1 là chip lượng tử đầu tiên được trang bị kiến trúc Topological Core. Đây là kiến trúc mới, hứa hẹn tạo ra những máy tính lượng tử có khả năng giải quyết các vấn đề có ý nghĩa “ở quy mô công nghiệp” trong vòng vài năm thay vì vài thập kỷ, tức tốc độ đã tăng hàng chục lần so với trước đây.
Chip lượng tử Majorana 1. Ảnh: Microsoft
Theo Nadella, điều này nhờ đột phá của công ty trong việc nghiên cứu một trạng thái vật chất mới, bên cạnh rắn, lỏng, khí. “Sau gần 20 năm theo đuổi, chúng tôi tạo ra một trạng thái vật chất hoàn toàn mới, được mở khóa bằng với một loại vật liệu mới là chất bán dẫn topoconductor”, ông nói.
Vật liệu này, theo Nadella, có thể tạo bước nhảy vọt cơ bản trong máy tính. Theo đó, các qubit được tạo ra bằng topoconductor “nhanh hơn, đáng tin cậy hơn và nhỏ hơn”, với kích thước bằng 1/100 mm. Từ đó, tiềm năng để tạo các mẫu chip với khả năng xử lý hàng triệu qubit sẽ đơn giản hơn. Đây là nền tảng cho máy tính lượng tử.
Tỷ phú Elon Musk cũng chia sẻ bài đăng của Nadella, đánh giá công nghệ “ngày càng có nhiều đột phá”.
Microsoft cho biết, tương tự phát minh chất bán dẫn đã thúc đẩy điện thoại thông minh, máy tính và thiết bị điện tử ngày nay, topoconductor và các loại chip mới mở ra con đường phát triển hệ thống lượng tử lên tới một triệu qubit, có khả năng giải quyết những vấn đề công nghiệp và xã hội phức tạp nhất.
Máy tính lượng tử có thể thực hiện các phép tính mà hệ thống hiện nay cần hàng triệu năm, mở khóa những khám phá mới trong y học, hóa học và nhiều lĩnh vực khác. Trong khi máy tính truyền thống dựa vào các bit nhị phân – bật hoặc tắt, ký hiệu là 1 và 0, để xử lý thông tin, máy tính lượng tử sử dụng cái gọi là bit lượng tử, hay qubit, làm nền tảng và có thể xử lý 0, 1 hoặc cả hai cùng lúc. Vì thông tin cơ bản của máy tính lượng tử có thể biểu thị tất cả khả năng đồng thời, về lý thuyết, chúng nhanh và mạnh hơn nhiều so với máy tính thông thường sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.
Tuy nhiên, thách thức ngăn máy tính lượng tử bước ra thế giới thực là chúng dễ bị lỗi khi xử lý, làm xáo trộn các qubit khiến kết quả bị sai. Do đó, chúng cần có khả năng sửa những lỗi nhanh và chính xác hơn. Microsoft cho biết Majorana 1 ít lỗi hơn so với đối thủ cạnh tranh nhờ được phát triển dựa trên giải pháp lai giữa chất bán dẫn truyền thống và hạt hạ nguyên tử fermion Majorana.
Philip Kim, giáo sư vật lý tại Đại học Harvard, nói trên Reuters rằng fermion Majorana là chủ đề nóng trong giới vật lý và công nghệ nhiều thập kỷ qua. Ông gọi công trình của Microsoft là “sự phát triển thú vị”, góp phần đưa công ty lên vị trí hàng đầu trong hành trình nghiên cứu lượng tử.
Tháng 12/2024, Google cũng ra mắt Willow, chip lượng tử nhỏ như viên kẹo và cũng có khả năng giảm thiểu lỗi tính toán theo cấp số nhân. “Điều này đã chinh phục được thử thách lớn nhất trong việc sửa lỗi lượng tử, điều mà toàn lĩnh vực theo đuổi suốt gần 30 năm qua”, Hartmut Neven, đứng đầu bộ phận Google Quantum AI, nói khi đó.
Câu hỏi khi nào máy tính lượng tử được thương mại hóa cũng là chủ đề tranh luận trong giới tinh hoa của ngành công nghệ. Tháng trước, CEO Nvidia Jensen Huang tuyên bố chip lượng tử còn cách hai thập kỷ nữa mới có thể vượt chip của công ty ông.
Trong khi đó, khi giới thiệu chip Willow, Google cho rằng ứng dụng điện toán lượng tử thương mại chỉ còn cần 5 năm nữa. Trước đó, IBM từng dự đoán máy tính lượng tử quy mô lớn sẽ ra đời năm 2033.
Chiều ngày 18/02/2025, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng – Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) được Quốc hội phê chuẩn giữ chức Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN).
Sáng ngày 18/02, tại kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV và Nghị quyết về cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Chiều cùng ngày, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ KH&CN nhiệm kỳ 2021-2026.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng.
Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng sinh ngày 24/7/1962 tại xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đồng chí là Ủy viên chính thức Trung ương Đảng khóa XII, XIII. Đồng chí học chuyên ngành kỹ sư vô tuyến điện và tốt nghiệp tại Trường Thông tin Ulianop – Liên Xô (trước đây); thạc sĩ viễn thông ở Australia; thạc sĩ quản trị kinh doanh ở Đại học Kinh tế Quốc dân; Cao cấp lý luận chính trị.
Đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng là một trong những nhà lãnh đạo nổi bật của ngành công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam. Trong hơn 6 năm đảm nhiệm vai trò Bộ trưởng, ông đã thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết liệt trong việc thúc đẩy chuyển đổi số, xây dựng nền tảng công nghệ quốc gia và đưa Việt Nam trở thành quốc gia số.
Trước khi trở thành Bộ trưởng Bộ KH&CN, đồng chí Nguyễn Mạnh Hùng đã có những kiến giải nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số (KH,CN,ĐMST&CĐS), như: “Muốn phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thì các doanh nghiệp lớn phải đi đầu”; “Muốn có doanh nghiệp lớn thì nhà nước phải giao việc lớn cho họ, đặt hàng, giao nhiệm vụ cho họ. Có việc lớn thì doanh nghiệp Việt Nam mới lớn nên được. Doanh nghiệp sau khi đã thành công thì cần có việc lớn, thách thức lớn để tạo ra tự hào Việt Nam”; “Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, phải đi đầu về ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số, từ đó dẫn dắt các doanh nghiệp Việt Nam khác cũng ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số, khơi dậy làn sóng phát triển khoa học, công nghệ của nước nhà”…
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tặng hoa chúc mừng Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy.
Quá trình công tác của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng
– 8/1986 – 4/1997: Trung úy, Thượng úy, Đại úy, Thiếu tá. Trợ lý kỹ thuật Viện Kỹ thuật thông tin, tiếp theo là Công ty Điện tử thiết bị thông tin, Binh chủng Thông tin liên lạc.
– 5/1997 – 3/2005: Thiếu tá, Trung tá, Thượng tá, Phó phòng, Trưởng phòng Đầu tư, sau đó làm Phó Giám đốc Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội, Binh chủng Thông tin liên lạc; Đảng ủy viên Công ty từ tháng 5/1998.
– 4/2005 – 01/2014: Thượng tá, Đại tá, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Viễn thông Quân đội, sau là Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Bộ Quốc phòng; được thăng quân hàm Thiếu tướng năm 2012.
– 02/2014 – 5/2018: Thiếu tướng, Phó Bí thư Đảng ủy, Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tham gia Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2015-2020.
– 6/2018 – 7/2018: Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên quân ủy Trung ương, Thiếu tướng, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội.
– Từ 8/2018: Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban cán sự Đảng, Quyền Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, kiêm Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
– 24/01/2025: Bộ Chính trị chỉ định tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ Chính phủ nhiệm kỳ 2020 – 2025.
– Ngày 18/02/2025: Được điều động, bổ nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ KH&CN.
Tắt sóng 2G, đưa 18 triệu thuê bao lên 4G; Quốc hội thông qua Luật Dữ liệu; chính thức thương mại hoá 5G… là những sự kiện công nghệ thông tin tiêu biểu năm 2024.
Câu lạc bộ Nhà báo CNTT Việt Nam vừa chính thức công bố 10 sự kiện ICT tiêu biểu nhất năm 2024 – Ảnh: VGP/HM
Tắt sóng 2G đưa 18 triệu thuê bao lên 4G
Theo chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, một trong những mục tiêu quan trọng của Việt Nam là xây dựng xã hội số, thu hẹp khoảng cách số với việc phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh vào năm 2025, tiến tới phổ cập dịch vụ mạng di động 5G vào năm 2030.
Tính đến nay, đã có xấp xỉ 18 triệu thuê bao 2G only được chuyển đổi lên 4G, trong số đó có một tỷ lệ lớn chuyển sang sử dụng các thiết bị smartphone. Đây là cột mốc quan trọng để Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu phổ cập 4G, 5G, thúc đẩy kinh tế số và quá trình chuyển đổi số quốc gia.
Quốc hội thông qua Luật Dữ liệu
Ngày 30/11/2024, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Dữ liệu, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Luật này được kỳ vọng sẽ thiết lập thị trường dữ liệu, thúc đẩy chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế và thay đổi phương thức giao tiếp giữa cơ quan nhà nước với tổ chức, cá nhân trên môi trường số.
Chính phủ ban hành Nghị định về việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng
Nghị định số 147/2024/NĐ-CP áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc có liên quan đến việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng.
Một điểm đáng chú ý là các nền tảng số trong và ngoài nước có trách nhiệm tuân thủ quy định Việt Nam, bao gồm việc lưu trữ dữ liệu và cung cấp thông tin người dùng khi có yêu cầu hợp pháp.
Chính phủ vừa ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050
Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050
Theo Chiến lược, giai đoạn 2024 – 2030, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một trong các trung tâm về nhân lực bán dẫn toàn cầu. Quy mô doanh thu công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đạt trên 25 tỷ USD/năm.
Giai đoạn 2030 – 2040, Việt Nam sẽ trở thành một trong các trung tâm về công nghiệp bán dẫn, điện tử toàn cầu; phát triển công nghiệp bán dẫn, điện tử kết hợp giữa tự cường và FDI. Quy mô doanh thu công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đạt trên 50 tỷ USD/năm.
Tới giai đoạn 2040 – 2050, Việt Nam trở thành quốc gia thuộc nhóm các quốc gia đi đầu trên thế giới về công nghiệp bán dẫn, điện tử; làm chủ nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực bán dẫn, điện tử. Đến 2050, quy mô doanh thu công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam đạt trên 100 tỷ USD/năm; quy mô doanh thu công nghiệp điện tử tại Việt Nam đạt trên 1.045 tỷ USD/năm.
Chính phủ phê duyệt Chiến lược Hạ tầng số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030
Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2025 phổ cập cáp quang đến các hộ gia đình; 100% các tỉnh, thành phố và các khu công nghệ cao có dịch vụ di động 5G…
Mục tiêu đến năm 2030 hướng đến phủ sóng mạng di động 5G tới 99% dân số, triển khai thử nghiệm mạng 6G, phát triển 6 tuyến cáp quang biển quốc tế mới, nâng dung lượng cáp quang biển đạt tối thiểu 350 Tbps…
Chính thức thương mại hoá 5G
Ngày 15/10, Viettel thương mại hóa 5G, phủ sóng 100% thủ phủ của 63/63 tỉnh, thành phố, các khu công nghiệp, khu du lịch, cảng biển, sân bay, bệnh viện, đại học.
Ngày 20/12, Tập đoàn VNPT đã công bố chính thức cung cấp dịch vụ VinaPhone 5G siêu tốc độ, siêu trải nghiệm và đặt mục tiêu sẽ tiếp tục được phủ sóng rộng hơn nữa trong năm 2025 và sớm phủ sóng 85% dân số trong thời gian tới.
MobiFone cũng đang dự kiến thương mại hóa 5G vào đầu năm 2025 với mục tiêu phủ rộng khắp các tỉnh thành trong cả nước.
Dự báo, đến năm 2030, 5G đem lại cho các nhà mạng Việt Nam doanh thu 1,5 tỷ USD. Năm 2025, 5G có khả năng đóng góp vào tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 7,3- 7,4%.
Hợp nhất Bộ TT&TT và KH&CN để thúc đẩy chuyển đổi số
Theo Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, việc hợp nhất 2 bộ tốt cho đất nước và cho ngành. Hai Bộ nhập vào nhau sẽ thành một bộ máy mạnh hơn, thúc đẩy chuyển đổi số tốt hơn.
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược dữ liệu quốc gia đến năm 2030
Chiến lược đặt mục tiêu đến năm 2030 là 100% các Trung tâm dữ liệu quốc gia, Trung tâm dữ liệu vùng, khu vực, Trung tâm cấp quốc gia về lưu trữ dữ liệu lớn và tính toán hiệu năng cao trên cả nước được bảo đảm kết nối thành công, tạo thành một mạng lưới chia sẻ năng lực tính toán, xử lý dữ liệu lớn phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa của đất nước…
Các ngân hàng thực hiện sinh trắc học để chống lừa đảo trực tuyến
Năm 2024, xác thực sinh trắc học trở thành “từ khóa chủ chốt” trong toàn ngành ngân hàng khi được xác định là giải pháp quan trọng chống lừa đảo online.
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, từ 1/1/2025, các chủ tài khoản chưa hoàn tất việc cập nhật thông tin sinh trắc học sẽ không thể thực hiện giao dịch trực tuyến.
NVIDIA mua cổ phần Vinbrain, mở 2 trung tâm nghiên cứu AI tại Việt Nam
Ngày 5/12/2024, Tập đoàn NVIDIA đã ký thỏa thuận hợp tác với Chính phủ Việt Nam thành lập Trung tâm nghiên cứu và phát triển (VRDC) và Trung tâm dữ liệu AI tại Việt Nam.
NVIDIA cũng cho biết đã ký thỏa thuận với một số đối tác về việc dịch chuyển chuỗi sản xuất từ các nước khác sang Việt Nam, với cam kết đầu tư từ 4-4.5 tỷ USD trong vòng 4 năm tới. Việc này sẽ giúp tạo thêm khoảng 4.000 việc làm trực tiếp và khoảng 40.000-50.000 việc làm gián tiếp trong những năm tới.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam hiện có 174 dự án FDI trong lĩnh vực bán dẫn với tổng vốn đăng ký gần 11,6 tỷ USD.
Tốc độ Internet tăng liên tục sau khi triển khai 5G, đưa Việt Nam lần đầu vào top 40 toàn cầu cả về kết nối di động và cố định.
Thống kê do Ookla Speedtest công bố cho thấy tốc độ tải xuống của mạng Internet di động tại Việt Nam tháng 12/2024 đạt 86,96 Mbps, cao nhất từ trước đến nay và cao hơn 60% so với tháng 9/2024. Kết quả này giúp Việt Nam tăng 7 bậc so với tháng trước đó trên bảng xếp hạng của Ookla, lên vị trí 37 trên toàn cầu.
Đây cũng là lần đầu cả hai hạng mục mạng di động và cố định của Việt Nam nằm trong top 40. Hồi tháng 6/2024, Internet cố định từng vào danh sách này với tốc độ 136 Mbps. Số liệu mới của Ookla cho thấy tốc độ này hiện đã lên 159,32 Mbps và đứng thứ 35 toàn cầu.
Việt Nam trong top 40 ở cả Internet di động và cố định, theo báo cáo của Ookla (ảnh vnexpress)
Còn theo số liệu của Trung tâm Internet Việt Nam VNNIC, tốc độ Internet di động là 67,85 Mbps, trong khi Internet cố định là 130,91 Mbps. Dù tăng trưởng, Internet di động vẫn chênh lệch lớn giữa đường xuống và đường lên. Tốc độ upload trung bình ghi nhận ở cả hai công cụ của VNNIC và Ookla đều khoảng 25 Mbps.
Ba tháng cuối năm cũng là giai đoạn các nhà mạng trong nước triển khai thương mại hóa 5G, đưa tốc độ Internet di động liên tục tăng. Trong thông tin đưa ra giữa tháng 12, Viettel cho biết có khoảng 70% thuê bao trong vùng phủ sóng 5G đã sử dụng kết nối thế hệ mới, tương đương 4 triệu người dùng. VNPT công bố thương mại hóa mạng 5G vào ngày 20/12, trên băng tần 3.700-3.800 Mhz. Nhiều người đo bằng ứng dụng Speedtest cho thấy tốc độ có thể đạt 1,5-1,9 Gbps, hơn 10 lần mạng 4G.
Thay đổi của Internet di động trong 12 tháng (ảnh vnexpress)
Theo Chiến lược hạ tầng số được Chính phủ phê duyệt tháng 10/2024, Việt Nam đặt mục tiêu năm 2025, 100% các tỉnh, thành phố, các khu công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, trung tâm nghiên cứu phát triển, đổi mới sáng tạo, khu công nghiệp, nhà ga/cảng biển/sân bay quốc tế có dịch vụ di động 5G. Đến năm 2030, mạng băng rộng di động 5G phủ sóng 99% dân số.
Tính trên toàn bộ các thị trường mà hãng nghiên cứu Ookla theo dõi, tốc độ tải xuống trung bình của Internet di động là 62,79 Mbps, cố định là 96,45, đều thấp hơn của Việt Nam. Ở hai hạng mục này, dẫn đầu lần lượt là UAE với tốc độ di động 453,87, trong khi Singapore dẫn đầu Internet cố định với 330,98 Mbps.
Ngày 05/02/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Bùi Thanh Sơn đã ký Quyết định số 245/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử (NLNT) thời kỳ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Quy hoạch với mục tiêu tổng quát phát triển, ứng dụng NLNT đến năm 2030 là hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách và cơ quan quản lý nhà nước về NLNT được hoàn thiện phù hợp với thông lệ quốc tế; hệ thống các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, đào tạo trong lĩnh vực NLNT được quy hoạch tinh gọn, nâng cấp về cơ sở vật chất kỹ thuật và chất lượng nhân lực, hoạt động có hiệu quả; một số dự án trọng điểm đã được phê duyệt triển khai đúng tiến độ; một số lĩnh vực khoa học, công nghệ và ứng dụng NLNT có thế mạnh vươn lên đạt trình độ tiên tiến trong khu vực; các hoạt động ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ được triển khai rộng rãi, hiệu quả trong các ngành, lĩnh vực, góp phần tích cực vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, nâng cao sức khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường và bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân.
Khẩn trương hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng điện hạt nhân quốc gia để phục vụ triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và tiếp tục nghiên cứu, triển khai Chương trình phát triển điện hạt nhân quốc gia; nghiên cứu, xây dựng định hướng đẩy mạnh thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng phóng xạ phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam.
Mục tiêu tầm nhìn đến năm 2050, ứng dụng bức xạ, đồng vị phóng xạ và phát triển điện hạt nhân có đóng góp quan trọng và hiệu quả cho phát triển kinh tế – xã hội, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân; trình độ khoa học và công nghệ hạt nhân và nhiều lĩnh vực ứng dụng NLNT ngang bằng với mức trung bình của các quốc gia phát triển; làm chủ và từng bước tự chủ được các công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, bảo đảm ứng dụng năng lượng nguyên tử có đóng góp hiệu quả trong các ngành, lĩnh vực kinh tế – xã hội.
Về phát triển, ứng dụng bức xạ và đồng vị trong ngành y tế: Quy hoạch đặt mục tiêu đến năm 2030 hoàn thiện và phát triển mạng lưới các cơ sở y tế chuyên ngành điện quang, y học hạt nhân, ung bướu – xạ trị, phân bố hợp lý ở các vùng, địa phương phục vụ công tác khám, chữa bệnh, nghiên cứu khoa học và đào tạo; nâng cao hiệu quả, chất lượng khám, chữa bệnh trên cơ sở nâng cao chất lượng nhân lực, ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, hoàn thiện quản lý trong các cơ sở y học bức xạ; nghiên cứu, phát triển, sản xuất và ứng dụng một số thuốc phóng xạ, hợp chất đánh dấu phục vụ chẩn đoán, điều trị bệnh, bảo đảm an toàn và bảo vệ chống bức xạ cho bệnh nhân, nhân viên y tế và môi trường.
Tại Việt Nam, thời gian qua, ứng dụng NLNT và công nghệ bức xạ trong y tế đã có nhiều thành tựu, góp phần đáng kể vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe (Ảnh: TTXVN).
Về phát triển, ứng dụng bức xạ và đồng vị trong ngành tài nguyên và môi trường: Mục tiêu tổng quát đến năm 2030, phát triển ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong quan trắc, dự báo khí tượng thủy văn; điều tra cơ bản tài nguyên nước, địa chất và khoáng sản; bảo vệ môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị và đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về ứng dụng kỹ thuật bức xạ và kỹ thuật đồng vị trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường cho các cơ sở nghiên cứu, đào tạo và ứng dụng theo hướng đồng bộ, hiện đại.
Về phát triển ứng dụng bức xạ và đồng vị trong ngành nông nghiệp: Mục tiêu đến năm 2030, nâng cao năng lực nghiên cứu và triển khai, tiếp cận và làm chủ các kỹ thuật tiên tiến về ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các lĩnh vực: chọn tạo giống cây trồng, vi sinh vật; bảo vệ thực vật; nông hóa, thổ nhưỡng và dinh dưỡng cây trồng; chăn nuôi, thú y; nuôi trồng thủy sản; bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Một số lĩnh vực, cơ sở nghiên cứu ứng dụng NLNT trong nông nghiệp có thế mạnh đạt trình độ khu vực và quốc tế.
Ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong nông nghiệp được tăng cường, mở rộng, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm an ninh lương thực, đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần tích cực vào phát triển nền nông nghiệp bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu.
Về phát triển ứng dụng bức xạ và đồng vị trong ngành công nghiệp: Mục tiêu đến năm 2030, đẩy mạnh ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các ngành công nghiệp; sản xuất, chế tạo một số loại thiết bị bức xạ và thiết bị ghi đo bức xạ có nhu cầu lớn trong các ngành kinh tế – xã hội thay thế cho nhập khẩu; thương mại hóa các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật được tạo ra từ các kết quả nghiên cứu; tăng cường nghiên cứu tiếp thu, làm chủ các công nghệ mới về ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ trong các lĩnh vực chiếu xạ công nghiệp, kiểm tra không phá hủy, kỹ thuật đánh dấu, kỹ thuật soi chiếu, hệ điều khiển hạt nhân; ưu tiên các công nghệ có nhu cầu sử dụng lớn, tính cạnh tranh cao, phục vụ phát triển ngành công nghiệp và các ngành, lĩnh vực khác trong nước cho giai đoạn tiếp theo.
Về phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ hạt nhân, đào tạo nguồn nhân lực, bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân: Mục tiêu đến năm 2030 tái cấu trúc chức năng, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ sở nghiên cứu và đào tạo hiện có đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và chất lượng về nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ hạt nhân trong các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng lực hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác bảo đảm an toàn và an ninh hạt nhân trong phát triển, ứng dụng NLNT và triển khai Dự án điện hạt nhân Ninh Thuận.
Quy hoạch đưa ra giải pháp thực hiện để đạt được các mục tiêu trên gồm: Giải pháp về hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý; Giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách về phát triển, ứng dụng NLNT; Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực; Giải pháp về xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; Giải pháp về bảo đảm an toàn, an ninh hạt nhân; Giải pháp về nâng cao nhận thức và sự ủng hộ của cộng đồng; Giải pháp về đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế; Giải pháp về đầu tư, tài chính và huy động vốn; Giải pháp về tổ chức thực hiện quy hoạch.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
Công ty Singapore giới thiệu loại pin mới làm từ vật liệu bền vững, an toàn với chi phí sản xuất chỉ bằng khoảng 10% pin lithium-ion.
Pin giấy phân hủy sinh học của Flint. Ảnh: Flint
Flint, công ty Singapore chuyên phát triển các giải pháp năng lượng bền vững, gây chú ý trong lĩnh vực công nghệ pin với sản phẩm pin giấy tiên tiến. Loại pin này hứa hẹn mang đến nhiều lợi ích ấn tượng so với các giải pháp lưu trữ năng lượng truyền thống. Flint đã giới thiệu công nghệ tiên phong này tại triển lãm CES 2025 diễn ra ở Las Vegas, Mỹ, ngày 7 – 10/1.
Pin giấy của Flint là loại pin bán rắn, dùng một vòng hydrogel để làm cả tấm ngăn lẫn chất điện giải trong một tờ giấy. Thiết kế này khác biệt với pin lithium-ion thông thường vì đã thay các vật liệu độc hại và nhạy cảm về địa chính trị như lithium, cobalt, nickel, bằng những lựa chọn an toàn và bền vững như kẽm, mangan.
Theo đại diện công ty, pin mới rất nhẹ, linh hoạt và dễ thích ứng về hình dạng, không chỉ mang lại sự an toàn mà còn có chi phí thấp hơn đáng kể so với pin lithium-ion truyền thống. Thiết kế gốc hydrogel góp phần giúp nó phân hủy hoàn toàn trong vòng 6 tuần khi chôn dưới đất, không để lại chất thải độc hại. Điều này khiến pin giấy bền vững hơn các loại pin truyền thống, có thể mất hàng thập kỷ để phân hủy và gây rủi ro môi trường lớn.
Ngoài ra, trong khi pin lithium-ion có nguy cơ rò rỉ, cháy nổ, pin giấy đã được kiểm tra nghiêm ngặt để chịu được cháy, cắt, đâm và uốn cong. Những thử nghiệm này xác nhận khả năng hoạt động an toàn của pin.
Về hiệu suất năng lượng, mỗi viên pin giấy cung cấp dung lượng 600 mAh, đủ cho nhiều ứng dụng tiêu dùng và công nghiệp. Hiện tại, hiệu suất năng lượng của nó vẫn thấp hơn pin lithium-ion, nhưng Flint đang nỗ lực cải tiến. Công ty tin rằng pin giấy có thể được sử dụng rất nhiều lĩnh vực, từ điện tử tiêu dùng đến công nghiệp.
Tính linh hoạt của pin giấy cùng với việc Flint tập trung vào hiệu quả chi phí giúp loại pin mới trở thành sự thay thế hấp dẫn cho pin truyền thống. Chi phí sản xuất pin giấy hiện tương đương 10% chi phí của pin lithium-ion, nhưng công ty đang nỗ lực tăng quy mô sản xuất nhằm giảm chi phí hơn nữa và giúp pin trở nên dễ mua hơn.
Flint dự định thành lập một cơ sở sản xuất thí điểm tại Singapore, và thêm một số cơ sở tại Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ, Việt Nam trong tương lai. Công ty đặt mục tiêu đến cuối năm sẽ có những viên pin giấy quy mô thương mại đầu tiên xuất xưởng.
Xin hỏi về những thay đổi trong quản lý chương trình, nhiệm vụ sử dụng ngân sách được quy định tại dự thảo Luật Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo? (Tùng, Hà Nội)
Trả lời: Tại dự thảo Luật Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo đang được Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng có nhiều điểm mới trong quản lý chương trình, nhiệm vụ sử dụng ngân sách nhà nước.
Theo đó các chương trình, nhiệm vụ và đề tài nghiên cứu sẽ đổi mới cách thức triển khai theo hai phương thức: do Nhà nước đặt hàng và do tổ chức, cá nhân đề xuất để có cơ chế giao kết quả phù hợp, thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước. Kinh phí sẽ được giao cho tổ chức chủ trì, không giao trực tiếp cho chủ nhiệm đề tài. Ngoài ra, việc sử dụng chung phòng thí nghiệm và các cơ chế hợp tác giữa các tổ chức nghiên cứu sẽ được khuyến khích để tối ưu hóa nguồn lực.
Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ tiếp tục phân cấp quản lý các chương trình cho các bộ, ngành và địa phương, đồng thời thực hiện kiểm tra và đánh giá việc thực hiện; bổ sung quy định về đánh giá chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ; chủ thể thực hiện đánh giá; trách nhiệm của tổ chức chủ trì, bộ, ngành, địa phương, cơ quan quản lý chương trình nhiệm vụ; bổ sung quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát để tạo hành lang pháp lý thử nghiệm các công nghệ mới mà pháp luật chưa có quy định hoặc cấm thử nghiệm.
Dự thảo Luật gồm 14 chương và 83 điều; trong đó nhiều nội dung chính, quan trọng được kế thừa từ Luật năm 2013. Dự án Luật sẽ được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2025) và trình Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025).
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho rằng nếu bỏ quy định chứng nhận hợp quy sẽ khiến “doanh nghiệp làm gì cũng được” không đảm bảo tiêu chuẩn khi hội nhập quốc tế.
Ngày 7/1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến dự án Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật sửa đổi. Dự án Luật này do Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan chủ trì soạn thảo.
Theo dự luật, chứng nhận hợp quy là việc đánh giá và xác nhận đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thuộc đối tượng phải áp dụng quy chuẩn kỹ thuật có trách nhiệm công bố sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật tương ứng và phải đăng ký bản công bố hợp quy tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải nói đây là một trong số nội dung còn có ý kiến khác nhau. Các đại biểu chưa thống nhất việc bổ sung hay không quy định chứng nhận sự phù hợp đối với tiêu chuẩn cơ sở. Ông cho biết Hội Chăn nuôi Việt Nam đã có văn bản gửi Chủ tịch Quốc hội kính đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định công bố hợp quy chuẩn trong dự thảo sửa đổi Luật. “Theo quan điểm của họ là cản trở rất lớn đến sự phát triển của ngành chăn nuôi”, ông Hải nói.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, đại diện cơ quan thẩm tra, cho rằng việc xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật cần thực hiện theo trình tự thủ tục riêng biệt, tuân thủ đúng quy định của Hiệp định TBT, các cam kết quốc tế và được quy định cụ thể tại dự thảo Luật này. Việc này bảo đảm tính khả thi và đáp ứng yêu cầu của quy chuẩn kỹ thuật có tính chuyên môn sâu, ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn, sức khỏe con người, môi trường thì quá trình xây dựng, thẩm định phải tiến hành nhiều hoạt động như khảo sát, thử nghiệm, khảo nghiệm, đánh giá tác động…
Giải trình thêm về nội dung này, Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định nói nếu không có chứng nhận hợp quy đối với hàng hóa thì giống như tham gia giao thông trên đường mà “luật lệ không minh bạch”. Ông đồng tình Nhà nước cần linh động cơ chế để doanh nghiệp được hoạt động thuận lợi nhất, song không thể “muốn làm gì cũng được, muốn đưa ra chất lượng thế nào cũng được”.
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định. Ảnh: Media Quốc hội
Ông cho rằng bỏ quy định về hợp quy trong dự thảo sẽ gây ra tình trạng các doanh nghiệp sẽ không đảm bảo chất lượng, không được chứng nhận, không được giám sát. Bên cạnh đó, việc này ảnh hưởng đến uy tín quốc gia, nhiều hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu không được kiểm soát được chất lượng.
Với độ mở nền kinh tế rất lớn, hàng hóa Việt Nam sẽ tiến đến nhiều thị trường khó tính. “Nếu như không có chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy, hàng hóa không thể đáp ứng, trong khi các nước yêu cầu về hợp chuẩn, hợp quy thậm chí còn khắt khe hơn chúng ta”, Thứ trưởng Định nói.
Ông Định dẫn chứng nhiều loại hàng hóa của Việt Nam không chỉ cần chứng nhận hợp quy để nhập khẩu. Đối tác còn sang Việt Nam để kiểm soát quy trình sản xuất, để đảm bảo chất lượng một cách thường xuyên, liên tục và bền vững.
Vì vậy, bỏ hợp quy làm mất kiểm soát chất lượng và an toàn sản phẩm, không đạt tiêu chuẩn, ảnh hưởng đến người tiêu dùng hoặc là tổn hại môi trường. Việc này làm tăng nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh, gây bất lợi, cản trở cho xuất khẩu và rủi ro cho uy tín quốc gia.
Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật sẽ được Quốc hội bấm nút thông qua vào kỳ họp giữa năm nay.
Ngành Khoa học và Công nghệ tập trung vào 9 nhiệm vụ trọng tâm, từ hoàn thiện khung pháp lý đến phát triển nhân lực, nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Theo Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định, 2025 là năm đặc biệt quan trọng, tăng tốc, bứt phá, về đích phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021 – 2025.
Phòng thí nghiệm bán dẫn Trung tâm nghiên cứu triển khai, Khu công nghệ cao TP HCM, tháng 12/2024. Ảnh: Quỳnh Trần
Bộ Khoa học và Công Nghệ tập trung triển khai 9 nhiệm vụ trọng tâm, gồm:
Một: Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tham mưu, trình Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
Hai: Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai thực hiện Đề án hợp nhất hai Bộ; sắp xếp, cơ cấu lại và giảm mạnh tổ chức bên trong để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau khi hợp nhất. Theo Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định “đảm bảo bộ máy mới phải tốt hơn bộ máy cũ và đi vào hoạt động ngay; không để ngắt quãng công việc, không để khoảng trống về thời gian, không để bỏ trống địa bàn, lĩnh vực; không để ảnh hưởng đến các hoạt động bình thường của xã hội, của doanh nghiệp và của người dân”.
Ba: Bộ Khoa học và Công nghệ hoàn thiện, tham mưu Chính phủ trình Quốc hội bốn dự án Luật gồm: dự án Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo; Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn, Quy chuẩn kỹ thuật; sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và dự án Luật Năng lượng nguyên tử. Triển khai các cơ chế thí điểm, vượt trội, đặc thù góp phần “tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực”. Mục tiêu đưa khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực chính đưa đất nước phát triển bứt phá.
Bốn: Các chương trình, nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đến năm 2025 – 2030 được rà soát, triển khai hiệu quả; phát huy vai trò dự báo chiến lược về xu thế phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; xác định rõ những công nghệ chiến lược, công nghệ lõi, công nghệ cao cần ưu tiên phát triển dựa trên thế mạnh, thực tiễn của Việt Nam. Khuyến khích đầu tư, phát triển các trung tâm dữ liệu lớn về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, các kho dữ liệu khoa học dùng chung; kết nối các cộng đồng khoa học mở ở Việt Nam.
Năm: Phát triển mạnh nhân lực khoa học và công nghệ, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực ngành bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây…; hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu mạnh, tạo điều kiện cho các nhóm nghiên cứu trẻ; có cơ chế, chính sách ưu tiên, đột phá, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để thu hút nhà khoa học Việt ở nước ngoài tham gia phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng góp vào sự phát triển trong nước.
Sáu: Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ và các mô hình kinh doanh mới… Thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp.
Bảy: Đẩy mạnh hợp tác với các đối tác chiến lược, quốc gia tiên tiến về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nhất là trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, công nghệ sinh học, công nghệ lượng tử và các công nghệ chiến lược khác; gắn kết các hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo với ngoại giao kinh tế, thúc đẩy nâng cao năng lực và chuyển giao công nghệ trong các thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Tám: Đẩy mạnh các hoạt động về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, hỗ trợ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, trong đó ưu tiên triển khai mạnh mẽ hạ tầng chất lượng quốc gia. Tập trung thúc đẩy bảo hộ, phát triển và khai thác tài sản trí tuệ phục vụ phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình.
Chín: Tăng cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định. Triển khai đồng bộ các giải pháp cải cách hành chính, trọng tâm là triển khai hiệu quả công tác cải cách thủ tục hành chính, đẩy nhanh tiến độ các nhiệm vụ chuyển đổi số quốc gia.
Tại hội nghị tổng kết ngành hôm 30/12/2024, Phó thủ tướng Bùi Thanh Sơn cho rằng: “Khoa học công nghệ không chỉ là động lực mà còn là nền tảng để Việt Nam xây dựng một nền kinh tế hiện đại, bền vững và cạnh tranh trên toàn cầu”. Ông yêu cầu ngành Khoa học và Công nghệ dành ưu tiên cao nhất cho công tác hoàn thiện thể chế chính sách về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo; tập trung kiện toàn sắp xếp, tinh gọn bộ máy theo Nghị quyết 18. Những đóng góp của ngành vào tăng trưởng kinh tế “cần được đẩy mạnh hơn nữa”, ông nói.
Ông Nguyễn Văn Khanh trồng 120 ha lúa, nhờ ứng dụng công nghệ chỉ cần hai quản lý và hai người vận hành máy, lợi nhuận tăng thêm 30-40%.
Nông dân Nguyễn Văn Khanh, ở huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp đam mê trồng lúa. Hàng chục năm trước ông đã tích góp được 120 ha đất song mặt đất chỗ cao, chỗ thấp, tốn nhiều chi phí, nhân công khi canh tác. Mỗi vụ sau thu hoạch, dù có doanh thu tốt nhưng lợi nhuận không cao do chi phí lớn.
Hơn 4 năm nay, ông mạnh tay đầu tư máy móc, từ máy bay không người lái (drone), tới máy xới, máy trang mặt ruộng bằng laze, máy bơm nước, máy gặt đập liên hợp…
Hệ thống máy làm đất giúp mặt đất bằng phẳng, sử dụng nước hiệu quả, chất lượng nông sản đồng đều, hạn chế cỏ dại, sâu bệnh. Việc sử dụng drone cũng đã mang lại hiệu quả đáng kể. Trước đây, mỗi lần sạ lúa ông Khanh phải thuê hàng chục người song chỉ xuống giống được 10 ha/ngày, mất 12 ngày mới xong, trong khi drone chỉ với hai người vận hành máy có thể sạ được 40 ha, rút ngắn 9 ngày. Tương tự, mỗi kỳ phun thuốc, cần 7 người phun bình máy, xoay tua liên tục. Khi dùng drone chỉ cần 2 người, thời gian xoay tua kéo dài lên 10 ngày.
“Máy móc đã làm hết các công đoạn nên làm nông hiện nay rất khỏe. 120 ha lúa chỉ cần hai quản lý và hai người vận hành máy móc. Lợi nhuận có thể tăng thêm 30-40%”, ông Khanh nói. Thêm rằng, mỗi ha lúa ông lãi 20 triệu đồng một vụ, tức việc áp dụng máy móc, công nghệ giúp ông tăng thêm gần một tỷ đồng mỗi vụ. Mỗi năm hơn 70% diện tích của ông canh tác lúa ba vụ, phần còn lại làm hai vụ, xả lũ một vụ.
Từ ngày áp dụng công nghệ 4.0 trong quản lý đồng ruộng, kỹ thuật tưới ngập khô xen kẽ ông còn có thêm tiền bán tín chỉ carbon.
Ông Khanh là một trong hàng triệu nông dân hưởng lợi từ cơ giới hóa, áp dụng công nghệ vào sản xuất lúa. Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ 2020, tỷ lệ sử dụng máy làm đất, máy gieo sạ, thu hoạch trong sản xuất lúa ở ĐBSCL đạt tỷ lệ lần lượt là 92%, 50% và 91%.
Drone nông nghiệp trên cánh đồng của ông Khanh. Ảnh: Ngọc Tài
Trong thủy sản, tại Cà MauHTX tôm năng suất cao Tân Hưng (xã Tân Hưng, huyện Cái Nước) đã mạnh dạn áp dụng máy móc, công nghệ trong nuôi tôm siêu thâm canh, mật độ từ 250-300 con mỗi m2, năng suất đạt bình quân 50 tấn mỗi ha/vụ, cao gấp 10 lần so với nuôi công nghiệp truyền thống.
Ông Huỳnh Xuân Diện, giám đốc HTX Tân Hưng, cho biết cứ mỗi ha nuôi tôm siêu thâm canh, chủ ao phải thuê khoảng 10 nhân công, mức lương ít nhất khoảng 6 triệu đồng/người một tháng. Trung bình mỗi vụ nuôi kéo dài 3 tháng, ông phải tốn khoảng 300 triệu đồng tiền thuê nhân công. Chính vì vậy, ông nảy ra ý tưởng lắp ráp bộ thiết bị điện tử điều khiển từ xa.
Ông Diện cùng ông Huỳnh Ngọc Tiễn nghiên cứu lắp ráp bộ thiết bị điện tử điều khiển từ xa vận hành hệ thống tạo oxy trong ao và cho tôm ăn. Cách làm này này thay thế sức người, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất trong nuôi tôm siêu thâm canh.
Đây là một cụm thiết bị điện tử vận hành tất cả thiết bị điện trong ao tôm nuôi, như điều khiển tốc độ máy cho ăn, thời gian cho ăn và thời gian nghỉ; điều khiển từ xa hệ thống quạt tạo oxy, thời gian chạy và nghỉ. Cụm thiết bị sẽ tự đồng bộ vận hành, ghi nhớ và lặp đi lặp lại, người nuôi tôm không phải canh thời gian, đóng cầu dao như cách làm truyền thống. Hệ thống có thể điều khiển từ xa máy cho tôm ăn và hệ thống quạt tạo oxy mà không phải ra ao, giảm số lao động xuống còn 4 người.
Sản phẩm công nghệ của HTX tôm năng suất cao Tân Hưng tại triển lãm công nghệ nuôi tôm. Ảnh: An Minh
Ông Diện còn chế tạo thành công thiết bị chống điện giật. Từ năm 2017, ông cùng các cộng sự ấp ủ ý tưởng và nghiên cứu về ứng dụng công nghệ điện DC trong nuôi tôm công nghiệp. Sau gần 3 năm với hàng chục lần thất bại, ông đã hoàn thiện được công nghệ, đưa vào sản xuất, nhân rộng ra các trang trại nuôi trong hợp tác xã.
Theo ông Diện, bản chất của công nghệ này là thay thế dòng điện xoay chiều AC bằng dòng điện một chiều DC. Để thay thế dòng điện, ông dùng nguồn để biến dòng điện xoay chiều thành một chiều, sau đó đưa vào hệ thống ao để vận hành các thiết bị máy móc chạy bằng motor. Motor sử dụng được biến đổi thành motor chạy bằng điện DC 100%. Khi nông dân bước vào hệ thống ao nuôi, điện đã được chuyển đổi thành điện DC 40V, nên không có tình trạng bị giật, không gây tai nạn lao động về điện.
Trong mô hình nuôi tôm siêu thâm canh, tôm được nuôi mật độ rất cao nên đòi hỏi lượng oxy, cùng hệ thống máy móc cung cấp, dẫn đến lượng điện tiêu thụ rất cao. Đó cũng là một áp lực cho ngành điện lực. “Khi ứng dụng công nghệ điện DC vào sản xuất, điện năng tiêu thụ giảm 40-50 % so với trước kia, và giá điện phải đóng hàng tháng cũng giảm theo tỷ lệ trên”, ông Diện nói. Ông cho biết nếu dùng điện như cách cũ, ông tốn chi phí khoảng 80 triệu đồng, nay chỉ còn hơn 25 triệu đồng.
Theo Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Cà Mau, tỷ lệ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp tại tỉnh khoảng 70%. Riêng trong lĩnh vực thủy sản, sở tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất giống, nâng cao năng suất, chất lượng giống tôm sú, thẻ, các giống thủy sản đặc sản của địa phương như ba khía, cá thòi lòi, sò huyết. Nổi bật trong số đó là ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ tuần hoàn RAS vào nuôi tôm thẻ chân trắng thương phẩm siêu thâm canh 3 giai đoạn tại Cà Mau.
Trên cây ăn quả, trang trại chuối của ông Võ Quan Huy, 69 tuổi, tiên phong áp dụng hệ thống cáp treo dài hơn 100 km để thu hoạch chuối. Hệ thống áp dụng tại 5 tỉnh có vùng trồng, tổng chi phí đầu tư hơn 20 tỷ đồng.
Theo chủ trang trại, trước khi có cáp treo, mỗi đợt thu hoạch, họ cần hàng chục công nhân khuân vác, sau đó dùng xe công nông chở chuối về xưởng sơ chế. Mùa mưa đường sá sình lầy khiến việc di chuyển khó khăn, tốn nhiều nhân công lẫn thời gian thu hoạch, chuối cũng bị trầy xướt vỏ khá nhiều. Từ khi có hệ thống cáp, trang trại tiết kiệm được khoảng 50% nhân công và thời gian.
Ông Huy học kinh nghiệm này sau chuyến tham quan trang trại chuối ở Philippines 6 năm trước. Tại đó, họ đầu tư hệ thống ròng rọc thu hoạch nên ông về nghiên cứu mô hình, cải tạo lại đôi chút cho phù hợp với điều kiện ở trang trại mình.
Để vận hành, một công nhân có nhiệm vụ kiểm tra các buồng chuối đạt tiêu chuẩn để đốn hạ. Những công nhân khác sẽ dùng tấm mút xốp lót trên vai để chuối không bị dập, sau đó vác chuối di chuyển từ 30 – 50 m đến hệ thống ròng rọc. Tại đây, một công nhân sẽ có nhiệm vụ móc các buồng chuối vào hệ thống. Khi đã đủ khoảng 50 buồng, một người vận hành máy nổ chạy bằng xăng kéo hệ thống di chuyển. Mất khoảng 40 phút để đưa chuối từ điểm xa nhất về đến xưởng sơ chế.
“30 km cáp treo tốn hơn 6 tỷ đồng nhưng vô cùng xứng đáng vì đã tạo ra một cuộc cách mạng. Từ khi có hệ thống cáp treo, lượng công nhân lẫn thời gian thu hoạch chuối giảm một nửa. Chất lượng trái cũng tốt hơn ít bị dập, trầy xướt”, ông Huy cho biết.
Nhờ áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất với quy mô lớn, trong vòng 10 năm, từ trang trại ban đầu tại Long An 120 ha, hiện ông Huy đã mở rộng diện tích chuối lên 700 ha, sang Tây Ninh, TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương. Mỗi năm, chuỗi trang trại thu hoạch khoảng hơn 20.000 tấn, xuất đi Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Hệ thống cáp treo để thu hoạch chuối tại trang trại chuối huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Ảnh: Hoàng Nam
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và các kết quả nghiên cứu vào sản xuất, năng suất một số vật nuôi, cây trồng của Việt Nam đạt cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong đó, năng suất lúa cao nhất trong các nước ASEAN (gấp 1,5 lần Thái Lan), cà phê có năng suất đứng thứ 2 trên thế giới (chỉ sau Brazil), năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới (chỉ sau Ấn Độ), cá tra với năng suất 500 tấn/ha cũng cao nhất thế giới.
Chủ trương cơ giới hóa nông nghiệp được nêu tại Chiến lược phát triển cơ giới hóa nông nghiệp và chế biến nông, lâm, thủy sản đến năm 2030, được Thủ tướng phê duyệt từ năm 2022. Chiến lược định hướng phát triển cơ giới hóa đồng bộ trong nông nghiệp, ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ thông minh, sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ môi trường phù hợp với quy mô, trình độ sản xuất, lợi thế từng ngành hàng, vùng sản xuất nông nghiệp với các tổ chức sản xuất có quy mô lớn theo chuỗi giá trị nông sản.
Mục tiêu của Chiến lược đến năm 2030:
– Trồng trọt: Sản xuất cây trồng chủ lực đạt trên 90% năm 2025, cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 70% năm 2030;
– Chăn nuôi: Sản xuất chăn nuôi gia súc, gia cầm đạt trên 80% năm 2025, cơ giới hóa đồng bộ đạt trên 60% năm 2030;
– Thủy sản: Cơ giới hóa sản xuất nuôi trồng thủy sản đạt trên 70% năm 2025, đạt trên 90% năm 2030; đánh bắt, bảo quản trên tàu cá đạt 85% năm 2025 đạt trên 95% năm 2030.
– Lâm nghiệp: Các khâu làm đất, giống, trồng cây, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, phòng chống cháy rừng, khai thác vận chuyển gỗ và lâm sản đạt trên 30% năm 2025, đạt trên 50% năm 2030.
– Diêm nghiệp: Cấp nước, tiêu nước, gom muối trên đồng và thu hoạch, vận chuyển muối đạt trên 70% năm 2025 và đạt trên 90% năm 2030.