Việt Nam – Trung Quốc: Tạo đà phát triển mới cho cộng đồng khoa học

Nhân dịp tháp tùng Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Hợp tác Tiểu vùng Mê Kông mở rộng lần thứ 8, Hội nghị Cấp cao Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawadi – Chao Phraya – Mê Kông lần thứ 10, Hội nghị Cấp cao Hợp tác Campuchia – Lào – Myanma – Việt Nam lần thứ 11 và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 5-8/11/2024, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Huỳnh Thành Đạt đã thăm và làm việc với một số cơ quan khoa học của Trung Quốc tại Côn Minh và Trùng Khánh.

Tại Phân viện Côn Minh thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, ông Diêu Vĩnh Cương, Chủ tịch Phân viện Côn Minh bày tỏ vui mừng được đón tiếp Bộ trưởng và đoàn công tác đến thăm Phân viện. Trao đổi tại buổi làm việc, ông Diêu Vĩnh Cương nhấn mạnh về những kết quả nghiên cứu nổi bật mà Phân viện đã đạt được, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ sinh học, hóa học địa cầu, thiên văn học; các nghiên cứu về động vật, thực vật đặc hữu của Vân Nam…; đồng thời, bày tỏ mong muốn thúc đẩy các hoạt động hợp tác nghiên cứu, đào tạo với các viện nghiên cứu, trường đại học của Việt Nam trong các lĩnh vực này.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt làm việc tại Phân viện Côn Minh.

Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đánh giá cao những kết quả mà Phân viện đã đạt được, đặc biệt là trong nghiên cứu khoa học gắn với việc phát huy lợi thế về địa lý, thổ nhưỡng của tỉnh Vân Nam; đồng thời, ghi nhận mong muốn hợp tác với Việt Nam từ phía Phân viện.

Trong bối cảnh hai nước đã nâng tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam – Trung Quốc, Bộ trưởng cho rằng, hợp tác về KH&CN đóng vai trò quan trọng, đem lại những lợi ích thiết thực cho cộng đồng khoa học, góp phần vào sự thịnh vượng chung của hai nước; trong đó, hợp tác giữa các Viện nghiên cứu là hạt nhân, góp phần tạo nên những giá trị mới. Bộ trưởng đề nghị, Phân viện và Bộ KH&CN cùng xem xét, phối hợp triển khai các hoạt động đào tạo, trao đổi học thuật giữa các nhà khoa học trẻ, thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, đồng tổ chức hội thảo khoa học trong các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực KH&CN trở nên toàn diện hơn trong bối cảnh mới.

Ông Diêu Vĩnh Cương khẳng định cam kết mạnh mẽ trong việc thúc đẩy hợp tác hiệu quả và thực chất; đồng thời nhất trí sớm triển khai cụ thể các hoạt động hợp tác đào tạo, nghiên cứu, trong đó có các định hướng ưu tiên hợp tác mà hai Bộ KH&CN của hai nước đã thống nhất.

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt tặng quà Chủ tịch Phân viện Diêu Vĩnh Cương.

Tại Trùng Khánh, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt đã đến thăm Cơ sở Đổi mới sáng tạo, KH&CN Công nghiệp thông minh Quốc tế Hồ Minh Nguyệt. Tại đây, Bộ trưởng đã nghe giới thiệu về triển khai đầu tư các dự án ươm tạo công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nhân trẻ triển khai dự án trong các lĩnh vực công nghệ mới, tạo ra các doanh nghiệp công nghệ xuất sắc có thể mang lại giá trị cho xã hội và thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp dựa trên công nghệ của Trùng Khánh.

Cơ sở Đổi mới sáng tạo, KH&CN Công nghiệp Thông minh Quốc tế Hồ Minh Nguyệt chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10/2021, theo hướng “Đổi mới sáng tạo – KH&CN – Công nghiệp”, ưu tiên các ngành công nghiệp trọng điểm mà Trùng Khánh có lợi thế và tập trung vào phương hướng phát triển công nghiệp “thông minh hoá – năng lượng mới” của Trùng Khánh. Thông qua mô hình “Con người trẻ – Công nghệ cứng – Sản phẩm mới”, khám phá và xây dựng một vòng khép kín về “nhân tài – đổi mới sáng tạo – công nghiệp – vốn” của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Cơ sở này đã được chọn lựa trở thành 1 trong 10 điển hình đổi mới và cải cách kinh tế Trùng Khánh vào năm 2022 và đã được phê duyệt là vườn ươm đổi mới sáng tạo cấp thành phố; đồng thời là nền tảng dịch vụ chia sẻ tài nguyên công nghệ sản xuất thông minh robot của Khu mới Lưỡng Giang. Cơ sở đang nỗ lực phát triển, đóng góp vào việc xây dựng một Trùng Khánh mới hiện đại và hình thành trung tâm khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo ở khu vực phía Tây Trung Quốc.

Trao đổi tại buổi làm việc, Giám đốc Điều hành của Cơ sở bày tỏ sẵn sàng chia sẻ với Việt Nam kinh nghiệm xây dựng và vận hành Cơ sở, triển khai hợp tác cụ thể trong ươm tạo công nghệ, hỗ trợ khởi nghiệp…

Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt thăm Cơ sở Đổi mới sáng tạo, KH&CN Công nghiệp thông minh Quốc tế Hồ Minh Nguyệt.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Vụ Hợp tác Quốc tế

Phương pháp sử dụng melatonin mới giúp hỗ trợ giấc ngủ

Melatonin là một loại hormone được biết đến với tác dụng điều chỉnh nhịp sinh học con người. Nhờ chức năng này, melatonin đã được sản xuất thành các sản phẩm chức năng nhằm cải thiện giấc ngủ cho người dùng. Tuy nhiên, việc lựa chọn liều lượng và thời điểm sử dụng vẫn thường dựa trên thử nghiệm và có thể chưa tối ưu. Một nghiên cứu mới đã giúp giải đáp phần nào những thắc mắc này.

Bổ sung melatonin giúp cải thiện giấc ngủ (nguồn: internet).

Melatonin – một hormone được tuyến tùng trong cơ thể sản xuất để điều chỉnh nhịp sinh học (chu kỳ 24 giờ) của chúng ta. Loại hormone này bắt đầu tăng lên khi mặt trời lặn, đạt đỉnh điểm lúc gần bình minh và giảm dần trong ngày. Chính vì điều này, melatonin đôi khi được gọi là “hormone ma cà rồng” do nó chủ yếu hoạt động vào ban đêm. Khi melatonin tăng cao trong não bộ, nó tạo ra cảm giác thư giãn và giúp cơ thể chuẩn bị cho giấc ngủ. Tuy nhiên, cơ thể chỉ sản xuất một lượng rất nhỏ hormone này, dẫn đến việc nhiều người phải bổ sung melatonin từ bên ngoài để cải thiện giấc ngủ. Sự thiếu hụt melatonin có thể do các yếu tố như ánh sáng từ thiết bị điện tử gây gián đoạn chu kỳ tự nhiên của hormone này.

Vậy, thời điểm uống melatonin và liều lượng nào là tốt nhất? Để trả lời câu hỏi này, các nhà nghiên cứu từ Ý, Thụy Điển và Anh đã tiến hành phân tích tổng hợp các tài liệu khoa học hiện có. Trong nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Journal of Pineal Research, nhóm nghiên cứu cho biết, đây là nỗ lực hệ thống đầu tiên nhằm xác định liều lượng và thời điểm tối ưu của melatonin nhằm tăng hiệu quả giấc ngủ. Họ đã phân tích 1.689 kết quả quan sát từ các nghiên cứu trong giai đoạn 1987-2020 và kết luận rằng, uống 4 mg melatonin vào khoảng 3 tiếng trước giờ đi ngủ đạt hiệu quả nhất trong việc kích thích giấc ngủ. Khuyến nghị này khác với liều lượng phổ biến hiện tại là 2 mg và uống trước khi ngủ 30 phút.

Uống melatonin đúng lúc, đúng liều lượng có thể giúp người dùng có một giấc ngủ ngon (nguồn: Depositphotos).

Mặc dù vẫn còn thiếu các nghiên cứu cụ thể để khẳng định hoàn toàn hiệu quả của melatonin, nhưng nhiều tài liệu khoa học cho thấy, melatonin có tác dụng đáng kể với một số người, trong khi lại không hiệu quả với người khác. Tuy nhiên, có ít nhất một nghiên cứu đã cho thấy bổ sung melatonin giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ một cách đáng kể. Hầu hết các chuyên gia cho rằng, sử dụng melatonin ngắn hạn là an toàn. Nếu bạn đang gặp khó khăn trong giấc ngủ, việc thử 4 mg melatonin trước khi ngủ 3 tiếng có thể là một lựa chọn đáng cân nhắc theo khuyến nghị mới nhất từ nghiên cứu này.

TXB (theo Newatlas)

‘Nhà sáng chế nông dân’ làm bẫy ngăn muỗi sinh sôi

Không dùng điện hay hóa chất, ông Nguyễn Văn Khỏe (trú TP Biên Hòa, Đồng Nai) làm bẫy thu hút muỗi mẹ tới đẻ trứng và nhốt lăng quăng trong hộp nhựa.

Ông Khỏe, 60 tuổi, học chưa hết lớp 8 nhưng với đam mê sáng chế đã đầu tư thời gian, công sức trong hơn hai năm để chế tạo thiết bị bắt muỗi

Ý tưởng khởi nguồn từ năm 2016, khi ông thành lập công ty cung cấp giải pháp sấy bằng nhiệt mặt trời. Khi lắp hệ thống sấy cho khách, ông nhận thấy hầu như nơi nào cũng đối mặt với muỗi hoành hành, đặc biệt mùa mưa. Các giải pháp dùng vợt điện, nhang chống muỗi hay hóa chất “ít nhiều không đảm bảo an toàn, gây tác dụng phụ với người dễ bị dị ứng như người già, trẻ em”, ông nghĩ. Năm 2022, trong một lần mở quạt nước để vệ sinh, ông phát hiện nhiều muỗi bay ra từ két chứa nước làm mát. Tháo dụng cụ chứa nước quạt, ông thấy có nhiều lăng quăng bơi trong đó. “Tôi nghĩ đến việc làm dụng cụ bắt muỗi từ phát hiện này”, ông Khỏe nói.Bẫy muỗi của ông Nguyễn Văn Khỏe sáng chế. Ảnh: Công Khang

Bẫy muỗi của ông Nguyễn Văn Khỏe sáng chế. Ảnh: Công Khang

Không có kiến thức chuyên môn, ông Khỏe lên mạng tìm hiểu tập tính sinh học của muỗi. Ông nhận ra, các giải pháp đang có hiện nay chỉ tiêu diệt được muỗi trưởng thành, còn việc sinh sản, tăng sinh số lượng của chúng chưa được quan tâm, phòng chống tận gốc. Nhận thấy, muỗi có đặc điểm sinh sản, đẻ trứng ở những nơi đọng nước, chỗ tối ông chế tạo thiết bị bắt muỗi bằng việc ngăn chặn chúng tăng số lượng thông qua việc đẻ trứng.

Ông thiết kế bẫy bắt muỗi dạng hình trụ, làm bằng nhựa in 3D. Sản phẩm gồm hai phần chính gồm nơi cho muỗi mẹ đẻ trứng và khu vực chứa lăng quăng sau khi nở. Khi người dùng đổ nước vào bẫy, nước sẽ là thu hút cho muỗi mẹ đến đẻ trứng. Trong khu vực đẻ trứng có cấu tạo dạng phễu, đáy có khe hở. Trong 3 – 4 tuần, trứng sẽ nở thành lăng quăng và chúng sẽ đi theo khe hở đến khu vực chứa. Do không có thức ăn và không thể thoát ra ngoài bởi toàn bộ khu vực này đã được bịt kín, lăng quăng sẽ chết sau vài ngày, xác sẽ rơi xuống đáy bình. Khi bẫy bắt muỗi có nhiều cặn ở đáy, người dùng sẽ vệ sinh và đổ nước để sử dụng tiếp. “Đặc tính của muỗi là thích đẻ trứng nơi nước sạch, nên sản phẩm này rất phù hợp để bắt muỗi”, ông Khỏe nói.

Trong quá trình chế tạo, ông nói việc thiết kế khe hở để lăng quăng bơi xuống khu vực chứa là khó khăn nhất. Khe hở không quá nhỏ để lăng quăng có thể chui qua, nhưng cũng không quá lớn khiến chúng có thể bơi trở lại khu vực đẻ trứng. Trong khoảng 6 tháng, ông thử nghiệm nhiều kích thước khe hở để tìm ra độ rộng tối ưu. Phần khung nhựa, ông đặt hàng in 3D để tiết kiệm chi phí mỗi khi điều chỉnh các thông số kỹ thuật. Thử nghiệm thực tế cho thấy, sau khoảng 3 tháng, thiết bị có thể bắt 50 – 70 lăng quăng và hàng trăm trứng.

Nhà sáng chế 60 tuổi nói, sẽ dành tặng sản phẩm cho mỗi gia đình dùng trong 1 – 3 tháng để đánh giá. Khi tặng sản phẩm, ông sẽ khảo sát vị trí, môi trường xung quanh khu vực và tư vấn vị trí đặt bẫy hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Ông dự kiến bán sản phẩm với giá 100.000 đồng để phục vụ người dân. “Chính quyền từng nhiều lần tuyên truyền về việc không có lăng quăng, không có sốt xuất huyết. Sản phẩm của tôi có thể góp phần thực hiện mục tiêu này”, ông Khỏe nói. Sản phẩm bẫy muỗi của ông Khỏe được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp bằng giải pháp hữu ích năm hồi đầu năm 2023.

Kể chuyện nghỉ học khi mới lớp 8, ông nói, đó là “quyết định có phần nông nổi”. Khi đó học lực của ông vào loại khá giỏi. Năm học đó, ông bị ốm phải vào bệnh viện hai tuần. Khi ra viện, ông trở lại trường và phải nhận điểm 2 của cô giáo khi không đáp được bài. Ông xấu hổ và buồn đến mức quyết định nghỉ học và bôn ba làm kinh doanh nhiều lĩnh vực. “Khi ra đời, tôi tự học để sinh tồn và tự dặn mình phải học nhiều hơn nữa để bù lại khoảng thời gian mình nghỉ học giữa chừng”, ông Khỏe nói.

Anh Nguyễn Văn Khanh, 40 tuổi, trú huyện Bình Chánh, đánh giá sản phẩm có giá 100.000 đồng là rất vừa túi tiền người dân. Khi dùng lâu có thể đem vệ sinh và tái sử dụng, an toàn cho con người và môi trường so với các phương pháp diệt muỗi truyền thống.

Thạc sĩ Trần Phi Hùng, chuyên gia ký sinh trùng và côn trùng, nguyên giảng viên Khoa Sinh học và Công nghệ sinh học, trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP HCM cho biết, bẫy muỗi tác giả hướng đến là loài truyền sốt xuất huyết cho người. Muỗi sốt xuất huyết có đặc tính hay hoạt động ban ngày, thích đẻ trứng trong vật chứa nhỏ, trong bóng mát và hơi tối, phù hợp với giải pháp tác giả đưa ra.

Tuy nhiên, ông Hùng cho rằng, với những nơi có mật độ cao, chỉ cần một đến hai ngày chúng sẽ đẻ trứng nhiều ở các vật chứa có đặc điểm trên chứ không riêng gì vị trí có bẫy.

Theo ông Hùng tác giả cần thêm giải pháp phụ trợ để thu hút muỗi đẻ trứng trong bẫy của mình. “Cần có so sánh vật chứa bắt muỗi của tác giả với các vật chứa khác để rõ tính hiệu quả hơn”, ông nói, với mỗi loài muỗi chúng sẽ có tập tính đẻ trứng khác nhau. Có loài muỗi đẻ trứng trên nước tĩnh, nước chảy chậm hay nước chảy nhanh. Có loài thích sinh sản nơi nước sạch, nhưng cũng có loài đẻ ở nước bẩn, nơi chứa có bóng mát… Tùy thuộc vào đặc tính từng loài để có thể có phương pháp bẫy phù hợp.Ông Khỏe kiểm tra sản phẩm gia công tại xưởng cơ khí. Ảnh: Công Khang

Ông Khỏe kiểm tra sản phẩm gia công tại xưởng cơ khí. Ảnh: Công Khang

Chuyên gia cho rằng, ngoài phương pháp này có thể sử dụng bẫy muỗi bằng ánh sáng để thu hút chúng vào ban đêm. Các phương pháp bẫy muỗi tự nhiên thường an toàn, song thạc sĩ Hùng cho rằng muỗi nói riêng hoặc các loài côn trùng có hại nói chung thì phương pháp diệt trừ bằng hóa học được coi là nhanh, rẻ tiền nhất. Song, sử dụng hóa chất sẽ có những ảnh hưởng đến tự nhiên và con người nên cần sử dụng với liều lượng hợp lý.

Hà An – Công Khang/VNEXPRESS

Chung tay phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam

Đó là chủ đề của Ngày hội Khởi nghiệp sáng tạo (KNST) Quốc gia – TECHFEST 2024 sẽ diễn ra từ ngày 26 – 28/11/2024 tại thành phố Hải Phòng do Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) phối hợp với Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng tổ chức.
TECHFEST 2024 nhằm giới thiệu, truyền cảm hứng và tôn vinh thành tựu nổi bật của hoạt động KNST trong doanh nghiệp và toàn xã hội. Đồng thời, tổng kết đánh giá hành trình 10 năm hình thành hệ sinh thái KNST và định  hướng phát triển hệ sinh thái trong giai đoạn mới; tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ KH&CN Huỳnh Thành Đạt và các đại biểu tham quan gian hàng triển lãm tại TECHFEST – WHISE 2023.
TECHFEST 2024 thu hút khoảng 6.000 – 8.000 lượt đại biểu tham dự gồm: Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, đại diện Lãnh đạo các bộ, ban, ngành và địa phương; đại diện Lãnh đạo Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các sở ngành thành phố Hải Phòng; đại diện các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế tại Việt Nam; đại diện Lãnh đạo các tập đoàn, tổng công ty, viện nghiên cứu, trường đại học; đại diện các tổ chức thuộc hệ sinh thái KNST, các quỹ đầu tư, các nhà đầu tư, cố vấn đồng hành; doanh nghiệp KNST; diễn giả, chuyên gia công nghệ, chuyên gia đổi mới sáng tạo trong nước, quốc tế; các cơ quan thông tấn báo chí trong nước và quốc tế.
Các hoạt động chính diễn ra tại sự kiện gồm: Triển lãm sản phẩm/dịch vụ KNST; Chung kết Cuộc thi tìm kiếm tài năng KNST quốc gia; Diễn đàn chính sách quốc gia về KNST; Lễ khai mạc Techfest 2024; Tổng kết, bế mạc sự kiện.
Chủ tịch UBND TP.HCM Phan Văn Mãi và Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh tham quan gian hàng triển lãm tại TECHFEST – WHISE 2023.
Bên cạnh những hoạt động trên, TECHFEST 2024 còn có các hội nghị, hội thảo như: “Thúc đẩy phát triển hệ sinh thái KNST Hải Phòng xứng tầm Trung tâm Vùng gắn kết quốc tế”; “Khai thác nguồn lực từ chuyển đổi kép cho KNST”; “Thu hút nguồn lực nuôi dưỡng kỳ lân tương lai trong lĩnh vực logistics”; “Kết nối các nhà đầu tư trong nước và quốc tế”; Diễn đàn hợp tác kinh doanh và đổi mới sáng tạo Việt – Úc…
TECHFEST Việt Nam 2024 hứa hẹn sẽ là sự kiện quan trọng, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ phong trào KNST tại Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế – xã hội đất nước.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Những tòa tháp chọc trời giúp thử nghiệm thang máy

Những tòa tháp cao hàng trăm mét giúp kiểm tra chất lượng, độ an toàn của thang máy khi di chuyển tốc độ cao, lên tới 19 m mỗi giây.Tháp TK Elevator Testturm là một trong những tòa nhà cao nhất Đức. Ảnh: Sebastian Gollnow/Picture alliance

Tháp TK Elevator Testturm là một trong những tòa nhà cao nhất Đức. Ảnh: Sebastian Gollnow/Picture alliance

Rìa phía đông của dãy núi Black Forest, Đức, ngay bên ngoài thị trấn Trung Cổ Rottweil, có một công trình kiến trúc kỳ lạ – một tòa nhà chọc trời không người ở. Tòa nhà này mang tên TK Elevator Testturm, cao 246 m và là một trong những tòa nhà cao nhất nước Đức.

Tuy nhiên, sự thiếu vắng các cửa sổ cho thấy tòa nhà chọc trời này không chứa văn phòng hay căn hộ cao cấp. Mục đích chính của tòa nhà nằm ẩn sâu bên trong: 12 hố thang máy dùng để thử nghiệm các mẫu thang máy mới nhất.

Ngoài TK Elevator Testturm, nhà sản xuất thang máy Đức TK Elevator cũng có tháp thử nghiệm cao 128 m ở Atlanta và cao 248 m ở Trung Sơn, Trung Quốc. Các tháp thử nghiệm vẫn có thể cao hơn nữa. Ví dụ, Tháp H1 do tập đoàn Nhật Bản Hitachi xây tại Quảng Châu, Trung Quốc, cao tới 289 m. Đây là một trong những tòa nhà cao nhất ở thành phố đầy rẫy nhà chọc trời này, thậm chí sẽ nằm trong số 25 tòa nhà cao nhất thành phố New York và cao thứ ba Los Angeles.

Hitachi H1, một trong những tháp thử nghiệm thang máy cao nhất thế giới, chụp ngày 16/1/2020 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Ảnh: Xia Yu/VCGHitachi H1, một trong những tháp thử nghiệm thang máy cao nhất thế giới, chụp ngày 16/1/2020 tại Quảng Châu, Trung Quốc. Ảnh: Xia Yu/VCG

“Lý do chính và quan trọng nhất khiến các tháp thử nghiệm tồn tại là xác minh một số chức năng an toàn nhất định chỉ có thể thực hiện trong môi trường thực tế”, Tomio Pihkala, giám đốc công nghệ tại nhà sản xuất thang máy Phần Lan Kone, cho biết.

Kone, công ty lắp đặt thang máy tại Taipei 101 (tòa nhà cao nhất thế giới năm 2004 – 2010), mở cửa tháp thử nghiệm đầu tiên tại Hyvinkää, Phần Lan, năm 1967. Kể từ đó, công ty đã xây thêm 4 tháp thử nghiệm nữa, trong đó tòa cao nhất hoàn thành tại Côn Sơn, Trung Quốc, năm 2015 với chiều cao 236 m.

“Trong tháp thử nghiệm, chúng tôi tăng cường những điều kiện vận hành thực tế của thang máy và loại bỏ sự hiện diện của người dùng bình thường. Đây cũng là một địa điểm tuyệt vời để xác minh chất lượng, sự thoải mái và độ tin cậy của thang máy”, Pihkala giải thích.

Trong các bài kiểm tra an toàn có một bài mô phỏng tình huống rơi tự do. “Đó không phải là thang máy thực sự mà là một vật khối lượng tương đương. Đây là lúc hệ thống phanh khẩn cấp và thiết bị an toàn phải kích hoạt để dừng thang máy một cách an toàn, đảm bảo không người nào bên trong bị thương”, Pihkala cho biết.

Một số tháp thử nghiệm đặc biệt cao vì đa số thang máy hiện đại đều nhanh đến mức chúng nhanh chóng chạy hết đường. “Khi có thang máy nhanh hơn, bạn cần một tháp thử nghiệm cao hơn. Thang máy tốc độ cao di chuyển với tốc độ hơn 9 m mỗi giây và để thử nghiệm loại thang máy đó, bạn cần đủ không gian để tăng đến tốc độ tối đa, sau đó giảm tốc”, Pihkala nói thêm.

Tuy nhiên, xây dựng hướng lên trên không phải lựa chọn duy nhất. Thực tế, cơ sở thử nghiệm thang máy dài nhất thế giới nằm dưới lòng đất. Tọa lạc tại Tytyri, Phần Lan, công trình này là một phần của mỏ đá vôi đang hoạt động và đạt độ sâu gần 350 m. “Đây là một điều độc đáo trong ngành. Chúng tôi đã đạt được thỏa thuận sử dụng một số hố trong mỏ, giúp thử nghiệm thang máy cho những tòa nhà cao tới một km”, Pihkala nói.

Tại cơ sở này, thang máy có thể thử nghiệm ở tốc độ lên đến 19 m mỗi giây. Trong các thử nghiệm rơi tự do, khung thang máy nặng 9.980 kg đạt tới 26 m mỗi giây. Tổng cộng, mỏ có 11 hố với tổng chiều dài gần 1,6 km.

Giống như mọi tòa nhà chọc trời, các tháp thang máy cần chịu được gió mạnh, yếu tố có thể gây rung lắc và ảnh hưởng đến những điều kiện thử nghiệm. Vì vậy, một số tháp trang bị bộ giảm chấn khối lượng – về cơ bản là một quả lắc khổng lồ chống lại sự rung lắc do thời tiết khắc nghiệt, thậm chí động đất, gây ra. Khoảng 1/3 trong số 20 tòa nhà cao nhất thế giới lắp đặt thiết bị này.

Tuy nhiên, với các kỹ sư muốn thử nghiệm công nghệ thang máy trong điều kiện khắc nghiệt, bộ giảm chấn khối lượng này cũng có thể được sử dụng theo cách hoàn toàn ngược lại – tạo ra sự rung lắc. Tháp TK Elevator Testturm ở Rottweil có bộ giảm chấn khối lượng nặng 200 tấn được treo bằng 4 dây cáp thép, có thể dịch chuyển nhờ hai động cơ. Nó tạo ra dao động mô phỏng gió và động đất – hai trong những thách thức lớn nhất khi phát triển thang máy.

Thu Thảo (Theo CNN)

Thảm họa hạt nhân từ thiết bị y tế bị lấy cắp

37 năm trước, một khối chất phóng xạ bên trong một thiết bị y tế bị bỏ không ở Goiânia khiến hơn 112.000 người dân ở thành phố Goiânia có nguy cơ nhiễm phóng xạ.Khoang thiết bị y tế gây ra tai nạn Goiânia. Ảnh: Flickr

Khoang thiết bị y tế gây ra tai nạn Goiânia. Ảnh: Flickr

Một khoang phóng xạ bị bỏ quên được những người tìm thấy nó sau đó cho rằng đó là kim loại phế thải và bán đi, bắt đầu chuỗi sự kiện dẫn tới hơn 112.000 người phải tầm soát nhiễm phóng xạ và 4 người tử vong, theo IFL Science.

Tai nạn Goiânia bắt đầu khi một viện xạ trị tư nhân chuyển đi và bỏ lại một thiết bị chữa bệnh có chứa cesium-137 mà không thông báo cho nhà chức trách. Thiết bị phóng xạ nằm tại chỗ trong suốt quá trình phá dỡ cơ sở. Sau này, nó được hai thiếu niên phát hiện và chở về nhà để tìm cách tháo rời, để lộ thành phần độc hại. Theo báo cáo sơ bộ của Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), nguồn phóng xạ nằm ở dạng muối caesium chloride dễ hòa tan và phân tán, gây ô nhiễm môi trường. Đó là khởi đầu cho một trong những tai nạn phóng xạ nghiêm trọng nhất từng diễn ra.

Sau khi khoang chứa bị vỡ, hai thiếu niên bắt đầu bán các bộ phận cho người buôn đồng nát, trong đó có khối chất phóng xạ cesium-137 phát sáng màu xanh dương trong bóng tối. Vật thể thu hút nhiều người thân và bạn bè của người đó tới chiêm ngưỡng. Sau đó, họ thích thú mang về nhà những mẫu vật lớn cỡ hạt gạo. Khoảng 5 ngày sau, mọi người bắt đầu trải qua các triệu chứng đầu tiên. Họ gặp vấn đề ở dạ dày – ruột nhưng không hề biết đó là kết quả do phóng xạ, nhưng khi một người dân trình khoang thiết bị cho cơ quan y tế cộng đồng, mức độ nghiêm trọng của tình huống trở nên rõ ràng.

Chính quyền địa phương phải trưng dụng một sân vận động làm nơi tập trung người nhiễm phóng xạ và bị thương. Tổng cộng khoảng 112.000 người được theo dõi, trong đó phát hiện 249 người nhiễm phóng xạ ở bên ngoài hoặc trong cơ thể. Hơn 20 người phải nhập viện và 4 người tử vong do hội chứng bức xạ cấp tính.

Ước tính nạn nhân chịu ảnh hưởng tồi tệ nhất tiếp tục với lượng phóng xạ khoảng 4,5 – 6 Gray (Gy). Theo Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh, một người có nguy cơ mắc hội chứng bức xạ cấp tính khi tiếp xúc với 0,7 Gy, do đó các nạn nhân của tai nạn ở Goiânia trở thành những người nhiễm phóng xạ nặng nhất trong lịch sử.

Kết quả kiểm tra máu từ 110 người liên quan tới tai nạn Goiânia hé lộ mức độ nhiễm phóng xạ từ 0 tới 7 Gy. Tuy có những biện pháp điều trị cho người tiếp xúc với cesium, tổn thương mà nó gây ra cho mô cơ thể có nghĩa ngay cả người sống sót cũng có khả năng mắc bệnh sau này, bao gồm ung thư. Theo nghiên cứu công bố trên tạp chí Clinical Toxicology, cesium-137 tiến vào cơ thể thông qua tiêu hóa hoặc hít thở. Đồng vị này giải phóng phóng xạ beta và gamma, cả hai dạng phóng xạ ion hóa này đều phá hủy mô sống.

Tai nạn Goiânia là minh chứng cho thấy việc xử lý một thiết bị phóng xạ y tế có thể khiến gần như cả thành phố bị ô nhiễm. Thiết bị như vậy có thể trở thành mối đe dọa đối với đời sống con người trong hàng chục nghìn năm.

An Khang (Theo IFL Science)

Sách mới của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

GIÁO TRÌNH LẬP TRÌNH ỨNG DỤNG WINDOWS FORMS

TS. Nguyễn Minh Quý (Chủ biên)
TS. Nguyễn Văn Quyết, ThS. Trần Đỗ Thu Hà, TS. Vũ Khánh Quý

Cuốn sách “Lập trình ứng dụng Windows Forms” là một tài liệu học tập và tham khảo hữu ích, được biên soạn bởi các giảng viên tâm huyết đến từ Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên. Giáo trình được thiết kế nhằm cung cấp cho sinh viên ngành Công nghệ thông tin, cũng như những ai có đam mê lập trình, một nền tảng vững chắc về phát triển ứng dụng trên nền Windows Forms bằng ngôn ngữ C#. Được cấu trúc chi tiết và chặt chẽ, cuốn sách giúp người học không chỉ nắm bắt lý thuyết mà còn thực hành xây dựng các ứng dụng phần mềm một cách dễ dàng và bài bản.

Nội dung giáo trình được chia thành nhiều phần chính, bắt đầu từ phần giới thiệu tổng quan, mang đến cái nhìn toàn cảnh về Windows Forms và vai trò của nó trong lập trình ứng dụng. Tiếp đó, mỗi chương sẽ lần lượt trình bày kiến thức lý thuyết nền tảng, từ những khái niệm cơ bản đến các kỹ thuật phức tạp trong lập trình Windows Forms. Mỗi phần lý thuyết đều kèm theo các bài tập áp dụng thực tế, giúp người học có cơ hội thực hành và hiểu sâu hơn về kiến thức vừa học. Để đảm bảo tính toàn diện, các chương còn bao gồm phần tóm tắt, tổng kết, giúp người học nắm lại những điểm quan trọng một cách hệ thống. Ngoài ra, các câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tự làm ở cuối mỗi chương sẽ là công cụ kiểm tra và củng cố kiến thức, giúp người học tự đánh giá và cải thiện kỹ năng của mình.

Điểm nhấn đặc biệt của giáo trình là case study “Quản lý cán bộ” – một phần mềm thực tế được xây dựng từ đầu đến cuối trong nội dung giáo trình. Qua phần này, người học sẽ được hướng dẫn chi tiết từ khâu phân tích yêu cầu, thiết kế giao diện, đến triển khai và xử lý các chức năng quan trọng trong một phần mềm quản lý. Đây là một dự án thực hành toàn diện, mang lại cho người học không chỉ kỹ năng lập trình mà còn kinh nghiệm về quá trình phát triển một phần mềm ứng dụng hoàn chỉnh, điều này rất quan trọng đối với những ai muốn bước chân vào ngành phát triển phần mềm chuyên nghiệp.

Giáo trình được phân công biên soạn theo từng chương cụ thể bởi các giảng viên nhiều kinh nghiệm: TS. Vũ Khánh Quý chịu trách nhiệm biên soạn Chương 1, TS. Nguyễn Văn Quyết đảm nhiệm Chương 2 và Chương 3, TS. Nguyễn Minh Quý biên soạn Chương 4 và Chương 5, và ThS. Trần Đỗ Thu Hà phụ trách Chương 6 và Chương 7. Với sự đóng góp của từng tác giả, cuốn sách mang đến một nguồn kiến thức phong phú, thực tế và có tính ứng dụng cao.

Mặc dù nhóm tác giả đã dành nhiều công sức để biên soạn và hoàn thiện giáo trình, nhưng cuốn sách có thể còn một số thiếu sót. Vì vậy, các tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ độc giả và đồng nghiệp để có thể cải tiến cho những lần tái bản tiếp theo, nhằm phục vụ tốt hơn cho cộng đồng học tập và nghiên cứu về lập trình.

Cuốn “Lập trình ứng dụng Windows Forms” không chỉ là một tài liệu học tập mà còn là nguồn cảm hứng cho những ai muốn theo đuổi sự nghiệp trong lĩnh vực lập trình. Với sự hướng dẫn rõ ràng, nội dung chi tiết và các ví dụ thực tế, giáo trình này sẽ là công cụ hữu ích giúp người học phát triển kỹ năng và trở thành những lập trình viên tự tin, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong ngành công nghệ thông tin.

Mời bạn đọc mua sách tại Website Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật hoặc các sàn điện tử của Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

Giống cá chép Hungary ‘vượt khó’ vào Việt Nam 50 năm trước

Cách đây 50 năm, hơn một vạn con cá chép giống từ Hungary trên đường về Việt Nam những tưởng “đứt gánh” ở Đức, nhưng nhờ thuyết phục của TS Vũ Kim Cầu đã vận chuyển thành công.

Đầu thập niên 70, nghề nuôi cá chép ở Việt Nam suy thoái nghiêm trọng do giống dần bị thoái hóa. Cá giống không bán được, người dân không còn mặn mà với việc nuôi cá khiến ngành thủy sản phải tìm giải pháp cải thiện giống và phát triển các chương trình lai tạo cá chép.

Lúc bấy giờ, Việt Nam có 8 loài cá chép, trong đó cá chép trắng được nuôi phổ biến nhất. Cá chép bản địa có sức chống chịu tốt nhưng tốc độ sinh trưởng chậm, thành thục sớm. Để cải tạo giống, cần lai tạo cá bản địa với các dòng có ưu điểm sinh trưởng nhanh như của Hungary. TS Vũ Kim Cầu, khi đó là nghiên cứu sinh về cá chép duy nhất của Việt Nam tại Hungary, đã được Đại sứ quán Việt Nam tại Budapest giao nhiệm vụ đưa cá chép Hungary về nước.Cá chép Hungary. Ảnh: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I

Cá chép Hungary. Ảnh: Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản

Đầu tháng 2/1974, ông đến Viện Nghiên cứu Cá Szarvas để khảo sát quy trình sinh sản, nuôi dưỡng cá và nghiên cứu kỹ thuật vận chuyển cá sống. Việc đưa vật nuôi ra nước ngoài thời đó cần có sự phê duyệt của Bộ Nông nghiệp Hungary và giấy kiểm dịch. Nhờ khả năng ngoại giao, ông đã thuyết phục được Viện Szarvas tặng Việt Nam hơn một vạn cá chép giống, cùng các thủ tục xuất khẩu và giấy kiểm dịch bằng bốn ngôn ngữ: Hungary, Nga, Anh và Đức. Các chuyên gia từ Hungary, Ba Lan, và Tiệp Khắc cũng hỗ trợ ông trong việc ươm nuôi cá bột thành cá giống kích thước 1,5-2 cm và thử nghiệm thời gian vận chuyển bằng túi nylon chứa oxygen.

Ông đóng gói 10 túi nylon, mỗi túi nặng 20 kg, chứa hơn một vạn cá chép giống ra sân bay. Chuyến bay của hãng MALEV đưa ông và lô cá từ Budapest sang Berlin. Tại sân bay Berlin, ông bị hãng Lufthansa từ chối vận chuyển do thiếu chi phí. Sứ quán Việt Nam khi đó mới chỉ thanh toán cước vận chuyển từ Budapest đến Berlin.

Thời gian chờ chỉ còn một giờ, nếu không giải quyết kịp, cá sẽ chết và nhiệm vụ thất bại. “Nhà nước không có giống cá này, và không phải lúc nào cũng có cơ hội xin được giống mới để bổ sung vào quỹ gene thủy sản, đặc biệt phục vụ cho các chương trình lai tạo cá chép ở Việt Nam” TS Vũ Kim Cầu nhớ lại.TS Vũ Kim Cầu. Ảnh: Nhật Minh

TS Vũ Kim Cầu kể lại chuyện đưa giống cá chép Hungary về Việt Nam. Ảnh: Nhật Minh

Lúc đó, do là ban đêm, ông không thể liên hệ với Đại sứ quán Việt Nam tại Budapest. Một mình ở sân bay Berlin, không biết tiếng Đức, ông Cầu như “ngồi trên đống lửa”. Chỉ còn khoảng 40 phút là máy bay cất cánh, ông quyết định tìm giám đốc sân bay để nhờ hỗ trợ. Tuy nhiên, không có phiên dịch khiến việc tìm trợ giúp trở nên khó khăn. May mắn sau đó ông cũng tìm được một nhân viên hàng không biết tiếng Hungary đồng ý làm phiên dịch và hướng dẫn ông đến gặp giám đốc sân bay.

Nhờ lời thuyết phục chân thành rằng đây là món quà hữu nghị của Hungary dành cho Việt Nam, hãng Lufthansa đồng ý chở lô cá về Hà Nội. Những túi cá giống sau đó được chuyển cho Trạm Nghiên cứu Cá nước ngọt (nay là Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I). “Những con cá này phát triển tốt, bổ sung vào quỹ gene cá chép ở Việt Nam, mở ra bước ngoặt cho ngành nuôi trồng thủy sản”, TS Cầu nói.

Với nguồn cá chép giống này, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I, dưới sự dẫn dắt của TSKH Trần Mai Thiên, đã triển khai đề tài “Lai kinh tế cá chép Hung và cá chép Việt”. Đề tài kết thúc vào năm 1977, các nhà khoa học tạo ra được giống cá chép mới có đầu nhỏ, tỷ lệ thịt cao và sinh trưởng nhanh. Trong điều kiện bình thường, cá chép một năm tuổi đạt trọng lượng từ 0,8 đến 1 kg, gấp đôi so với cá chép thường. Nhờ đó, nghề nuôi cá chép ở Việt Nam khởi sắc vào cuối thập niên 70.

Trong chương trình chọn giống cá chép Việt Nam do Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I thực hiện từ 1984 -1995, cá chép Hungary được lai với cá chép trắng Việt Nam và cá chép vàng Indonesia. Theo nghiên cứu của GS.TSKH Trần Mai Thiên, sau 5 thế hệ chọn lọc, tốc độ tăng trưởng của cá chép lai tăng 33% so với ban đầu. Đến nay, thế hệ V1, kết quả lai tạo giữa cá chép Việt Nam, Hungary và Indonesia là thế hệ chọn lọc thứ 6, được nuôi phổ biến ở Việt Nam và mang lại giá trị kinh tế cao.

TS Vũ Kim Cầu, 82 tuổi, người Hải Dương. Ông tốt nghiệp trường Đại học Nông nghiệp, sau đó làm việc tại Tổng cục Thủy sản. Từ 1981-2002, ông công tác tại Viện Khoa học Việt Nam, là cộng tác viên khoa học tại Đại học Szent Istvan, Hungary (1991-1999).

Hướng nghiên cứu chính của TS Vũ Kim Cầu tập trung vào sinh hóa, dinh dưỡng và protein, với các ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản. Việc ông đưa cá chép Hungary về Việt Nam góp phần làm phong phú thêm sự đa dạng di truyền của quần thể cá chép Việt Nam, đặt nền tảng cho nuôi trồng thủy sản bền vững, năng suất cao.

Nhật Minh

Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là trụ cột phát triển

Ngày 08/02/2022, Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) đã ban hành Quyết định số 286/QĐ-ĐHQGHN về Chiến lược khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) giai đoạn 2021-2030. Theo đó, quan điểm và mục tiêu xuyên suốt trong giai đoạn 2021-2030 là coi KH,CN&ĐMST đóng vai trò trụ cột, góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược phát triển ĐHQGHN đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành đại học nghiên cứu và ĐMST thuộc nhóm 300 đại học hàng đầu thế giới, tham gia giải quyết một số thách thức và cấp bách của quốc gia. Để đạt được mục tiêu trong Chiến lược nêu trên, ĐHQGHN đã triển khai các chính sách đổi mới hoạt động KH,CN&ĐMST và bước đầu đạt được nhiều kết quả đáng nghi nhận.

Đầu tư cho các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu trọng điểm

Giai đoạn 2020 đến nay, ĐHQGHN đã ban hành và thực hiện một số chính sách ưu tiên, đầu tư cho phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu trọng điểm (PTNTĐ/TTNCTĐ) như: quy hoạch phòng thí nghiệm trọng điểm, ban hành hướng dẫn phát triển và chế độ ưu đãi dành cho nhóm nghiên cứu mạnh ở ĐHQGHN; quy định về công nhận, quản lý và phát triển phòng thí nghiệm/trung tâm nghiên cứu trọng điểm cấp ĐHQGHN; ưu tiên các hạng mục trong các dự án đầu tư về KH&CN hằng năm; ưu tiên đề xuất các nhiệm vụ cấp quốc gia và quốc tế, nhiệm vụ hợp tác với doanh nghiệp; tăng cường nguồn lực đầu tư từ nguồn ngân sách của ĐHQGHN, nguồn tài trợ quốc tế, địa phương và doanh nghiệp; ưu tiên bố trí vốn đầu tư phát triển, đầu tư tăng cường năng lực nghiên cứu để có hạ tầng nghiên cứu hiện đại, gắn kết; ưu tiên không gian làm việc tại Hòa Lạc…

Theo đó, ĐHQGHN đầu tư cho PTN/TTNCTĐ theo dự án tăng cường năng lực gắn với nhiệm vụ nghiên cứu có mức kinh phí từ 5-7 tỷ đồng trong vòng 3 năm; đầu tư cho nhóm nghiên cứu mạnh theo nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia từ 1-3 tỷ đồng trong vòng 3 năm; đầu tư cho phát triển sản phẩm trọng điểm từ 2-3 tỷ đồng trong vòng 3 năm; đầu tư cho hoạt động khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp spin-off từ 1-2 tỷ đồng để hỗ trợ phát triển thị trường thương mại hóa.

ĐHQGHN hiện nay có 10 PTNTĐ/TTNCTĐ, trong đó có 01 PTNTĐ cấp Nhà nước, 07 PTNTĐ cấp ĐHQGHN, 02 TTNCTĐ cấp ĐHQGHN. Với các chính sách này, năm 2022 ĐHQGHN đã đầu tư cho 6 nhóm nghiên cứu/phòng thí nghiệm triển khai nhiệm vụ để tạo sản phẩm trọng điểm, với tổng kinh phí 7,6 tỷ đồng. Năm 2023, ĐHQGHN đã tiếp nhận 11 đề xuất dự án tăng cường năng lực của các PTNTĐ/TTNCTĐ xem xét đầu tư.

Phòng thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ Enzym và Protein thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tính đến 11/2023, ĐHQGHN có 36 nhóm nghiên cứu mạnh, trong đó 30 nhóm được cấp kinh phí thường xuyên năm 2023 là 100 triệu đồng, bên cạnh nguồn ưu tiên đầu tư từ nguồn quỹ khoa học và công nghệ và nguồn đầu tư các dự án trung, dài hạn của ĐHQGHN, 6 nhóm có thành tích công bố đỉnh cao được hỗ trợ dưới dạng nhiệm vụ khoa học và công nghệ (1 tỷ đồng/nhóm).

Hỗ trợ các sản phẩm đầu ra của nghiên cứu

Chính sách hỗ trợ công bố bài báo quốc tế được cụ thể hóa tại Hướng dẫn số 3115/HD-ĐHQGHN của ĐHQGHN ngày 22/10/2020, theo đó, mức hỗ trợ cao nhất cho tác giả đứng đầu; tác giả liên hệ trên tạp chí khoa học thuộc top 5% tạp chí hàng đầu được phân loại theo nhóm lĩnh vực, ngành/chuyên ngành của Scimago và tương ứng với lĩnh vực chuyên môn của tác giả là 40 triệu đồng; hội thảo có từ 10-20 bài ISI/Scopus của nhà khoa học thuộc ĐHQGHN mức hỗ trợ cao nhất 100 triệu đồng/hội thảo.

Năm 2021, ĐHQGHN đã hỗ trợ 262 công trình công bố quốc tế đối với nghiên cứu sinh và cán bộ khoa học tiềm năng với tổng kinh phí trên 4,4 tỷ đồng. Số lượng các công bố quốc tế chất lượng cao không ngừng gia tăng. Năm 2022 đạt 1.444 bài báo thuộc hệ thống Web of Science, tăng 17% so với năm 2021, trong đó có 572 bài Q1, 410 bài Q2. Tính đến tháng 11/2023, đạt hơn 1.400 bài, hơn 60% là Q1 và Q2.

Chính sách hỗ trợ sáng chế/giải pháp hữu ích được thể hiện thông qua Quy định số 3416/QĐ-ĐHQGHN ngày 02/11/2021 của ĐHQGHN về Quy định quản lý tài sản trí tuệ ở ĐHQGHN, nhằm tạo mọi điều kiện để tổ chức, cá nhân phát triển tài sản trí tuệ đưa vào khai thác, tạo ra giá trị tích cực cho ĐHQGHN và xã hội. Theo đó, chính sách ưu tiên đối với nhiệm vụ KH&CN (phê duyệt và cấp kinh phí triển khai nhiệm vụ KH&CN có sản phẩm đầu ra là tài sản trí tuệ có khả năng khai thác thương mại, hoặc chuyển giao cho cơ quan nhà nước sử dụng); chính sách hỗ trợ đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) (hỗ trợ hoạt động viết hồ sơ đăng ký SHTT; hỗ trợ lệ phí nộp đơn đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, lệ phí cấp văn bằng bảo hộ, cấp chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; hỗ trợ 100% lệ phí duy trì, gia hạn và phí sử dụng văn bằng bảo hộ quyền SHTT trong 3 năm đầu tiên, 50% trong 3 năm tiếp theo, 25% trong các năm còn lại). Tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động phát triển và khai thác tài sản trí tuệ được áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao, được Giám đốc ĐHQGHN xem xét khen thưởng. Nguồn kinh phí khen thưởng và mức khen thưởng được thực hiện theo quy định của pháp luật và của ĐHQGHN.

Trong năm 2022, hoạt động đăng ký SHTT tiếp tục giữ được mức độ phát triển với 51 đăng ký SHTT đạt được, trong đó Trường Đại học Khoa học Tự nhiên tiếp tục là đơn vị dẫn đầu ĐHQGHN với 24 đăng ký SHTT. Tính đến 11/2023 toàn ĐHQGHN đạt được 23/72 bằng, đơn SHTT.

Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ

Thực hiện chính sách hình thành và phát triển doanh nghiệp KH&CN, thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ ở ĐHQGHN, ngày 01/03/2023, ĐHQGHN đã ban hành văn bản số 581/HD-ĐHQGHN hướng dẫn tạm thời về việc thành lập và phát triển doanh nghiệp trong ĐHQGHN để hỗ trợ các nhà khoa học hiện thực hóa cơ hội phát triển các nghiên cứu theo hướng ứng dụng, chuyển giao vào cuộc sống.

Hiện nay, ĐHQGHN đang triển khai các giải pháp hỗ trợ để thành lập một số doanh nghiệp spin-off như: Công ty TNHH Ứng dụng và Giải pháp công nghệ vi sinh thuộc Viện Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học; Công ty TNHH Công nghệ Tiên tiến GTS Quốc tế thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên; Công ty TNHH MTV ECOMEDIPHARM thuộc Trường Đại học Y Dược; Công ty Cổ phần Công nghệ VNU-CRES thuộc Viện Tài nguyên và Môi trường; Công ty Cổ phần Công nghệ xanh BABIO-VNU; Công ty Cổ phần công nghệ VNU gắn với định hướng chuyển giao như: sản phẩm thuộc lĩnh vực y dược; thiết kế vi mạch, vật liệu sinh học, công nghệ vi sinh, vật liệu bảo vệ môi trường và phụ gia bảo vệ đồ gia dụng tự nhiên…

Các giải pháp mà ĐHQGHN hỗ trợ rất đa dạng, có thể dưới hình thức cấp nhiệm vụ KH&CN cho các nhóm thực hiện hoàn thiện sản phẩm; tìm kiếm quỹ, doanh nghiệp đầu tư; hỗ trợ, tư vấn về quy trình, thủ tục thành lập và vận hành doanh nghiệp; xác lập tài sản trí tuệ, phát triển sản phẩm, mở rộng thị trường, kết nối nhà đầu tư… thông qua đầu mối Ban Khoa học và Công nghệ, Ban Xúc tiến đầu tư, Câu lạc bộ Nhà khoa học, Trung tâm Chuyển giao Tri thức và Hỗ trợ Khởi nghiệp. Đặc biệt, Trung tâm Chuyển giao Tri thức và Hỗ trợ Khởi nghiệp đã phát huy vai trò trong việc ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH&CN (spinoff/startup) với 2 doanh nghiệp được thành lập trong năm 2023 và một số doanh nghiệp trong 2024.

Ban Xúc tiến Đầu tư và Quỹ Phát triển ĐHQGHN đã thu hút được tài trợ 5 tỷ đồng từ cựu sinh viên Đỗ Quang Hiển, góp vốn điều lệ thành lập VNUHoldings – Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển ĐHQGHN theo mô hình công ty đầu tư tài chính, đầu tư vốn cho các doanh nghiệp spin-off, start-up của cán bộ giảng viên, sinh viên ĐHQGHN và hơn 40 tỷ cho các hoạt động học bổng nghiên cứu sinh, thực tập sinh, sinh viên xuất sắc, nhà khoa học xuất sắc của ĐHQGHN trong năm 2022-2023.

Thu hút và trọng dụng nhà khoa học

ĐHQGHN đã triển khai hiệu quả một số giải pháp của Đề án phát triển đội ngũ nhà khoa học trình độ cao, đầu ngành; áp dụng cơ chế tiếp nhận vào viên chức, tuyển dụng theo trường hợp đặc biệt hoặc mời các nhà khoa học xuất sắc ở trong và ngoài nước về làm việc, đảm nhiệm các vị trí quản lý hoặc vị trí chuyên môn quan trọng ở các đơn vị trực thuộc.

Ngày 10/5/2022, Giám đốc ĐHQGHN đã phê duyệt Đề án chăm sóc sức khỏe đối với đội ngũ giáo sư đang làm việc tại ĐHQGHN, trên cơ sở nguồn lực y tế của ĐHQGHN, đồng thời giao cho Bệnh viện ĐHQGHN làm đầu mối triển khai thực hiện Đề án này. Chính sách này là tiền đề cho việc phát triển, tạo môi trường trọng dụng, đãi ngộ phục vụ công tác thu hút nhân lực chất lượng cao về làm việc tại ĐHQGHN. Sau hơn 1 năm triển khai Đề án, qua khảo sát lấy ý kiến của các giáo sư sau khi tham gia trải nghiệm sử dụng các dịch vụ nêu trên tại Bệnh viện, kết quả cho thấy, hầu hết các giáo sư đều cảm thấy hài lòng và mong muốn ĐHQGHN tiếp tục duy trì và phát triển chính sách này tốt hơn nữa. Các giáo sư đã sử dụng hầu hết các dịch vụ của Đề án tại Bệnh viện, trong đó dịch vụ thăm khám sức khỏe ban đầu (khám chữa bệnh theo yêu cầu) đạt tỷ lệ cao nhất, chiếm 43,2% trên tổng số giáo sư đã tham gia sử dụng dịch vụ.

Hầu hết các giáo sư đều cảm thấy hài lòng với Đề án chăm sóc sức khỏe đối với đội ngũ giáo sư đang làm việc tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

Triển khai có hiệu quả Đề án ươm tạo đội ngũ nhà khoa học trẻ có trình độ cao và nhân lực tri thức đến năm 2025 và Đề án tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế của đội ngũ nhà khoa học, nghiên cứu sinh thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Chính sách của Đề án đem đến cơ hội cho các cán bộ khoa học trẻ, vừa được tham gia các chương trình ươm tạo, vừa có cơ hội nhận học bổng làm nghiên cứu sinh và thực tập sinh tại ĐHQGHN, trong nước và quốc tế. Các mức học bổng tại ĐHQGHN lên đến 100 triệu đồng/năm cho nghiên cứu sinh và 120 triệu đồng/năm cho tiến sỹ trẻ có năng lực nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế xuất sắc hay nghiên cứu sau tiến sỹ.

Ngày 06/12/2022, Giám đốc ĐHQGHN ban hành Thông báo số 4299/ĐHQGHN-TCCB về việc thí điểm chính sách hỗ trợ tài chính đối với cán bộ khoa học trẻ (dưới 40 tuổi), có học vị tiến sỹ trở lên, có khả năng nghiên cứu về công tác tại ĐHQGHN, trong 3 năm đầu được đảm bảo cấp 1 đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQGHN hoặc 2 đề tài nghiên cứu khoa học cấp đơn vị có tổng kinh phí tương đương kinh phí cấp cho 1 đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQGHN; hỗ trợ các công bố quốc tế chất lượng cao: 100 triệu đồng/bài đăng trên các tạp chí thuộc top 5% ngành/lĩnh vực; 70 triệu đồng/bài đăng trên các tạp chí thuộc nhóm Q1; 50 triệu đồng/bài đăng trên các tạp chí thuộc nhóm Q2; đối với các ngành khoa học cơ bản, hỗ trợ tài chính thông qua đặt hàng và giao nhiệm vụ cho cán bộ khoa học trẻ mới về công tác dưới 5 năm, để đảm bảo mức thu nhập bình quân tối thiểu là 15 triệu đồng/tháng.

Đặc biệt, ngày 20/09/2023, Giám đốc ĐHQGHN đã ban hành Thông báo số 3481/TB-ĐHQGHN về chính sách thu hút nhà khoa học xuất sắc, trong đó đối tượng thu hút là các nhà khoa học có thành tích nghiên cứu xuất sắc, ở trong và ngoài nước (bao gồm cả người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài), có mong muốn tham gia nghiên cứu khoa học, đảm nhận các vị trí trưởng nhóm nghiên cứu mạnh ở các lĩnh vực khoa học và công nghệ mà ĐHQGHN định hướng nghiên cứu ưu tiên.

Thúc đẩy hợp tác với các bộ, ngành/địa phương, doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao tri thức

ĐHQGHN có trách nhiệm đi đầu trong thực hiện sứ mệnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và chuyển giao tri thức đa ngành, đa lĩnh vực, góp phần xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước, phát triển bền vững các vùng, địa phương. Do đó, ĐHQGHN luôn chú trọng đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp, địa phương, góp phần giải quyết bài toán về xác lập cơ sở lý luận, phát triển kinh tế – xã hội trong việc triển khai các chương trình khoa học cấp Nhà nước. Hai trong số các chương trình tiêu biểu được ĐHQGHN triển khai thực hiện gồm: (i) Chương trình trọng điểm “KH&CN phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc” giai đoạn 2013-2020; (ii) Nhiệm vụ KH&CN đặc biệt cấp Quốc gia “Xây dựng bộ Địa chí Quốc gia Việt Nam” (Nhiệm vụ Quốc chí). ĐHQGHN tiếp tục tham gia xây dựng và đề xuất các chương trình nghiên cứu cấp quốc gia mới như: Chương trình chíp, bán dẫn, hydrogen, công nghệ sinh học, khoa học biển, khoa học sức khỏe, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo…

ĐHQGHN tham gia tư vấn chính sách, tổng kết nghị quyết, chương trình cho các bộ, ban, ngành Trung ương như Ban Kinh tế Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ KH&CN. Ngoài ra, ĐHQGHN cũng tích cực tham gia tư vấn chính sách cho các địa phương về luận cứ, ý kiến góp phần hoàn thiện dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng như: Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020 và nhiệm kỳ 2020 – 2025 lồng ghép tư vấn phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2020-2025 cho các tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi Bắc Bộ (14 tỉnh) và một số địa phương khác (Quảng Ninh, Thái Bình, Hòa Bình); góp phần hoàn thiện dự thảo “Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050” cho một số địa phương (Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Cà Mau…).

Thúc đẩy các hoạt động kết nối, chuyển giao khoa học và công nghệ, thương mại hóa sản phẩm khoa học và công nghệ của cộng đồng nhà khoa học, nhóm nghiên cứu mạnh với cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân. Hội nghị xúc tiến đầu tư tại ĐHQGHN được tổ chức thường niên nhằm giới thiệu tiềm lực và các sản phẩm khoa học và công nghệ của ĐHQGHN, từ đó thúc đẩy cơ hội hợp tác, xúc tiến đầu tư, chuyển giao khoa học và công nghệ với các doanh nghiệp, địa phương.

ĐHQGHN

Việt Nam – Australia: Giải quyết vấn đề mang tính toàn cầu bằng các giải pháp KH,CN&ĐMST

Chính phủ Australia và Chính phủ Việt Nam xác định đổi mới sáng tạo (ĐMST) là một trụ cột mới trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, góp phần tăng cường quan hệ song phương. Quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam – Australia nói chung và quan hệ hợp tác về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo (KH,CN&ĐMST) Việt Nam – Australia nói riêng trong thời gian qua đã và đang phát triển mạnh mẽ.
Từ ngày 01-02/11/2024, tại Hà Nội, Cục Phát triển công nghệ và Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ) phối hợp với Đại học công nghệ Sydney tổ chức Hội thảo quốc tế “Thúc đẩy hợp tác công nghệ và đổi mới sáng tạo giữa Việt Nam và Australia”. Hội thảo nhằm thúc đẩy hoạt động hợp tác giữa hai nước để giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu bằng các giải pháp KH,CN&ĐMST như: biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, phát triển đô thị thông minh…
Hội thảo có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh, Đại sứ Australia tại Việt Nam Andrew Goledzinowski, Phó Hiệu trưởng Đại học Công nghệ Sydney Andrew Parfitt cùng đại diện từ các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, doanh nghiệp, tổ chức thúc đẩy ĐMST của hai nước.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh cho biết, tại Việt Nam, Đảng và Chính phủ xác định KH,CN&ĐMST đóng vai trò, sứ mệnh đặc biệt quan trọng, là động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng, là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh phát biểu tại Hội thảo.
Thời gian qua, Việt Nam đã tập trung xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật về KH,CN&ĐMST nhằm hoàn thiện môi trường thể chế, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ khó khăn vướng mắc tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động KH,CN&ĐMST; tiềm lực KH&CN đã được cải thiện cả về số lượng tổ chức, nhân lực và nguồn lực đầu tư cho KH&CN, trong đó tỷ trọng đầu tư từ khu vực doanh nghiệp ngày càng tăng; doanh nghiệp được xác định là trung tâm của hệ thống ĐMST quốc gia, viện nghiên cứu, trường đại học là chủ thể nghiên cứu mạnh. Các điều kiện khung cho phát triển hệ thống ĐMST quốc gia đã được hình thành, bao gồm hành lang pháp lý và cơ sở hạ tầng như: Các chính sách về đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ, đổi mới hoạt động KH,CN&ĐMST, phát triển các quỹ hỗ trợ, tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh và đào tạo, hình thành các trung tâm ĐMST ở cấp quốc gia và địa phương… Hệ sinh thái KNST ngày càng phát triển mạnh mẽ, năng động, tạo ra một thế hệ doanh nghiệp mới kinh doanh dựa trên tài sản trí tuệ và tiếp cận thị trường toàn cầu. Kết quả chỉ đạo, điều hành của Chính phủ được khẳng định thông qua Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu 2024 cho thấy, Việt Nam tiếp tục tăng 2 bậc so với năm 2023, xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế. Trong 14 năm liền, Việt Nam luôn có kết quả ĐMST cao hơn so với mức độ phát triển.
Thứ trưởng Hoàng Minh cũng cho biết, hiện nay Việt Nam đang tập trung hoàn thiện các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển hệ thống ĐMST quốc gia, đặc biệt là các chính sách liên quan đến phát triển công nghệ và thử nghiệm có kiểm soát các công nghệ mới, sản phẩm mới, mô hình kinh doanh mới.
Chính phủ Australia và Chính phủ Việt Nam xác định ĐMST là một trụ cột mới trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, góp phần tăng cường quan hệ song phương. Quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt Nam – Australia nói chung và quan hệ hợp tác về KH,CN&ĐMST Việt Nam – Australia nói riêng trong thời gian qua đã và đang phát triển mạnh mẽ.
Việt Nam và Australia đã nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện vào đầu năm 2024, mở ra nhiều cơ hội hợp tác cho hai nước. Do vậy, Hội thảo có ý nghĩa quan trọng trong việc cụ thể hóa các định hướng hợp tác giữa hai Bên, thúc đẩy kết nối giữa các cơ quan, doanh nghiệp, nhà khoa học nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giải quyết nhiều vấn đề thách thức hiện nay trên toàn cầu như: ứng phó biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, phát triển xanh dựa trên KH,CN&ĐMST.
Thứ trưởng Hoàng Minh khẳng định, Bộ KH&CN Việt Nam sẽ tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng nhà khoa học, doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu và các đối tác quốc tế trong các hoạt động KH,CN&ĐMST. Đồng thời, Bộ KH&CN hoan nghênh sự tham gia ủng hộ, hợp tác của các đối tác quốc tế, trong đó có vai trò quan trọng của các đại học uy tín trên thế giới, trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và ĐMST để thúc đẩy phát triển hệ thống ĐMST quốc gia tại Việt Nam.
Trong hai ngày diễn ra Hội thảo, các chủ đề chính được thảo luận gồm: Thành phố thông minh – hạ tầng công nghệ, tài nguyên và bền vững; kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh; công nghệ quản lý nước và đổi mới sáng tạo. Những chủ đề này không chỉ có giá trị đối với sự phát triển của Việt Nam mà còn thúc đẩy việc thực thi của hai quốc gia trong các cam kết quốc tế.
Phiên thảo luận về chủ đề: Thành phố thông minh – Hạ tầng công nghệ, tài nguyên và bền vững.
Bên cạnh đó, các hoạt động giao lưu, kết nối, chia sẻ kinh nghiệm giữa các chuyên gia, cựu du học sinh Việt Nam tại Australia, các tổ chức thúc đẩy KH,CN&ĐMST diễn ra trong khuôn khổ sự kiện.
Tại Hội thảo, đã diễn ra Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Đại học Công nghệ Sydney và Đại học Bách khoa Hà Nội nhằm thúc đẩy các hoạt động hợp tác nghiên cứu, trao đổi chuyên gia để đẩy mạnh KH,CN&ĐMST hướng đến phát triển bền vững của hai nước.
Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Đại học Công nghệ Sydney và Đại học Bách khoa Hà Nội.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN