Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Cơ hội đột phá phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống người dân

Phát biểu tại Hội nghị chuyên đề “Quốc hội số và ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong chuyển đổi số của Quốc hội” ngày 19/3/2025, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, việc phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là cơ hội lớn để Việt Nam không chỉ bứt phá về kinh tế mà còn cải cách toàn diện các ngành nghề và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.
Theo Bộ trưởng, mục tiêu của Việt Nam không chỉ là phát triển công nghệ mà còn là làm chủ và ứng dụng các công nghệ tiên tiến của thế giới trong các lĩnh vực chiến lược. Điều này sẽ giúp tạo ra nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững và cạnh tranh trong tương lai.
Động lực phát triển trong thời đại 4.0 
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã chia sẻ những điểm nổi bật trong Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, liên quan đến đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đồng thời đưa ra các khuyến nghị cho Quốc hội trong việc xây dựng và phát triển Quốc hội số.
Bộ trưởng cho rằng, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chính là những động lực quan trọng giúp Việt Nam phát triển vượt bậc trong thời đại 4.0. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang chuyển mình nhanh chóng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Việc thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là yêu cầu cấp thiết để Việt Nam có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, không chỉ ở khu vực mà còn trên toàn cầu.
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng phát biểu tại Hội nghị.
KH&CN là nền tảng, tạo ra tri thức và công cụ, trong khi đổi mới sáng tạo đóng vai trò cầu nối, chuyển hóa những tri thức và công cụ đó thành các sản phẩm và giải pháp thực tiễn có giá trị. Chuyển đổi số, với sứ mệnh tạo ra môi trường và công cụ để nhanh chóng hiện thực hóa các ý tưởng, sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. Bộ trưởng đặc biệt nhấn mạnh, ba yếu tố này phải gắn kết chặt chẽ và tạo ra một hệ sinh thái phát triển đồng bộ, giúp Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn từng bước khẳng định vị thế trên trường quốc tế thông qua xuất khẩu công nghệ, đổi mới sáng tạo và sản phẩm khoa học.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, việc phát triển các ngành công nghệ chiến lược như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ sinh học và năng lượng tái tạo không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam mà còn là cơ hội để Việt Nam khẳng định vị thế trên bản đồ KH&CN toàn cầu. Điều này không chỉ tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế mà còn giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình và hướng đến mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao.
Bộ trưởng đưa ra ví dụ về “Quốc hội số”, mô hình quản trị hiện đại dựa trên các ứng dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn, giúp Quốc hội hoạt động minh bạch, hiệu quả và dễ dàng tiếp cận hơn. Quốc hội số sẽ không chỉ giúp cải thiện hiệu quả công việc của các đại biểu mà còn nâng cao sự tham gia của công dân vào các quyết định chính trị, tạo ra nền tảng quản trị quốc gia minh bạch, hiệu quả và thân thiện hơn với người dân.
Bộ trưởng nhấn mạnh, đây là bước đi tất yếu trong quá trình chuyển đổi số quốc gia, giúp Việt Nam bắt kịp kỷ nguyên số và xây dựng một hệ thống quản trị linh hoạt, thông minh. Để xây dựng Quốc hội số thành công, cần một chiến lược dài hạn, quy tắc quản lý chặt chẽ, quy định bảo mật thông tin và đảm bảo quyền tiếp cận cho mọi công dân.
Đưa thể chế pháp lý thành lợi thế phát triển
Nghị quyết số 57-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2030, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số giúp Việt Nam trở thành nước thuộc nhóm đầu trong số các nước có thu nhập trung bình cao. Trình độ công nghệ, đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp đạt mức trung bình thế giới. Một số lĩnh vực KH&CN đạt trình độ thế giới.
Cụ thể, với chuyển đổi số chúng ta đặt mục tiêu thuộc nhóm 3 Đông Nam Á, top 50 thế giới, công nghệ AI và một số lĩnh vực công nghiệp công nghệ số thuộc nhóm 3 Đông Nam Á, 5 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm các nước tiên tiến. Hoàn thành việc xây dựng đô thị thông minh thuộc các thành phố trực thuộc Trung ương. Thu hút thêm 3 Big Tech đặt trụ sở, đầu tư, nghiên cứu phát triển tại nước ta. Việt Nam thành điểm sáng về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Toàn cảnh Hội nghị Quốc hội số và ứng dụng công nghệ AI trong chuyển đổi số của Quốc hội.
Bộ trưởng cho biết, cần thực hiện quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong môi trường số, xây dựng, kết nối và chia sẻ đồng bộ cơ sở dữ liệu quốc gia, ngành, vùng, địa phương, sàn giao dịch dữ liệu, Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, công dân số, và công nghiệp văn hóa số đạt chuẩn quốc tế. Mục tiêu là vươn lên nhóm đầu thế giới về an ninh và an toàn không gian mạng cũng như dữ liệu.
Để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, Bộ trưởng đã chỉ ra các nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, bao gồm nâng cao nhận thức, đột phá về đổi mới tư duy, và quyết tâm chính trị mạnh mẽ. Bộ trưởng cho rằng, người đứng đầu trực tiếp phụ trách khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cần coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức. Kết quả phát triển trong các lĩnh vực này sẽ là tiêu chí đánh giá cán bộ, đồng thời cần bố trí phù hợp số lượng cán bộ chuyên môn về khoa học kỹ thuật và chuyển đổi số trong cấp ủy.
Đối với công tác tuyên truyền, giáo dục, Bộ trưởng cho rằng, cần thực hiện phong trào học tập số, bình dân học vụ số, phong trào khởi nghiệp sáng tạo; nêu cao tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc…
Trong bài phát biểu, Bộ trưởng không chỉ đưa ra những phân tích về vai trò của KH&CN, mà còn chỉ rõ rằng thể chế là yếu tố quyết định sự thành công của quá trình phát triển này. Dù KH&CN có tiềm năng lớn, nếu không có một thể chế thuận lợi, các nghiên cứu và sáng kiến sẽ không thể được triển khai hiệu quả. Bộ trưởng cho rằng, hiện tại, thể chế vẫn đang là “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, nhưng với các cải cách mạnh mẽ, thể chế có thể trở thành một lợi thế cạnh tranh quan trọng. Bộ trưởng đề xuất, việc cải cách thể chế là yêu cầu cấp thiết, từ việc đơn giản hóa thủ tục hành chính đến việc tạo ra cơ chế tài chính linh hoạt để khuyến khích các nghiên cứu, sáng kiến công nghệ.
Đặc biệt, cần thí điểm cái mới để nhân rộng; đồng thời chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm, độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo, sandbox; quỹ đầu tư mạo hiểm cho khởi nghiệp sáng tạo, ươm tạo công nghệ và chuyển đổi số, thì cơ chế là chấp nhận “có cái được, có cái mất”. Cùng với đó, cần tiếp tục thu hút có hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Ngân sách cho nghiên cứu khoa học, công nghệ thực hiện theo cơ chế Quỹ, bảo đảm chi tiêu tập trung, có trọng tâm, trọng điểm…
Tinh thần của Nghị quyết số 57-NQ/TW là “quản lý theo mục tiêu, không quản lý theo cách làm, là trao quyền tự chủ và trách nhiệm cho người làm, chấp nhận rủi ro và đánh giá dựa trên hiệu quả tổng thể, là người làm được hưởng lợi từ thành quả lao động và sáng tạo”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Để đạt được những mục tiêu này cần tập trung vào 5 nguyên tắc chính: Lượng hóa nhiệm vụ thành mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể; Giao nhiệm vụ cho người đứng đầu trực tiếp chỉ đạo; Phân bổ nguồn lực hợp lý để triển khai các nhiệm vụ; Xây dựng công cụ đo lường kết quả thực hiện trực tuyến theo quý/năm và định kỳ đánh giá, công khai kết quả; và Kết quả thực hiện sẽ là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt là đối với người đứng đầu.
Bộ trưởng khẳng định, với sự quyết tâm chính trị mạnh mẽ cùng sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và người dân Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành quốc gia dẫn đầu về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số trong tương lai.

 

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Cơ hội đột phá phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống người dân

Tăng cường nghiên cứu KH&CN vì tương lai bền vững của nguồn nước, khí tượng và năng lượng

Hưởng ứng Ngày Nước Thế giới (22/3), Ngày Khí tượng Thế giới (23/3) và Chiến dịch Giờ Trái đất (thứ Bảy cuối cùng của tháng 3), Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã không ngừng đẩy mạnh tuyên truyền, nghiên cứu và phát triển công nghệ nhằm giải quyết những thách thức về nước, khí hậu và năng lượng. Những nỗ lực này không chỉ góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của Việt Nam.
Năm 2025, Ngày Nước Thế giới được Liên Hợp Quốc phát động với chủ đề “Bảo tồn các dòng sông băng”, nhấn mạnh vai trò của băng và tuyết trong hệ thống khí hậu và chu trình thủy văn toàn cầu. Cùng với đó, Ngày Khí tượng Thế giới mang thông điệp “Chung tay vì hệ thống cảnh báo sớm toàn diện”, kêu gọi sự hợp tác giữa các quốc gia để nâng cao năng lực cảnh báo thiên tai. Chiến dịch Giờ Trái đất với chủ đề “Chuyển dịch xanh, tương lai xanh” tiếp tục thúc đẩy mô hình kinh tế xanh và lối sống bền vững.
Các dòng sông băng là mối quan tâm hàng đầu trước những diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu. Ảnh: UNWater
Trước những tác động phức tạp của biến đổi khí hậu, đặc biệt là tình trạng sông băng tan chảy, nguồn nước suy giảm, thiên tai gia tăng và việc sử dụng những nguồn năng lượng chưa hiệu quả cùng với việc nâng cao nhận thức và ứng dụng KH&CN là điều kiện tiên quyết để hướng tới phát triển bền vững.
Bộ KH&CN đã quản lý và phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng nhiều đơn vị liên quan đẩy mạnh triển khai các chương trình KH&CN cấp quốc gia và các chương trình khác… nhằm góp phần giải quyết các vấn đề về nguồn nước, bảo vệ vùng đất ngập nước, giảm phát thải khí nhà kính, thúc đẩy kinh tế xanh, tuần hoàn và bền vững, tiết kiệm năng lượng, bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường trong phạm vi lưu vực sông, phạm vi quốc gia và phạm vi toàn cầu… nâng cao nhân lực, tiềm lực KH&CN vùng.
Đồng thời, Bộ KH&CN đã xây dựng và triển khai một số chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ quản lý và bảo vệ môi trường như: Chính sách nghiên cứu, ứng dụng, phát triển và chuyển giao công nghệ, trong đó hỗ trợ phát triển KH&CN lĩnh vực công nghiệp môi trường; bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; cảnh báo và dự báo tai biến thiên nhiên và sự cố môi trường biển, ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng biển Việt Nam phục vụ phát triển bền vững kinh tế biển… thông qua các Chương trình KH&CN cấp quốc gia như: Chương trình KC.06/21-30 “Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ tiên tiến phục vụ ngành công nghiệp môi trường”, Chương trình “Nghiên cứu KH&CN phục vụ bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu” – KC.08/21-30, Chương trình KC.14/21-30 “Nghiên cứu KH&CN phục vụ bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước”, Chương trình KC.15/21-30 “KH&CN ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững ĐBSCL giai đoạn đến năm 2030”…
Ngoài ra, thực hiện Quyết định số 562/QĐ-TTg ngày 25/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển khoa học cơ bản trong lĩnh vực Hóa học, Khoa học sự sống, Khoa học trái đất và Khoa học biển giai đoạn 2017-2025 (Chương trình 562), năm 2024, Bộ KH&CN đã tổ chức triển khai 08 nhiệm vụ về Khoa học biển.
Thời gian tới, Bộ KH&CN tiếp tục bám sát vào nội dung của các Nghị quyết, khung Chương trình do Thủ tướng Chính phủ và Bộ KH&CN phê duyệt như: tiếp tục triển khai các nhiệm vụ, cụm nhiệm vụ KH&CN cấp quốc gia nhằm giải quyết tổng thể các vấn đề lớn như bảo tồn đa dạng sinh học biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phòng và chống sạt lở, xâm nhập mặn,..; triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu gắn với nhu cầu phát triển kinh tế biển của các địa phương có biển, đảo và gắn với doanh nghiệp; ứng dụng công nghệ mới vào quan trắc khí tượng thủy văn; thúc đẩy chuyển đổi năng lượng sạch, tiết kiệm năng lượng, phát triển công nghệ năng lượng tái tạo, mô hình sản xuất xanh; tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển, đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các nước có thế mạnh về KH&CN biển trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ hiện đại vào các ngành kinh tế biển, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng… Qua đó, từng bước khẳng định vai trò tiên phong trong bảo vệ tài nguyên nước, khí hậu và năng lượng, hướng tới một tương lai phát triển bền vững.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Tăng cường nghiên cứu KH&CN vì tương lai bền vững của nguồn nước, khí tượng và năng lượng

Họp Ban Chỉ đạo Đề án “Tuyên truyền về chủ trương và nhiệm vụ phát triển điện hạt nhân”

Chiều ngày 20/3/2025, đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án “Tuyên truyền về chủ trương và nhiệm vụ phát triển điện hạt nhân” đã chủ trì cuộc họp Ban Chỉ đạo triển khai Đề án.
Toàn cảnh họp Ban Chỉ đạo triển khai Đề án.
Tại cuộc họp, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đã công bố quyết định thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ giúp việc thực hiện Đề án. Theo đó, thành viên Ban chỉ đạo và Tổ giúp việc Đề án gồm các đồng chí lãnh đạo các Bộ, ngành, đơn vị, địa phương và các cơ quan liên quan, như: Ủy ban KH&CN Môi trường Quốc hội, Bộ KH&CN, Bộ Công thương, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Tỉnh ủy Ninh Thuận, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia.
Thay mặt thường trực Tổ giúp việc, đồng chí Lê Thị Ngân, Phó Vụ trưởng, Vụ KH&CN, Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương đã trình bày tóm tắt các nội dung, kế hoạch hoạt động và phương thức thông tin, tuyên truyền chủ trương, nhiệm vụ phát triển điện hạt nhân; cơ chế phối hợp công tác, dự thảo phân công trách nhiệm các thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc xin ý kiến Ban Chỉ đạo.
Phát biểu tại cuộc họp, đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án khẳng định, phát triển điện hạt nhân là một trong những chỉ đạo lớn, kịp thời, mang tầm chiến lược của Đảng nhằm đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang năng lượng xanh để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 theo cam kết tại COP26, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước. Việc phát triển điện hạt nhân là vấn đề lớn, đại sự quốc gia, do đó, sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất giữa Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan bộ, ngành, giữa các thành viên Ban Chỉ đạo, các thành viên Tổ biên tập sẽ giúp cho công tác tuyên truyền chủ trương, nhiệm vụ phát triển điện hạt nhân của Đảng và Nhà nước kịp thời và hiệu quả.
Đồng chí Huỳnh Thành Đạt, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Đề án phát biểu.
Thứ trưởng Bộ KH&CN Lê Xuân Định phát biểu tại cuộc họp.
Việc triển khai Đề án nhằm tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng đối với nhiệm vụ phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam và tiếp tục nghiên cứu điện hạt nhân Ninh Thuận nhằm tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân đối với chương trình điện hạt nhân; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cũng như các tổ chức, cá nhân và cộng đồng xã hội về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chương trình điện hạt nhân đối với sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Với tinh thần trách nhiệm cao, các đại biểu đã trực tiếp thảo luận, đóng góp ý kiến xác đáng về nội dung của các dự thảo Đề án; chia sẻ thông tin thực tiễn trong việc tái khởi động chương trình điện hạt nhân tại Việt Nam và công tác chuẩn bị xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN

Hạt vi nhựa xâm nhập vào mây ảnh hưởng đến thời tiết

Các nhà khoa học Mỹ nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của các hạt vi nhựa đang ảnh hưởng đến sự hình thành mây, tác động đến thời tiết và khí hậu Trái Đất.

Trái Đất liên tục nhận năng lượng từ Mặt Trời sau đó phản xạ năng lượng đó trở lại không gian, trong đó mây có tác dụng làm ấm và làm mát trong quá trình này. Ảnh: NOAA

Mây hình thành khi hơi nước, một chất khí vô hình trong khí quyển, bám vào các hạt trôi nổi nhỏ như bụi và biến thành các giọt nước lỏng hoặc tinh thể băng. Trong một nghiên cứu mới của nhóm nhà khoa học đến từ Đại học Chicago vừa công bố đã chỉ ra các hạt vi nhựa có thể tạo ra tinh thể băng ở nhiệt độ cao hơn 5 đến 10 độ C so với các giọt nước không có hạt vi nhựa.

Điều này cho thấy vi nhựa trong không khí có thể ảnh hưởng đến thời tiết và khí hậu bằng cách tạo ra mây trong điều kiện mà thông thường chúng không hình thành.

Các nhà hóa học khí quyển nghiên cứu cách các loại hạt khác nhau tạo thành băng khi chúng tiếp xúc với nước lỏng. Quá trình này, xảy ra liên tục trong khí quyển, được gọi là tạo mầm.

Để xem liệu các mảnh vi nhựa có thể đóng vai trò là hạt nhân cho các giọt nước hay không, các nhà khoa học đã sử dụng 4 loại nhựa phổ biến nhất trong khí quyển: polyethylene tỷ trọng thấp, polypropylene, polyvinyl chloride và polyethylene terephthalate. Mỗi loại được thử nghiệm ở cả trạng thái nguyên sơ và sau khi tiếp xúc với tia cực tím, ozone và axit. Tất cả những chất này đều có trong khí quyển và có thể ảnh hưởng đến thành phần của hạt vi nhựa.

Họ đã cho lơ lửng các hạt vi nhựa trong các giọt nước nhỏ và từ từ làm lạnh các giọt nước để quan sát khi chúng đóng băng. Họ cũng phân tích bề mặt của các mảnh nhựa để xác định cấu trúc phân tử của chúng, vì sự hình thành mầm băng có thể phụ thuộc vào tính chất hóa học bề mặt của hạt vi nhựa.

Đối với hầu hết các loại nhựa được nghiên cứu, 50% số giọt nước đã bị đóng băng khi ở -22 độ C. Những kết quả này tương đồng với một nghiên cứu gần đây khác của các nhà khoa học Canada, những người cũng phát hiện ra rằng một số loại hạt vi nhựa tạo mầm băng ở nhiệt độ ấm hơn so với các giọt nước không có hạt vi nhựa.

Việc tiếp xúc với tia cực tím, ozone và axit có xu hướng làm giảm hoạt động tạo mầm băng trên các hạt. Điều này cho thấy rằng sự hình thành mầm băng rất nhạy cảm với những thay đổi hóa học nhỏ trên bề mặt của các hạt vi nhựa. Tuy nhiên, những loại nhựa này vẫn tạo mầm băng, vì vậy chúng vẫn có thể ảnh hưởng đến lượng băng trong mây.

Theo nhóm nghiên cứu, để hiểu rõ hơn hạt vi nhựa ảnh hưởng đến thời tiết và khí hậu như thế nào, cần biết nồng độ của chúng ở độ cao mà mây hình thành. Ngoài ra cần hiểu nồng độ của hạt vi nhựa so với các hạt khác có thể tạo mầm băng, chẳng hạn như bụi khoáng và các hạt sinh học, để xem liệu hạt vi nhựa có hiện diện ở mức độ tương đương hay không. Những phép đo này sẽ cho phép chúng ta lập mô hình tác động của hạt vi nhựa lên sự hình thành mây.

Minh Thư (Theo Live Science)

Hạt vi nhựa xâm nhập vào mây ảnh hưởng đến thời tiết – Báo VnExpress

Tàu đệm từ Trung Quốc hồi sinh giấc mơ Hyperloop của Elon Musk

Các kỹ sư Trung Quốc vượt qua những trở ngại ngăn cản ý tưởng tàu siêu tốc di chuyển trong đường ống chân không của tỷ phú Mỹ trở thành hiện thực.

Đường chạy thử nghiệm cho tàu siêu tốc 1.000 km/h ở Trung Quốc. Ảnh: CREC

Trong gần hai thế kỷ, giấc mơ về hệ thống vận chuyển trong đường ống chân không hấp dẫn vô số nhà khoa học và kỹ sư. Đây là giấc mơ được thổi bùng lên từ đề xuất của Elon Musk vào năm 2013 với hệ thống tàu Hyperloop hứa hẹn cách mạng hóa giao thông, chở người giữa các thành phố ở tốc độ 1.000 km/h. Bất chấp những chiến thắng mà Musk gặt hái trong lĩnh vực xe điện, chòm vệ tinh và tên lửa, giấc mơ Hyperloop của ông vẫn dang dở.

Những thách thức nhằm hiện thực hóa Hyperloop tưởng chừng không thể vượt qua: chênh lệch áp suất 200 lần so với cabin máy bay, bê tông dễ rò rỉ, lực cản từ gây biến dạng và kỹ thuật đòi hỏi hoàn hảo đến từ milimet cho đường sắt và cầu để tránh thảm họa. Cách nửa vòng Trái Đất, các kỹ sư Trung Quốc đã tìm ra cách vượt qua thách thức và hồi sinh giấc mơ Hyperloop.

Năm 2024, Trung Quốc giới thiệu đường chạy thử nghiệm Hyperloop dành cho tàu đệm từ dài 2 km ở huyện Dương Cao, tỉnh Sơn Tây. Siêu dự án này được mô tả chi tiết lần đầu tiên tháng trước trong một bài báo công bố trên tạp chí Railway Standard Design của Trung Quốc. Trong đó, Xu Shengqiao, kỹ sư ở Tập đoàn tư vấn kỹ thuật đường sắt Trung Quốc (CREC), chia sẻ quá trình họ giải quyết cơn ác mộng của Hyperloop thông qua kết hợp đường ống bê tông – thép chân không thấp, giảm chấn từ tính điều khiển bằng AI, phương pháp xây dựng chính xác đến từng milimet và kinh nghiệm phong phú từ các dự án đường sắt cao tốc khác.

Một trong những điểm yếu chủ chốt của Hyperloop là phụ thuộc vào đường ống kim loại tốn kém. Giải phóng của Trung Quốc là dầm composite hình chữ N kết hợp vỏ thép với bê tông bịt kín chân không. Bên trong, nhóm kỹ sư tạo ra một mê cung thanh cốt thép phủ epoxy và gia cố sợi thủy tinh để vô hiệu hóa lực cản từ, một sáng kiến quan trọng giúp thất thoát năng lượng giảm hơn 1/3.

Ở bên ngoài, họ sử dụng khớp mở rộng bằng thép lượn sóng để giải quyết dao động nhiệt độ, trong khi mạng dây thép dẫn đường bằng laser đảm bảo căng thẳng ở mức 0,05 mm trên từng kilomet. “Thép chịu lực căng trong khi bê tông xử lý lực nén. Kết hợp với nhau, chúng tạo thành một pháo đài kín khí”, Xu cho biết. Các thử nghiệm cho thấy những đường ống duy trì độ liền khối cận chân không bất chấp mùa đông lạnh giá và mùa hè nóng tới 45 độ C, một thành tựu từng được cho là bất khả thi đối với bê tông.

Ở tốc độ 1.000 km/h, lực cản từ tăng theo cấp số nhân. Nhóm của Xu thay đổi phần cốt lõi của đường ống. Những cuộn siêu dẫn được sắp xếp lại để tối ưu hóa đường lực từ, trong khi lưới thép thay thế thanh cốt thép truyền thống. Các module đường ray hiệu chỉnh bằng laser, đúc trước với độ chính xác 0,1 mm giúp loại bỏ nguy cơ lung lay. Nhóm nghiên cứu cũng đổi mới bê tông. Bê tông tiêu chuẩn bị nứt vỡ trong môi trường chân không. Điều này có thể giải quyết với hỗn hợp sợi bazan, hơi silica và xử lý tiền chân không. Kết quả thử nghiệm cho thấy loại bê tông của họ có thể chịu áp suất cận chân không trong hàng thập kỷ mà không bị nứt.

Ngày 22/7/2024, các nhà khoa học và kỹ sư Trung Quốc làm nên lịch sử. Trong đường ống chân không thấp, phương tiện tăng tốc tới tốc độ cao, lơ lửng ở độ cao 22 cm và chạy qua đường ray 2 km với độ chệch gần như bằng 0. Cảm biến sợi quang học ở thành đường ống phát hiện những chuyển động cực nhỏ, kích hoạt điều chỉnh theo thời gian thực với dòng siêu dẫn. Chốt gió khẩn cấp và cabin chịu áp suất giúp giải quyết những mối lo ngại về an toàn đã ám ảnh Hyperloop suốt nhiều năm.

Phương pháp của Trung Quốc dựa trên tính module. Các đoạn ống đúc sẵn được sản xuất hàng loạt, khiến chi phí giảm 60%. Bơm chân không phân phối giảm sử dụng năng lượng trong khi thuật toán AI dự đoán nhu cầu bảo dưỡng. Dự án của Trung Quốc không giới hạn ở thí nghiệm mà là hệ thống có thể mở rộng với kế hoạch tăng độ dài trong vài năm tới. Xu cho biết đó là thành quả từ những bài học với đường sắt cao tốc ở Trung Quốc: sử dụng giàn hàng tự động, khảo sát kỹ tới từng milimet và thử nghiệm va chạm chặt chẽ.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn phải đối mặt nhiều trở ngại. Thương mại hóa đường tàu 1.000 km/h đòi hỏi hàng tỷ USD. Giãn nở nhiệt trong đường ống dài hơn và quy định khẩn cấp với hành khách vẫn chưa được kiểm tra.

An Khang (Theo MSN)

Tàu đệm từ Trung Quốc hồi sinh giấc mơ Hyperloop của Elon Musk – Báo VnExpress

Tổng Bí thư Tô Lâm: Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia là ngôi nhà chung của hiệp sĩ số

Tại lễ ra mắt Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia, Tổng Bí thư Tô Lâm gọi đây là “ngôi nhà chung của các hiệp sĩ số” và “ngọn cờ tiên phong” trong việc thực hiện Nghị quyết 57.

Sáng 22/3 tại Hà Nội, Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia (NDA) tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất, nhiệm kỳ I (2025–2030). Hiệp hội thành lập theo Quyết định số 10 ngày 10/1 của Bộ Nội vụ, với sứ mệnh kết nối cơ quan quản lý, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực dữ liệu. Tổ chức này hướng tới xây dựng hệ sinh thái dữ liệu, góp phần thúc đẩy kinh tế số và gia tăng giá trị dữ liệu trong nền kinh tế quốc dân.

Tổng Bí thư Tô Lâm tặng hoa chúc mừng Ban Thường vụ Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia nhiệm kỳ I. Ảnh: Lưu Quý

Đại hội quy tụ 200 đại biểu chính thức, đại diện cho gần 400 hội viên. Đại tướng Lương Tam Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an, giữ chức Chủ tịch. Trong nhiệm kỳ I, Hiệp hội cho biết tập trung vào bốn hoạt động trọng tâm gồm: Phối hợp với cơ quan chức năng, hiệp hội và tổ chức liên quan nhằm tuyên truyền, phổ biến chính sách và pháp luật quốc gia về dữ liệu; Tham gia đóng góp ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; Kiến nghị, tham vấn cơ quan nhà nước có thẩm quyền các vấn đề liên quan đến sự phát triển của ngành dữ liệu; Hỗ trợ cơ quan chức năng khi được yêu cầu.

“Hiệp hội sẽ là cầu nối giữa các doanh nghiệp, xây dựng hệ sinh thái dữ liệu đa dạng và ổn định, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số bền vững trên mọi lĩnh vực, tạo tiền đề đưa đất nước bước vào kỷ nguyên số mới”, ông Quang nhấn mạnh.

Bảy nhiệm vụ cho Hiệp hội

Tại sự kiện, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị xác định rõ “dữ liệu là trung tâm của chuyển đổi số, là động lực quan trọng cho sự phát triển”.

Ông đánh giá việc quản trị và khai thác dữ liệu tại Việt Nam còn nhiều bất cập, như nhận thức về vai trò của dữ liệu chưa đầy đủ; hạ tầng dữ liệu còn phân tán, thiếu kết nối; nguồn nhân lực chất lược cao về dữ liệu còn thiếu; khung pháp lý chưa hoàn thiện, đặc biệt trong các lĩnh vực như bảo mật dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư và dữ liệu cá nhân; an ninh, an toàn dữ liệu còn nhiều thách thức.

“Đặc biệt cần nhận thức rõ quản trị dữ liệu không chỉ là vấn đề chính sách, mà còn là vấn đề công nghệ. Không có công nghệ không thể thu thập, lưu trữ, xử lý, phân tích và chia sẻ dữ liệu một cách an toàn và hiệu quả”, ông nói.

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại sự kiện. Ảnh: NDA

Tổng Bí thư đánh giá vai trò của Hiệp hội là “ngôi nhà chung của các hiệp sĩ số”, tiên phong thực hiện Nghị quyết 57, đưa Việt Nam thành quốc gia phát triển dựa trên dữ liệu. Ông đề xuất 7 nhiệm vụ cho Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia:

Một là nghiên cứu đề xuất hoàn thiện hành lang pháp lý về dữ liệu, tạo điều kiện cho dữ liệu lưu chuyển, kết nối, chia sẻ và được khai thác tối đa, nhưng vẫn bảo đảm an ninh, an toàn và chủ quyền dữ liệu.

Hai là phát huy vai trò nòng cốt trong việc xây dựng, phát triển, khai thác và làm giàu dữ liệu quốc gia, tập trung vào bốn trụ cột chính: con người, vị trí, hoạt động và vật phẩm.

Ba là chủ động, tích cực ứng dụng, làm chủ, tiến tới tự chủ các công nghệ dữ liệu cốt lõi, đặc biệt là công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, và điện toán đám mây.

Bốn là hỗ trợ đẩy mạnh xây dựng hạ tầng dữ liệu tiên tiến, bao gồm các trung tâm dữ liệu do Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân đầu tư.

Năm là tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm, thu hút nguồn lực, và tham gia vào các sáng kiến toàn cầu về dữ liệu.

Sáu là xây dựng cơ chế thực thi và giám sát hiệu quả. Các cơ quan nhà nước cần có hệ thống giám sát chặt chẽ và đồng bộ hơn trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số để bảo đảm các quy định pháp luật được tuân thủ đầy đủ.

Bảy là bảo mật dữ liệu, xây dựng hệ thống, sản phẩm bảo mật dữ liệu, phát triển các dịch vụ bảo mật dữ liệu, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về bảo mật dữ liệu, hình thành ngành công nghiệp trong lĩnh vực này.

Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh vai trò của Hiệp hội trong một số chương trình, sáng kiến trọng điểm gồm Phát triển thị trường dữ liệu cho phát triển; Xây dựng nền tảng AI mở quốc gia giúp cho các doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận ứng dụng AI; Phổ cập hiểu biết về dữ liệu cho người dân; Tổ chức các cuộc thi Thách thức Đổi mới sáng tạo dựa trên dữ liệu; Tăng cường năng lực tự chủ về công nghệ dữ liệu.

Các đại biểu tham dự Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia. Ảnh: Minh Sơn

Tổng Bí thư Tô Lâm: Hiệp hội Dữ liệu Quốc gia là ngôi nhà chung của hiệp sĩ số-VNexpress

Đề xuất ưu tiên phát triển công nghệ chiến lược lĩnh vực hạt nhân

Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia vào lĩnh vực năng lượng nguyên tử, đặc biệt là công nghệ chiến lược.

Bộ Khoa học và Công nghệ đang xây dựng dự thảo Luật Năng lượng nguyên tử sửa đổi gồm 12 chương, 73 điều (giảm 19 điều tương ứng với hơn 20% số điều so với Luật năm 2008).

Trong đó điều 14, dự luật nêu biện pháp thúc đẩy phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử. Nhà nước ưu tiên đầu tư có trọng điểm và khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, phát triển điện hạt nhân.

Nhà nước có chương trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử trong lĩnh vực kinh tế – xã hội; thành lập Quỹ nghiên cứu khoa học và phát triển năng lượng hạt nhân. Quỹ này được trích lập từ lợi nhuận của nhà máy điện hạt nhân và nguồn khác.

Ngoài ra, Nhà nước ưu tiên nguồn lực quốc gia đầu tư phát triển công nghệ chiến lược trong lĩnh vực hạt nhân; hỗ trợ, ưu đãi đối với tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

Phối cảnh dự án điện hạt nhân Ninh Thuận năm 2016. Ảnh Tư liệu

Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đề xuất tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng cơ sở nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử, cơ sở bức xạ được hưởng chính sách ưu đãi về xã hội hóa, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư, người sử dụng dịch vụ và cộng đồng. Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức thành lập quỹ hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Tổ chức, cá nhân có thể đầu tư thành lập tổ chức khoa học và công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cơ sở bức xạ, cơ sở tiến hành công việc bức xạ; đầu tư theo phương thức đối tác công tư để thành lập tổ chức khoa học và công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cơ sở bức xạ, cơ sở tiến hành công việc bức xạ.

Dự luật cũng cho phép vay vốn để đầu tư công trình hạ tầng, thiết bị bức xạ, thiết bị hạt nhân; đầu tư hợp tác với tổ chức nghiên cứu năng lượng nguyên tử quốc tế thành lập phòng thí nghiệm chung; tài trợ, viện trợ từ tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.

Cơ quan soạn thảo cho biết so với Luật năm 2008, dự thảo bổ sung quy định về Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình để thống nhất với quy định về căn cứ xây dựng quy hoạch phát triển.

Ngoài ra, dự thảo cũng hướng đến thúc đẩy phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử theo hướng bổ sung chính sách về khuyến khích đầu tư, ưu đãi về thuế, tài chính. Việc này giúp tạo thuận lợi tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư vào nghiên cứu, ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Dự luật kế thừa, phát triển những quy định hợp lý, có tính nguyên tắc của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008, tập trung bốn chính sách:

Chính sách 1: Thúc đẩy sự phát triển và xã hội hóa ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Chính sách 2: Bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn, an ninh hạt nhân và phân cấp trong công tác quản lý nhà nước.

Chính sách 3: Tạo thuận lợi cho hoạt động thanh sát hạt nhân.

Chính sách 4: Tăng cường quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng; chủ động và sẵn sàngứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân; bảo đảm thực hiện trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân.

Bộ Khoa học và Công nghệ đang lấy ý kiến chuyên gia, người dân về Luật Năng lượng nguyên tử (sửa đổi) và đăng ký vào chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2025 của Quốc hội Khóa XV.

Sơn Hà

Đề xuất ưu tiên phát triển công nghệ chiến lược lĩnh vực hạt nhân-VNexpress

Phân bổ nguồn lực khoa học công nghệ dựa trên hiệu quả

Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Nguyễn Mạnh Hùng. Ảnh: Lưu Quý

Thứ nhất, điểm cần nhấn mạnh là khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số phải nhằm vào mục tiêu cuối cùng là tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân.

Phải đặt ra mục tiêu và đo lường, đánh giá được sự đóng góp của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vào tăng trưởng kinh tế. Tránh việc chỉ nhấn mạnh vào chi khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số mà không đặt mục tiêu hiệu quả.

Phân bổ nguồn lực khoa học công nghệ cho các cơ sở nghiên cứu phải dựa trên hiệu quả. Một số quốc gia lượng hóa cụ thể, chuyển đổi số đóng góp 1% tăng trưởng GDP, đổi mới sáng tạo đóng góp 1% và khoa học công nghệ đóng góp 1%, đầu tư 3% ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số thì phải tạo ra 3% tăng trưởng GDP.

Thứ hai, chúng ta đã đưa bộ 3 khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số vào chung một chỗ và nối chúng với nhau, vậy cần nói rõ mối liên kết giữa chúng.

Trong bộ 3 này, khoa học công nghệ là nền tảng tạo ra tri thức và công cụ mới. Đổi mới sáng tạo là động lực, nó chuyển hóa các tri thức, công cụ mới thành ý tưởng và giải pháp để giải quyết các bài toán kinh tế – xã hội. Chuyển đổi số tạo ra môi trường số và công cụ số để hiện thực hóa các ý tưởng, giải pháp đổi mới sáng tạo thành các sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh mới và phổ cập vào cuộc sống để tạo ra giá trị thực tế đóng góp cho phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ ba  các giải pháp đột phá.

Về chuyển đổi số: Thúc đẩy chuyển đổi số thì chủ yếu là các quyết định hành chính, chuyển mọi hoạt động lên môi trường số và thay đổi hoạt động của các tổ chức bằng công nghệ, nhất là AI, đây không phải vấn đề công nghệ mà chủ yếu là thể chế và các quyết định hành chính, có thể làm nhanh được.

Về đổi mới sáng tạo: Thúc đẩy đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp để tăng năng suất lao động thì chủ yếu là thông qua cơ chế vay ưu đãi, giảm thuế; thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo các mô hình kinh doanh mới, công nghệ mới thì chủ yếu thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm và cơ chế sandbox.

Về khoa học công nghệ: Đầu tư nâng cấp hạ tầng khoa học công nghệ, các phòng Lab hiện đại, kiên trì đưa nghiên cứu cơ bản về các đại học (vì đây là nơi tập trung nhân lực nghiên cứu cơ bản: các giáo sư và nghiên cứu sinh), phát triển công nghệ thì tập trung vào các viện công nghệ và doanh nghiệp; có chính sách triết khấu thuế cho các khoản chi phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp, để kích thích các doanh nghiệp chi cho nghiên cứu phát triển, đạt mục tiêu 60-80% chi cho khoa học công nghệ là từ doanh nghiệp.

Khoa học công nghệ lúc này thì tập trung chủ yếu vào các công nghệ chiến lược, là các công nghệ tạo ra sự phát triển đột phá, phát triển chất lượng cao, có giá trị gia tăng cao, tạo nền tảng cho các ngành công nghiệp khác, giúp đưa Việt Nam lên tuyến đầu về khoa học công nghệ. Nghiên cứu cơ bản cũng phải tập trung vào hỗ trợ cho phát triển các công nghệ chiến lược, các sản phẩm chiến lược của quốc gia.

Phân bổ nguồn lực khoa học công nghệ dựa trên hiệu quả-VNexpress

Gánh nặng tiêu thụ điện khổng lồ từ AI

Nhu cầu tiêu thụ điện cực lớn của những trung tâm dữ liệu phục vụ phát triển AI đang gây áp lực cho lưới điện ở nhiều bang của Mỹ.

Trung tâm dữ liệu phục vụ phát triển AI có thể tiêu tốn lượng điện nhiều ngang một thành phố nhỏ. Ảnh: Bloom Energy

Trí tuệ nhân tạo đã tiến hóa từ một lĩnh vực khoa học máy tính chuyên biệt thành lực lượng định hình lại kinh tế, quốc phòng và đời sống hàng ngày trên toàn cầu. Tuy nhiên, phía sau mỗi thành tựu AI đều có một cơ sở thầm lặng với cơn khát điện dường như vô tận, đó là những trung tâm dữ liệu. Các trung tâm dữ liệu chứa vô số giá đặt máy chủ dùng để lưu trữ và xử lý tệp dữ liệu đồ sộ, tiêu hao năng lượng lớn chưa từng thấy. Khi AI ngày càng phát triển, câu hỏi đặt ra là liệu mọi người có cần hy sinh nhu cầu điện hàng ngày để AI có thể tiếp tục hoạt động?

Trung tâm dữ liệu AI và nhu cầu điện tăng vọt

Trung tâm dữ liệu luôn tiêu thụ lượng lớn điện, nhưng AI khiến lượng tiêu thụ tăng đáng kể. Huấn luyện thuật toán cho những mô hình ngôn ngữ lớn như ChatGPT hoặc trình tạo hình ảnh như Midjourney đòi hỏi xử lý bằng GPU và phần cứng chuyên dụng. Những công việc này phải được chuyển sang trung tâm dữ liệu đám mây. Laptop hoặc điện thoại không thể xử lý ở quy mô như vậy. James Walker, giám đốc điều hành công ty Nano Nuclear Energy Inc., nhấn mạnh nhu cầu điện ngày càng tăng ở các dự án AI. “Chúng tôi đã trò chuyện với một số người đang xây dựng trung tâm dữ liệu, một số dự kiến cần tới 2 GW điện”, Walker cho biết.

Ngay cả trung tâm dữ liệu quy mô trung bình cũng có thể tiêu thụ nhiều điện ngang một thành phố nhỏ. Nhà phân tích công nghệ Jack Gold chia sẻ cơ sở như XAI của Elon Musk ở Tennessee có thể cần lượng điện tương đương hàng chục nghìn ngôi nhà. Áp lực điện có thể khổng lồ nếu hàng chục hoặc hàng trăm trung tâm như vậy hoạt động.

Alex de Vries, nhà sáng lập DigiEconomist, đã theo dõi ngành công nghiệp kỹ thuật số trong nhiều năm, từ đào tiền ảo tới điện toán đám mây. “Trung tâm dữ liệu có thể chiếm ít nhất 1% lượng tiêu thụ điện toàn cầu trong thập kỷ qua. Do những xu hướng cần nhiều năng lượng như AI, tỷ lệ sẽ tăng lên 3 – 4% trên thế giới. Chúng đã sử dụng nhiều điện hơn toàn bộ nước Pháp”, de Vries nói.

Áp lực đối với lưới điện

Lưới điện hiện đại là hệ thống phức tạp bao gồm nhà máy điện, trạm biến áp và đường dây truyền tải phân phối điện trên khu vực rộng lớn. Mỗi nhà máy đều có công suất cung cấp điện tối đa. Việc tăng thêm những trung tâm dữ liệu AI khổng lồ có thể khiến lưới điện địa phương quá tải, đặc biệt ở khu vực đang vật lộn với tình trạng thiếu điện.

Nhiều nơi ở Mỹ như California và Arizona chật vật cắt điện luân phiên khi nhu cầu cao điểm. Đưa những trung tâm dữ liệu mới quy mô gigawatt vào các khu vực này có thể khiến thách thức thêm trầm trọng. Ngay cả ở bang có công suất thặng dư như Texas, North Dakota, và Wyoming, nhà chức trách cũng phải cân nhắc xây dựng hoặc nâng cấp đường dây, xây nhà máy điện và quản lý tác động tiềm ẩn đối với điện dân dụng.

Theo de Vries, nhu cầu gia tăng đột ngột có thể đẩy giá điện lên cao hơn. “Nếu nguồn cung không thể đáp ứng nhu cầu của AI, kết quả duy nhất có thể là giá điện cao hơn. Ngoài ra, một số nhà máy điện cũ như nhà máy nhiệt điện có thể cần tái kích hoạt, dấy lên lo ngại về môi trường”, ông cho biết.

Những nguồn điện tái tạo như điện gió và điện mặt trời đang phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, bản chất gián đoạn của chúng là một vấn đề đối với các trung tâm dữ liệu đòi hỏi nguồn cung cấp liên tục, ổn định. Trang trại pin lớn hoặc giải pháp lưu trữ năng lượng khác có thể giảm bớt biến động nhưng sẽ tăng thêm chi phí và cần diện tích đất đáng kể.

Năng lượng hạt nhân

Một giải pháp tiềm năng là năng lượng hạt nhân. Điện hạt nhân không thải khí chứa carbon ở thời điểm sản xuất, cung cấp phụ tải cơ bản đáp ứng nhu cầu của trung tâm dữ liệu. Tuy nhiên, nhà máy điện hạt nhân quy mô lớn đi kèm chi phí cao, thời gian xây dựng kéo dài và trở ngại từ quy định. Ví dụ, nhà máy Hinkley Point C ở Anh đối mặt với trì hoãn kéo dài nhiều năm và kinh phí đội lên hàng tỷ USD.

Gold nhận thấy tiềm năng ở những lò phản ứng hạt nhân module nhỏ (SMR). Nhiều công ty khởi nghiệp SMR như Last Energy và Rolls-Royce đề xuất giải pháp thuận tiện như lò phản ứng hạt nhân lắp đặt tại chỗ để cung cấp điện cho trung tâm dữ liệu. Loại lò phản ứng nhỏ này cũng có thể đặt trên tàu chở hàng hoặc địa điểm xa xôi, cung cấp điện cho hệ thống công nghiệp trong nhiều thập kỷ mà không cần tiếp nhiên liệu. Một số nhà phát triển AI cho rằng điện hạt nhân là giải pháp tin cậy duy nhất để đáp ứng mục tiêu năng lượng trong 20 năm tới.

Tuy nhiên, hầu hết dự án SMR vẫn đang trong giai đoạn phát triển. Việc cấp giấy phép an toàn cho điện hạt nhân rất nghiêm ngặt và cộng đồng phải cảm thấy thoải mái khi đặt lò phản ứng sau nhà họ, ngay cả ở dạng module.

Tiêu thụ nước

Ngoài điện, trung tâm dữ liệu AI cũng cần lượng nước khổng lồ để làm mát máy chủ. Một cơ sở trung bình có thể tiêu thụ hơn 1,2 triệu lít nước mỗi ngày, tương đương 100.000 hộ gia đình. Giải pháp làm mát thay thế như đặt trung tâm dữ liệu dưới nước hoặc hệ thống bay hơi phức tạp, đi kèm nhiều thách thức về vận chuyển và môi trường.

AI là một công cụ cực mạnh thúc đẩy thành tựu trong chăm sóc sức khỏe, tài chính, phương tiện tự động,… Những lợi ích của nó có thể mang tính cách mạng nhưng với chi phí tiêu thụ điện ở mức lớn liên tục. Trong thời gian ngắn, giới chuyên gia dự đoán giá điện có thể tăng cao, lưới điện sẽ chịu áp lực khi phải đáp ứng nhu cầu của AI. Trong thời gian dài hơn, các giải pháp tiên tiến như SMR, lưu trữ pin quy mô lớn, thậm chí chỉnh sửa lưới điện có thể đem lại sự cân bằng.

Thực tế chắc chắn là sự phát triển của AI sẽ không chững lại. Với những mô hình cao cấp hơn, robot thời gian thực và dịch vụ dữ liệu mới, nhu cầu về điện sẽ càng tăng mạnh. Mọi người không cần hy sinh nhu cầu điện hàng ngày cho AI. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy hóa đơn tiền điện cao hơn, gián đoạn dịch vụ và tác động tới môi trường nếu lưới điện không thay đổi để theo kịp sự phát triển của AI.

An Khang (Theo Interesting Engineering)

Gánh nặng tiêu thụ điện khổng lồ từ AI-VNexpress

Lắp đặt camera kỹ thuật số lớn nhất thế giới

Mỹ-Camera LSST 3.200 megapixel lớn cỡ một chiếc xe nhỏ và nặng 3 tấn, bằng nửa trọng lượng của voi châu Phi đực, sẽ khám phá những bí ẩn về vật chất tối và năng lượng tối.

Đội ngũ ở Đài quan sát Vera C. Rubin lắp đặt camera LSST vào tháng 3/2025. Ảnh: DOE

Các nhà nghiên cứu đã hoàn thành một cột mốc quan trọng với đài quan sát Vera C. Rubin với việc lắp đặt camera LSST khổng lồ của kính viễn vọng, bộ phận quang học cuối cùng trước khi bắt đầu giai đoạn thử nghiệm, Space hôm 17/3 đưa tin. Camera Kính viễn vọng khảo sát khái quát lớn (LSST) lớn cỡ chiếc xe được lắp đặt gần đây ở Đài quan sát Vera C. Rubin là camera kỹ thuật số lớn nhất từng được chế tạo, dùng để ghi lại hình ảnh chi tiết của bầu trời Nam bán cầu trong hơn một thập kỷ.

“Lắp đặt camera LSST trên kính viễn vọng là một chiến thắng khoa học và kỹ thuật”, Harriet Kung, giám đốc Văn phòng Khoa học thuộc Bộ Năng lượng Mỹ (DOE), cho biết. “Chúng tôi đang mong đợi những bức ảnh chưa từng có mà camera này sẽ tạo ra”.

Kính viễn vọng này là dự án do Quỹ Khoa học Quốc gia Mỹ và Văn phòng Khoa học của DOE cấp kinh phí, đặt theo tên tiến sĩ Vera C. Rubin, nhà thiên văn học người Mỹ nổi tiếng với nghiên cứu cung cấp bằng chứng mạnh mẽ về sự tồn tại của vật chất tối.

Cùng với đồng nghiệp Kent Ford, Rubin nhận thấy trong nhiều thiên hà mà họ nghiên cứu, các ngôi sao ở rìa ngoài di chuyển nhanh như ngôi sao ở gần trung tâm. Điều này rất bất thường bởi theo vật lý Newton và định luật về chuyển động hành tinh của Kepler, vật thể càng xa trung tâm của hệ thống trọng lực sẽ bay quanh quỹ đạo chậm hơn do lực hấp dẫn yếu đi. Lực hấp dẫn từ khối lượng đã quan sát không đủ giữ cho những ngôi sao bay nhanh gắn bó với thiên hà. Nếu không có thêm khối lượng giúp tăng lực hấp dẫn, thiên hà sẽ tan rã. Rubin và đồng nghiệp kết luận có một dạng khối lượng chưa từng thấy gắn kết thiên hà, gọi là vật chất tối.

Kính viễn vọng Rubin sẽ tìm hiểu những bí ẩn của năng lượng tối và vật chất tối bằng công nghệ tiên tiến. Thiết kế gương hiện đại, camera độ nhạy cao, tốc độ khảo sát nhanh và cơ sở hạ tầng máy tính cao cấp đại diện cho các đột phá trong lĩnh vực tương ứng. Cách vài đêm, Rubin sẽ khảo sát toàn bộ bầu trời, tạo ra thước phim time-lapse độ phân giải siêu cao, siêu rộng về vũ trụ. Mỗi hình ảnh sẽ lớn đến mức cần 400 màn hình TV cực nét.

Dù camera LSST là một kỳ quan kỹ thuật, quá trình lắp đặt không kém phần khó khăn. Vào tháng 3/2025, sau nhiều tháng thử nghiệm ở phòng vô trùng của Đài quan sát Rubin, đội phụ trách sử dụng một sàn nâng để chuyển camera tới nền kính viễn vọng. Sau đó, một thiết bị nâng sẽ tùy chỉnh sau đó được đặt vào vị trí và gắn lên kính viễn vọng lần đầu tiên.

Trong vòng vài tuần tới, những chức năng và hệ thống của camera LSST sẽ được kết nối và kiểm tra. Không lâu sau, nó sẽ sẵn sàng chụp hình ảnh chi tiết của bầu trời đêm. Dự kiến kính viễn vọng Rubin đang xây dựng ở Cerro Pachón, Chile, sẽ bắt đầu hoạt động quan sát năm 2025.

An Khang (Theo Space)

Lắp đặt camera kỹ thuật số lớn nhất thế giới-VNexpress