Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
Hotline 1: 0898275999
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN
GS Vũ Hà Văn, ông Marc Woo cùng nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế sẽ thảo luận về AI tạo sinh trong Ngày hội Trí tuệ nhân tạo Việt Nam (AI4VN) 2024.
Chương trình có chủ đề “Mở khóa sức mạnh trí tuệ nhân tạo tạo sinh – Unlock the power of Generative AI” AI4VN 2024 diễn ra ngày 23/8 tại Trung tâm hội nghị Quốc gia Hà Nội. Sự kiện do Bộ Khoa học và Công nghệ chỉ đạo, Báo VnExpress tổ chức với sự phối hợp của Câu lạc bộ Các Khoa – Viện – Trường Công nghệ thông tin -Truyền thông (FISU), bắt đầu từ năm 2018.
Trí tuệ nhân tạo tạo sinh (Generative AI) cho phép người dùng nhanh chóng tạo nội dung mới dựa trên nhiều loại dữ liệu đầu vào khác nhau. Các dữ liệu đầu vào và đầu ra của mô hình có thể bao gồm văn bản, hình ảnh, âm thanh, hoạt hình, mô hình 3D hoặc nhiều loại dữ liệu khác. Sự kiện thu hút sự tham dự của nhiều chuyên gia, lãnh đạo tập đoàn công nghệ, doanh nghiệp phát triển, ứng dụng AI trong nước và quốc tế, trường đại học… Chương trình năm nay gồm các hoạt động: AI Summit, AI Workshop, AI Expo, AI Awards.
Tại phiên chính của AI4VN (AI Summit) diễn ra chiều 23/8, sau phần phát biểu của lãnh đạo Chính phủ, bộ ngành và các tổ chức quốc tế, các vấn đề tổng quan xu hướng phát triển trí tuệ nhân tạo thế giới và Việt Nam sẽ được thảo luận, làm rõ.
Ở phần quốc tế, ông Marc Woo, Giám đốc điều hành Google phụ trách thị trường Việt Nam và châu Á – Thái Bình Dương chia sẻ chủ đề “AI tạo sinh và các xu hướng nổi bật trong năm 2024″. Ông tốt nghiệp xuất sắc về Khoa học tính toán tại trường Kinh tế London. Được xem là một nhà lãnh đạo giàu kinh nghiệm tại Google, ông Marc Woo đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt và thực hiện chiến lược kinh doanh, xây dựng quan hệ đối tác cho các sản phẩm của Google và giới thiệu các sáng kiến hỗ trợ quá trình chuyển đổi số của Việt Nam.
Tiếp đến, GS Fabio Zambetta, Phó trưởng khoa phụ trách đối ngoại, Khoa Công nghệ máy tính, Phân viện STEM, Đại học RMIT Australia và TS Arthur Tang, Giảng viên cấp cao ngành Công nghệ thông tin, Khoa Khoa học, Kỹ thuật & Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam chia sẻ tham luận “Trí tuệ nhân tạo vượt ngoài màn hình máy tính”. TS Arthur Tang là một nhà khoa học máy tính, đặc biệt quan tâm đến việc tích hợp công nghệ trí tuệ nhân tạo sinh vào tương tác ngôn ngữ tự nhiên trong nghiên cứu y tế và các ứng dụng lâm sàng.
Phần quốc tế còn có các diễn giả đến từ Australia, Hàn Quốc… sẽ làm rõ hơn các xu hướng trên thế giới cũng như cách các quốc gia đang thích ứng, tận dụng thế mạnh từ công nghệ AI.
Sau phần quốc tế, đại diện các tập đoàn công nghệ, doanh nghiệp lớn trong nước sẽ làm rõ hơn các bước chuẩn bị, tiềm năng cũng như cơ hội, thách thức khi phát triển và ứng dụng AI đối với Việt Nam.
Mở đầu phiên này, GS Vũ Hà Văn, Giám đốc Khoa học Viện nghiên cứu dữ liệu lớn VinBigData (tập đoàn Vingroup) có bài chia sẻ về việc “Việt Nam chuẩn bị thế nào trước thời đại AI tạo sinh”.
Trong một bài phát biểu, GS Vũ Hà Văn từng nhắc tới một số tập đoàn lớn nghiên cứu thành công và ra mắt các sản phẩm dựa trên mô hình ngôn ngữ lớn như OpenAI với ChatGPT hay Google với Bard. Tại Việt Nam, “VinBigdata đã xây dựng thành công mô hình ngôn ngữ lớn tiếng Việt, tập trung giải quyết ba vấn đề cốt lõi: cải thiện tính chính xác, giảm chi phí hạ tầng tính toán một cách tối đa và đảm bảo tính bảo mật”.
Tham luận của GS Vũ Hà Văn sẽ chia sẻ thực tế phát triển và ứng dụng AI tại doanh nghiệp cũng như những gợi ý, đề xuất để Việt Nam có thể tận dụng cơ hội từ công nghệ AI vào phát triển kinh tế, xã hội.
Tiếp theo ông Vũ Anh Tú, Giám đốc công nghệ Tập đoàn FPT sẽ có bài tham luận về chủ đề “Có nên tự chủ AI“. Với 20 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông, ông Tú là kiến trúc sư trưởng của nhiều dự án công nghệ của Tập đoàn FPT.
Ông là người tiên phong xây dựng, ứng dụng các công nghệ tiên tiến làm nền tảng phát triển kinh doanh, đưa FPT trở thành đơn vị dẫn đầu trong việc cung cấp dịch vụ Internet trên mạng cáp quang; phát triển thiết bị giải mã truyền hình IPTV cho hàng triệu người dùng.
Hiện FPT có nhiều sản phẩm ứng dụng AI, chinh phục hàng chục triệu người dùng trên toàn cầu. Tập đoàn đang hướng đến mục tiêu cao hơn bình dân hóa công nghệ này, đồng thời làm chủ AI tạo sinh.
Tiếp theo đại diện VNPT cùng nhiều đơn vị sẽ minh họa thêm các kết quả ứng dụng và phát triển công nghệ AI tại doanh nghiệp mình. Các phần trình bày cũng chỉ ra những thuận lợi, thách thức làm rõ hơn bức tranh phát triển AI tại Việt Nam.
Trong buổi sáng 23/8, chương trình có bốn phiên hội thảo (AI Workshop), đề cập tới các chủ đề: AI Automation – Tự động hóa và AI; Ứng dụng trí tuệ nhân tạo tạo sinh trong doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam; Data center và AI Cloud và Ứng dụng AI trong lĩnh vực Y tế. Trước khi bước vào các chủ đề chuyên sâu đại diện của UNESCO sẽ có phần dẫn mở trao đổi về việc “Hợp tác quốc tế đảm bảo an toàn đối với trí tuệ nhân tạo”.
Trong khuôn khổ AI4VN 2024, một triển lãm (AI Expo) gồm các gian hàng trình diễn các sản phẩm AI tiêu biểu của các doanh nghiệp, viện, trường… Khách tham dự có cơ hội trải nghiệm các sản phẩm mới ứng dụng AI đang có trên thị trường Việt Nam.
Trong khuôn khổ chương trình, Ban tổ chức cũng trao giải cho các sản phẩm, giải pháp ứng dụng trí tuệ nhân tạo nổi bật (AI Awards 2024).
>>> Đăng ký tham dự chương trình tại đây.
Vĩnh Hà
Ngày 02/08/2024, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc Evans Knapper đã có chuyến thăm và làm việc với Trường Đại học Phenikaa tại Hà Nội. Chuyến thăm đánh dấu bước tiến quan trọng trong phát triển hợp tác quốc tế của Tập đoàn Phenikaa nói chung, Trường Đại học Phenikaa nói riêng với các đối tác Hoa Kỳ.
PGS.TS Hồ Xuân Năng – Chủ tịch Tập đoàn Phenikaa và Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc Evans Knapper trao quà lưu niệm tại buổi làm việc.
Giáo dục – Đào tạo: Một trong những trọng tâm của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã trải qua một hành trình đáng chú ý từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995. Trong gần 3 thập kỷ, hai nước đã không ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ song phương, từng bước vượt qua những khác biệt để trở thành đối tác toàn diện trong nhiều lĩnh vực, đánh dấu bằng việc nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2023.
Trong dòng chảy mối quan hệ chiến lược này, giáo dục và đào tạo là một trong những trọng tâm giữa hai quốc gia. Tính đến cuối năm 2023, Việt Nam đã có khoảng 50 chương trình liên kết đào tạo với Hoa Kỳ. Việt Nam hiện đang đứng đầu trong số các nước ASEAN và đứng thứ 8 trên thế giới về số lượng lưu học sinh học tập tại Hoa Kỳ.
Chính phủ Hoa Kỳ có khoảng 30 chương trình trao đổi học tập với Việt Nam. Hợp tác hai bên không chỉ dừng lại ở tạo điều kiện cho sinh viên Việt Nam sang Hoa Kỳ học tập. Thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Hoa Kỳ còn triển khai nhiều chương trình hỗ trợ và phát triển giáo dục Việt Nam.
Trong khuôn khổ chuyến thăm và làm việc, Ngài Marc Evans Knapper đã thăm quan cơ sở vật chất, Trung tâm Đào tạo Thiết kế vi mạch bán dẫn, Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng khoa học y sinh của Trường Đại học Phenikaa.
Ngài Marc Evans Knapper – Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam giao lưu với các học viên của Trung tâm Đào tạo Thiết kế vi mạch bán dẫn.
Trường Đại học Phenikaa hợp tác đa phương diện với các tổ chức/doanh nghiệp Hoa Kỳ
Trong những năm gần đây, Trường Đại học Phenikaa đang dần khẳng định vị thế của mình trên bản đồ giáo dục trong nước và quốc tế với những đóng góp tích cực vào sự phát triển của giáo dục, nghiên cứu khoa học và công nghệ. Đặc biệt, sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác Hoa Kỳ đã mang lại những thành quả đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu của Trường. Cụ thể:
Trong lĩnh vực đào tạo, Trường Đại học Phenikaa đã ký Biên bản ghi nhớ hợp tác với Đại học Bang Arizona (ASU) về triển khai Dự án BUILD-IT vào năm 2022. Theo đó, 162 cán bộ giảng viên đã được tham gia các khóa đào tạo nâng cao năng lực trong các chương trình của Dự án; 3 giảng viên đạt chứng chỉ quốc tế; 5 chương trình đào tạo thuộc khối ngành công nghệ kỹ thuật chuẩn bị để đạt tiêu chuẩn kiểm định ABET; 18 lãnh đạo, giảng viên tham gia đào tạo Phương pháp giảng dạy số trong giáo dục đại học; 200 sinh viên tham gia các chương trình học tập theo dự án PBL của BUILD-IT (Chương trình đào tạo AWS, Chương trình học thuật của IBM, IEC…); tích hợp mô hình MEP vào Cuộc thi Sáng kiến khởi nghiệp nhằm nâng cao trải nghiệm và kết quả học tập của sinh viên…
Về nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học của Trường Đại học Phenikaa nói riêng, Tập đoàn Phenikaa nói chung đã phối kết hợp với các nhà khoa học của Đại học Georgia và Đại học Nam Florida để đưa ra công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học uy tín thế giới như: Advanced Optical Materials, Material Horizons, Scientific report…
Không thể không nhắc tới Dự án “Ứng dụng cỏ vetiver ở quy mô thực tế để xử lý đất ô nhiễm dioxin ở Sân bay Biên Hòa” của TS Ngô Thị Thúy Hường đã hợp tác với Cục Địa chất Hoa Kỳ. Dự án được USAID tài trợ tổng cộng 332.000 USD.
Một trong những lĩnh vực được coi là thế mạnh của Tập đoàn Phenikaa là Dự án Bệnh viện Đại học Phenikaa với hệ thống trang bị các thiết bị, máy móc hiện đại từ các nhà sản xuất Hoa Kỳ với tổng kinh phí hơn 6 triệu USD.
Năm 2022-2023, Tổ chức Seeding Lab đã tài trợ 500.000 USD bằng hiện vật (gần 200 thiết bị) để xây dựng Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Y sinh. Hiện các thiết bị đang được sử dụng để nghiên cứu và đào tạo.
Trong khối ngành Khoa học Sức khỏe, năm 2023, Trường Đại học Phenikaa đã ký Biên bản thỏa thuận hợp tác với Đại học Bang Michigan (MSU). Trước đó, Trường và Viện Nghiên cứu sức khỏe toàn cầu (Institute for Global Health, MSU) đã có những hợp tác trong khuôn khổ Dự án Mekong One Health Innovation Program (MOHIP), qua đó các giảng viên, sinh viên khối ngành y dược và môi trường được tham gia chuỗi hội thảo hàng tháng về một sức khỏe và phát triển bền vững, tham gia các khóa đào tạo ngắn hạn về dữ liệu lớn trong nghiên cứu y học và về an ninh y tế, một sức khỏe và các bệnh lây truyền qua động vật.
Nhấn mạnh về mối quan hệ hợp tác đa phương diện này, trong phát biểu chào mừng Ngài Đại sứ Hoa Kỳ, đại diện lãnh đạo Trường cho biết, mối quan hệ đối tác toàn diện giữa Hoa Kỳ và Việt Nam đã mang lại những đóng góp tích cực về giáo dục tại Việt Nam. Nhà trường ghi nhận những đóng góp to lớn mà Hoa Kỳ đã dành cho nền giáo dục Việt Nam nói chung và Tập đoàn Phenikaa nói riêng trong những năm qua. Trường Đại học Phenikaa định hướng tiếp tục tăng cường hợp tác với các trường đại học/tổ chức của Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, nghiên cứu khoa học và phát triển ngoại giao.
Trường Đại học Phenikaa và các đối tác Hoa Kỳ hợp tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về vi mạch, bán dẫn
Vi mạch bán dẫn được xem là nền tảng của tính toán hiện đại, giữ vai trò quan trọng trong bối cảnh thế giới bước sang giai đoạn bùng nổ nghiên cứu, ứng dụng và phát triển các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data)… Việt Nam có triển vọng lớn để trở thành một trung tâm bán dẫn mới của thế giới khi: có nguồn nhân lực phù hợp, với đội ngũ nhân sự trẻ có năng lực về khoa học và toán học; các công ty công nghệ trong nước ngày càng lớn mạnh, các tập đoàn lớn quốc tế dịch chuyển sản xuất về Việt Nam, đào tạo nguồn nhân lực ở những khâu giá trị cao và nắm bắt công nghệ mới; Chính phủ có quyết sách phát triển ngành.
Với những đặc thù yêu cầu cao về tính chính xác và chất lượng sản phẩm, năng suất và trình độ lao động… của ngành, đào tạo nhân lực ngành vi mạch bán dẫn không thể chỉ dừng lại ở chương trình cơ bản bậc đào tạo đại học, mà cần nhiều nỗ lực triển khai các trình độ cao hơn.
Tháng 5 vừa qua, Liên minh Đào tạo nhân lực và Nghiên cứu bán dẫn (VASA) được thành lập bởi Trường Đại học Phenikaa (đại diện bởi Trung tâm Phenikaa Đào tạo Thiết kế vi mạch bán dẫn) và TP Đà Nẵng (đại diện bởi Trung tâm Nghiên cứu, Đào tạo thiết kế Vi mạch và AI), theo hình thức đối tác công – tư. Đồng thời, Trường cũng ký kết Biên bản thỏa thuận hợp tác với Đại học Bang Arizona – trường đào tạo về ngành chip bán dẫn lớn nhất trên thế giới, để xây dựng các chương trình đào tạo, tận dụng các nguồn lực mà Chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam để triển khai các chương trình đào tạo.
Đại học Bang Arizona đồng ý hợp tác trong lĩnh vực bán dẫn (thiết kế mạch tích hợp IC, ATP), kỹ thuật hàng không, kỹ thuật năng lượng sạch; đồng thời sẽ hợp tác với Trung tâm Đào tạo Thiết kế vi mạch bán dẫn tổ chức các khóa đào tạo về bán dẫn cho giảng viên (thiết kết IC nâng cao, ATP) và thúc đẩy phối hợp đào tạo sau đại học.
Đặc biệt, Tập đoàn Phenikaa còn ký kết với Synopsys – là một công ty tự động hóa thiết kế điện tử (EDA), cung cấp các công cụ và dịch vụ cho ngành sản xuất và thiết kế chất bán dẫn. Các sản phẩm bao gồm các công cụ tổng hợp logic và thiết kế vật lý của mạch tích hợp, trình mô phỏng để phát triển và môi trường gỡ lỗi hỗ trợ thiết kế logic cho chip và hệ thống máy tính.
Chia sẻ về mối quan hệ hợp tác này, Ngài Marc Evans Knapper – Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam cho biết: Chúng tôi rất vui mừng khi Tập đoàn Phenikaa đã có những bước tiến trong quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp Hoa Kỳ, điển hình như Synopsys. Những mô hình hợp tác và đối tác mang tính chiến lược này sẽ mở đường cho mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn nữa giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Điều này không chỉ giúp hai nước củng cố mối quan hệ kinh tế mà còn giúp đa dạng hóa và củng cố chuỗi cung ứng, nhằm đảm bảo rằng Việt Nam là một trung tâm quan trọng về sản xuất bán dẫn và các sản phẩm công nghệ cao khác. Đồng thời, đảm bảo rằng hai quốc gia đều hướng tới tương lai thịnh vượng, hòa bình và ổn định.
Công ty Synopsys đã hợp tác và cung cấp cho Trường phần cứng là các thiết bị Zebu 5, Zebu 4, số 1 thế giới về ảo hóa chip trị giá 3 triệu USD trang bị cho Trung tâm Đào tạo Thiết kế vi mạch bán dẫn (PSTC) và toàn bộ phần mềm công cụ thiết kế chip. Trung tâm sử dụng giáo trình và tài liệu đào tạo Synopsys để đào tạo các “trainer”.
Với sự đầu tư nghiêm túc, bài bản cho đào tạo chuyên ngành vi mạch, mục tiêu của Tập đoàn Phenikaa và Trường Đại học Phenikaa không chỉ là tham gia giải bài toán thiếu nhân lực bán dẫn trong nước mà hướng tới chuẩn mực quốc tế, để các học viên sẵn sàng tham gia thị trường toàn cầu.
Chuyến thăm của ngài Đại sứ Hoa Kỳ không chỉ là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia mà còn là cơ hội để củng cố và mở rộng những nỗ lực chung trong lĩnh vực công nghệ vi mạch bán dẫn.
CT
Mới đây, tại Hải Phòng, đoàn công tác Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) do Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh dẫn đầu đã có buổi làm việc với UBND TP Hải Phòng về việc tổ chức Techfest Việt Nam 2024 tại TP này (dự kiến tháng 11/2024). Buổi làm việc xoay quanh những nội dung chính như: nội dung; quy mô; địa điểm; thời gian; cách thức tổ chức Techfest Việt Nam 2024.
Quang cảnh buổi làm việc.
Techfest Việt Nam là sự kiện thường niên được tổ chức lần đầu năm 2015 do Bộ KH&CN phối hợp với các đơn vị tổ chức nhằm thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Chủ đề của Techfest mỗi năm đều gắn liền với những vấn đề cần tập trung xử lý trong hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, thu hút sự quan tâm trong tìm kiếm giải pháp hiệu quả, thức thời. Phát biểu tại buổi làm việc, ông Phạm Dũng Nam – Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia cho biết Techfest Việt Nam 2024 dự kiến với các nội dung: chủ đề “10 năm dấu ấn Techfest – Kiến tạo hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo và hội nhập toàn cầu”, tổng kết hoạt động và trình diễn những công nghệ, mô hình kinh doanh nổi bật của hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo trong năm 2024 và hành trình 10 năm Techfest từ năm 2015; hướng tới đưa hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam hội nhập với khu vực và quốc tế, tạo nền tảng thiết lập liên hiệp các quốc gia khởi nghiệp sáng tạo.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Minh (trái) và Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng Hoàng Minh Cường (phải) chủ trì buổi làm việc.
Phát biểu tại buổi làm việc Thứ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Minh cho biết, năm 2024 sẽ là năm bản lề thay đổi Techfest, thay vì làm theo kiểu phong trào chúng ta sẽ hướng vào bản chất, chú trọng vào nội dung sự kiện, đối tượng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Techfest Việt Nam 2024 sẽ là cơ hội để tổng kết cả giai đoạn vừa qua, làm cơ sở hoàn thiện hành lang pháp lý để thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, tránh nhầm lẫn giữa doanh nghiệp khởi nghiệp với các doanh nghiệp nhỏ và vừa; các ý tưởng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo sẽ mời các quỹ đầu tư quốc tế đánh giá; huy động sự tham gia của các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước bằng cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn gặp gỡ và trao đổi với các startup… Giám đốc Sở KH&CN TP Hải Phòng Trần Quang Tuấn đề xuất, các hội thảo chuyên đề cần tập trung vào những lĩnh vực đặc trưng là thế mạnh của TP Hải Phòng như công nghệ cao, logistics, du lịch… Trên cơ sở những trao đổi thảo luận của các đại biểu tại buổi làm việc, Phó Chủ tịch UBND TP Hải Phòng Hoàng Minh Cường thống nhất về: địa điểm tổ chức Techfest 2024 tại khách sạn Pullman, thời gian tổ chức vào cuối tháng 11 và diễn ra trong vòng 03 ngày; quy mô sự kiện dự kiến khoảng 500-1000 người. Khung chương trình sẽ xoay quanh những nội dung chính như: Diễn đàn đầu tư khởi nghiệp sáng tạo; hội thảo chuyên đề trong lĩnh vực khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; triển lãm dịch vụ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; Chung kết Cuộc thi tìm kiếm tài năng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia; Lễ cắt băng khai trương Trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Hải Phòng; Chương trình Dấu ấn Techfest 2024.
Từ những nội dung đã thống nhất tại buổi làm việc, Bộ KH&CN sẽ dự thảo Kế hoạch tổ chức Techfest 2024, Sở KH&CN TP Hải Phòng sẽ tham mưu, tư vấn UBND TP Hải Phòng xây dựng kế hoạch phối hợp với Bộ KH&CN trong việc tổ chức Techfest 2024 để các hoạt động chuẩn bị, triển khai và tổ chức Techfest Việt Nam 2024 diễn ra hiệu quả, thành công.
L.H
Kinh phí 1,45 triệu AUD tài trợ cho ba dự án để áp dụng các công nghệ tiên tiến có khả năng nâng cao năng suất nông nghiệp và thúc đẩy các thực hành nông nghiệp bền vững.
Chiều 1/8, Chính phủ Australia cùng Bộ Khoa học và Công nghệ công bố ba dự án công nghệ nông nghiệp tiên tiến nhận tài trợ thông qua quỹ Đối tác Đổi mới sáng tạo thuộc Chương trình Aus4Innovation. Ba dự án gồm:
“Nâng cao năng lực giám sát cây trồng và khả năng tiếp cận thông tin cho nông hộ nhỏ và cán bộ quản lý tại Việt Nam” của Đại học Southern Queensland hợp tác Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (VNSC). Dự án sử dụng công nghệ không gian địa lý, dữ liệu thực địa và thuật toán AI để tạo bản đồ ở quy mô trang trại cho cây lúa và cây ăn quả. Công nghệ giúp thu thập, cung cấp thông tin quan trọng về cây trồng nhằm nâng cao năng suất.
“Canh tác carbon chủ động ứng dụng trí tuệ nhân tạo và bản sao số để phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Thanh Hóa” do Đại học Griffith và Đại học Bách khoa Hà Nội nghiên cứu. Dự án phát triển nền tảng số được hỗ trợ bởi AI, cho phép định lượng khí thải nhà kính chính xác hơn và thúc đẩy ngành nông nghiệp carbon, từ đó góp phần vào các thực hành nông nghiệp bền vững và mang lại cơ hội tạo nguồn thu mới từ tín chỉ carbon.
“Tăng cường năng lực cho các nông hộ nhỏ thông qua hệ thống chứng nhận tiêu chuẩn và truy xuất nguồn gốc dựa vào AI nhằm hướng tới nông nghiệp bền vững tại Việt Nam” do Đại học Griffith và Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Quốc gia thực hiện. Giải pháp dự án là nâng cao tiêu chuẩn nông nghiệp thông qua hệ thống AI và số hóa, đảm bảo giám sát nông trại hiệu quả, tăng khả năng truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Ông Andrew Goledzinowski, Đại sứ Australia tại Việt Nam, cho biết những sáng kiến không chỉ giải quyết các thách thức mới nổi mà còn đầu tư vào sự bền vững lâu dài của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ ông Bùi Thế Duy nhấn mạnh việc triển khai thành công các dự án này sẽ đánh dấu bước tiến quan trọng trong tham vọng của Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong việc ứng dụng các giải pháp công nghệ cao trong nông nghiệp.
Quỹ tài trợ Đối tác Đổi mới sáng tạo của Chương trình Aus4Innovation là một sáng kiến chiến lược nhằm thúc đẩy các giải pháp công nghệ đổi mới sáng tạo tại Việt Nam. Chương trình Aus4Innovation do CSIRO, cơ quan khoa học quốc gia Autralia, quản lý, tập trung vào chủ đề “Đổi mới sáng tạo công nghệ cao nhằm giải quyết các thách thức trong nông nghiệp, hướng đến phát triển bền vững”.
Tại vòng tài trợ 4, các dự án được tìm kiếm cần đáp ứng ứng dụng giải pháp công nghệ cao nhằm nâng cao năng suất nông nghiệp, phát triển thị trường cho nông sản, thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, thúc đẩy tính bao trùm xã hội.
Trong ba vòng tài trợ trước, 12 dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau như như nông nghiệp và thực phẩm, y tế, quản lý thiên tai và môi trường đã nhận được tổng cộng 5,3 triệu AUD. Các dự án này đã đóng góp đáng kể vào việc giải quyết các thách thức mới nổi trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam.
Chương trình Aus4Innovation thực hiện trong 10 năm (2018-2028) với tổng ngân sách 33,5 triệu AUD, nhằm củng cố hệ thống đổi mới sáng tạo của Việt Nam hướng đến phát triển kinh tế xã hội bền vững và bao trùm. Chương trình được tài trợ bởi Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia, đồng tài trợ và quản lý bởi CSIRO -cơ quan khoa học quốc gia Australia với đối tác chiến lược là Bộ Khoa học và Công nghệ.
Như Quỳnh
Nhằm tăng khả năng tương tác cảm xúc giữa robot với người dùng, các chuyên gia tìm cách tăng số lượng động cơ và biểu cảm trên khuôn mặt robot.
Liu Xiaofeng, giáo sư tại Đại học Hà Hải, tỉnh Giang Tô, miền đông Trung Quốc, cùng nhóm nghiên cứu của mình đang phát triển robot hình người với gương mặt có khả năng biểu cảm cao, Xinhua hôm 2/8 đưa tin. Nghiên cứu mới, xuất bản trên tạp chí quốc tế IEEE Transactions on Robotics, hướng đến tối ưu hóa công nghệ tương tác cảm xúc giữa người và robot.
Robot hình người thường gặp khó khăn khi truyền tải những biểu cảm khuôn mặt phức tạp và chân thực đặc trưng của con người. Điều này có thể cản trở khả năng tương tác với người dùng, Liu cho biết. “Để xử lý thách thức này, chúng tôi giới thiệu phương pháp toàn diện gồm hai giai đoạn nhằm trao cho robot tự động và giàu cảm xúc của chúng tôi khả năng thể hiện biểu cảm gương mặt một cách phong phú, tự nhiên”, ông nói.
Liu giải thích rằng trong giai đoạn đầu, phương pháp của họ tạo ra hình ảnh biểu cảm gương mặt của robot theo chỉ dẫn của các Đơn vị hành động (AU). Giai đoạn tiếp theo, họ hiện thực hóa một robot giàu cảm xúc với nhiều mức độ cử động gương mặt tự do, cho phép robot thể hiện những biểu cảm chi tiết.
Mọi người có thể quen thuộc hơn với “người kỹ thuật số” và “biên tập viên ảo” với khả năng tạo ra nhiều biểu cảm thời gian thực, theo Ni Rongrong, chuyên gia tại Đại học Thường Châu, đồng tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, robot hình người gặp phải những hạn chế nhất định, ví dụ như kích thước và số lượng động cơ, khiến việc này trở nên khó khăn hơn. “Ví dụ, robot hình người mà chúng tôi sử dụng trước đây chỉ có 9 động cơ siêu nhỏ bên dưới khuôn mặt, ít hơn nhiều so với số lượng cơ của mặt người”, Ni nói.
Do đó, nhóm nghiên cứu đã chia 9 động cơ trên khuôn mặt robot hình người thành 17 AU để mang lại những biểu cảm phong phú hơn và sự chuyển tiếp mượt mà hơn thông qua những cử động phối hợp. Họ dự định tiếp tục tăng số lượng AU trên khuôn mặt và trang bị cho robot khả năng tự động biểu cảm tinh tế.
Liu tin rằng khi khả năng tương tác cảm xúc của robot hình người tiếp tục tiến bộ, những robot với chỉ số cảm xúc và trí tuệ đều cao sẽ được sử dụng rộng rãi trong các viện dưỡng lão, trường mẫu giáo, trường giáo dục đặc biệt và các cơ sở khác. “Robot hình người sẽ không chỉ hỗ trợ hoặc thay thế con người hoàn thành một số nhiệm vụ mà còn mang lại nhiều giá trị cảm xúc hơn”, ông nói.
Thu Thảo (Theo Xinhua)
Chính quyền TP HCM luôn tạo điều kiện cho sinh viên phát huy tối đa năng lực, từ hỗ trợ học tập, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo…
Thông điệp được Phó chủ tịch UBND TP HCM Trần Thị Diệu Thúy nói tại lễ khai mạc Liên hoan Sinh viên Thế giới lần 1 và Diễn đàn Khoa học Sinh viên Quốc tế lần 8, năm 2024 tổ chức sáng 2/8. Sự kiện thu hút gần 180 đại biểu là sinh viên tiêu biểu của Việt Nam, Nga, Trung Quốc, Singapore, Malaysia, Campuchia…
Phó chủ tịch UBND TP HCM khẳng định ở bất cứ quốc gia, vùng lãnh thổ nào, thanh niên luôn được quan tâm và có vai trò quan trọng, tiên phong tạo ra những con đường rộng mở, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững vì cộng đồng. Các đại biểu trẻ tham dự là sinh viên đam mê nghiên cứu khoa học, trăn trở về nhiều vấn đề trong cuộc sống và nỗ lực tìm kiếm giải pháp. Có bạn là những lãnh đạo trẻ của các tổ chức thanh niên, sinh viên. “Mỗi người có những sứ mệnh khác nhau nhưng tựu chung đều mong muốn để lại những giá trị tốt đẹp cho cộng đồng”, bà Thúy nói.
Dẫn số liệu gần nhất, lãnh đạo TP HCM cho biết, dân số thanh niên toàn cầu khoảng 1,8 tỷ người (tuổi từ 10 – 24). Trong khu vực ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, có hơn 30% dân số là lực lượng trẻ đang trong độ tuổi lao động, dồi dào về số lượng, không ngừng được nâng cao về chất lượng và trình độ chuyên môn. Do đó, theo bà Thúy thanh niên luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển mỗi quốc gia. Thanh niên, luôn tràn đầy năng lượng tích cực, lý tưởng, khát vọng, dấn thân với lẽ sống mình vì mọi người đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Họ cũng có đóng góp quan trọng cho hòa bình, an ninh và gắn kết tình hữu nghị giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ.
Phó chủ tịch TP HCM cam kết, chính quyền thành phố luôn nỗ lực tạo điều kiện để các bạn sinh viên, thanh niên phát huy tối đa tiềm năng, năng lực của mình, từ việc đẩy mạnh các hoạt động tình nguyện, tham gia giải quyết các vấn đề cộng đồng, đến việc hỗ trợ học tập, nghiên cứu khoa học, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo…
Phó Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam, Phó bí thư Thành đoàn TP HCM Trần Thu Hà cho biết, thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình phát triển như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội, khủng hoảng kinh tế, y tế… Những vấn đề này đang cần những sáng kiến để giải quyết hiệu quả. Bà tin tưởng thanh niên với năng lực tư duy sáng tạo, khả năng tiếp cận và áp dụng tri thức, công nghệ mới, tinh thần dấn thân, sẽ cùng nhau tạo nên những thay đổi tích cực hơn.
Liên hoan Sinh viên Thế giới lần 1 và Diễn đàn Khoa học Sinh viên Quốc tế lần 8, năm 2024 do Hội Sinh viên Việt Nam TP HCM, Thành đoàn phối hợp Đại học Quốc gia TP HCM tổ chức nhằm thúc đẩy các hoạt động kết nối, trao đổi kinh nghiệm hoạt động, học thuật giữa sinh viên thành phố với sinh viên các quốc gia. Trong khuôn khổ sự kiện, các bạn trẻ có các hoạt động tập huấn kỹ năng lãnh đạo, các chương trình thảo luận, nghị sự sinh viên. Các phiên báo cáo poster sẽ giới thiệu kết quả nghiên cứu và diễn đàn sinh viên với nghiên cứu khoa học là nơi các bạn trẻ chia sẻ kiến thức học thuật. Đại biểu cũng sẽ được tham gia hoạt động giao lưu, tham quan, trải nghiệm văn hóa, qua đó quảng bá, lan tỏa những nét đẹp văn hóa, thành tựu phát triển của TP HCM đến bạn bè quốc tế.
Hà An
Luật Khoa học và Công nghệ 2013 sẽ được sửa, đổi tên thành Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, giúp gỡ vướng mắc về thể chế, thúc đẩy kết quả nghiên cứu ra thị trường.
Thứ trưởng Khoa học và Công nghệ Bùi Thế Duy chia sẻ thông tin khi nói về Luật Khoa học và Công nghệ 2013 (sửa đổi) sẽ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến vào tháng 5/2025.
Theo Thứ trưởng, một trong những “điểm nghẽn” khiến kết quả nghiên cứu khó ra thực tiễn liên quan đến hành lang pháp lý. Trong đó về luật khoa học công nghệ cùng nhiều luật liên quan chưa chấp nhận việc các nhà khoa học nghiên cứu mà không cho ra kết quả. Điều này dẫn đến khi đăng ký nhiệm vụ, các nhà khoa học không dám đăng ký nội dung mới, chủ yếu làm nội dung mức an toàn cho nên không có tính mới và không đưa được vào cuộc sống. Bên cạnh đó, kết quả khoa học công nghệ cũng cần thời gian dài, phải từ 10-20 năm, mới đưa được vào cuộc sống, do đó nếu chỉ đánh giá kết quả thương mại hóa trong 1-5 năm, chưa thực sự đầy đủ.
Nguyên nhân thứ hai do sự tách biệt giữa khối nghiên cứu phát triển và sản xuất kinh doanh. Ông Duy cho hay, Luật Khoa học và Công nghệ 2013 đã nêu về vấn đề đặt hàng nghiên cứu, song việc đặt hàng phải từ doanh nghiệp hay gắn kết với trường đại học và doanh nghiệp phải thông qua hoạt động trao đổi cán bộ. Trong khi hiện nay hành lang trao đổi cán bộ chưa thuận lợi, chưa là hoạt động bắt buộc đối với giảng viên, nhà nghiên cứu. “Luật sửa đổi dự kiến đề xuất đưa ra hành lang để các nhà khoa học được sang làm việc với doanh nghiệp vẫn được coi là hoạt động nghiên cứu, giảng dạy”, ông nói.
Việc xác định rõ các khâu trong hoạt động nghiên cứu phát triển và hoạt động đổi mới sáng tạo, cũng là vấn đề lưu tâm trong sửa đổi luật. Hiện việc đặt vấn đề các nghiên cứu trường đại học phải được chuyển giao cho doanh nghiệp, chưa thực sự phù hợp thực tiễn. Do đó luật sửa đổi cần phải hướng thúc đẩy sản xuất thử nghiệm trong doanh nghiệp, phân tích thị trường để đưa ra sản phẩm cuối cùng. Ông lưu ý việc biến kết quả nghiên cứu thành hàng hóa dưới dạng tài sản trí tuệ để chuyển giao. “Luật sửa đổi sẽ tạo hàng lang tổ chức trung gian bảo hộ tài sản trí tuệ và hình thành thị trường khoa học công nghệ mới tạo thuận lợi để chuyển giao kết quả”.
Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ cũng gợi ý các chương trình quốc gia cần có cơ chế giao kết quả cho tổ chức chủ trì thuận lợi nhất, cần coi đầu tư khoa học công nghệ là đầu tư lâu dài, tự động giao quyền cho cơ quan chủ trì để tiếp tục sử dụng thương mại hóa, đầu tư thêm để tạo ra sản phẩm mới.
Trong các đề xuất sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ, Thứ trưởng Bùi Thế Duy nhấn mạnh vào các nhóm chính sách vấn đề mới. Theo đó các trường đại học dần trở thành chủ thể nghiên cứu mạnh tương đương các viện nghiên cứu. Theo đó muốn phát triển được hoạt động khoa học công nghệ trong trường đại học cần có nội dung nghiên cứu, hoạt động, kinh phí đầu tư cho trường đại học. Ví dụ cần có chương trình đào tạo nghiên cứu sinh bằng nguồn kinh phí từ khoa học công nghệ.
Ông cho hay nhiều quốc gia trên thế giới coi nghiên cứu sinh là lực lượng nghiên cứu chủ yếu bởi ở độ tuổi trẻ trung, sáng tạo và hoạt động say mê trong công việc. Do đó cần phải xây dựng chương trình đào tạo, coi họ là nhà nghiên cứu, người lao động nghiên cứu chứ không chỉ là người đi học. “Cần có chương trình hỗ trợ sau khi nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình học, điều này giúp họ tiếp tục tự chủ triển khai hoạt động nghiên cứu”, ông Duy nhấn mạnh.
Thứ trưởng cho biết mong muốn đề xuất tách biệt đội ngũ nghiên cứu trường đại học, viện nghiên cứu khỏi quan niệm coi họ như cán bộ của đơn vị sự nghiệp công lập. Theo kinh nghiệm của thế giới, giảng viên, nghiên cứu viên được khuyến khích tham gia điều hành doanh nghiệp do Viện nghiên cứu, trường đại học thành lập dựa trên kết quả nghiên cứu và sở hữu trí tuệ của họ. Điều này giúp đưa hoạt động đổi mới sáng tạo về gần trường đại học, cũng như khuyến khích thành lập doanh nghiệp khởi nguồn (spin-off) trong trường đại học, vừa giúp mang lại nguồn thu vừa thúc đẩy thương mại hóa kết quả nghiên cứu.
GS.TS Nguyễn Hữu Đức, Đại học Quốc gia Hà Nội kỳ vọng luật sửa đổi sẽ tạo ra một hành lang pháp lý mới, tạo điều kiện phát triển và khuyến khích đổi mới sáng tạo. “Đây là lần đầu tiên chúng ta chính thức hóa khái niệm đổi mới sáng tạo, sẽ giúp xây dựng một văn hóa mới cho người Việt Nam”, ông nói. Hiện Đại học Quốc gia Hà Nội chú trọng đầu tư khởi nghiệp sáng tạo sinh viên. Theo GS Đức, cần phải chuẩn bị nguồn nhân lực cho đổi mới sáng tạo, bắt đầu ngay từ bổ sung môn học về đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo thành môn học chung để học trò có kỹ năng, năng lực đổi mới sáng tạo.
Ông Nguyễn Phương Tuấn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội nhìn nhận Luật Khoa học và Công nghệ 2013 đã lạc hậu và không đáp ứng được sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Các luật sửa đổi và bổ sung gần đây, như về đất đai, quy hoạch, giao dịch điện tử, và căn cước công dân, đã được ban hành nhằm dự báo và thích ứng với tình hình mới. Do đó, “nếu chúng ta tiếp tục trì hoãn việc sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ 2013 sẽ không còn phù hợp với thông lệ quốc tế và các pháp luật hiện hành”, ông nói.
Đồng bộ các quy định của Luật với các chính sách tài chính
Hiện cơ chế đầu tư tài chính cho khoa học và công nghệ còn nhiều bất cập. Thứ trưởng Duy cho biết Bộ Khoa học và Công nghệ đã nghiên cứu và đánh giá toàn bộ hệ thống pháp luật, bao gồm rất nhiều luật liên quan. Thực tế cho thấy còn thiếu sự đồng bộ giữa pháp luật về khoa học công nghệ và pháp luật về tài chính.
Theo đó, việc đầu tiên cần giải quyết là làm thế nào để đồng bộ các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ với các chính sách tài chính hiện có, nhằm tận dụng tối đa tất cả các chính sách này.
Thứ hai là, khi đã có đầu tư và nguồn lực, cần phải sử dụng một cách hiệu quả, thông thoáng và nhanh chóng. “Để đạt được điều này, ngành khoa học và công nghệ cần phải sửa đổi mạnh mẽ các quy định liên quan đến nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đề tài, dự án, phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính…”, ông Duy nói. Mục tiêu là để công khai, minh bạch, từ đó chọn lựa những đề tài và nhiệm vụ tốt nhất một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Bên cạnh đó cần phải điều chỉnh các quy định về mua sắm và đấu thầu khi sử dụng kinh phí đầu tư cho công nghệ, bao gồm cả kinh phí đầu tư công của Nhà nước và kinh phí của doanh nghiệp. Điều này sẽ khuyến khích các cơ chế hỗ trợ của Nhà nước. “Cần thiết phải nghiên cứu các vấn đề mới, công nghệ lõi, và thậm chí mua các kết quả nghiên cứu và sáng chế từ nước ngoài, sau đó chuyển giao cho doanh nghiệp để họ có thể sử dụng và phát triển”, Thứ trưởng Duy nói.
Ở góc độ “tìm tiếng nói chung giữa các nhà quản lý, nhà đầu tư tài chính và nhà khoa học”, Thứ trưởng Duy cho rằng cần chia sẻ quan điểm kinh phí nhà nước đầu tư cho kết quả khoa học và công nghệ nên được xem là nguồn đầu tư lâu dài. Thay vì yêu cầu thanh toán ngay, nên giao kinh phí cho các đơn vị chủ trì và đơn vị sản xuất để họ có thể đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Khi các đơn vị này tạo ra việc làm và đóng thuế cho Nhà nước, chúng ta sẽ thu hồi nguồn vốn qua thuế và tái đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ. Để đạt được điều này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan khoa học và công nghệ và cơ quan tài chính để hiểu nhau và phối hợp hiệu quả.
Theo đó Bộ sẽ đề xuất trong Luật các quy định về việc xác định cái gì là tài sản và cái gì không phải là tài sản trong kết quả khoa học và công nghệ. Ví dụ, những kết quả đã được công bố rộng rãi và trở thành tri thức của nhân loại không thể coi là “tài sản riêng”. “Chúng tôi tin rằng việc chia sẻ quan điểm này sẽ giúp điều chỉnh hành lang pháp lý của Luật Khoa học và Công nghệ” cũng như các luật khác, để chúng trở nên phù hợp và hoạt động hiệu quả hơn, từ đó tạo ra một môi trường thông thoáng cho hoạt động Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo”, ông Duy nhấn mạnh.
Như Quỳnh
1. Sổ tay thuật ngữ viết tắt Anh – Việt dùng trong ngành dược
Trong quá trình tiếp cận với các tài liệu dược học tiếng Anh, đặc biệt là tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và các cơ quan quản lý dược như: Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (US FDA), Cơ quan Quản lý Dược châu Âu (EMA), sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học… bạn đọc sẽ gặp rất nhiều thuật ngữ dưới dạng viết tắt (Acronyms & Abbreviations). Cùng với quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, thuật ngữ viết tắt đang được công nhận và sử dụng ngày càng phổ biến trong nhiều ngành khoa học và lĩnh vực kinh tế – kỹ thuật, trong các ấn phẩm và tạp chí chuyên ngành. Được cấu tạo từ các ký tự đầu của một tổ hợp từ khoa học – kỹ thuật tiếng Anh, thuật ngữ dưới dạng viết tắt có khả năng chuyển tải thông tin nhanh và làm cho văn bản, tài liệu được ngắn gọn, sáng sủa hơn, tránh lặp lại… Tuy nhiên, nhiều khi thuật ngữ dưới dạng viết tắt lại là thách thức cho người đọc. Ghi nhớ các thuật ngữ viết tắt đối với những người đọc bận rộn là một việc khó khăn.
Các thuật ngữ viết tắt trong tài liệu này được chỉnh lý và biên soạn trên cơ sở Phụ lục I – Thuật ngữ Dược học viết tắt của ấn phẩm Thuật ngữ Dược học Anh – Việt tái bản lần thứ nhất năm 2020, được bổ sung khoảng 1.500 thuật ngữ mới. Tác giả hy vọng cuốn sách này có thể giúp các sinh viên dược khoa, dược sỹ… làm quen với các thuật ngữ viết tắt thường dùng và có thể tra cứu dạng đầy đủ (tổ hợp từ nguyên dạng) các thuật ngữ này khi tiếp cận với các tài liệu tiếng Anh chuyên ngành dược học, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý dược và công nghiệp dược.
2. Sức bền vật liệu
Sức bền vật liệu là môn học cơ sở cho các ngành kỹ thuật cơ khí, công nghệ chế tạo máy, kỹ thuật cơ điện tử, kỹ thuật nhiệt và kỹ thuật xây dựng ở trình độ đại học. Môn học cung cấp cho sinh viên kiến thức cơ bản về thiết kế các cấu kiện xây dựng hay các chi tiết máy nhằm đáp ứng các yêu cầu về an toàn và tính kinh tế. Để đáp ứng sự thay đổi trong chương trình đào tạo và tích hợp giữa lý thuyết và thực hành, nhóm tác giả đã biên soạn lại giáo trình môn học cho phù hợp với nội dung giảng dạy của các chương trình đào tạo thuộc Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng.
Giáo trình “Sức bền vật liệu” được tích hợp thêm phần thực hành thí nghiệm trong mỗi chương để sinh viên có thể vận dụng phần lý thuyết đã học vào giải thích kết quả của quá trình thí nghiệm. Nhóm tác giả đã chọn lọc nhiều bài tập từ các tình huống thực tế để sinh viên có thể vận dụng tốt hơn các kiến thức được học trong việc mô hình hóa, lựa chọn phương pháp tính toán phù hợp. Bên cạnh đó, giáo trình còn đưa thêm các ví dụ mô phỏng bằng các phần mềm hiện đại như Abaqus để sinh viên có thể vận dụng so sánh với lý thuyết được học và làm quen với các thuật ngữ tiếng Anh liên quan đến tính toán thiết kế bền.